Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Thảo luận dân sự 1 Chủ thể pháp luật dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.38 KB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
******************

THẢO LUẬN
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ
LUẬT DÂN SỰ, TÀI SẢN VÀ
THỪA KẾ
Buổi thảo luận thứ nhất:
Chủ thể của pháp luật dân sự

Nhóm 3 – Lớp TM42B2

Năm học 2017-2018


DANH SÁCH NHÓM 3 – LỚP TM42B2
ST
T

Họ và Tên

MSSV

1

Ngô Thị Tiếp

1753801011191

2


Phạm Thị Bảo Trân

1753801011194

3

Trần Thị Huyền Trân

1753801011195

4

Đinh Võ Thùy Trang

1753801011196

5

Nguyễn Phương Cẩm Tú

1753801011208

6

Phạm Cẩm Tú

1753801011210

7


Đỗ Trần Phương Uyên

1753801011216

8

Phạm Thị Tố Uyên

1753801011219

9

Tăng Thị Thanh Viên

1753801011228

Đánh giá

2


Bài tập 1: Năng lực hành vi dân sự cá nhân
Câu 1: Cho biết những điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015 so với Bộ luật Dân sự 2005
về quy định mất năng lực hành vi dân sự.
BỘ LUẬT DÂN SỰ 2005

BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015

Điều 22. Mất năng lực hành vi dân sự


Điều 22. Mất năng lực hành vi dân sự
(sửa đổi)

1. Khi một người do bị bệnh tâm thần
hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận
thức, làm chủ được hành vi của mình thì
theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích
liên quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố
mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở
kết luận của tổ chức giám định.
Khi không còn căn cứ tuyên bố một
người mất năng lực hành vi dân sự thì
theo yêu cầu của chính người đó hoặc
của người có quyền, lợi ích liên quan,
Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định
tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự.
2. Giao dịch dân sự của người mất năng
lực hành vi dân sự phải do người đại
diện theo pháp luật xác lập, thực hiện.

1. Khi một người do bị bệnh tâm

thần hoặc mắc bệnh khác mà
không thể nhận thức, làm chủ
được hành vi thì theo yêu cầu của
người có quyền, lợi ích liên quan
hoặc của cơ quan, tổ chức hữu
quan, Tòa án ra quyết định tuyên
bố người này là người mất năng
lực hành vi dân sự trên cơ sở kết

luận giám định pháp y tâm thần.
Khi không còn căn cứ tuyên bố một
người mất năng lực hành vi dân sự thì
theo yêu cầu của chính người đó hoặc
người có quyền, lợi ích liên quan hoặc
của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án
ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố
mất năng lực hành vi dân sự.
2. Giao dịch dân sự của người mất năng
lực hành vi dân sự phải do người đại
diện theo pháp luật xác lập, thực hiện.
→ Bổ sung chủ thể yêu cầu Tòa án tuyên
hay hủy bỏ quyết định là “cơ quan, tổ
chức hữu quan”
→ Thay “kết luận của tổ chức giám
định” bằng “kết luận giám định pháp y

3


tâm thần”.

Không quy định

Điều 23. Hạn chế năng lực hành vi dân

Điều 23. Người có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi (bổ sung)
1.


Người thành niên do tình trạng
thể chất hoặc tinh thần mà không
đủ khả năng nhận thức, làm chủ
hành vi nhưng chưa đến mức mất
năng lực hành vi dân sự thì theo
yêu cầu của người này, người có
quyền, lợi ích liên quan hoặc của
cơ quan, tổ chức hữu quan, trên
cơ sở kết luận giám định pháp y
tâm thần, Tòa án ra quyết định
tuyên bố người này là người có
khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi và chỉ định người
giám hộ, xác định quyền, nghĩa
vụ của người giám hộ.

2.

Khi không còn căn cứ tuyên bố
một người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi thì
theo yêu cầu của chính người đó
hoặc của người có quyền, lợi ích
liên quan hoặc của cơ quan, tổ
chức hữu quan, Tòa án ra quyết
định hủy bỏ quyết định tuyên bố
người có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi.

Điều 24. Hạn chế năng lực hành vi dân

4


sự

sự (sửa đổi)
1. Người nghiện ma túy, nghiện các

chất kích thích khác dẫn đến phá
tán tài sản của gia đình thì theo
yêu cầu của người có quyền, lợi
ích liên quan, cơ quan, tổ chức
hữu quan, Tòa án có thể ra quyết
định tuyên bố là người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự.
2. Người đại diện theo pháp luật của

1. Người nghiện ma túy, nghiện các

chất kích thích khác dẫn đến phá
tán tài sản của gia đình thì theo
yêu cầu của người có quyền, lợi
ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ
chức hữu quan, Tòa án có thể ra
quyết định tuyên bố người này là
người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự.

người bị hạn chế năng lực hành vi Tòa án quyết định người đại diện theo
dân sự và phạm vi đại diện do Tòa pháp luật của người bị hạn chế năng lực

án quyết định. Giao dịch dân sự
hành vi dân sự và phạm vi đại diện.
liên quan đến tài sản của người bị
2. Việc xác lập, thực hiện giao dịch
hạn chế năng lực hành vi dân sự
dân sự liên quan đến tài sản của
phải có sự đồng ý của người đại
người bị Tòa án tuyên bố hạn chế
diện theo pháp luật, trừ giao dịch
năng lực hành vi dân sự phải có
nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt
sự đồng ý của người đại diện theo
hàng ngày.
pháp luật, trừ giao dịch nhằm
3. Khi không còn căn cứ tuyên bố
phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng
một người bị hạn chế năng lực
ngày hoặc luật liên quan có quy
hành vi dân sự thì theo yêu cầu
định khác.
của chính người đó hoặc của
2. Khi không còn căn cứ tuyên bố
người có quyền, lợi ích liên quan,
một người bị hạn chế năng lực
cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa
hành vi dân sự thì theo yêu cầu
án ra quyết định hủy bỏ quyết
của chính người đó hoặc của
định tuyên bố hạn chế năng lực
người có quyền, lợi ích liên quan

hành vi dân sự.
hoặc của cơ quan, tổ chức hữu
quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ
quyết định tuyên bố hạn chế năng
lực hành vi dân sự.

5


Câu 2: Hoàn cảnh của ông P như trong Quyết định được bình luận có thuộc trường hợp
mất năng lực hành vi dân sự không? Vì sao?
Hoàn cảnh của ông P như trong Quyết định được bình luận không thuộc trường hợp
mất năng lực hành vi dân sự. Vì:
Theo khoản 1 Điều 22 BLDS 2015: “Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc
bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có
quyền, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là mất năng lực hành vi
dân sự trên cơ sở giám định pháp y tâm thần.”
Từ quy định trên ta thấy điều kiện để Tòa án tuyên bố một người là mất năng lực hành
vi dân sự bao gồm: mắc bệnh dẫn đến không thể nhận thức, làm chủ được hành vi; có yêu
cầu; giám định pháp y tâm thần.
Ở trường hợp của ông P có bà H yêu cầu, như vậy ta xét tiếp đến các yếu tố còn lại.
Trong vụ việc được bình luận theo như kết quả giám định pháp y tâm thần thì ông P mắc
bệnh Rối loạn cảm xúc lưỡng cực, nhưng điều này có cho phép ta kết luận ông P “không
thể nhận thức, làm chủ hành vi” không?
Căn cứ Thông tư số 18/2015/TT-BYT ngày 14 tháng 7 năm 2015 của Bộ trưởng Bộ Y tế
Ban hành quy trình giám định pháp y tâm thần và biểu mẫu sử dụng trong giám định
pháp y tâm thần, Rối loạn cảm xúc lưỡng cực nằm là một trong 21 bệnh tâm thần, rối
loạn tâm thần thường gặp được quy định trong thông tư và mức độ “hiện tại thuyên
giảm” như trường hợp của ông P khi kết luận về khả năng nhận thức và điều khiển hành
vi không thuộc vào nhóm Mất khả năng nhận thức và/hoặc khả năng điều khiển hành vi

mà thuộc nhóm Hạn chế khả năng nhận thức và/hoặc khả năng điều khiển hành vi. Như
vậy ta thấy ông P chưa đến mức “không thể nhận thức, làm chủ được hành vi” cho nên
ông P không thuộc trường hợp mất năng lực hành vi dân sự.
Kết luận, hoàn cảnh của ông P như trong Quyết định được bình luận chưa đủ điều kiện
để tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự.

6


Câu 3: Nêu những điểm giống và khác nhau giữa hạn chế năng lực hành vi dân sự và
mất năng lực hành vi dân sự.
 Giống:
- Một người bị xem là hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc mất năng lực hành vi

-

-

-

dân sự khi và chỉ khi Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là hạn chế năng lực
hành vi dân sự hoặc mất năng lực hành vi dân sự.
Tòa án chỉ ra quyết định tuyên bố một người là hạn chế năng lực hành vi dân sự
hoặc mất năng lực hành vi dân sự khi có yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên
quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan.
Người hạn chế năng lực hành vi dân sự và mất năng lực hành vi dân sự không thể
tự mình xác lập các giao dịch dân sự trừ các giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu thiết
yếu hằng ngày.
Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự
hoặc mất năng lực hành vi dân sự khi không còn căn cứ tuyên bố và có yêu cầu

của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan,
tổ chức hữu quan.

 Khác:

Hạn chế năng lực hành vi dân sự
- Đối tượng là người nghiện ma túy ,

Mất năng lực hành vi dân sự
-

nghiện các chất kích thích khác dẫn đến
phá tán tài sản của gia đình
- Chỉ cần có yêu cầu từ các chủ thể được

quy định trong luật thì Tòa án có thể ra
quyết định tuyên bố hạn chế năng lực
hành vi dân sự.

-

- Người bị Tòa án tuyên bố hạn chế năng

lực hành vi dân sự khi xác lập thực hiện
giao dịch dân sự liên quan đến tài sản thì
phải có sự đồng ý của người đại diện theo
pháp luật, trừ giao dịch phục vụ nhu cầu
sinh hoạt hằng ngày
- Người đại diện của người hạn chế năng


-

Đối tượng là người bị bệnh tâm thần
hoặc mắc bệnh khác mà không thể
nhận thức, làm chủ được hành vi
Khi có yêu cầu từ các chủ thể được
quy định trong luật Tòa án phải dựa
trên cơ sở kết luận giám định pháp y
tâm thân để ra quyết định.
Người bị tòa án tuyên bố mất năng
lực hành vi dân sự không thể tự
mình xác lập thực hiện giao dịch dân
sự, người đại diện theo pháp luật sẽ
xác lập, thực hiện thay, trừ trường
hợp giao dịch phục vụ nhu cầu thiết
yếu hằng ngày.
Người đại diện có thể được chỉ định
7


lực hành vi dân sự do Tòa án chỉ định.

hoặc đương nhiên trở thành người
đại diện theo quy định của pháp luật.

Câu 4: Trong Quyết định được bình luận, ông P có thuộc trường hợp người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự không? Vì sao?
Trong quyết định được bình luận, ông P không thuộc trường hợp người bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự. Vì:
Theo khoản 1 điều 24: “Người nghiện ma túy, nghiên các chất kích thích khác dẫn đến

phá tán tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc
của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người này là người
bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.”
Căn cứ vào quy định này ta thấy Tòa án chỉ tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành
vi dân sự khi người này thuộc đối tượng người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích
khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình, mà trường hợp của ông P mắc bệnh tâm thần
cho nên không thuộc đối tượng trên. Như vậy ông P không thuộc trường hợp người bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Câu 5: Điểm khác nhau cơ bản giữa người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và người
có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.

Tiêu chí

Hạn chế năng lực hành vi
dân sự

Chủ thể

Người nghiện ma túy, nghiện
các chất kích thích khác dẫn
đến phá tán tài sản của gia
đình.

Người có quyền, lợi ích liên
Người yêu
quan hoặc của cơ quan, tổ
cầu
chức hữu quan.
Cơ sở kết
luận


Dựa trên cơ sở kết luận giám
định pháp y tâm thần.

Người có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi
Người thành niên do tình trạng thể
chất hoặc tinh thần mà không đủ khả
năng nhận thức, làm chủ hành vi tuy
nhiên chưa đến mức mất năng lực
hành vi dân sự.
Bản thân người này, người có quyền,
lợi ích liên quan hoặc cơ quan, tổ
chức hữu quan.
Không có.

8


Câu 6: Tòa án xác định ông P thuộc trường hợp người có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi có thuyết phục không? Vì sao?
Tòa án xác định ông P thuộc trường hợp người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi là hoàn toàn thuyết phục.
Khoản 1 điều 23 BLDS 2015 có quy định: “Người thành niên do tình trạng thể chất hoặc
tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất
năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan
hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, trên cơ sở giám định pháp y tâm thần, Tòa án ra
quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và
chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ”
Căn cứ vào quy định này ta thấy để Tòa án tuyên bố một người là có khó khăn trong nhận

thức làm chủ hành vi thì phải có các điều kiện: người này là người thành niên do tình
trạng thể chất tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức nhưng chưa đến mức mất năng
lực hành vi dân sự; có yêu cầu; cơ sở giám định pháp y tâm thần.
Trường hợp của ông P là người thành niên và thỏa mãn điều kiện có yêu cầu (bà H yêu
cầu), ta xét tiếp đến tình trạng thể chất tinh thần của ông P dựa trên kết quả giám định
pháp y tâm thần. Theo giám định pháp y tâm thần ông P mắc bệnh Rối loạn cảm xúc
lưỡng cực. Căn cứ Thông tư số 18/2015/TT-BYT ngày 14 tháng 7 năm 2015 của Bộ
trưởng Bộ Y tế Ban hành quy trình giám định pháp y tâm thần và biểu mẫu sử dụng trong
giám định pháp y tâm thần, Rối loạn cảm xúc lưỡng cực nằm là một trong 21 bệnh tâm
thần, rối loạn tâm thần thường gặp được quy định trong thông tư và mức độ “hiện tại
thuyên giảm” như trường hợp của ông P khi kết luận về khả năng nhận thức và điều khiển
hành vi thuộc nhóm Hạn chế khả năng nhận thức và/hoặc khả năng điều khiển hành vi.
Như vậy ta thấy ông P do mắc bệnh mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi
nhưng vẫn chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự (đã lý giải ở câu 2). Điều này có
nghĩa là trường hợp của ông P thỏa mãn các điều kiện được quy định tại khoản 1 điều 23
để Tòa án có thể tuyên bố một người là có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
Cho nên ta kết luận Tòa án tuyên bố ông P là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi là hoàn toàn đúng đắn.
Câu 7: Việc Tòa án để bà T là người giám hộ cho ông P có thuyết phục không? Vì sao?
Việc Tòa án không để bà H là người giám hộ cho ông P là thuyết phục, vì:
Khoản 4 điều 54 có quy định “người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi do Tòa án chỉ định trong những người giám hộ quy định tại Điều 53 của
9


Bộ luật này. Trường hợp không có người giám hộ theo quy định trên, Tòa án chỉ định
người giám hộ hoặc đề nghị một pháp nhân thực hiện việc giám hộ.”
Những người giám hộ quy định tại Điều 53 bao gồm: Vợ/chồng, con, cha, mẹ. Tính đến
thời điểm Tòa án ra quyết định bà H vẫn còn là vợ của P, như vậy theo nguyên tắc bà H
sẽ được chỉ định là người giám hộ cho ông P. Tuy nhiên bà H yêu cầu tuyên bố ông P có

khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi với mục đích yêu cầu là để giải quyết vụ án ly
hôn giữa bà H và ông P. Như vậy đến lúc Tòa án tuyên bố ông P là người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi thì khả năng rất cao là thủ tục ly hôn sẽ được tiến hành,
điều này có nghĩa là quan hệ vợ chồng giữa bà H và ông P chấm dứt, bà H không còn là
vợ ông P, hiển nhiên bà H sẽ không còn thuộc những người giám hộ được quy định tại
điều 53. Và xét trên khía cạnh tình cảm, nguyện vọng, bà H muốn ly hôn, tức muốn chấm
dứt quan hệ tình cảm với ông P cho nên bà H sẽ không thể là người giám hộ cho ông P.
Kết luận, việc Tòa án không để bà H là người giám hộ cho ông P là thuyết phục.
Câu 8: Việc Tòa án để bà T là người giám hộ cho ông P có thuyết phục không? Vì sao?
Khoản 4 điều 54 có quy định “người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi do Tòa án chỉ định trong những người giám hộ quy định tại Điều 53 của
Bộ luật này. Trường hợp không có người giám hộ theo quy định trên, Tòa án chỉ định
người giám hộ hoặc đề nghị một pháp nhân thực hiện việc giám hộ.”
Những người giám hộ quy định tại Điều 53 bao gồm: Vợ/chồng, con, cha, mẹ. Ông P có
vợ là bà H, nhưng xét trên hoàn cảnh thực tế bà H không thể là người giám hộ cho ông P.
Trong quyết định không đề cập đến con của ông P ta mặc nhiên xem như ông P không có
con. Ta xét đến cha mẹ của ông P. Ông P có cha là ông Lê Văn H nhưng ông H đã chết,
còn mẹ ông bà Lê Thị H thì đã bỏ nhà đi hơn 20 năm không rõ ở đâu, làm gì, còn sống
hay đã chết. Như vậy ông P không có người giám hộ theo khoản 1 điều 53.
Theo khoản 4 điều 54 thì trường hợp như ông P Tòa án sẽ chỉ định người giám hộ hoặc
đề nghị một pháp nhân thực hiện việc giám hộ. Với tinh thần nhân đạo, tuy không quy
định rõ trong luật, nhưng hầu hết các trường hợp chỉ định người giám hộ Tòa án sẽ chỉ
định người có quan hệ gần gũi với người được giám hộ. Bà Huỳnh Thị T tuy không phải
là mẹ ông P nhưng là người nuôi dưỡng ông P từ nhỏ đến tuổi trưởng thành và hiện tại
ông P cũng đang chung sống với bà T. Dựa trên mối quan hệ này bà T thích hợp làm
người giám hộ cho ông P. Bà T đồng ý làm người giám hộ và ông P cũng có nguyện vọng
bà T làm giám hộ. Cho nên Tòa chỉ định bà T là người giám hộ là hợp tình, hợp lý.

10



Câu 9: Với vai trò của người giám hộ, bà T được đại diện ông P trong những giao dịch
nào? Vì sao?
Khoản 2 Điều 57 BLDS 2015 quy định: “Người giám hộ của người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi có nghĩa vụ theo quyết định của Tòa án trong số các nghĩa vụ
quy định tại khoản 1 Điều này.”
Theo quyết định của Tòa án thì “quyền và nghĩa vụ của người giám hộ được thực hiện
theo quy định tại Điều 57 và Điều 58 của Bộ luật Dân sự năm 2015”. Vì Tòa án không
chỉ rõ người giám hộ có nghĩa vụ nào trong số các nghĩa vụ quy định tại khoản 1 Điều 57
cho nên ta mặc nhiên hiểu là bà T phải thực hiện tất cả các nghĩa vụ tại khoản 1 Điều 57
bao gồm:
-

Chăm sóc, bảo đảm việc điều trị bệnh cho người được giám hộ
Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự
Quản lý tài sản của người được giám hộ

Và căn cứ theo điều 58 BLDS 2015 bà T có các quyền sau:
-

Sử dụng tài sản của người được giám hộ để chăm sóc, chi dùng cho những nhu cầu
thiết yếu của người được giám hộ
Được thanh toán các chi phí hợp lý cho việc quản lý tài sản của người được giám
hộ
Đại diện cho người được giám hộ trong việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự và
thực hiện các quyền khác nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được
giám hộ.

Như vậy, dựa trên các quyền và nghĩa vụ của bà T, ta xác định bà T được thay mặt
trong các giao dịch sau:

-

Giao dịch khám chữa bệnh
Các giao dịch liên quan đến tài sản của ông P
Giao dịch dân sự

11


Bài tập 2: Tư cách pháp nhân và hệ quả pháp lý
Câu 1: Những điều kiện để tổ chức được thừa nhận là một pháp nhân (nêu rõ từng điều
kiện)
Thứ nhất: Được thành lập theo quy định của Bộ luật Dân sự và luật khác có liên
quan( điểm a khoản 1 Điều 14/ BLDS 2015)
Quy định này cho thấy sự ra đời của pháp nhân là rất quan trọng. Pháp nhân phải
được thành lập theo đúng thủ tục, trình tự chung do BLDS quy định và các quy định của
luật liên quan cho loại pháp nhân tương ứng, tất cả nhằm đảm bảo sự ra đời và tồn tại của
pháp nhân không đi ngược lại với lợi ích nhà nước và lợi ích chung của toàn xã hội.
=>Ý nghĩa: thừa nhận sự ra đời và khai sinh pháp nhân; tạo cơ sở pháp lý để các
cơ quan Nhà nước kiểm tra, giám sát việc thành lập các tổ chức; cơ sở pháp lý để tòa án
và các cơ quan tài phán xem tính hợp pháp của các pháp nhân và giải quyết các tranh
chấp liên quan đến sự thành lập và tồn tại của pháp nhân.
Thứ 2: có cơ cấu tổ chức theo quy định của BLDS
Cơ sở pháp lý: theo điểm b, khoản 1, Điều 74/ BLDS 2015, pháp nhân phải “ có
cơ cấu tổ chức theo quy định tại điều 83 của Bộ luật này”.
Pháp nhân phải có cơ quan điều hành: bởi lẽ pháp nhân không phải là một cá nhân
riêng biệt mà đây là một tập thể, tổ chức, bao gồm nhiều người cùng hoạt động vì mục
đích nhất định. Để cho việc hoạt động của pháp nhân được trôi chảy, nhất quán thì cần
phải có cơ quan điều hành, đó là “ bộ phận đầu não” , là “trung tâm chỉ huy” để điều phối
các hoạt động của từng cá nhân cũng như sự phối hợp giữa các bộ phận khác nhau trong

tổ chức. Tuy nhiên, tùy theo từng loại pháp nhân khác nhau mà có cơ quan điều hành
tương ứng.
Pháp nhân có thể có những cơ quan khác theo quyết định của pháp nhân hoặc theo
quy định của pháp luật.
=>Ý nghĩa: tạo tiền đề thực tế giúp tổ chức thực hiện hiệu quả chức năng, nhiệm
vụ; đảm bảo sự tồn tại ổn định của tổ chức; hoạt động độc lập, không lệ thuộc về mặt tổ
chức đối với thành viên và cơ quan sáng lập pháp nhân.
Thứ ba: Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm
bằng tài sản của mình
Cở sở pháp lý: điểm c, khoản 1, điều 74, BLDS 2015

12


Có tài sản độc lập là tiền quan trọng để pháp nhân tồn tại. Tài sản độc lập của
pháp nhân không chỉ bao gồm các tài sản riêng của pháp nhân mà còn bao gồm các loại
tài sản khác được Nhà nước tạm giao hoặc hỗ trợ để thực hiện các chức năng phi lợi
nhuận. Pháp nhân có tài sản độc lập, nghĩa là sản nghiệp của pháp nhân phải hoàn toàn
biệt lập, tách biệt với tài sản riêng của từng thành viên hoặc tài san của cơ quan sáng lập
ra pháp nhân.
Ngoài tiền đề vật chất là có tài sản độc lập, thì pháp nhân còn phải có khả năng tự
chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình. Trách nhiệm của pháp nhân bao gồm:
+ Trách nhiệm dân sự: là sự cưỡng chế nhà nước nhằm buộc pháp nhân phải tiếp
tục thực hiện nghĩa vụ tài sản hoặc phải bồi thường thiệt hại cho các nhân, tổ chức bằng
tài sản của pháp nhân.
+ Trách nhiệm hữu hạn: Về nguyên tắc, các pháp nhân tư pháp chỉ có trách nhiệm
trước cá nhân, tổ chức bằng tài sản hiện có của pháp nhân và chỉ giới hạn trong số lượng
tài sản đó mà thôi.
Có thể nói, giữa “ tài sản độc lập” với khả năng chịu “trách nhiệm tài sản một cách
độc lập” là hai yếu tố có liêm quan với nhau. Trách nhiệm tài sản độc lập là “ một hệ quả

logic của việc pháp nhân có tài sản riêng” và “ sự tách bạch một cách tuyệt đối về tài sản
của pháp nhân với các chủ thể sáng lập ra pháp nhân là cơ sở vật chất để pháp nhân
hưởng chế độ trách nhiệm hữu hạn”.
Việc quy định điều kiện “ trách nhiệm độc lập” của pháp nhân giúp phân biệt rạch
ròi về mặt trách nhiệm tài sản giữa pháp nhân với thành viên hoặc người sáng lập pháp
nhân; giới hạn mức độ chịu trách nhiệm của pháp nhân và hạn chế các rủi ro tài chính đối
với thành viên và người sáng lập; giúp các đối tác khi giao dịch với pháp nhân có thể dự
liệu được các rủi ro về khả năng tài chính và nawmg lực tự chịu trách nhiệm độc lập bằng
tài sản của pháp nhân để đảm bảo tối đa quyền lợi của mình.
Thứ tư: Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập
Khi tham gia và các quan hệ pháp luật, pháp nhân có tư cách chủ thể độc lập với
thành viên và cơ quan sáng lập pháp nhân. Tư cách chủ thể độc lập của pháp nhân thê
hiện ở các mặt:
+Bằng các điều kiện và khả năng tài sản của mình, với tư cách pháp lý của mình
để thực hiện các quyền và nghĩa vụ cũng như gánh chịu trách nhiệm dân sự phát sinh từ
đó
+Pháp nhân phải sử dụng tên gọi của chính mình, lấy danh nghĩa pháp lý của mình
khi tham gia quan hệ pháp luật dân sự.
13


+Việc xác lập, thực hiện các giao dịch phải được tiến hành thông qua hành vi của
người đại diện hợp pháp của pháp nhân.
+Danh nghĩa của pháp nhân còn được thể hiện trong các giấy tờ giao dịch, quảng
cáo, hợp đồng được kí kết,… của pháp nhân.
=>Ý nghĩa: Bảo đảm cho pháp nhân có tư cách pháp lý độc lập để hoạt độngcũng
như đảm bảo tính bình đẳng đối với pháp nhân khác; bảo vệ quyền lợi của pháp nhân và
của xã hội, nâng cao trách nhiệm của pháp nhân;cá biệt hóa trách nhiệm của pháp nhân,

Câu 2: Trong bản án 1117, theo Bộ tài nguyên và môi trường, Cơ quan đại diện của Bộ

tài nguyên và môi trường có tư cách pháp nhân không? Đoạn nào của bản án có câu trả
lời
Theo Bộ tài nguyên và môi trường Cơ quan đại diện của Bộ tài nguyên và môi trường
không có tư cách pháp nhân.
Dựa vào đoạn trong bản án: “Như vậy Cơ quan đại diện Bộ Tài nguyên và Môi trường
thành phố Hồ Chí Minh là đơn vị trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan đại
diện hạch toán báo sổ khi thực hiện dự toán, quyết toán phải theo phân cấp của Bộ, phụ
thuộc theo sự phân bổ ngân sách nhà nước và phân cấp của Bộ Tài nguyên và Môi trường
chứ không phải là một cơ quan hạch toán độc lập. Mặc dù trong quyết định 1367 nói trên
có nội dung “Cơ quan đại diện có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng”
nhưng là Cơ quan đại diện Bộ phải hạch toán báo sổ nên cơ quan này có tư cách pháp
nhân nhưng là tư cách pháp nhân không đầy đủ”
Câu 3: Trong bản án 1117, vì sao Tòa án xác định Cơ quan đại diện của Bộ tài nguyên
và môi trường không có tư cách pháp nhân?
Trong bản án số 1117, toà án xác định cơ quan đại diện của Bộ tài nguyên và môi trường
không có tư cách pháp nhân vì theo quy định tại Khoản 2 và 4 Điều 92 Bộ luật dân sự
2005:
"2. Văn phòng đại diện và đơn vị phụ thuộc của pháp nhân, có nhiệm vụ đại diện theo uỷ
quyền cho lợi ích của pháp nhân và được thực hiện nhiệm vụ bảo vệ các lợi ích đó.
4. Văn phòng đại diện, chi nhánh không phải là pháp nhân. Người đứng đầu văn phòng
đại diện, chi nhánh thực hiện nhiệm vụ theo uỷ quyền của pháp nhân trong phạm vi và
thời hạn được uỷ quyền".

14


Nên toà án xác định cơ quan đại diện của Bộ tài nguyên và môi trường không có tư cách
pháp nhân.

15



Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án.
Thứ nhất, tôi không hoàn toàn đồng ý của phiên tòa sơ thẩm vì đã đình chỉ xét xử yêu cầu
của ông Hùng đòi hủy văn bản số 187/CQĐDPN-HCQT ngày 8/9/2011 của cơ quan đại
diện Bộ Tài nguyên và Môi trường. Vì đây là phần lỗi của ông Hùng khi đã không hoàn
thành tốt trách nhiệm công việc bảo vệ của mình như đã kí trong hợp đồng lao động với
cơ quan đại diện Bộ Tài nguyên và Môi trường nên điều ông Hùng phải bồi thường cho
người bị mất cắp theo văn bản trên là điều hiển nhiên.
Thứ hai, tôi đồng ý về việc bị đơn phải là Bộ Tài nguyên và Môi trường tp.HCM vì Cơ
quan đại diện Bộ phải hạch toán báo cáo sổ nên chỉ có tư cách pháp nhân không đầy đủ.
Tôi cũng đồng ý về việc chấm dứt hợp đồng lao động giữa ông Hùng và Cơ quan đại diện
Bộ vì ông Hùng đã không hoàn thành trách nhiệm của mình và điều mà Bộ Tài nguyên và
Môi trường phải đền bù cho ông Hùng là chính xác vì đã đơn phương chấm dứt hợp đồng
lao động trái luật.
Câu 5: Pháp nhân và cá nhân có gì khác nhâu về năng lực pháp luật dân sự? Nêu cơ sở
khi trả lời (nhất là trên cơ sở BLDS năm 2005 và BLDS năm 2015)
Năng lực pháp luật dân sự là khả năng của các cá nhân hay tổ chức do pháp luật quy
định, bằng các hành vi của chính mình thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý và tự chịu
trách nhiệm về những hành vi ấy.
* Quy định về năng lực pháp luật dân sự của cá nhân và pháp nhân trong BLDS 2005 cà
BLDS 2015:
BLDS năm 2005
Điều 14. Năng lực pháp luật
dân sự của cá nhân

BLDS năm 2015
Điều 16. Năng lực pháp luật dân sự của cá
nhân


1. Năng lực pháp luật dân sự

1. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là

của cá nhân là khả năng
của cá nhân có quyền dân
sự và nghĩa vụ dân sự.

khả năng của cá nhân có quyền dân sự và
nghĩa vụ dân sự.

2. Mọi cá nhân đều có năng

lực pháp luật dân sự như
nhau.

2. Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật

dân sự như nhau.
3. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có

từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi

16


3. Năng lực pháp luật dân sự

người đó chết.


của cá nhân có từ khi
người đó sinh ra và chấm
dứt khi người đó chết.
Điều 86. Năng lực pháp luật
dân sự của pháp nhân
1. Năng lực pháp luật dân sự

Điều 86. Năng lực pháp luật dân sự của pháp
nhân (bổ sung)
1. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân

của pháp nhân là khả năng
là khả năng của pháp nhân có các quyền,
của pháp nhân có các
nghĩa vụ dân sự.
quyền, nghĩa vụ dân sự
Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân
phù hợp với mục đích hoạt
không bị hạn chế, trừ trường hợp Bộ luật này,
động của mình.
luật khác có liên quan quy định khác.
2. Năng lực pháp luật dân sự
2. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát
của pháp nhân phát sinh từ
sinh từ thời điểm được cơ quan nhà nước có
thời điểm pháp nhân được
thẩm quyền thành lập hoặc cho phép thành
thành lập và chấm dứt từ
lập, nếu pháp nhân phải đăng kí hoạt động thì
thời điểm chấm dứt pháp

năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân
nhân.
phát sinh từ thời điểm ghi vào sổ đăng kí.
3. Người đại diện theo pháp
3. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân
luật hoặc người đại diện
chấm dứt kể từ thời điểm chấm dứt pháp nhân.
theo ủy quyền của pháp
nhân nhân danh pháp nhân
trong quan hệ dân sự.

*So sánh năng lực pháp luật dân sự của cá nhân và pháp nhân theo quy định của BLDS
2015:
CÁ NHÂN
Giốn
g

PHÁP NHÂN

Đều là khả năng của cá nhân hay pháp nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự.

17


Khác



Phát sinh: từ
thời điểm

người đó sinh
ra.



Chấm dứt: khi
người đó chết.



Phát sinh: từ thời điểm được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền thành lập hoặc cho phép
thành lập; nếu pháp nhân phải đăng kí hoạt
động thì NLPLDS của pháp nhân phát sinh
từ thời điểm ghi vào sổ đăng kí.



Chấm dứt: kể từ thời điểm chấm dứt pháp
nhân.

Câu 6: Giao dịch do người đại diện của pháp nhân xác lập nhân danh pháp nhân có
ràng buộc pháp nhân không? Nêu cơ cở pháp lý khi trả lời.
Giao dịch dân sự do người đại diện của pháp nhân xác lập nhân danh pháp nhân có ràng
buộc pháp nhân .
Cơ sở pháp lý: Khoản 1, điều 87 BLDS 2015 quy định: “Pháp nhân phải chịu trách
nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại diện xác lập , thực
hiên nhân danh pháp nhân.”
Câu 7: Trong tình huống trên, hợp đồng ký kết với Công ty Nam Hà trong tình huống
trên có ràng buộc Công ty Bắc Sơn không? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Hợp đồng ký kết với Công ty Nam Hà trong tình huống trên có ràng buộc Công ty Bắc
Sơn. Vì:
Theo quy chế của Công ty Bắc Sơn thì quy định Chi nhánh Công ty Bắc Sơn tại Thành
phố Hồ Chí Minh là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân là trái với khoản 1 Điều 84
BLDS 2015. Theo đó, Chi nhánh Công ty Bắc Sơn tại thành phố Hồ Chí Minh không có
tư cách pháp nhân mà chỉ được người đứng đầu chi nhánh thực hiện nhiệm vụ theo ủy
quyền của pháp nhân (tức là Công ty Bắc Sơn) trong phạm vi và thời gian được ủy
quyền. Các giao dịch do chi nhánh của Công ty Bắc Sơn tại thành phố Hồ Chí Minh xác
lập nhân danh Công ty Bắc Sơn, trong phạm vi và thời hạn được ủy quyền thì đều làm
phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với Công ty Bắc Sơn. Xét trong truờng hợp trên, Chi
nhánh công ty Bắc Sơn đã kí kết hợp đồng với Công ty Nam Hà, vậy hợp đồng này sẽ
làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của Công ty Bắc Sơn chứ không phải Chi nhánh Công
ty Bắc Sơn.

18


Như vậy, hợp đồng kí kết với Công ty Nam Hà trong tình huống trên có ràng buộc với
công ty Bắc Sơn.
-Cơ sở pháp lí:
+ Khoản 1 Điều 84: “Chi nhánh, văn phòng đại diện là đơn vị phụ thuộc của pháp nhân,
không phải là pháp nhân.”
+ Khoản 2 Điều 84: “Chi nhánh có nhiệm vụ thực hiện toàn bộ hoặc một phần chức năng
của pháp nhân.”
+ Khoản 5 Điều 84: “Người đứng đầu chi nhánh, văn phòng đại diện thực hiện nhiệm vụ
theo ủy quyền của pháp nhân trong phạm vi và thời hạn được ủy quyền.”
+ Khoản 6 Điều 84: “ Pháp nhân có quyền, nghĩa vụ dân sự phát sinh từ giao dịch dân
sự do chi nhánh, văn phòng đại diện xác nhận, thực hiện.”
Bài tập 3: Trách nhiệm dân sự của pháp nhân
Câu 1: Trách nhiệm của pháp nhân đối với nghĩa vụ của các thành viên và trách nhiệm

của các thành viên đối với nghĩa vụ của pháp nhân.
Thành viên ở đây chia làm hai loại : Đại diện của pháp nhân và các thành viên khác của
pháp nhân. Theo điều 87 – BLDS 2015 : Trách nhiệm dân sự của pháp nhân
1. Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do
người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân.
Pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự về nghĩa vụ do sáng lập viên hoặc đại diện của sáng
lập viên xác lập, thực hiện để thành lập, đăng ký pháp nhân, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác hoặc luật có quy định khác.
=> Khi người đại diện theo pháp luật thực hiện các hành vi nhân danh pháp nhân thì hành
vi của người đó đã làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của pháp nhân, đồng thời cũng làm
phát sinh trách nhiệm dân sự của pháp nhân
2. Pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản của mình; không chịu trách nhiệm thay
cho người của pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do người của pháp nhân xác lập, thực
hiện không nhân danh pháp nhân, trừ trường hợp luật có quy định khác.
3. Người của pháp nhân không chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp nhân đối với nghĩa
vụ dân sự do pháp nhân xác lập, thực hiện, trừ trường hợp luật có quy định khác.
19


=> Trách nhiệm dân sự của pháp nhân được hiểu là trách nhiệm về tài sản của pháp nhân.
Bao hàm hai nội dung như sau: Thứ nhất, tài sản chịu trách nhiệm là tài sản độc lập của
pháp nhân. Đó là tất cả các loại tài sản mà pháp nhân sở hữu kể từ khi thành lập và trong
quá trình hoạt động của mình. Nội dung này thể hiện mối quan hệ giữa pháp nhân với
thành viên pháp nhân, theo đó, pháp nhân không chịu trách nhiệm thay cho thành viên
đối với nghĩa vụ dân sự do thành viên xác lập, thực hiện không nhân danh pháp nhân, còn
thành viên thì không chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự
do pháp nhân xác lập, thực hiện.
Câu 2: Trong Bản án được bình luận, bà Hiền có là thành viên của Công ty Xuyên Á
không? Vì sao?
Trong bản án được bình luận, bà Hiền là một thành viên của Công ty Xuyên Á

Căn cứ vào bản án, ta thấy:
Thứ nhất, bà Hiền được liệt kê ở hạng mục “ Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng”
của công ty Xuyên Á
Thứ hai, bà Hiền có tham gia góp vốn và công ty Xuyên Á với số vốn là 26,05 %
Thứ ba, bản án có nếu rõ “ thấy rằng, Công ty TNHH Xuất nhập khẩu thương mại Xuyên
Á là một pháp nhân, bà Hiền là thành viên của pháp nhân”
Những lẽ trên là đủ cơ sở để khẳng định bà Hiền là một thành viên của Công ty Xuyên Á.
Câu 3: Nghĩa vụ đối với Công ty Ngọc Bích là nghĩa vụ của Công ty Xuyên Á hay của bà
Hiền? Vì sao?
Nghĩa vụ đối với Công ty Ngọc Bích là nghĩa vụ của Công ty Xuyên Á vì nghĩa vụ đối
với Công ty Ngọc Bích theo khoản 3 Điều 87 BLDS 2015 quy định “Người của pháp
nhân không chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do pháp
nhân xác lập, thực hiện, trừ trường hợp luật có quy định khác”. Nhưng do Công ty Xuyên
Á đã giải thể trước khi hoàn thành nghĩa vụ thanh toán tiền cho Công ty Ngọc Bích nên
để đảm bảo lợi ích hợp pháp của Công ty Ngọc Bích, bà Hiền và các thành viên có góp
vốn vào công ty phải có trách nhiệm thanh toán tiền cho Công ty Ngọc Bích trong phạm
vi góp vốn của mình (Điều 47 Luật doanh nghiệp 2014).

20


Câu 5: Làm thế nào để bảo vệ quyền lợi của Công ty Ngọc Bích khi Công ty Xuyên Á đã
bị giải thể?
- Công ty Ngọc Bích nên làm đơn yêu cầu các cơ quan chức năng có thẩm quyền điều tra
rõ lí do giải thể, tài sản của công ty khi giải thể để từ đó mới có thể áp dụng được khoản 3
điều 96 BLDS 2015 “Khi pháp nhân chấm dứt tồn tại, tài sản của pháp nhân được giải
quyết theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan” và khoản
2 điều 87 BLDS 2015 “Pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản của mình” để từ
đó có thể yêu cầu xác đáng nhất số tiền để giành lại quyền lợi cho công ty Ngọc Bích
- Người đại diện pháp luật của công ty Ngọc Bích nên thu thập, tìm kiếm thông tin của

công ty Xuyên Á về việc giải thể để cụ thể dễ dàng bảo vệ quyền lợi của công ty mình
- Về vấn đề công ty Xuyên Á nói rằng công ty Ngọc Bích giao hàng không chuẩn xác và
làm công ty Xuyên Á chịu thua lỗ phải được công ty Xuyên Á giải quyết rõ ràng ngay từ
đầu với công ty Ngọc Bích chứ không thể cứ im lặng và mở nhiệm chi nhưng thực tế
chưa thấy tiền được chuyển vào tài khoản công ty Ngọc Bích được. Đây không thể là 1
trong 2 lí do để công ty Xuyên Á chỉ trả 1 nửa số tiền vốn và không trả tiền lãi.

21



×