Tải bản đầy đủ (.docx) (123 trang)

CHUYÊN ĐỀ DẠY VÀ HỌC MÔN LỊCH SỬ THEO ĐỊNH HƯỚNG THI TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.9 MB, 123 trang )

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH SÓC TRĂNG SỞ GIÁO DỤC VÀ
ĐÀO TẠO

KYÛ YEÁU
HỘI NGHỊ CHUYÊN ĐỀ
DẠY VÀ HỌC MÔN LỊCH SỬ
THEO ĐỊNH HƯỚNG
THI TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN

Đại Ngãi, ngày 18 tháng 12 năm 2016


MỤC LỤC
Đề dẫn Hội nghị - Ban tổ chức

1

Phần I. Đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá
môn Lịch sử theo định hướng phát triển năng lực học sinh

3

1. Đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng
lực của học sinh trong dạy học Lịch sử ở trường THPT Hoàng Diệu
- Nguyễn Thị Mỹ Linh - Giáo viên trường THPT Hoàng Diệu

3

2. Đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá môn Lịch sử
ở trường THPT Kế Sách - Bùi Thị Nga - Giáo viên trường THPT
Kế Sách



8

3. Thực trạng và giải pháp trong thực hiện đổi mới phương pháp
dạy học và đổi mới kiểm tra đánh giá ở trường THPT Phan Văn
Hùng - Lê Thị Trúc Hà - Giáo viên trường THPT Phan Văn Hùng

14

4. Vận dụng trắc nghiệm khách quan vào hình thức kiểm tra kiến
thức - Tổ Lịch sử - Trường THPT Mai Thanh Thế

17

5. Đổi mới phương pháp giảng dạy môn Lịch sử ở trường THPT Tổ Lịch sử - Trường THPT Mai Thanh Thế

19

Phần II. Cách thức ôn tập, xây dựng câu hỏi, đề thi môn Lịch
sử theo các mức độ của ma trận theo định hướng thi trắc
nghiệm khách quan

22

6. Một số giải pháp đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh
giá môn Lịch sử ở trường THPT Thiều Văn Chỏi - Tô Văn Tạo Giáo viên trường THPT Thiều Văn Chỏi

22

7. Một vài kinh nghiệm trong giảng dạy và ra đề trắc nghiệm môn

Lịch sử - Tổ Sử-Địa-GDCD trường THPT Huỳnh Hữu Nghĩa

26

8. Cách thức ôn tập, xây dựng câu hỏi, đề thi môn Lịch sử theo các
mức độ của ma trận theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan Nguyễn Minh Sang - Giáo viên trường THPT Lương Định Của

29

9. Định hướng soạn câu hỏi trắc nghiệm - Nguyễn Đức Huy - Giáo
viên trường THPT Mỹ Xuyên

35

Phần III. Sử dụng lược đồ, biểu đồ và các phương tiện dạy học
môn Lịch sử tạo sự hứng thú và khắc sâu kiến thức cho học
sinh

37


10. Sử dụng lược đồ, biểu đồ và các phương tiện dạy học môn Lịch
sử tạo sự hứng thú và khắc sâu kiến thức cho học sinh - THCS &
THPT Mỹ Thuận

37

11. Sử dụng lược đồ, biểu đồ và các phương tiện dạy học môn Lịch
sử tạo sự hứng thú và khắc sâu kiến thức cho học sinh - Nguyễn Thị
Ngọc Dung - Giáo viên trường THPT Nguyễn Khuyến


41

12. Sử dụng lược đồ, biểu đồ và các phương tiện dạy học môn Lịch
sử - Nguyễn Thanh Thúy - Giáo viên trường THPT Vĩnh Hải

45

13. Sử dụng sơ đồ trong dạy học môn Lịch sử tạo hứng thú cho học
sinh - Trần Khánh Tâm - Giáo viên trường THPT Phú Tâm

50

Phần IV. Dạy học Lịch sử theo chủ đề tích hợp liên môn

55

14. Lồng ghép kiến thức môn Ngữ văn vào các bài học Lịch sử
nhằm tạo hứng thú học tập và khắc sâu kiến thức cho học sinh Nguyễn Quốc Dũng - Giáo viên trường THPT Văn Ngọc Chính

55

15. Dạy học Lịch sử theo chủ đề tích hợp liên môn - Huỳnh Thanh
Đề - Giáo viên trường THPT Hòa Tú

61

16. Tích hợp liên môn Lịch sử - Địa lí lớp 10 ở trường THPT An
Thạnh 3 - Tổ Lịch sử-GDCD - Trường THPT An Thạnh 3


65

17. Một số giải pháp trong dạy học tích hợp liên môn ở trường
THPT Mỹ Hương - Lê Thị Hồng Diễm - Giáo viên trường THPT
Mỹ Hương

72

18. Vận dụng tích hợp trong dạy học Lịch sử ở trường THPT Đặng Thị Bích Bông - Giáo viên trường THPT Mỹ Xuyên

76

19. Dạy học theo chủ đề tích hợp và tích hợp liên môn - Trần Văn
Nguyên - Giáo viên trường THPT Đại Ngãi

81

Phần V. Một số giải pháp giúp học sinh làm bài trắc nghiệm đạt
hiệu quả cao

88

20. Đổi mới hoạt động dạy học nhằm rèn kỹ năng làm bài trắc
nghiệm Lịch sử - Lâm Thị Hồng Thắm - Giáo viên trường THPT
Thành phố Sóc Trăng

88

21. Một số giải pháp giúp học sinh làm bài thi trắc nghiệm đạt hiệu
quả cao - Nguyễn Thị Kim Thoa - Giáo viên trường THPT An Ninh


93

22. Một số giải pháp giúp học sinh làm bài thi trắc nghiệm đạt hiệu
quả cao - Lê Chí Nguyện - Giáo viên trường THPT Đoàn Văn Tố

96


23. Một số giải pháp giúp học sinh làm bài thi trắc nghiệm môn
Lịch sử đạt hiệu quả cao - Nguyễn Thế Trung - Giáo viên trường
THPT Trần Văn Bảy

103

24. Một số lưu ý khi ôn luyện và ra đề trắc nghiệm khách quan môn
Lịch sử - Lê Quan Tuấn - Giáo viên trường THPT Đại Ngãi

111


Hội nghị chuyên đề Dạy và học môn Lịch sử theo định hướng thi
TNKQ
ĐỀ DẪN HỘI NGHỊ
DẠY VÀ HỌC MÔN LỊCH SỬ THEO ĐỊNH HƯỚNG
THI TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN
Kính thưa quý vị đại biểu, quý thầy cô!
Trắc nghiệm khách quan trong môn Lịch sử là một hình thức kiểm tra, đánh giá
mà chúng ta vẫn thường sử dụng trong dạy và học. Các câu hỏi trắc nghiệm khách quan
đã từng xuất hiện trong các tài liệu tham khảo môn Lịch sử bậc trung học. Giáo viên

được tiếp cận về trắc nghiệm khách quan từ việc lập ma trận đề, biên soạn đề kiểm tra
đến việc đánh giá hiệu quả các câu hỏi.
Chính vì thế, việc môn Lịch sử được thi bằng hình thức trắc nghiệm khách quan
trong kỳ thi THPT Quốc gia năm 2017 không phải là việc quá mới đối với giáo viên và
học sinh, mà đó chỉ là khó khăn tạm thời do việc phải thay đổi cách dạy và học cho phù
hợp với hình thức kiểm tra đánh giá này.
Với tinh thần trách nhiệm, giáo viên Lịch sử các trường THPT trong toàn tỉnh đã
nỗ lực tích cực đầu tư, trau dồi chuyên môn tìm ra cách thức dạy và học hiệu quả, đáp
ứng yêu cầu việc đổi mới việc thi trắc nghiệm khách quan trong kỳ thi THPT Quốc gia
năm 2017. Qua các buổi sinh hoạt chuyên môn, chuyên đề tại đơn vị và trao đổi kinh
nghiệm giữa các giáo viên bộ môn, bước đầu đã có một số định hướng và giải pháp
sau:
1. Xác định nội dung dạy học và chuẩn bị cho kỳ thi
- Nội dung dạy học là phần chung của chương trình môn Lịch sử lớp 12
THPT và Giáo dục thường xuyên hiện hành đã thực hiện giảm tải.
- Xây dựng ma trận đề thi môn Lịch sử từ việc nghiên cứu, khai thác đề
minh họa của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
- Xây dựng các cấu trúc đề thi khác nhau dựa trên ma trận đã xác định, từ
đó soạn các câu hỏi ứng với từng nội dung trong ma trận nhằm phục vụ việc dạy
và học.
- Xây dựng ma trận đề kiểm tra theo từng nội dung dạy học của từng
chương, từng giai đoạn lịch sử.
2. Về công tác dạy học
- Trước hết, giáo viên cần giải thích cho học sinh hiểu, dù thi với hình
thức nào thì bài thi vẫn luôn đánh giá đúng năng lực của học sinh, đòi hỏi người
học phải có kiến thức đầy đủ, vững vàng. Giáo viên phân tích cho học sinh thấy
được các ưu điểm của hình thức thi trắc nghiệm khách quan để học sinh an tâm,
phấn khởi, tự tin học tập.

1



- Nội dung học tập căn cứ vào chương trình, chuẩn kỹ năng kiến thức
Lịch sử THPT, nên ưu tiên sử dụng sách giáo khoa Lịch sử THPT lớp 12.
- Tạo điều kiện học sinh tiếp xúc với câu hỏi trắc nghiệm khách quan
ngay trong bài học. Đặc biệt, cho học sinh làm quen với một số câu hỏi trắc
nghiệm được diễn đạt với nhiều cách khác nhau nhằm tránh việc hiểu nhầm và
rèn luyện năng lực đọc hiểu cho học sinh.
- Rèn luyện cho học sinh kỹ năng thực hành làm các câu hỏi trắc nghiệm
để giúp học sinh biết loại bỏ nhanh chóng các phương án sai, chọn được đáp án
đúng trong thời gian ngắn nhất.
- Gắn việc dạy học Lịch sử với thực tế cuộc sống để tăng tính phong phú
trong việc dạy và học, mở rộng và nâng cao kiến thức cho học sinh.
3. Định hướng phát triển năng lực cho học sinh
Trong việc dạy và học Lịch sử cần phát triển năng lực học sinh theo các
hướng sau:
- Năng lực đọc hiểu: là một trong những năng lực hết sức quan trọng,
giúp giải quyết nhanh chóng một số vấn đề nhất định, học sinh có thể hiểu đúng
và nhanh vấn đề. Đặc biệt, học sinh cũng cần biết các phương án trả lời của câu
hỏi trắc nghiệm khách quan cũng là một phần của vấn đề đặt ra.
- Năng lực tư duy hình ảnh: giúp giải quyết nhanh chóng các dạng câu hỏi
ở mức độ thông hiểu mà phương pháp thông thường không mang lại hiệu quả.
Loại tư duy này ít được khai thác trong hình thức thi tự luận nhưng lại có hiệu
quả rất lớn trong hình thức thi trắc nghiệm khách quan.
- Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần rèn cho học sinh các năng lực giải quyết
các vấn đề lịch sử, suy luận loại trừ, phán đoán …
4. Công tác kiểm tra, đánh giá
Trong kiểm tra, đánh giá, cần tập trung vào các việc chủ yếu sau:
- Đưa hình thức trắc nghiệm khách quan vào công tác kiểm tra, đánh giá
thường xuyên.

- Xây dựng ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan môn Lịch sử trong
phạm vi giáo viên, tổ.
- Từng bước tiến đến tăng cường sử dụng trắc nghiệm khách quan vào
kiểm tra, đánh giá ở các khối 10, 11 và 12.
Kính thưa quý vị đại biểu, quý thầy cô!
Những nội dung trên chưa được áp dụng đồng bộ vào thực tiễn giảng dạy,
nhiều mục tiêu chỉ mang tính định hướng. Chính vì thế, trong Hội nghị chuyên
đề hôm nay, Ban tổ chức mong muốn được quý vị đại biểu, quý thầy cô chia sẻ
đóng góp, trao đổi chân tình, thẳng thắn để việc dạy và học môn Lịch sử theo
hình thức thi trắc nghiệm khách quan ngày đạt hiệu quả hơn.
Ban Tổ Chức


PHẦN I
ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC VÀ KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ
MÔN LỊCH SỬ THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN
NĂNG LỰC HỌC SINH

ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CỦA HỌC SINH TRONG DẠY HỌC
LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THPT HOÀNG DIỆU
Nguyễn Thị Mỹ Linh
Giáo viên trường THPT Hoàng Diệu
Giáo dục định hướng phát triển năng lực của học sinh là nhấn mạnh vai trò của
người học với tư cách chủ thể của quá trình nhận thức, nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra
của việc dạy học. Thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách, chú
trọng năng lực vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn, chuẩn bị năng lực
giải quyết các tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp. Chương trình giáo dục này
được chú ý nhiều từ những năm 90 của thế kỷ 20 và ngày nay đã trở thành xu hướng
giáo dục quốc tế trong cải cách phương pháp dạy học ở nhà trường phổ thông.

Nắm bắt xu hướng này, nghị quyết của Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam lần 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã nêu rõ: “Tiếp
tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích
cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối
truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ,
khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng,
phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa
dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng
dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”. Để thực hiện tốt mục tiêu
về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo Nghị quyết số 29-NQ/TW, một
trong những vấn đề được đặt ra cho ngành giáo dục là cần có nhận thức đúng về bản
chất của đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực người học,
và một số biện pháp đổi mới phương pháp dạy học theo hướng này.
1. Định nghĩa về năng lực
Theo từ điển Tiếng Việt năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên
sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó. Hoặc có thể hiểu năng lực là khả năng huy
động tổng hợp các kiến thức, kỹ năng để thực hiện thành công một


loại công việc trong một bối cảnh nhất định. Năng lực gồm có năng lực chung
và năng lực đặc thù. Năng lực chung là năng lực cơ bản cần thiết mà bất cứ
người nào cũng cần phải có để sống và học tập, làm việc. Năng lực đặc thù thể
hiện trên từng lĩnh vực khác nhau như năng lực đặc thù môn học là năng lực
được hình thành và phát triển do đặc điểm của môn học đó tạo nên.
Trong chương trình dạy học định hướng phát triển năng lực, khái niệm
năng lực được sử dụng như là sự kết nối tri thức, hiểu biết, khả năng vận dụng,
mong muốn...
2. Các lĩnh vực phát triển năng lực
- Về nội dung chuyên môn: Bao gồm tri thức chuyên môn, kỹ năng chuyên
môn, ứng dụng đánh giá chuyên môn qua đó phát triển năng lực chuyên môn.

- Về phương pháp - chiến lược chuyên sâu: Lập kế hoạch học tập, kế
hoạch làm việc; Các phương pháp nhận thức chung, thu thập, xử lý, đánh giá,
trình bày thông tin; Các phương pháp... Qua đó sẽ phát triển năng lực phương
pháp.
- Về giao tiếp - xã hội: Làm việc nhóm, tạo điều kiện cho sự hiểu biết về
phương diện xã hội, học cách ứng xử, trách nhiệm, khả năng giải quyết xung
đột. Qua đó phát triển năng lực xã hội.
- Về tự trải nghiệm - đánh giá: Tự đánh giá điểm mạnh, điểm yếu, xây
dựng kế hoạch phát triển cá nhân, đánh giá, hình thành các chuẩn mực giá trị,
đạo đức và văn hóa, lòng tự trọng… Qua đó phát triển năng lực cá nhân.
3. Lý luận về đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát triển năng lực
của học sinh
Đổi mới phương pháp dạy học phát triển năng lực học sinh là thực hiện
bước chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang chương trình dạy
học tiếp cận năng lực của học sinh. Từ chỗ quan tâm học sinh học được cái gì
đến chỗ quan tâm học sinh vận dụng được cái gì qua việc học. Chuyển từ
phương pháp dạy học theo lối "truyền thụ một chiều" sang dạy cách học, cách
vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất. Tăng
cường việc học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ giáo viên - học sinh theo
hướng cộng tác có ý nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội.
Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của học sinh, hình thành và phát
triển năng lực tự học (sử dụng sách giáo khoa, nghe, ghi chép, tìm kiếm thông
tin...), trau dồi các phẩm chất linh hoạt, độc lập, sáng tạo của tư duy.
Việc sử dụng phương pháp dạy học gắn chặt với các hình thức tổ chức dạy
học. Tùy theo mục tiêu, nội dung, đối tượng và điều kiện cụ thể mà có những
hình thức tổ chức thích hợp như học cá nhân, học nhóm; học trong lớp, học ở
ngoài lớp... Cần chuẩn bị tốt về phương pháp đối với các giờ thực hành để đảm
bảo yêu cầu rèn luyện kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn,
nâng cao hứng thú cho người học.



Bên cạnh đó cần khai thác hiệu quả các thiết bị dạy học môn học tối thiểu đã qui
định. Có thể sử dụng các đồ dùng dạy học tự làm, tích cực vận dụng công nghệ thông
tin trong dạy học tùy theo từng đối tượng học sinh.
4. Một số phương pháp nhằm phát triển năng lực học sinh trong dạy
học lịch sử
- Dạy học lịch sử thông qua các hoạt động của học sinh
Dạy học thông qua tổ chức liên tiếp các hoạt động học tập như trải nghiệm thực
tế, tham quan các di tích lịch sử, tái hiện sự kiện hoặc nhân vật lịch sử… Từ đó giúp
học sinh tự khám phá những điều chưa biết chứ không phải thụ động tiếp thu những tri
thức được sắp đặt sẵn. Theo tinh thần này, giáo viên không cung cấp, áp đặt kiến thức
có sẵn mà là người tổ chức và chỉ đạo học sinh tiến hành các hoạt động học tập nhằm
nhớ lại kiến thức cũ, phát hiện kiến thức mới, vận dụng sáng tạo kiến thức đã biết vào
các tình huống học tập hoặc tình huống thực tiễn.
- Dạy học lịch sử chú trọng rèn luyện phương pháp tự học
Chú trọng rèn luyện cho học sinh những tri thức phương pháp để các em biết
cách đọc sách giáo khoa và các tài liệu học tập, biết cách tự tìm lại những kiến thức đã
có, biết cách suy luận để tìm tòi và phát hiện kiến thức mới… Cần rèn luyện cho học
sinh các thao tác tư duy như phân tích, tổng hợp, đặc biệt hoá, khái quát hoá, tương tự,
quy lạ về quen... để dần hình thành và phát triển tiềm năng sáng tạo của các em.
- Tăng cường học tập cá thể phối hợp với học tập hợp tác
Tổ chức làm việc theo nhóm nhỏ, giúp cho mọi học sinh tham gia một cách chủ
động vào quá trình học tập, tạo cơ hội cho các em có thể chia sẻ kiến thức, kinh
nghiệm, ý kiến để giải quyết các vấn đề có liên quan đến nội dung bài học. Đồng thời
cũng tạo cơ hội cho các em được giao lưu, học hỏi lẫn nhau, cùng nhau hợp tác giải
quyết những nhiệm vụ chung.
Điều đó có nghĩa, mỗi học sinh vừa cố gắng tự lực một cách độc lập, vừa hợp tác
chặt chẽ với nhau trong quá trình tiếp cận, phát hiện và tìm tòi kiến thức mới. Lớp học
trở thành môi trường giao tiếp thầy - trò và trò - trò nhằm vận dụng sự hiểu biết và kinh
nghiệm của từng cá nhân, của tập thể.

- Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò
Chú trọng đánh giá kết quả học tập theo mục tiêu bài học trong suốt tiến trình
dạy học thông qua hệ thống câu hỏi, bài tập. Chú trọng phát triển kỹ năng tự đánh giá
và đánh giá lẫn nhau của học sinh với nhiều hình thức như theo lời giải, theo hướng
dẫn, hoặc tự xác định tiêu chí để có thể phê phán, tìm được nguyên nhân và nêu cách
sửa chữa các sai sót.


5. Đổi mới phương pháp dạy học lịch sử nhằm phát triển năng lực của
học sinh ở trường THPT Hoàng Diệu

Dạy Lịch sử thông qua trải nghiệm thực tế

Dạy Lịch sử thông qua tổ chức làm việc nhóm


Dạy Lịch sử thông qua các cuộc thi tái hiện sự kiện lịch sử và nhân vật lịch sử
Nhìn chung, có rất nhiều hướng đổi mới phương pháp dạy học để phát triển
năng lực học sinh theo những cách tiếp cận riêng. Tuy nhiên việc đổi mới phương
pháp dạy học đòi hỏi những điều kiện thích hợp về phương tiện, cơ sở vật chất và tổ
chức dạy học, về điều kiện, về tổ chức, quản lý…
Ngoài ra, phương pháp dạy học còn mang tính chủ quan. Mỗi giáo viên với kinh
nghiệm của mình cần xác định những phương hướng riêng để cải tiến phương pháp
dạy học cho phù hợp với đối tượng học sinh và kinh nghiệm của cá nhân.


ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC VÀ KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ
MÔN LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THPT KẾ SÁCH
Bùi Thị Nga
Giáo viên trường THPT Kế Sách

I. MỞ ĐẦU
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ đang làm cho việc rút
ngắn khoảng cách về trình độ phát triển giữa các nước trở nên thực tiễn hơn và
nhanh chóng hơn. Giáo dục là nền tảng của sự phát triển khoa học - công nghệ,
phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện đại và đóng vai trò
chủ yếu trong việc nâng cao ý thức dân tộc, tinh thần trách nhiệm và năng lực
của các thế hệ hiện nay và mai sau.
Đổi mới chương trình giáo dục và cùng với nó là đổi mới phương pháp
dạy học (ĐMPPDH), đổi mới kiểm tra đánh giá (KTĐG) là những phương diện
thể hiện sự quyết tâm cách tân, đem lại những thay đổi về chất lượng và hiệu
quả giáo dục của nước ta hiện nay.
Trước xu thế đổi mới giáo dục, các bộ môn ở trường THPT Kế Sách nói
chung và Lịch sử nói riêng luôn chú trọng và thực hiện việc ĐMPPDH, KTĐG
phát triển năng lực học sinh. Bài tham luận này trình bày về việc ĐMPPDH,
KTĐG theo định hướng phát triển năng lực học sinh của môn Lịch sử.
II. NỘI DUNG
1. Vài nét đổi mới phương pháp dạy học
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực
đã từng được khẳng định trong các văn kiện Đảng. Đặc biệt, trong Nghị quyết
số 29 của Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI) khẳng định đây không chỉ là quốc
sách hàng đầu, là “chìa khóa” mở ra con đường đưa đất nước tiến lên phía
trước, mà còn là “mệnh lệnh” của cuộc sống… Việc đổi mới được tiến hành từ
đổi mới chương trình sách giáo khoa, đổi mới về hình thức kiểm tra đánh giá…
nhưng để thực hiện việc đổi mới có hiệu quả thì phương pháp dạy học của
người giáo viên là nhân tố quan trọng nhất. Một chương trình sách giáo khoa
hay thế nào nhưng nếu giáo viên không có phương pháp dạy học thích hợp thì
việc đổi mới không đạt kết quả.
Trong tiến trình thực hiện đổi mới, đòi hỏi người giáo viên phải
ĐMPPDH. ĐMPPDH không có nghĩa là loại bỏ các phương pháp dạy học
truyền thống như thuyết trình, đàm thoại… mà là khai thác triệt để các ưu điểm

của các phương pháp truyền thống và vận dụng các phương pháp mới để phát
huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo, phát triển năng lực hành động, năng lực
cộng tác làm việc của người học, năng lực chiếm lĩnh tri thức. Để đảm bảo
được điều đó, phải thực hiện chuyển từ dạy học theo lối "truyền thụ một chiều"
sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành


năng lực và phẩm chất như Mark van Doren từng nói: “Nghệ thuật dạy học
chính là nghệ thuật giúp ai đó khám phá”.
Thực chất của ĐMPPDH hướng tới mục tiêu "lấy học sinh làm trung tâm".
Thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng
lực của người học, nghĩa là từ chỗ quan tâm đến việc học sinh học được cái gì đến chỗ
quan tâm học sinh vận dụng được cái gì qua việc học và khi đó người dạy phải hiểu
được yêu cầu của người học để cung cấp thông tin, định hướng mục tiêu học tập, tổ
chức, hướng dẫn người học trong quá trình tiếp nhận tri thức. Do đó, để ĐMPPDH
mỗi giáo viên phải tìm kiếm, lựa chọn các phương thức hoạt động chung cho phù hợp
với học sinh.
Việc sử dụng phương pháp dạy học gắn chặt với các hình thức tổ chức dạy học.
Tùy theo mục tiêu, nội dung, đối tượng và điều kiện cụ thể mà có những hình thức tổ
chức thích hợp như học cá nhân, học nhóm; học trong lớp, học ở ngoài lớp...
Có nhiều biện pháp đổi mới phương pháp dạy học phát triển năng lực học sinh
như:
- Cải tiến các phương pháp dạy học truyền thống.
- Kết hợp đa dạng các phương pháp dạy học.
- Vận dụng dạy học giải quyết vấn đề.
- Vận dụng dạy học theo tình huống.
- Tăng cường sử dụng phương tiện dạy học và công nghệ thông tin hợp
lý hỗ trợ dạy học.
- Chú trọng các phương pháp dạy học đặc thù bộ môn.
2. Việc đổi mới phương pháp dạy học lịch sử ở trường THPT Kế

Sách
Nhà trường đã triển khai và nhóm Sử thực hiện nghiêm túc về việc thực
hiện ĐMPPDH, KTĐG, trong các buổi sinh hoạt chuyên môn thường xuyên trao đổi
về phương pháp dạy học, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau trong các tiết dự giờ…
Với nhiều phương pháp đổi mới dạy học, nhưng không có một phương pháp
dạy học nào tối ưu cho tất cả mọi người, vì dạy học vừa là khoa học vừa là nghệ thuật.
Khoa học ở chỗ giáo viên phải bảo đảm nội dung, chương trình, mục tiêu đào tạo…
nghệ thuật là giáo viên phải tuỳ theo đối tượng, tình hình cụ thể của lớp học mà có
cách thức giảng dạy đáp ứng yêu cầu, đạt chất lượng, hiệu quả cao. Vì thế, giáo viên
nhóm Sử luôn quan niệm ĐMPPDH phụ thuộc vào bản thân mỗi giáo viên chứ không
ngồi chờ cấp trên nghĩ ra. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, mỗi giáo viên phải chủ
động suy nghĩ tìm tòi ĐMPPDH, nâng cao chất lượng, hiệu quả. Nếu giáo viên không
quan tâm chú trọng ĐMPPDH là tự đào thải mình. Tuy nhiên dù sử dụng bất kỳ
phương pháp nào


cũng phải đảm bảo được nguyên tắc “Học sinh tự mình hoàn thành nhiệm vụ
nhận thức với sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên”.
GV nhóm Sử Trường THPT Kế Sách thường chú ý đến việc sử dụng
phương pháp dạy học đặc thù bộ môn bởi phương pháp dạy học có mối quan hệ
biện chứng với nội dung dạy học, việc sử dụng các phương pháp dạy học đặc
thù có vai trò quan trọng trong dạy học bộ môn.
Để sử dụng phương pháp dạy học đặc thù bộ môn thì cần sử dụng đủ và
hiệu quả các thiết bị dạy học môn Lịch sử. Do đặc thù môn Lịch sử đó là câu
chuyện của hôm qua cho dù là Lịch sử đương đại thì vẫn thuộc về quá khứ, mà
quá khứ xa lạ với học sinh là tất yếu do đó việc sử dụng tranh ảnh, bản đồ,
phim tư liệu, các đồ dùng dạy học tự làm nếu xét thấy cần thiết với nội dung
học và phù hợp với đối tượng học sinh… đặc biệt là vận dụng công nghệ thông
tin trong dạy học sẽ mang lại hiệu quả cao.
Bên cạnh đó, việc vận dụng phương pháp dạy học giải quyết vấn đề rất

hiệu quả.
* Phương pháp dạy học giải quyết vấn đề:
- Khái niệm: Phương pháp dạy học giải quyết vấn đề là phương pháp
dạy học mà trong đó tạo ra những tình huống có vấn đề, điều khiển học sinh
phát hiện ra vấn đề, hoạt động tự giác, tích cực để giải quyết vấn đề và thông
qua đó lĩnh hội tri thức, kĩ năng và đạt được những mục tiêu học tập khác.
- Quy trình của dạy học giải quyết vấn đề:
1. Đưa học sinh vào tình huống có vấn đề.
2. Học sinh phân tích tình huống có vấn đề.
- Xác định cái chưa biết.
- Huy động vốn tri thức của học sinh để tìm ra cái chưa biết.
3. Học sinh đưa ra giải pháp.
4. Học sinh trình bày giải pháp.
5. Giáo viên kết luận vấn đề.
Ví dụ 1: Khi dạy bài Nước Mĩ (Bài 6 - Lịch sử lớp 12).
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nếu như các nước thắng trận lẫn bại trận
đều bị thiệt hại nặng nề thì Mĩ đã vươn lên vị trí cường quốc hàng đầu, số 1 thế
giới, có quyền lực và tham vọng, luôn theo đuổi mưu đồ bá chủ thế giới. Vậy,
dựa vào đâu Mĩ có thể đặt ra cho mình những mục tiêu và tham vọng ấy? Để
giải đáp những vấn đề trên các em sẽ tìm hiểu qua bài học hôm nay.
Giáo viên đã đặt mục đích học tập trước khi học sinh nghiên cứu bài mới
- dẫn dắt học sinh vào tình huống có vấn đề và nêu bài tập nhận thức sẽ kích
thích tư duy để tìm ra lời giải đáp.


Ví dụ 2: Khi học về Tổng khởi nghĩa tháng Tám (Bài 16 - Lịch sử lớp 12), giáo
viên đưa ra vấn đề: Bàn về thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 ở Việt Nam, một
số Sử gia tư sản cho rằng: đó là một sự “ăn may” vì nó diễn ra trong điều kiện “trống
vắng quyền lực”, còn các nhà Sử học của chúng ta thì khẳng định: thành công của
Cách mạng tháng Tám không phải là sự “ăn may”. Vậy, các em đồng ý với ý kiến

nào? Tại sao? Để giải quyết vấn đề này, giáo viên gợi ý học sinh dựa trên những kiến
thức cụ thể qua những lần diễn tập (1930-1931, 1932-1935, 1936-1939) thời kỳ 19391945, để thấy được vai trò của Đảng trong quá trình chuyển hướng chỉ đạo chiến lược
cách mạng, chuẩn bị lực lượng, cùng với thiên tài Hồ Chí Minh đã nhìn thấy thời cơ
đến, nhanh chóng phát động quần chúng Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong
toàn quốc.
Đồng thời giáo viên đưa ra các câu hỏi mang tính gợi mở như: Đảng đã đề ra
chủ trương đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu khi nào? Quá trình chuẩn bị
ra sao? Thế nào là thời cơ cách mạng? Trong Cách mạng tháng Tám có những thời cơ
nào?
Từ những câu hỏi gợi mở này chắc chắn học sinh sẽ phát hiện quá trình chuẩn
bị lâu dài về mọi mặt của Đảng và nghệ thuật chớp thời cơ là nhân tố quan trọng quyết
định thắng lợi của Tổng khởi nghĩa tháng Tám.
3. Vài nét đổi mới kiểm tra đánh giá phát triển năng lực học sinh
Đồng hành với ĐMPPDH là đổi mới KTĐG đây là hai mặt thống nhất của quá
trình dạy học.
Trong nghị quyết số 44/NQ-CP, ngày 9/6/2014 ban hành Chương trình
hành động của Chính phủ: “Đổi mới hình thức, phương pháp thi, kiểm tra và
đánh giá kết quả giáo dục theo hướng đánh giá năng lực của người học; kết
hợp đánh giá cả quá trình với đánh giá cuối kỳ học, cuối năm học theo mô hình
của các nước có nền giáo dục phát triển”.
Kiểm tra là công cụ chủ yếu để đánh giá chất lượng học tập của học sinh.
Đánh giá HS theo định hướng năng lực là đánh giá theo chuẩn về sản phẩm đầu
ra, sản phẩm đó không chỉ là kiến thức, kĩ năng, mà là năng lực vận dụng kiến thức, kĩ
năng và thái độ cần có để thực hiện nhiệm vụ học tập tới một chuẩn nào đó.
Kiểm tra đánh giá là một khâu trong quá trình dạy học để giáo viên đánh giá
chất lượng giáo dục đã đạt được. Thông qua kết quả kiểm tra đánh giá để điều chỉnh
phương pháp dạy học để đạt kết quả cao nhất.
4. Việc đổi mới kiểm tra đánh giá Lịch sử ở trường THPT Kế Sách
Đánh giá vì sự tiến bộ của người học, đánh giá trong quá trình học tập, đánh giá
về kết quả học tập. Việc đổi mới kiểm tra đánh giá được tổ chức nghiêm túc, đúng quy

chế ở tất cả các khâu từ ra đề, coi, chấm và nhận xét,


đảm bảo sự trung thực, khách quan, phản ánh một cách toàn diện về kiến thức,
kỹ năng, thái độ của học sinh.
Việc ra đề kiểm tra thực hiện đúng theo 4 mức độ yêu cầu: nhận biết,
thông hiểu, vận dụng thấp, vận dụng cao.
Căn cứ vào năng lực của học sinh ở từng học kì, từng khối lớp, giáo viên
xác định những câu hỏi theo 4 mức độ yêu cầu đảm bảo tính vừa sức và phân
hóa được học sinh.
Kiểm tra, đánh giá năng lực môn Lịch sử theo các yêu cầu:
- Cân đối giữa yêu cầu tái hiện kiến thức với yêu cầu hiểu kiến thức: khái
quát, xâu chuỗi các sự kiện lịch sử, lý giải được mối quan hệ giữa sự kiện này
với sự kiện khác đó là năng lực giải quyết vấn đề, năng lực tư duy, tái hiện kiến
thức.
Ví dụ 1: Khi học về Luận cương chính trị tháng 10/1930 (Bài 14 - Lịch
sử lớp 12) giáo viên yêu cầu học sinh nhắc lại những nét cơ bản về nội dung
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và kết luận: đây là một cương lĩnh cách
mạng giải phóng dân tộc sáng tạo, kết hợp đúng đắn vấn đề dân tộc và vấn đề
giai cấp. Tại Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương lâm thời tháng
10/1930 đã thông qua Luận cương chính trị của Đảng, vậy Luận cương chính
trị này có gì khác hơn so với Cương lĩnh chính trị đầu tiên mà người ta đánh giá
đây là văn kiện còn có những mặt hạn chế? Học sinh sẽ tìm hiểu những vấn đề
cơ bản về mục tiêu, nhiệm vụ, động lực, lực lượng cách mạng, lãnh đạo, mối
quan hệ giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới được đề cập trong
Luận cương chính trị tháng 10/1930, sau đó so sánh từng điểm này với Cương
lĩnh chính trị đầu tiên, rút ra được những hạn chế của Luận cương chính trị
tháng 10/1930.
Ví dụ 2: Chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mĩ ở miền Nam (Bài 22 Lịch sử lớp 12), giáo viên hỏi: Chiến lược “chiến tranh cục bộ” và “chiến tranh
đặc biệt” của Mĩ ở miền Nam có điểm gì giống và khác nhau.

- Tăng cường kiểm tra phẩm chất và năng lực học sinh theo hướng mở
(năng lực đánh giá sự kiện lịch sử), tích hợp, liên môn, gắn với các vấn đề thực
tiễn .
Ví dụ 3: (Bài 16 - Lịch sử lớp 12) Phân tích bài học kinh nghiệm của
Cách mạng tháng Tám năm 1945. Trong những bài học đó, bài học nào Đảng ta
có thể vận dụng để giải quyết vấn đề biển đảo hiện nay? Tại sao?
Ví dụ 4: (Bài 17 - Lịch sử lớp 12) Nếu là người phải đưa ra quyết định,
em có chủ trương hòa hoãn với quân Tưởng rồi lại hòa hoãn với thực dân Pháp
không? Tại sao?
- Bên cạnh đó, thì việc đánh giá thường xuyên đối với tất cả học sinh
cũng được thực hiện thông qua các hoạt động trên lớp, vở học tập, thảo luận
nhóm, bài thuyết trình… Việc kiểm tra miệng không nhất thiết phải thực hiện


vào đầu tiết. Các em vẫn có điểm miệng khi trả lời những câu hỏi đúng, giải thích
được những câu hỏi mở mang tính logic… Những em tích cực trong học tập được
cộng điểm khuyến khích để kích thích tinh thần học tập năng động của các em.
5. Kết quả đạt được
Đa số học sinh phát huy được năng lực cá nhân của mình, tính năng động, sáng
tạo, tìm tòi rèn luyện được phương pháp tự học, hình thành các kĩ năng đánh giá, nhận
xét hiểu được bản chất của các các sự kiện lịch sử trọng đại không cảm nhận theo lối
GV đang “tuyên truyền”, rút ra được bài học lịch sử để liên hệ với hiện tại.
GV nhóm Sử trường THPT Kế Sách luôn nhận thấy được sự cần thiết của việc
ĐMPPDH, KTĐG. Nên với tinh thần trách nhiệm, tâm huyết với nghề, chúng tôi luôn
tìm tòi học tập, sáng tạo trong chuyên môn. Đồng thời kết hợp các phương pháp dạy
học khác nhau để đáp ứng yêu cầu đổi mới đúng với câu nói “Muốn dạy hay, thầy
phải giỏi.” nên đã đạt được nhiều thành tích như: Năm học 2016-2017, trường THPT
Kế Sách tổ chức cuộc thi học sinh làm đồ dùng học tập, giáo viên của nhóm Sử đã
hướng dẫn học sinh làm đồ dùng đạt giải nhất, trong cuộc thi làm đồ dùng dạy học của
giáo viên đạt giải ba, đặc biệt ôn thi học sinh giỏi tỉnh đạt giải nhất và giải khuyến

khích. Qua đó, góp phần khẳng định tinh thần đổi mới của giáo viên trong dạy học, sự
yêu thích của học sinh đối với môn Lịch sử.
III. KẾT LUẬN
ĐMPPDH, KTĐG môn Lịch sử theo định hướng phát triển năng lực học sinh là
một việc làm mà giáo viên trường THPT Kế Sách đã và đang thực hiện trong giai đoạn
đổi mới hiện nay nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường, góp phần trang
bị cho học sinh trở thành “công dân toàn cầu” đủ trí tuệ, năng lực, phẩm chất đáp ứng
được nhu cầu xã hội. Có những hiểu biết lịch sử thế giới đặc biệt đó là kiến thức lịch
sử dân tộc để tự hào, bảo tồn, trang bị một bản lĩnh văn hóa vững vàng và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc trong thời đại toàn cầu hóa.
Trên đây là tham luận về ĐMPPDH, KTĐG của nhóm Sử trường THPT Kế
Sách dù thật sự đã rất cố gắng, nhiệt tình nhưng chắc chắn sẽ còn nhiều thiếu sót. Rất
mong sự đóng góp ý kiến của lãnh đạo, của quý thầy cô giáo các trường để học hỏi,
đúc kết kinh nghiệm, góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả dạy - học Sử và sâu xa
hơn làm theo lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh “Dân ta phải biết sử ta”.


THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP TRONG THỰC HIỆN ĐỔI MỚI
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC VÀ ĐỔI MỚI KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ
Ở TRƯỜNG THPT PHAN VĂN HÙNG
Lê Thị Trúc Hà
Giáo viên trường THPT Phan Văn Hùng
I. THỰC TRẠNG ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC, ĐỔI
MỚI KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ Ở TRƯỜNG THPT PHAN VĂN HÙNG
1. Ưu điểm
Nhà trường thường xuyên triển khai các văn bản chỉ đạo của cấp trên về
đổi mới kiểm tra đánh giá đến toàn thể giáo viên và học sinh trong trường.
Nhà trường luôn tạo điều kiện cho giáo viên tham gia đầy đủ các buổi
sinh hoạt, tập huấn về đổi mới kiểm tra đánh giá do Sở, Phòng tổ chức.
Phần lớn học sinh trong trường đã tiếp cận và từng bước hình thành kỹ

năng làm bài kiểm tra theo hướng phát triển năng lực học sinh.
Đa số học sinh biết vận dụng các phương pháp suy luận áp dụng các
phương pháp linh hoạt để giải quyết các câu hỏi, bài tập của đề kiểm tra. Đặc
biệt một số không nhỏ học sinh có khả năng phát hiện và trình bày một vấn đề
rất khoa học và có hiệu quả thiết thực trong thực tiễn.
2. Hạn chế
Đôi khi giáo viên còn lúng túng trong việc xác định những năng lực cần
phát triển cho học sinh thông qua việc kiểm tra đánh giá.
Trong quá trình biên soạn đề kiểm tra vẫn còn giáo viên chưa chú trọng
đến việc phân tích theo nhiều khía cạnh để hình thành phát triển năng lực của
học sinh. Đồng thời chưa chú ý đến việc biên soạn đề theo hướng khám phá,
phát triển năng lực của học sinh.
Vẫn còn không ít giáo viên chưa tích cực trong việc nghiên cứu tài liệu,
tự bồi dưỡng và đặc biệt còn thiếu tính thời sự trong việc đổi mới kiểm tra đánh
giá học sinh. Còn một vài giáo viên chưa thực hiện tốt các bước trong quy trình
biên soạn ra đề kiểm tra theo định hướng phát triển năng lực học sinh.
Nhiều học sinh hiện nay chưa tích cực, chủ động, sáng tạo trong việc học
tập của mình nên năng lực tự học và sáng tạo của các em phát triển chậm.
Trình độ nhận thức của học sinh trong một lớp không đồng đều dẫn đến
một số học sinh không theo kịp, chậm tiến bộ,...
Vẫn còn một số ít học sinh không biết vận dụng hoặc vận dụng chưa
thành thạo các phương pháp suy luận, hoặc áp dụng phương pháp làm bài tập,


trả lời câu hỏi một cách thiếu linh hoạt, thiếu khả năng phát hiện và trình bày một vấn
đề khoa học, hệ thống.
Hình thức thi trắc nghiệm chưa được các em làm quen nhiều nên kết quả bài
kiểm tra học kì chưa tốt. Bên cạnh đó có nhiều em có nhận định chưa đúng về hình
thức thi trắc nghiệm nên cho rằng thi trắc nghiệm thì không cần phải học bài vì vậy
càng làm cho chất lượng môn học có phần giảm sút.

II. NHỮNG GIẢI PHÁP THỰC HIỆN ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP
DẠY HỌC, ĐỔI MỚI KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ THEO ĐỊNH HƯỚNG
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC
1. Nâng cao nhận thức
Giáo viên:
- Tuyên truyền, vận động để giáo viên hiểu được tầm quan trọng của việc
đổi mới phương pháp và đổi mới hình thức kiểm tra đánh giá theo định hướng
phát triển năng lực học sinh. Để từ đó có cách thiết kế bài giảng cho phù hợp,
biên soạn tốt đề kiểm tra theo hình thức trắc nghiệm, đánh giá đúng năng lực
học sinh.
- Động viên giáo viên mạnh dạn đổi mới phương pháp, vận dụng các
hình thức tổ chức dạy học phù hợp với đặc trưng bộ môn, nhằm tạo hứng thú
cho học sinh từ đó định hướng phát triển năng lực chuyên biệt hình thành ý
thức yêu thích môn học và phát huy tính tích cực chủ động của các em.
Học sinh: Thường xuyên quan tâm giáo dục tư tưởng, tình cảm, thái độ của học
sinh. Rèn luyện các kĩ năng cần thiết cho học sinh để các em tiếp cận tốt với hình thức
kiểm tra trắc nghiệm.
2. Bồi dưỡng giáo viên
Tăng cường tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên đề, sinh hoạt chuyên môn về đổi
mới kiểm tra đánh giá đến giáo viên.
Khuyến khích, tạo điều kiện cho giáo viên tham dự các buổi tập huấn chuyên
môn và tham gia giao lưu ở các diễn đàn trên mạng Internet về đổi mới phương pháp
dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá.
3. Một số kinh nghiệm khi thực hiện kiểm tra đánh giá của trường
3.1. Trong quá trình thiết kế giáo án cần chốt rõ những kiến thức do hoạt
động của học sinh mang lại và có định hướng cụ thể cho các em biết, hiểu và
vận dụng được tốt nhất các nội dung đó vào bài kiểm tra.
Ví dụ: Khi dạy chủ đề “Các nước Đức, Mĩ, Nhật Bản giữa hai cuộc chiến tranh
thế giới 1918 – 1939”, giáo viên giao nhiệm vụ cho các em bằng phiếu học tập về tình
hình của các nước này trong giai đoạn 1929 – 1939 và biện pháp khắc phục khó khăn

của các nước này.


Nước
Tình hình

Kinh tế

Chính trị

Xã hội

Kinh tế

Chính trị

Xã hội

Đức

Nhật Bản
Nước

Biện pháp
khắc phục

Đức

Nhật Bản


Sau khi học sinh thảo luận và báo cáo kết quả, giáo viên sẽ chốt ý và
định hướng để các em khắc sâu kiến thức đã hoạt động được và biết cách vận
dụng khi kiểm tra.
3.2. Trong quá trình biên soạn đề kiểm tra, giáo viên cần quan tâm gắn
nội dung kiểm tra với các vấn đề trong thực tiễn để học sinh thể hiện được năng
lực của bản thân trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến bản thân, gia
đình và xã hội.
3.3. Sau mỗi bài học cần có sự khắc sâu giúp học sinh nắm chắc kiến
thức trọng tâm của bài đó, qua đó học sinh sẽ nhận biết được phải học gì ở nhà.
Nếu có thể nên nêu ra trước câu hỏi, không nên kiểm tra bất kì một phần nào
mình thích mà không nằm trong trọng tâm của bài học.
3.4. Vận dụng linh hoạt một số hình thức kiểm tra miệng thực sự lôi
cuốn học sinh trong lớp và đánh giá được nhiều học sinh nhất. Ngoài mục đích
kiểm tra việc nắm vững kiến thức của các em, phải một lần nữa khắc sâu thêm
kiến thức trọng tâm của bài cũ cho học sinh.
3.5. Biên soạn đề kiểm tra theo đúng quy trình: phải mô tả nội dung cần
kiểm tra theo các mức độ, thiết lập ma trận, ra đề theo đúng ma trận đã thiết lập
đảm bảo phát huy được năng lực của người học theo hai hướng năng lực chung
và năng lực chuyên biệt.
III. KẾT LUẬN
Với các giải pháp trên khi áp dụng vào thực tế môn học đã mang lại kết
quả bước đầu khá khả quan như: các em tự tin hơn khi trình bày ý kiến trước
tập thể, điểm kiểm tra từng bước được cải thiện, các em hứng thú hơn đối với
môn học.
Trên đây là một số giải pháp về đổi mới phương pháp và đổi mới kiểm
tra đánh giá bộ môn ở trường THPT Phan Văn Hùng. Kính mong được sự góp ý
chân tình của các trường bạn. Chân thành cảm ơn!


VẬN DỤNG TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN

VÀO HÌNH THỨC KIỂM TRA KIẾN THỨC
Tổ Lịch sử
Trường THPT Mai Thanh Thế
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
- Trong vấn đề cải cách giáo dục, ngoài đổi mới mục tiêu, nội dung và
phương pháp dạy học, việc đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá là một vấn
đề hết sức cấp thiết nhằm tăng cường hiệu quả dạy học. Tuy nhiên, trong thực
tế dạy học nói chung, hầu như khâu đánh giá mục tiêu của mỗi bài, mỗi chương
cũng như chương trình của một môn học cụ thể chưa được giáo viên chú trọng
đúng mức. Chẳng hạn, sau mỗi bài hoặc tiết học, việc dùng hình thức tự luận để
kiểm tra rõ ràng là không thích hợp. Trong khi đó, sử dụng phương pháp trắc
nghiệm khách quan tỏ ra rất thuận lợi.
- Vì vậy chúng ta có thể áp dụng phương pháp này vào cuối mỗi bài hoặc
15 phút hay 1 tiết để vừa củng cố kiến thức, vừa đánh giá sơ bộ mức độ hoàn
thành mục tiêu của bài học. Nó cho phép thu được thông tin phản hồi một cách
kịp thời để từ đó nhanh chóng điều chỉnh phương pháp dạy học sao cho phù
hợp, đồng thời uốn nắn những nhận thức sai lầm lệch lạc có thể có ở học sinh.
II . GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Tầm quan trọng của việc ứng dụng trắc nghiệm khách quan
- Nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường nói chung và bậc
trung học phổ thông nói riêng, hiện nay vấn đề đổi mới phương pháp dạy học
trong giáo dục không còn là mối quan tâm của cá nhân nào mà đây là vấn đề
chung của toàn xã hội.
- Hơn nữa, theo chủ trương đổi mới thi cử của Bộ Giáo dục và Đào tạo
trong các kì thi tốt nghiệp phổ thông và các kì tuyển sinh đại học – cao đẳng đã
áp dụng phương pháp thi trắc nghiệm khách quan. Như thế việc tiếp cận
phương pháp trắc nghiệm khách quan đang trở thành một vấn đề cấp bách trong
hoạt động dạy và học ở các trường THPT nước ta hiện nay.
2. Ưu điểm
Nếu áp dụng phương pháp kiểm tra trắc nghiệm thì chúng tôi nhận thấy

rằng:
- Đối với học sinh thì tự biết mình tiếp thu kiến thức đến mức nào, có
những sai sót nào cần bổ khuyết, qua đó mà có ý thức phấn đấu vươn lên trong học
tập.
- Đối với giáo viên sẽ mang lại những thông tin liên hệ, nhằm giúp điều
chỉnh hoạt động dạy đồng thời nắm được trình độ chung của cả lớp mà còn biết


được những học sinh nào có sự tiến bộ rõ rệt hoặc sút kém đột ngột để động
viên, giúp đỡ kịp thời.
3. Những hạn chế
- Học sinh: Còn không ít học sinh học theo kiểu học “vẹt”, hoặc không
cần chuẩn bị bài chỉ chọn đại một đáp án mang tính chất “hên, xui” không cần
đọc kĩ yêu cầu của đề bài. Hoặc chọn đáp án theo bạn mà lại không trùng mã đề
nên dẫn đến điểm số rất thấp.
- Giáo viên: Việc soạn câu hỏi trắc nghiệm mất rất nhiều thời gian, ra đề
kiểm tra hoặc thi phải nhiều mã đề (trường lại yêu cầu giáo viên không nên trộn
đề mà mỗi đề độc lập có như vậy thì hạn chế được học sinh xem bài của bạn).
4 Hướng khắc phục
Để khắc phục được những khuyết điểm trên hay để cho việc kiểm tra đạt
được những hiệu cao thì giáo viên cần phải:
- Nghiêm túc thực hiện việc kiểm tra bài cũ thường xuyên, không bỏ qua
bất cứ tiết học nào (chỉ trừ trường hợp tiết học trước đó là thực hành hay kiểm
tra một tiết).
- Nội dung kiểm tra phải mang tính khái quát.
- Đảm bảo kiến thức và tạo thói quen cho học sinh trong việc học bài.
- Tìm ra những biện pháp, hay cách làm mới để áp dụng nhằm kích thích
tinh thần học tập của học sinh (năng nổ, tích cực) và làm giảm bớt đi không khí
căng thẳng trong giờ kiểm tra.
Chính từ những vấn đề khúc mắc trên, thúc đẩy cho chúng tôi tìm hiểu

và viết về đề tài tham luận “Vận dung trắc nghiệm khách quan vào hình thức
kiểm tra”.
III. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
“Ứng dụng trắc nghiệm khách quan vào hình thức kiểm tra” là điều
không còn mới cũng không phải là quá khó đối với giáo viên vì ở một số môn
khoa học tự nhiên (Lí, Hoá, Sinh, Anh) đã được áp dụng phương pháp trắc
nghiệm từ rất lâu cho đến nay. Tuy nhiên, cũng là một vấn đề rất cần thiết đối
với học sinh vì trong số đó vẫn còn không ít học sinh học theo kiểu “vẹt” và
chỉ chọn đại một đáp án “hên, xui” không cần đọc kĩ yêu cầu của đề bài.
Chính vì vậy, hướng dẫn học sinh là một khâu rất quan trọng nhằm thay đổi
tình hình, cải thiện chất lượng và nâng cao hiệu quả dạy học, tạo tiền đề cho
các em học sinh có thêm cơ hội bước chân vào ngưỡng cửa của các trường
cao đẳng – đại học.


ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
MÔN LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THPT
Tổ Lịch sử
Trường THPT Mai Thanh Thế
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Môn Lịch sử có vị trí, vai trò quan trong trong việc đào tạo thế hệ trẻ, giúp học
sinh rèn luyện về nhân cách, bồi dưỡng lòng yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc.
Việc dạy và học môn Lịch sử không chỉ để ghi nhớ một sự kiện, chiến công hào hùng
của dân tộc, học sinh phải biết tìm hiểu tiếp nhận những nét đẹp của đạo đức, đạo lý
của con người không chỉ ở thời xa xưa mà ngay cả ngày nay và mai sau.
Đổi mới phương pháp dạy học là việc dạy học phải “lấy học sinh làm trung
tâm” nhằm mục tiêu: giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất,
thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, phát triển các năng lực cá nhân, tính năng động và
sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư
cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc

sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Việc đổi mới phương pháp dạy học lịch sử, cũng như mọi môn học khác, học
sinh tự mình khám phá ra kiến thức (dưới sự hướng dẫn của giáo viên), tức là học sinh
phải được tiếp xúc với các tư liệu lịch sử: tranh ảnh, bản đồ lịch sử, các di vật, câu
chuyện lịch sử được ghi lại thành lời văn dưới sự định hướng và kết luận của giáo viên
để học sinh tự hình thành các biểu tượng lịch sử là hết sức quan trọng.
Hơn nữa việc hình thành và khắc sâu các sự kiện, nhân vật lịch sử cho đối
tượng là học sinh. Vì vậy, đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy học là việc
cần thiết để đem lại hiệu quả chất lượng việc dạy và học môn Lịch sử.
II. THỰC TRẠNG ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY BỘ
MÔN LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THPT HIỆN NAY
- Đổi mới phương pháp dạy học hiện nay không chỉ là phong trào mà còn
là một yêu cầu bắt buộc với mọi giáo viên. Thông thường ở giờ thao giảng hay
dự thi giáo viên giỏi, tất cả giáo viên đều nổ lực trong việc đổi mới phương
pháp dạy học, dù còn có người chưa thành công như mong muốn.
- Do thói quen đọc – chép, thuyết giảng, lệ thuộc sách giáo khoa đã tạo
thói quen thụ động của trò, thầy nói sao trò ghi vậy và chỉ biết học thuộc lòng,
không cần suy nghĩ.


- Theo thói quen thuyết giảng, không ít người chỉ “chạy” theo khối lượng
kiến thức trong sách giáo khoa, không quan tâm đến việc tìm ra những biện
pháp tác động đến quá trình nhận thức của học sinh.
- Để việc đổi mới phương pháp dạy học không chỉ là phong trào, để nó
không chỉ được nhìn thấy trên bề nổi mà còn được nhân rộng ở các nhà trường,
từng lớp học, trở thành thói quen của mỗi thầy cô giáo. Sự cần thiết phải đổi
mới phương pháp giảng dạy thì đã rõ, song để thực hiện được rộng khắp trong
toàn ngành thật sự không đơn giản.
III. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
- Quan niệm trước đây: thầy dạy gì trò học đấy đã lỗi thời. Giáo viên là

người hướng dẫn, học sinh mới là trung tâm, để cho học sinh có cơ hội phát
biểu trình bày quan điểm của mình về vấn đề giáo viên đưa ra nên tránh dạy
học theo lối đọc – chép, nhìn – chép thuần túy dưới mọi hình thức.
- Hệ thống câu hỏi trong bài dạy phải vừa sức, phù hợp với từng đối
tượng học sinh. Không nên đặt câu hỏi quá khó, vượt khả năng tư duy của học
sinh “đánh giá, nhận xét, phân tích...” nhưng câu hỏi cũng không đơn giản quá.
Tuy nhiên, cần phải có một số câu hỏi nâng cao nhằm phân loại học sinh và
kích thích khả năng tư duy của một số học sinh khá, giỏi. Cần tránh tình trạng
giáo viên chưa giảng, chưa trình bày sự việc hoặc học sinh chưa tìm hiểu bài
học mà đặt câu hỏi cho học sinh.
Ví dụ. Bài 20 Lịch sử lớp 12: IV.1. Nguyên nhân thắng lợi của cuộc
kháng chiến chống Pháp.
+ Giáo viên cho học sinh trình bày nguyên nhân thắng lợi của cuộc
kháng chiến chống Pháp. Giáo viên gợi ý trong những nguyên nhân trên
nguyên nhân nào là quyết định nhất? Bằng kiến thức đã học các em hãy phân
tích (chứng minh) đều đó?
Với những dạng câu hỏi như thế này từ dễ đến khó nên phù hợp với từng
đối tượng học sinh, học sinh có biết, hiểu và vận dụng.
+ Qua đó giáo viên sẽ giáo dục thái độ tư tưởng của các em trung với
Đảng hiếu với dân, bản thân em thì em sẽ làm gì để thực hiện được điều đó (có
thể cho học sinh thảo luận).
- Sử dụng hiệu quả phương pháp truyền thống kết hợp với việc ứng dụng
công nghệ thông tin trong việc hỗ trợ bài dạy. Cần xem công nghệ thông tin là
phương tiện hỗ trợ đắc lực cho bài dạy chứ không thể xem đó là một phương
pháp dạy học mới thay thế hoàn toàn cho vai trò của giáo viên.
- Không cứng nhắc phải dạy đủ trình tự các bước trong bài dạy, có thể
tổng hợp kiến thức thành một chủ đề, giảm bớt những phần không quan trọng
(giáo viên hướng dẫn cho học sinh tự tìm hiểu hoặc bài tập về nhà).
- Xác định mục tiêu, nội dung trọng tâm bài dạy: cần phải xác định mục
tiêu cuối cùng của bài dạy là học sinh hiểu bài như thế nào qua bài học, chứ



không phải là bài dạy phải đầy đủ các phương pháp, không “ướt”, “cháy”... là được.
- Không nhất thiết tiết nào cũng dạy theo nhóm: giáo viên có thể hướng
dẫn học sinh tìm hiểu bài ở nhà theo nhóm, sau đó vào tiết học giáo viên mời
đại diện từng nhóm trình bày kết quả tìm hiểu và cho nhóm khác nhận xét, bổ
sung, qua đó hoàn thiện nội dung bài học và sẽ làm giảm tối đa hoạt động của
giáo viên.
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Đai – ri nhà giáo dục Liên Xô cũ đã từng nói: Dạy lịch sử cũng như bất cứ dạy
cái gì đòi hỏi người thầy phải khêu gợi cái thông minh chứ không phải bắt buộc trí
nhớ làm việc. Như vậy, mục đích của việc dạy học Lịch sử ở trường là người giáo viên
không chỉ giúp cho học sinh hình dung được những kết quả của quá khứ biết và ghi
nhớ các sự kiện, hiện tượng của Lịch sử mà quan trọng hơn là hiểu được Lịch sử tức là
phải nắm được bản chất của sự kiện.
Trong phát triển tư duy của học sinh việc sử dụng các thao tác lôgic có ý nghĩa
rất quan trọng. Vì vậy, giáo viên cần phải có những phương pháp, kĩ thuật phù hợp với
từng đối tượng học sinh, sử dụng có hiệu quả cho từng bài dạy.
Việc phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong việc học môn Lịch sử là
một phần trong việc đổi mới phương pháp dạy học của bộ môn này. Góp phần giáo
dục toàn diện cho học sinh.
2. Kiến nghị
Tăng cường thiết bị dạy học, tài liệu tham khảo, sưu tầm tài liệu, vấn đề cập
nhật sự kiện, số liệu....Việc sử dụng đồ dùng dạy học phải đảm bảo yêu cầu: tính khoa
học, tính trực quan và tính thẫm mĩ giáo dục.
Ứng dụng công nghệ thông tin phải hài hòa với việc ghi chép của học sinh và
phù hợp với thời lượng của tiết học.
Cần củng cố bài cho học sinh, giúp cho các em nhớ nhanh, bền vững kiến thức
lịch sử đã học. Nhất là trong bối cảnh lịch sử hiện nay khi học sinh coi trọng các môn

khoa học tự nhiên hơn, trong khi đó bài tập lịch sử về nhà lại rất ít thậm chí không có.


×