Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA NHÀ SẢN XUẤT VỚI NGƯỜI TIÊU DÙNG – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP TẠI THÀNH PHỐ ĐỒNG HỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.24 MB, 89 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

HUỲNH THỊ THANH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA NHÀ SẢN XUẤT VỚI
NGƯỜI TIÊU DÙNG – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP TẠI THÀNH PHỐ
ĐỒNG HỚI

NGÀNH: Luật
NIÊN KHÓA: 2014 - 2018

Quảng Bình, năm 2018


ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA NHÀ SẢN XUẤT VỚI
NGƯỜI TIÊU DÙNG – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP TẠI THÀNH PHỐ
ĐỒNG HỚI

Ngành: Luật học
Niên khóa: 2014 -2018

SINH VIÊN THỰC HIỆN: HUỲNH THỊ THANH
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TH.S PHAN THỊ THU HIỀN

Quảng Bình, năm 2018




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các số liệu, dẫn chứng trong khóa luận có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên
cứu trình bày trong khóa luận là do tôi tự tìm hiểu, phân tích một cách trung thực,
khách quan và phù hợp với tình hình của địa điểm nghiên cứu, thành phố Đồng Hới,
tỉnh Quảng Bình.

Sinh viên
Huỳnh Thị Thanh


LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin trân trọng cảm ơn giảng viên hướng dẫn Thạc sĩ Phan Thị Thu
Hiền, các thầy cô trong khoa Lý luận chính trị, trường Đại học Quảng Bình đã tạo
mọi điều kiện tốt nhất để tác giả hoàn thành khóa luận.
Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ sự biết ơn chân thành tới các phòng ban trên
địa bàn thành phố Đồng Hới đã tạo điều kiện cho tác giả gặp gỡ, xin tài liệu, dẫn
chứng. Xin cảm ơn người tiêu dùng thành phố Đồng Hới đã tích cực hỗ trợ, giúp đỡ
tác giả trong quá trình khảo sát, lấy ý kiến và tìm kiếm thông tin phục vụ cho nghiên
cứu. Tác giả xin gửi lời cảm ơn tới những người đã đưa ra ý kiến, góp ý, thông tin
vô cùng quý giá để tác giả có thể hoàn thành khóa luận này.
Xin chân thành cảm ơn !

Sinh viên
Huỳnh Thị Thanh


THỐNG KÊ TRÍCH DẪN

STT

1

Tác giả tài liệu trích dẫn

Trang khóa

Tần suất trích

luận

dẫn

Cổng thông tin điện tử thành phố Đồng 28, 29

2

Hới (2018)
2

Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng

30

1

18, 19

2


31

1

Báo cáo kinh tế xã hội thành phố Đồng 31

1

Bình (2018)
3

Bản hướng dẫn thứ 5 về BVQLNTD
của Liên Hợp Quốc (1985)

4

Báo cáo tình hình kinh tế xã hội tỉnh
Quảng Bình 2011-2015

5

Hới (2017)
6

Từ điển Luật Học (2006)

14

1


7

Một số vấn đề chung về chế định

14, 15, 19, 21

6

TNSP và vai trò của chế định này dưới
góc độ bảo vệ người tiêu dùng (2004)


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .........................................................................................................
THỐNG KÊ TRÍCH DẪN ...........................................................................................
MỤC LỤC .................................................................................................................. 6
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ......................................................................... 9
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, ĐỒ THỊ ............................................................. 10
MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 11
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG CỦA NHÀ SẢN XUẤT VỚI NGƯỜI
TIÊU DÙNG............................................................................................................. 16
1.1. Một số khái niệm cơ bản ................................................................................... 16
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ................................................... 16
1.1.2. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của nhà sản xuất với
người tiêu dùng ......................................................................................................... 17
1.1.3. Khái niệm người tiêu dùng ............................................................................. 18
1.1.4. Khái niệm sản phẩm và sản phẩm khuyết tật ................................................. 18
1.2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng giữa nhà sản xuất với người tiêu

dùng .......................................................................................................................... 21
1.2.1. Bản chất chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của nhà sản xuất với người
tiêu dùng ................................................................................................................... 21
1.2.2. Đặc điểm của chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của nhà sản xuất với
người tiêu dùng ......................................................................................................... 21
1.2.3. Phân biệt trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng với các chế định bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng khác. ............................................................................... 23
1.2.4. Vai trò của trách nhiệm bồi thưởng thiệt hại ngoài hợp đồng với bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng và nền kinh tế ................................................................................. 25
1.3. Pháp luật Việt Nam hiện hành về chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của
nhà sản xuất với người tiêu dùng.............................................................................. 26
1.3.1. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ........................................... 26
1.3.2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của nhà sản
xuất đối với người tiêu dùng..................................................................................... 27
1.3.3. Chủ thể trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của nhà sản xuất đối với
người tiêu dùng ......................................................................................................... 29
1.3.4. Miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ................................. 30


1.3.5. Đánh giá ưu nhược điểm của pháp luật hiện hành về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại của nhà sản xuất với người tiêu dùng ................................................................. 31
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
NGOÀI HỢP ĐỒNG CỦA NHÀ SẢN XUẤT VỚI NGƯỜI TIÊU DÙNG TẠI THÀNH
PHỐ ĐỒNG HỚI, TỈNH QUẢNG BÌNH. ............................................................... 33
2.1. Khái quát chung về thành phố Đồng Hới .......................................................... 33
2.1.1. Vị trí địa lý ...................................................................................................... 33
2.1.2. Đơn vị hành chính .......................................................................................... 34
2.1.3. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội ............................................................... 35
2.2. Đặc điểm về thị trường tại thành phố Đồng Hới ............................................... 38
2.2.1. Đặc điểm về nhà sản xuất tại thị trường thành phố ........................................ 38

2.2.2. Đặc điểm về người tiêu dùng thành phố Đồng Hới........................................ 40
2.2.3. Đặc điểm sản phẩm lưu thông trên thị trường thành phố Đồng Hới .............. 43
2.3. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của nhà sản xuất với người tiêu
dùng tại thành phố Đồng Hới .................................................................................. 44
2.3.1. Thực trạng về sản phẩm lưu thông trên thị trường ......................................... 45
2.3.2. Tình hình thiệt hại của người tiêu dùng do sản phẩm gây ra ......................... 50
2.3.3. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhà sản xuất với người tiêu dùng khi có thiệt
hại xảy ra. ................................................................................................................. 52
2.3.4. Những vụ việc điển hình về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhà sản xuất với
người tiêu dùng tại thành phố Đồng Hới .................................................................. 53
2.4. Đánh giá thực trạng về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhà sản xuất với người
tiêu dùng trên địa bàn thành phố Đồng Hới. ............................................................ 56
2.4.1. Những điểm đã làm được ............................................................................... 56
2.4.2. Những tồn tại, hạn chế .................................................................................... 58
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
NGOÀI HỢP ĐỒNG CỦA NHÀ SẢN XUẤT VỚI NGƯỜI TIÊU DÙNG TẠI THÀNH
PHỐ ĐỒNG HỚI, TỈNH QUẢNG BÌNH ................................................................ 61
3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
của nhà sản xuất với người tiêu dùng (giải pháp mang tính chất lý luận)................ 61
3.1.1. Tiếp tục nghiên cứu lý luận các vấn đề liên quan tới chế định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng của nhà sản xuất với người tiêu dùng. ................. 61
3.1.2. Hoàn thiện cơ sở pháp lý về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của
nhà sản xuất với người tiêu dùng.............................................................................. 62
3.1.3. Xây dựng hoàn thiện hệ thống chính sách bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, trong
đó có quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhà sản xuất. .................... 64


3.2. Giải pháp mang tính thực tiễn trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, nâng cao
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của nhà sản xuất với người tiêu dùng tại
thành phố Đồng Hới, Quảng Bình. ........................................................................... 66

3.2.1. Nâng cao nhận thức của toàn xã hội về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng của nhà sản xuất và bảo vệ người tiêu dùng. ................................................... 66
3.2.2. Nâng cao năng lực bộ máy bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. ...................... 68
3.2.3. Nâng cao nhận thức và vai trò của chính người tiêu dùng trong trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của nhà sản xuất với người tiêu dùng. ........................................... 70
3.2.4. Nâng cao trách nhiệm của nhà sản xuất trong vấn đề bồi thường thiệt hại cho người
tiêu dùng. .................................................................................................................. 70
3.2.5. Nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng các
cấp. ............................................................................................................................ 72
3.2.6. Phát huy vai trò của các tổ chức, cá nhân trong xã hội để trong việc nâng cao trách
nhiệm bồi thường thiệt hại của nhà sản xuất vầ bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. 74
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 77
PHỤ LỤC 1 .............................................................................................................. 78
PHỤ LỤC 2 .............................................................................................................. 84


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BTTH

Bồi thường thiệt hại

BLDS

Bộ luật Dân sự

BVQLNTD

Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng


CLSPHH

Chất lượng sản phẩm hàng hóa

CPI

Chỉ số tiêu dùng

NTD

Người tiêu dùng


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, ĐỒ THỊ
BẢNG BIỂU
Bảng so sánh trách nhiệm BTTH theo hợp đồng và BTTH

BẢNG 1.1

ngoài hợp đồng
Các đơn vị hành chính trực thuộc thành phố Đồng Hới

BẢNG 2.1

ĐỒ THỊ
Biểu đồ 2.1

Biểu đồ thể hiện việc tìm hiểu thông tin sản phẩm

Biểu đồ 2.2


Biểu đồ thể hiện mức độ nhận biết khái niệm

Biểu đồ 2.3

Biểu đồ thể hiển hình thức tiếp cận khái niệm

Biểu đồ 2.4

Biểu đồ thể hiện các lĩnh vực NTD gặp phải sản phẩm khuyết tật

Biểu đồ 2.5

Biểu đồ thể hiện số lượng NTD gặp phải vấn đề về sản phẩm khuyết tật

Biểu đồ 2.6

Biểu đồ thể hiện cách thức giải quyết khi NTD gặp vấn đề cần yêu cầu
BTTH


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời gian qua, Việt Nam đang đẩy nhanh quá trình hội nhập và phát triển kinh
tế của mình. Cùng với quá trình hội nhập và toàn cầu hóa là sự mở cửa giao thương thị
trường sản phẩm hàng hóa quốc tế, Việt Nam đang dần trở thành một thị trường năng
động và thu hút lượng lớn hàng hóa cùng các nhà đầu tư nước ngoài, vị thế và vai trò của
Việt Nam trên ngày càng được khẳng định.
Những năm qua, Chính phủ đã có rất nhiều chính sách nhằm “kích cầu” tiêu dùng
trong nước, nâng cao nội lực của nền kinh tế tạo đà cho sự phát triển nhanh và bền vững.

Nhu cầu tiêu dùng của người dân ngày càng cao, kéo theo đó là lượng hàng hóa sản xuất
trong nước và nhập khẩu từ nước ngoài ngày càng lớn để đáp ứng nhu cầu này, vì vậy
bên cạnh việc tự do hóa thương mại, mở cửa cho sự lưu thông sản phẩm hàng hóa, nhà
nước phải có những cơ chế để kiểm soát nguồn gốc cũng như chất lượng sản phầm hàng
hóa (CLSPHH) lưu thông vào thị trường; đây là yêu cầu bức thiết, nhằm thực hiện chức
năng quản lý và điều tiết kinh tế của Nhà nước, cũng như bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng (BVQLNTD), bảo vệ nền sản xuất trong nước và lợi ích quốc gia. Vì chỉ khi các
quyền lợi cơ bản được đảm bảo, người tiêu dùng (NTD) mới an tâm tiêu dùng, thị trường
mới có thể phát triển.
Trong một quan hệ mua bán thực tế NTD (bên mua) luôn ở một vị thế thấp hơn nhà
sản xuất – kinh doanh (bên bán), dù cho NTD là người được quyền lựa chọn tiêu dùng.
Điều này ngày càng dễ nhận thấy trong nền kinh tế thị trường phát triển như hiện nay,
bên bán ngày càng tinh vi hơn trong việc sử dụng các “thủ thuật” nhằm thu lợi nhiều nhất
từ hoạt động kinh doanh, còn bên mua lại là đối tượng thường được biết đến với bốn
không: không rõ thông tin về sản phẩm; không rõ về quyền lợi của mình; không rõ về cơ
chế bảo vệ quyền lợi; không rõ về cơ chế kiểm soát. Và không chỉ trong giai đoạn diễn ra
quá trình mua bán, quyền lợi NTD cần phải được bảo vệ ngay cả khi đang và đã sử dụng
sản phẩm mua bán đó, thì mới đảm bảo một quá trình cung ứng lâu dài, đồng thời ràng
buộc các nhà sản xuất – kinh doanh. Vì vậy vấn đề đặt ra và cần giải quyết ngay là làm
sao để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho nhóm người yếu thế này?
Để giải quyết vấn đề đó Nhà nước – thiết chế được xây dựng để bảo vệ quyền và lợi
ích chính đáng của dân chúng phải có những quy định nhằm BVQLNTD và yêu cầu trách
nhiệm bồi thường thiệt hại (BTTH) của nhà sản xuất. Trong một quốc gia, cơ chế quản
lý có hiệu quả và đảm bảo tính khách quan nhất chính là hệ thống pháp luật trong nước,
các điều ước, hiệp định mà quốc gia đó tham gia. Đây là cơ chế mang tính đặc thù và


được xem là “có lợi” cho cả đôi bên trong quan hệ mua bán tiêu dùng. Hiểu được tầm
quan trọng cơ chế quản lý này, trong những năm qua Việt Nam đang dần hoàn thiện hệ
thống pháp luật về cơ chế kiểm soát CLSPHH, trách nhiệm BTTH của nhà sản xuất với

những thiệt hại do sản phẩm, hàng hóa của mình gây ra. Từ những năm đầu của sự
chuyển dịch kinh tế, Nhà nước ta đã đưa những quy định này vào các BLDS, đến nay là
BLDS 2015. Tuy nhiên với đặc tính là ngành luật chung, BLDS mới chỉ đưa ra những
quy định mang tính nguyên tắc, NTD cũng chưa có đủ cơ sở pháp lý để yêu cầu bổi
thường khi sử dụng sản phẩm có nguy hại. Vì vậy, để nâng cao hiệu lực điều chỉnh của
pháp luật với các quan hệ xã hội về CLSPHH, nhà nước đã ban hành Luật Tiêu chuẩn và
quy chuẩn kỹ thuật năm 2006 (có hiệu lực từ 01/1/2007) và Luật Chất lượng sản phẩm,
hàng hóa (CLSPHH) năm 2007 (có hiệu lực từ 1/8/2008) cùng với đó là Luật Cạnh tranh
(2004), Luật Dược (2005), Luật An toàn thực phẩm (năm 2010) Luật BVQLNTD
(2011)... Nhằm hoàn thiện quy định và chế tài về trách nhiệm dân sự vi phạm về
CLSPHH, trách nhiệm BTTH trong đó có BTTH ngoài hợp đồng giữa nhà sản xuất và
NTD.
Như vậy có thể thấy, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quy định trách nhiệm
BTTH do hàng hóa kém chất lượng gây ra cho NTD không ít, vấn đề chỉ còn ở chỗ các
địa phương, cơ quan có trách nhiệm bảo vệ NTD sẽ thực thi như thế nào mà thôi. Trên cơ
sở lý luận và thực tiễn đó, sau một thời gian tìm tiểu, tác giả thấy rằng vấn đề trách nhiệm
BTTH trong hợp đồng do hàng hóa kém chất lượng gây ra được quy định khá rõ ràng và
chi tiết, cũng với đó là sự thỏa thuận của hai bên để đảm bảo tối ưu quyền lợi hợp tác, thì
trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng lại là dấu bỏ ngỏ rất lớn, và tạo ra sự bất lợi lớn cho
NTD. Vì vậy tác giải lựa chọn đề tài khóa luận : “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
nhà sản xuất với người tiêu dùng – Thực trạng và giải pháp tại thành phố Đồng Hới”,
tập trung nghiên cứu trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng của nhà sản xuất với NTD tại
Đồng Hới, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao trách nhiệm nhà sản xuất và hoàn
thiện thể chế bảo vệ NTD.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua thị trường phát triển ngày càng phức tạp, quyền lợi NTD
thường xuyên bị xâm phạm, hệ thống pháp luật sau một thời gian thực thi đã bộc lộ
những bất cập. Vì vậy nhiều nhà nghiên cứu, các cơ quan truyền thông báo chí quan tâm
đã quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu về vấn đề BVQLNTD, trong đó có khía cạnh BTTH, có

rất nhiều đề tài, bài báo, tạp chí nghiên cứu đề cập tới vấn đề này.Trong số đó có các đề
tài:


1. Luận văn Thạc sĩ của tác giả Nguyễn Hoàng Thủy, tại trường Đại học Luật Hà
Nội, (2013). “Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, những vấn đề lý
luận và thực tiễn”.
2. Bài viết của tác giả Nguyễn Trọng Điệp “Trao đổi Bồi thường thiệt hại trong
pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”. Tạp chí Tạp chí Khoa học ĐHQGHN,
Luật học, Tập 29, Số 2 (2013) 44-49.
3. Khóa luận tốt nghiệp của Trần Khánh Kỷ, tại trường Đại học An Giang, (2013).
“Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng”.
4. Luận văn Thạc sĩ, Trần Thị Tuyết Minh, tại khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội,
(2014). “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho người
tiêu dùng theo pháp luật Việt Nam”.
5. Khóa luận tốt nghiệp, Néang Kim Chua, tại trường Đại học Cần Thơ, (2015).
“Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cho quyền lợi người tiêu dùng do hàng hóa kém
chất lượng gây ra.
6. Luận văn thạc sĩ, Nguyễn Minh Thư, tại trường Đại học luật Hà Nội, (2015).
“Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm có khuyết tật – Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn thực hiện pháp luật ở Việt Nam”.
Các công trình nghiên cứu trên đã xây dựng góc nhìn rất sâu sắc và đầy đủ về chế
định BTTH, trách nhiệm sản phẩm và BVQLNTD, đưa ra những nghiên cứu mới mẻ về
lý luận và pháp luật thực định, cũng như tình hình thực tế về thị trường, tiêu dùng và vấn
đề thực thi pháp luật liên quan tới vấn đề BTTH. Tuy nhiên các đề tài này chưa nghiên
cứu về trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng giữa chủ thể nhà sản xuất và NTD, vấn đề sản
phẩm khuyết tật có liên quan tới trách nhiệm này. Vì vậy tác giả tiến hành nghiên cứu về
trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng giữa hai chủ thể này để làm rõ hơn phần lý luận về
trách nhiệm BTTH, nghiên cứu tình hình áp dụng pháp luật thực định tại thành phố Đồng
Hới để đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật, bảo vệ quyền lợi

chính đáng của NTD.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ một số vấn đề lý luận về trách nhiệm
BTTH của nhà sản xuất, mà nhấn mạnh tới là vấn đề trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng;
thực tiễn pháp luật Việt Nam quy định như thế nào về vấn đề này và việc thực thi trong
thực tế vấn đề này như thế nào tại thành phố Đồng Hới; qua đó đề xuất những giải pháp
khắc phục góp phần nâng cao trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức về CLSPHH và
BVQLNTD tại thành phố Đồng Hới; góp phần thúc đầy nền kinh tế hàng hóa phát triển
nhanh, ổn định và bền vững.


Xuất phát từ mục đích nêu trên, đề tài có các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận của vấn đề về trách nhiệm BTTH của nhà sản xuất gây ra cho
NTD, đặc biệt là trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng.
- Phân tích, đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật về trách nhiệm BTTH
của nhà sản xuất gây ra cho NTD, đặc biệt là trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm trách nhiệm BTTH do hàng hóa có
khuyết tật gây ra cho NTD, đặc biệt là trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng .

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng của nhà sản xuất đối với NTD và việc thực tiễn thực hiện tại
thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.
b. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về vấn đề nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu về trách nhiệm BTTH
ngoài hợp đồng của nhà sản xuất với NTD
Phạm vi về không gian địa lý: Đề tài tập trung nghiên cứu thực tiễn tại thành phố
Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình

Phạm vi về thời gian nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu từ năm 2011, tới
tháng 4 năm 2018.

5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác –
LêNin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng trong thời kỳ đổi mới và hội nhập. Đề
tài cũng thừa kế kết quả nghiên cứu của các công trình, đề tài đã công bố trước đó về
trách nhiệm BTTH của nhà sản xuất với NTD. Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả
cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tính, tổng hợp, so sánh – đối
chiếu, lịch sử - logic, thống kê xã hội học... để giải quyết những nhiệm vụ đặt ra. Cụ thể:
Phương pháp phân tích: Phân tích các khái niệm; phân tích vai trò của trách nhiệm
BTTH để nói lên sự cần thiết phải điều chỉnh cũng như hoàn thiện pháp luật về trách
nhiệm dân sự nói chung cũng như pháp luật về BVQLNTD nói riêng.
Phương pháp tổng hợp: Đưa ra một cái nhìn tổng quan về hệ thống pháp luật trách
nhiệm BTTH ngoài hợp đồng của nhà sản xuất với NTD.
Phương pháp liệt kê: liệt kê hệ thống các văn bản có liên quan để tiện theo dõi và
làm căn cứ cho phần lý luận của mình.


Phương pháp điều tra, thống kê xã hội học: để tìm hiểu về thực tiễn vấn đề này đối
với NTD tại thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.

6. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục từ viết tắt, danh mục tài liệu tham khảo,
phụ lục, phần nội dung đề tài gồm 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng của nhà sản xuất với người tiêu dùng
Chương 2: Thực trạng vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của
nhà sản xuất với người tiêu dùng tại thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.
Chương 3: Giải pháp nâng cao trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của

nhà sản xuất với người tiêu dùng tại thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.


CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG CỦA NHÀ SẢN XUẤT VỚI NGƯỜI
TIÊU DÙNG
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Trách nhiệm BTTH là một thuật ngữ cơ bản của pháp luật dân sự, được sử dụng ở
nhiều ngành luật khác nhau. Cùng với sự chuyển dịch dần nền kinh tế sang hướng nền
kinh tế thị trường hiện đại, hệ thống pháp luật nước ta cũng đã quy định về BTTH trong
kinh doanh thương mại từ BLDS 1995 và hoàn thiện dần tới BLDS 2015 và các luật
chuyên ngành, quy định rõ hơn về các trường hợp BTTH. Tuy nhiên, hiện nay pháp luật
Việt Nam chưa có định nghĩa nhất quán về BTTH. Nhưng dù ở ngành luật nào BTTH
cũng là một chế định trách nhiệm pháp lý, được hiểu là trách nhiệm bồi thường hay đền
bù phải thực hiện khi chủ thể có hành vi gây ra thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần cho
chủ thể khác, việc bồi thường có thể phụ thuộc vào yếu tố lỗi hoặc không, tuy nhiên trách
nhiệm bồi thường này phải tuân theo một số nguyên tắc nhất định.
Trong khoa học pháp lý khi nói tới BTTH sẽ có hai loại trách nhiệm được đề cấp tới
là: BTTH theo hợp đồng và BTTH ngoài hợp đồng. Nếu BTTH theo hợp đồng là trách
nhiệm đã được hai bên giao kết thỏa thuận thực hiện nếu có thiệt hại xảy ra thì BTTH
ngoài hợp đồng là trách nhiệm không được thỏa thuận trước trong giao kết, cũng không
phụ thuộc vào ý chí thỏa thuận của các bên, đây được coi là trách nhiệm bắt buộc trong
một số trường hợp. Với những tính chất đặc thù của trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng
giữa nhà sản xuất và NTD, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu về trách nhiệm BTTH ngoài
hợp đồng giữa hai đối tượng này.
Bảng 1.1. Bảng so sánh trách nhiệm BTTH theo hợp đồng và BTTH ngoài hợp đồng
Trách nhiệm BTTH theo hợp
Trách nhiệm BTTH ngoài
Tiêu chí so sánh

đồng
hợp đồng
Dựa theo thỏa thuận trong hợp Dựa theo những quy định của
Cơ sở phát sinh
đồng giữa các bên.
pháp luật
Khi có một trong các bên vi phạm Phát sinh khi có đầy đủ các
Điều kiện phát
điều khoản thỏa thuận
điều kiện theo quy định của
sinh
pháp luật.
Các chủ thể là các bên tham gia Áp dụng cả với chủ thể cso
Chủ thể chịu
trực tiếp vào hợp đồng có hành vi hành vi vi phạm pháp luật và
trách nhiệm
vi phạm thỏa thuận.
chủ thể không vi phạm.
Mức BTTH
Áp dụng dựa vào thỏa thuận của Chịu trách nhiệm toàn bộ các


các bên trong hợp đồng

thiệt hại gây ra.
[Nguồn: tác giả]

1.1.2. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của
nhà sản xuất với người tiêu dùng
Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng trong sản xuất kinh doanh, pháp luật một số

nước gọi là trách nhiệm sản phẩm (product liability) được giải thích là trách nhiệm của
người sản xuất hoặc người bán hàng trong việc bồi thường cho các thiệt hại gây ra bởi
hàng hóa khuyết tật mà họ đã cung cấp cho NTD.
Theo tác giả có thể hiểu trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng giữa nhà sản xuất và
NTD là trách nhiệm bắt buộc, không phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các chủ thể, được
áp dụng khi nhà sản xuất cung cấp những sản phẩm gây ra thiệt hại cho NTD, buộc nhà
sản xuất phải khắc phục hậu quả bằng cách bù đắp, đền bù tổn thất về vật chất và tinh
thần cho NTD.
Là một loại trách nhiệm BTTH, tuy nhiên trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng được
phát triển sau khi chế định BTTH theo hợp đồng, thỏa thuận đã sử dụng trong thực tế khá
lâu. Xét về khía cạnh lịch sử, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng chế định này ra đời từ quá
trình suy vong của học thuyết về tính tất yếu của hợp đồng. Theo học thuyết về tính tất
yếu của hợp đồng, không thể trao quyền hay áp đặt nghĩa vụ theo hợp đồng cho bất kỳ
chủ thể nào, nếu chủ thể ấy không phải là một bên tham gia vào hợp đồng hay giao kết.
Tính tất yếu của hợp đồng đưa đến một cách hiểu là chỉ có các bên trong quan hệ hợp
đồng mới có thể kiện để yêu cầu thực thi quyền hay đòi BTTH cho mình.
Theo học thuyết tính này, trong quan hệ sản xuất – tiêu dùng khi một nhà sản xuất
bán sản phẩm được xem là có lỗi của mình cho người kinh doanh bán lẻ và người kinh
doanh bán lẻ đó lại bán sản phẩm cho NTD thì người sản xuất không phải chịu bất cứ
trách nhiệm gì. Như vậy, khi sản xuất ra sản phẩm và bán sản phẩm ra khỏi nhà máy, nhà
sản xuất đã chấm dứt mọi mối liên hệ với sản phẩm mình làm ra, điều này trở thành một
ưu thế không thể bỏ qua của nhà sản xuất sản phẩm. Trong thực tiễn áp dụng học thuyết
này đã bộc lộ nhiều bất cập và tranh chấp khó giải quyết, vì vậy chế định trách nhiệm
BTTH ngoài hợp đồng ra đời để giải quyết nhu cầu thực tiễn và bù đắp những thiếu hụt
được tạo ra do BTTH theo hợp đồng. Các nhà nghiên cứu bắt đầu nhận định rằng người
sản xuất sản phẩm có “nghĩa vụ” phải cẩn trọng một cách thích đáng trong quá trình sản
xuất sản phẩm hàng hóa, nhằm tránh các sản phẩm khuyết tật và đảm bảo chất lượng sản
phẩm tới tay NTD. Người sản xuất buộc phải chịu trách nhiệm trước bên thứ ba (NTD)
về sự lơ là của mình trong quá trình sản xuất, hoặc bán hàng hóa “có tiềm tàng khả năng
gây nguy hại” cho sự an toàn của con người, bao gồm tất cả các hàng hóa, sản phẩm.



Việc chịu trách nhiệm này phải phù hợp với thiệt hại xảy ra và đảm bảo quyền và lợi ích
của các bên, nhất là phía NTD.

1.1.3. Khái niệm người tiêu dùng
NTD có thể được xem là “người sử dụng cuối cùng”, bởi họ là điểm kết thúc cho
một quá trình từ sản xuất, lưu thông, tới sử dụng. Họ là những người sử dụng hàng hóa,
dịch vụ dưới dạng thành phẩm, tiến hành khai thác công năng sử dụng của các sản phẩm
đó. Vì vậy, NTD cũng chính là đối tượng mà các tổ chức kinh tế muốn hướng tới nhằm
thu lợi nhuận.
Trên thực tế có rất nhiều khái niệm về NTD, nhưng tất cả đều có điểm chung nhất
định, đều chỉ những người mua và tiến hành sử dụng hàng hóa dịch vụ. Luật bảo vệ NTD
Việt Nam 2010 đã đưa ra khái niệm “Người tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng hóa,
dịch vụ cho mục đích tiêu dùng sinh hoạt của cá nhân, gia đình và tổ chức”.
Có thể thấy, NTD có thể là người mua và sử dụng hàng hóa, dịch vụ, nhưng cũng có
thể chỉ là người mua, hoặc chỉ sử dụng hàng hóa dịch vụ. Nhưng mục đích của họ phải
nhằm thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng, sinh hoạt chứ không phải mục đích sản xuất, kinh
doanh hay trao đổi mua bán với mục đích lợi nhuận. Việc xác định rõ đối tượng nào là
NTD có vai trò rất quan trọng trong việc xác định quyền lợi cần được bảo vệ của họ,
trong đó có việc xác định chủ thể được nhà sản xuất bồi thường trong trường hợp cần
thiết.
Để xác định một chủ thể là NTD cần dựa vào ba điều kiện chính:
Thứ nhất, NTD là cá nhân.
Thứ hai, đối tượng để thực hiện mua bán là những hàng hóa dịch vụ được phép lưu
thông.
Thứ ba, thực hiện mua bán nhằm mục đích phục vụ nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng.

1.1.4. Khái niệm sản phẩm và sản phẩm khuyết tật
1.1.4.1. Sản phẩm

Sản phẩm là khái niệm thưởng được nhắc tới khi nói tới tới kinh doanh – thương
mại, cũng có rất nhiều khái niệm về sản phẩm được đưa ra. Tuy nhiên, theo tác giả khái
niệm sản phẩm có thể được hiểu theo cách đơn giản nhất, là kết quả cuối cùng của chu
trình sản xuất (từ việc tập hợp, đưa những nguyên liệu cơ bản nhất để chế tác, kết hợp và
biến đổi chúng để đưa ra kết quả).
Theo quy định pháp luật Việt Nam, “sản phẩm là kết quả của quá trình sản xuất
hoặc cung ứng dịch vụ nhằm mục đích kinh doanh hoặc tiêu dùng”.
Sản phẩm thường được chia thành hàng hóa và dịch vụ. Và như vậy, hàng hóa chỉ là
sản phẩm đã được đưa vào quá trình lưu thông, chứ không phải tất cả các sản phẩm được


tạo ra. Khái niệm sản phẩm được đưa vào nghiên cứu trong để tài này là sản phẩm đã
được đưa vào tiêu dùng, tức là trải qua đủ ba quá trình sản xuất – lưu thông – tiêu dùng,
bao gồm cả các sản phẩm dịch vụ.
1.1.4.2. Sản phẩm khuyết tật
Một sản phẩm chỉ được coi là đối tượng của chế định trách nhiệm BTTH ngoài hợp
đồng khi sản phẩm đó có khuyết tật. Tức là sản phẩm thiếu an toàn, có nguy cơ gây ra
những phương hại không đáng có vể vật chất, tinh thần, sức khỏe, tính mạng cho NTD.
Theo Từ điển Luật học thì sản phẩm có khuyết tật được hiểu là sản phẩm gây ra sự thiếu
an toàn (nguy hiểm) một cách bất hợp lý trong điều kiện sử dụng bình thường mà không
đáp ứng được yêu cầu mà một người sử dụng mong đợi, không phù hợp với những tiêu
chuẩn thiết kế ban đầu hoặc có lỗi kĩ thuật trong thiết kế, sản xuất sản phẩm.[6, 54]
Pháp luật về BVQLNTD Việt Nam cũng có quy định “Hàng hóa có khuyết tật là
hàng hóa không bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng, có khả năng gây thiệt hại cho tính
mạng, sức khỏe, tài sản của người tiêu dùng, kể cả trường hợp hàng hóa đó được sản xuất
theo đúng tiêu chuẩn hoặc quy chuẩn kỹ thuật hiện hành nhưng chưa phát hiện được
khuyết tật tại thời điểm hàng hóa được cung cấp cho người tiêu dùng”.
Quy định này đưa ra những trường hợp sản phẩm bị coi là có khuyết tật, gồm:
Thứ nhất, hàng hóa sản xuất hàng loạt có khuyết tật phát sinh từ thiết kế kỹ thuật
của nhà sản xuất. Sản phẩm được sản xuất đúng với thiết kế, song chính bản thân thiết kế

lại tiềm ẩn những nguy hiểm cho NTD theo cách thức sử dụng thông thường; điều này
xảy ra khi người tạo ra thiết kế không lường trước được những nguy hiểm phát sinh hoặc
không đáp ứng được các tiêu chuẩn, điều kiện an toàn thông thường.[7, 27]
Thứ hai, hàng hóa đơn lẻ có khuyết tật phát sinh từ quá trình sản xuất, chế biến, vận
chuyển, lưu giữ. Điều này phát sinh khi việc sản xuất, chế biến không tuân thủ các quy
chuẩn thiết kế đã được đề ra,như về nguyên liệu, quy trình, nhiệt độ,... hay không đảm
bảm bảo các quy chuẩn đã được đưa ra trong quá trình vận chuyển, lưu trữ từ nguyên liệu
tới thành phẩm.
Thứ ba, hàng hóa tiềm ẩn nguy cơ gây mất an toàn trong quá trình sử dụng nhưng
không có hướng dẫn, cảnh báo đầy đủ của nhà sản xuất cho NTD. Điều này thường xảy
ra trong quá trình lưu thông và tiêu dùng, khi người sản xuất, phân phối đã không thực
hiện các cách thức cần thiết để đưa ra những cảnh báo và hướng dẫn gửi tới NTD, làm
NTD không thể biết, không thể lường trước những nguy hiểm của sản phẩm. Nhưng
không phải sự thiếu cảnh báo nào cũng được xem là lỗi của nhà sản xuất, nếu trong
trường hợp nhà sản xuất đã thực hiện những cách thích hợp để cảnh báo NTD sử dụng
sản phẩm theo cách thông thường, nhưng NTD không sử dụng sản phẩm theo cách thông
thường thì nhà sản xuất sẽ không phải chịu trách nhiệm khi có thiệt hại xảy ra.


Tuy nhiên làm sao để nhận biết được sản phẩm khuyết tật ? Người ta thường dựa
vào các yếu tố cơ bản như: bản chất của sản phẩm, cách thức sử dụng sản phẩm một cách
thông thường, thời hạn lưu hành của sản phẩm. Trong một số trường hợp, người ta còn
đánh giá sự an toàn của một số sản phẩm thông qua sự tương xứng giữa giá cả và giá trị
thỏa mãn nhu cầu mà sản phẩm đó mang lại [7, 27]. Về mặt nguyên tắc, khi bỏ ra một số
tiền để sử dụng sản phẩm, NTD có quyền mong đợi những tính năng, chất lượng mà sản
phẩm đó mang lại tương xứng với giá trị mà mình bỏ ra. Nếu sự không tương xứng xuất
hiện, có thể xem đó là sự khuyết tật chất lượng theo thị trường.
Không phải trong trường hợp nào sản phẩm tồn tại sự thiếu an toàn (ẩn chứa nguy
hiểm) cũng là sản phẩm khuyết tật, bởi trong một số tình huống sự thiếu an toàn đó tồn
tại một cách hợp lý với quá trình sử dụng sản phẩm, gắn liền với bản chất, công năng, đặc

tính của sản phẩm. Trong một vài sản phẩm, những lợi ích và công năng sản phẩm mang
lại nhiều hơn cả sự thiếu an toàn; ví dụ như các loại axit, chính bản thân nó đã tiềm ẩn sự
thiếu an toàn, tuy nhiên công năng của nó lớn và sự thiếu an toàn đó được biết đến rộng
rãi, gắn liền với công năng sử dụng và có thể phòng tránh được. Như vậy, sản phẩm bị
xem là có khuyến tật khi nó ẩn chứa sự thiếu an toàn một cách bất hợp lý khi sử dụng
theo cách thông thường. Cách sử dụng thông thường được hiểu ở đây là sử dụng hợp lý,
đúng khuyến cáo của nhà sản xuất, đúng bản chất sản phẩm vốn có.
Một sản phẩm cũng không bị coi là thiếu an toàn nếu khả năng nhận biết về tính
không an toàn vượt quá mức độ mà sự phát triển khoa học, kỹ thuật tại thời điểm đó cho
phép nhận biết, việc thiếu an toàn trong trường hợp này vượt quá ngoài dự đoán một cách
khách quan và việc nhận biết nó tại thời điểm đó, thời điểm phát sinh thiệt hại khi sử
dụng là không thể đối với cả nhà sản xuất và cơ quan chức năng. Tính an toàn của một
sản phẩm cũng được chấp nhận khi nó đảm bảo các thông số được cơ quan có thẩm
quyền đưa ra, việc các thông số về độ an toàn và chất lượng sản phẩm được cơ quan công
quyền đưa ra, đây mức đánh giá đối với sản phẩm của nhà sản xuất phù hợp đối với
NTD. Tuy nhiên quy định này cũng đưa tới nhiều bất cập trong thực tiễn, vì tồn tại sự
chênh lệnh về thông số kỹ thuật chất lượng giữa các quốc gia, điều này vô hình chung tạo
ra sự bất bình đẳng giữa NTD các nước, nó cũng sẽ kéo theo tình trạng NTD của nước có
tiêu chuẩn kỹ thuật thấp hơn phải sử dụng hàng hóa kém chất lượng hơn. Một sản phẩm
có thể bị coi là thiếu an toàn, khuyết tậ ở quốc gia này, nhưng lại là sản phẩm được lưu
thông bình thường ở một quốc gia khác.


1.2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng giữa nhà sản xuất với người
tiêu dùng
1.2.1. Bản chất chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của nhà sản
xuất với người tiêu dùng
Về bản chất, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng là sự ràng buộc về mặt pháp luật
trách nhiệm của các nhà sản xuất với sản phẩm của mình, khi tiến hàng cung ứng sản
phẩm trên thị trường, trách nhiệm này được quy định chung, không phụ thuộc vào ý chí

chủ thể. Trách nhiệm đó thể hiện khi một sản phẩm được nhà sản xuất đưa ra thị trường,
sản phẩm đó đương nhiên phải được coi là an toàn với NTD sử dụng với cách thức thông
thường, không phụ thuộc vào việc người sản xuất có công bố là sản phẩm đó có an toàn
hay không. Với sự ràng buộc trách nhiệm này, để tránh những hậu quả pháp lý phải gánh
chịu khi mà sản phẩm có khuyết tật gây ra cho NTD, nhà sản xuất khi đưa sản phẩm ra
thị trường buộc phải nỗ lực để loại trừ khuyết tật của sản phẩm, từ đó đem lại NTD
những sản phẩm an toàn. Trong trường hợp sự an toàn không được đảm bảo và NTD phải
gánh chịu thiệt hại thì họ sẽ được bồi thường, do vậy lợi ích của NTD sẽ được đảm bảo ở
mức độ cao nhất. Với hệ thống quy định của pháp luật về trách nhiệm BTTH ngoài hợp
đồng, NTD đương nhiên được bảo vệ và không đòi hỏi phải có bất kỳ kỹ năng đàm phán,
thuyết phục nào, các nhà sản xuất cũng không thể dựa vào tiềm lực kinh tế pháp luật, các
mối quan hệ hay khả năng đàm pháp của mình để trốn tránh trách nhiệm này. Trách
nhiệm BTTH ngoài hợp đồng cũng tạo ưu thế tối đa cho NTD hay bất kỳ đối tượng nào
có liên quan, khi tiêu dùng phải sản phẩm khuyết tật gây phát sinh thiệt hại, đều có thể trở
thành nguyên đơn để đòi lại quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

1.2.2. Đặc điểm của chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của
nhà sản xuất với người tiêu dùng
Với các khái niệm và phân tích ở trên, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng có những
đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm dân sự đòi hỏi
nhà sản xuất phải bù đắp bằng cách thức phù hợp đối với thiệt hại khi sử dụng sản phẩm
mà các đối tượng tiêu dùng phải gánh chịu về mặt vật chất và tinh thần. Việc BTTH này
dựa trên những cơ sở nhất định, phù hợp làm phát sinh trách nhiệm theo quy định của
pháp luật.
Thứ hai, chủ thể của trách nhiệm là nhà sản xuất, một chủ thể tham gia vào quy
trình sản xuất, đưa sản phẩm hàng hoá đến tay NTD. Chủ thể này có thể có mối liên hệ
trực tiếp với NTD hoặc không (trong trường hợp có mối liên hệ trực tiếp khi nhà sản xuất



thực hiện luôn một chuỗi cung ứng). Và mối liên hệ trực tiếp đối với sản phẩm có thể là
một trong các hình thức sau: là người sản xuất ra sản phẩm (người sản xuất ra sản phẩm
bao gồm cả người sản xuất ra sản phẩm hoàn chỉnh hoặc là người sản xuất ra một phần,
một bộ phận trong sản phẩm hoàn chỉnh đó). Như vậy trong bất kỳ trường hợp nào, với
một sản phẩm xuất hiện trên thị trường nhà sản xuất theo cách này, hay cách khác luôn có
một phẩn trách nhiệm với sản phẩm. Nói cách khác, một sản phẩm lưu thông trên thị
trường luôn tồn tại chủ thể là nhà sản xuất chịu trách nhiệm về sản phẩm đó.
Thứ ba, cơ sở để xác định trách nhiệm phát sinh trên thực tế: là việc sản phẩm có
khuyết tật và khuyết tật đó gây ra thiệt hại cho NTD. Như những phân tích ở phần trước
đó, những sản phẩm khuyến tật, ẩn chứa sự mất an toàn cho NTD ở mức độ sử dụng
thông thường, hợp lý thì nhà sản xuất mới phải chịu trách nhiệm bồi thường. Tuy nhiên
thiệt hại được nhắc tới ở đây phải là thiệt hại thực tế, chứ không phải bất kỳ sự thiệt hại
ngầm định hay được đặt ra bởi bất kỳ giả thiết nào. Việc đảm bảo có thiệt hại thực tế là
để thể hiện sự minh bạch và cơ chế hợp lý cho việc xác định thiệt hại. Các thiệt hại giả
thiết hay ngầm định chỉ là phương pháp của nhà sản xuất nhằm dự phòng tổn hại do sản
phẩm gây ra nhằm đưa ra những cảnh báo tới NTD. Cũng giống các biện pháp bồi
thường khác, BTTH ngoài hợp đồng của nhà sản xuất với NTD chỉ được đặt ra khi có sản
phẩm khuyết tật, có thiệt hại thực tế xảy khi sử dụng sản phẩm đó, có lỗi của nhà sản xuất
và phải tồn tại mối quan hệ nhân quả giữa hai điều này. Tuy nhiên trong một số trường
hợp, yếu tố lỗi không được xem xét tới (trách nhiệm nghiêm ngặt), ở trường hợp này nhà
sản xuất hiển nhiên phải chịu trách nhiệm bồi thường dù có lỗi hay không.
Thứ tư, việc xác định trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng không có bất kỳ đòi hỏi
nào về việc giữa người NTD và nhà sản xuất phải tồn tại một quan hệ hợp đồng hay bất
cứ một mối liên hệ trực tiếp nào. Sợi dây ràng buộc họ chính là sản phẩm do một bên sản
xuất và bên kia tiêu dùng. Sở dĩ có đặc điểm này, vì phần lớn nhà sản xuất chỉ dừng lại ở
khâu sản xuất ra sản phẩm, việc phân phối sản phẩm tới tay NTD thường thông qua bên
bán, hay hệ thống phân phối, vì vậy việc liên hệ trực tiếp giữa NTD và nhà sản xuất trong
thực tế là khó xảy ra. Vì vậy phải quy định để tạo điều kiện tối đa cho NTD bảo vệ quyền
lợi của mình, ràng buộc chặt chẽ nhà sản xuất, để nhà sản xuất có trách nhiệm với sản
phẩm mà mình làm ra.

Chế định trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng của nhà sản xuất và NTD được phát
triển dựa trên ba chuẩn pháp lý cơ bản là học thuyết về sự bất cẩn (negligence), học
thuyết về sự vi phạm nghĩa vụ bảo đảm (warranty) và học thuyết về trách nhiệm nghiêm
ngặt (strict liability). Ba học thuyết này được xem là trụ đỡ cho sự phát triển của chế định
trách nhiệm BTTH, nó đảm bảo cho trách nhiệm này tồn tại và được thực thi. Ba học


thuyết này được đề cập tới trong khoa học pháp lý rất đầy đủ và là cơ sở cho các văn bản
pháp luật quy định về trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng.

1.2.3. Phân biệt trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng với các
chế định bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng khác.
Bản Hướng dẫn thứ năm về Bảo vệ người tiêu dùng của Liên Hợp Quốc được thông
qua năm 1985 đã quy định rõ “Các chính phủ phải xây dựng hoặc duy trì các biện pháp
pháp lý và/hoặc hành chính nhằm cho phép người tiêu dùng, hoặc trong trường hợp thích
hợp, các tổ chức liên quan được yêu cầu bồi thường, thông qua các thủ tục chính thức
hoặc không chính thức, một cách nhanh chóng, công bằng, ít tốn kém và dễ tiếp cận. Các
thủ tục này cần đặc biệt lưu ý đến các nhu cầu của những người tiêu dùng có thu nhập
thấp. Thông tin về các thủ tục giải quyết đền bù và tranh chấp khác cần phải tiếp cận
được với người tiêu dùng”. [3, 15]
Có thể thấy vấn đề BVQLNTD đã được đặt ra rất sớm, và thu hút được sự quan tâm
của các tổ chức quốc tế, các quốc gia. Trong nền kinh tế hội nhập sâu rộng như hiện nay,
NTD trở thành chủ thể quan trọng để duy trì và phát triển tính ổn định của thị trường sản
phẩm hàng hóa, góp phần giúp các quốc gia giữ được nội lực nền kinh tế. Về mặt lý luận
NTD trở thành đối tượng được quan tâm hơn cả, nhận được sự săn đón từ các nhà sản
xuất và phân phối, nhận được sự bảo vệ của hệ thống pháp luật quốc gia và thế giới. Tuy
nhiên trên thực tế, NTD lại trở thành đối tượng dễ bị xâm phạm quyền lợi, và thường bị
bỏ quên, vì vậy cần có cơ chế để đảm bảo thực thi các quyền này. Một trong những
nguyên tắc quan trọng của bảo vệ NTD là “nguyên tắc tự bảo vệ” của NTD, nhưng trong
bối cảnh nền kinh tế - xã hội phức tạp như hiện nay, nguyên tắc này bộc lộ rất nhiều hạn

chế. Trong mối quan hệ mua bán, cung cầu NTD là lực lượng đông đảo nhưng lại trở nên
yếu thế trước sức ép của thị trường, hệ thống thông tin tràn lan và các mánh khóe của bên
sản xuất, cung ứng. Nhà sản xuất, cung ứng ngày càng tinh vi trong việc sử dụng các
chiêu trò để qua mắt được NTD, sở dĩ NTD có tự bảo vệ mình tốt tới đâu, thì cách thức tự
bảo vệ cũng rất đơn giản và sơ sài, không thể phát hiện ra sự gian lận hay các lỗi tinh vi
của sản phẩm. Chính bởi lý do đó, Nhà nước phải ban hành những chế định pháp luật đặc
thù để BVQLNTD trước mối quan hệ được cho là bất bình đẳng này. Trong quá trình
phát triển, các chế định về NTD đang ngày càng được hoàn thiện và phát huy vai trò của
mình.
- Chế định về quyền của NTD: Khi vai trò của NTD được khẳng định, và sự bất bình
đẳng trong quan hệ trên thị trường bộc lộ ngày một rõ ràng, các nhà lập pháp nước ta đã
có những quy định về quyền NTD, hình thành từ những quy định riêng lẻ, pháp lệnh, và
các quy định của Liên hợp quốc về quyền của NTD, pháp luật Việt Nam đã thống nhất


quy định về quyền NTD trong luật BVQLNTD 2012. Hiện nay, 8 quyền của người tiêu
dùng đã được ghi nhận trong Hướng dẫn của Liên hợp quốc về bảo vệ người tiêu dùng
(năm 1985), theo đó người tiêu dùng có 8 quyền cơ bản là Quyền được thoả mãn những
nhu cầu cơ bản; Quyền được an toàn; Quyền được thông tin; Quyền được lựa chọn;
Quyền được lắng nghe; Quyền được khiếu nại và bồi thường; Quyền được giáo dục, đào
tạo về tiêu dùng; Quyền được có môi trường sống lành mạnh và bền vững. [3, 15], pháp
luật Việt Nam đã nội luật hóa các quy định này tại điều 8, Luật BVQLNTD. Các chế định
liên quan khác về NTD sẽ được hình thành trên cơ sở các quyền cơ bản này và nhằm mục
đích bảo vệ các quyền lợi này.
- Chế định về hành vi thương mại không lành mạnh: đây là chế định cơ bản trong hệ
thống pháp luật về thương mại – cạnh tranh, được hiểu cơ bản là hành vi mà người kinh
doanh thực hiện trên cơ sở lạm dụng vị thế của mình để hạn chế khả năng định đoạt một
cách hợp lý của NTD, từ đó thu lợi nhuận về mình. Nhận ra những hành vi gây bất lợi đó,
pháp luật về quyền lợi NTD đã đưa ra những cơ chế ngăn ngừa hoặc hỗ trợ NTD khôi
phục quyền lợi của mình khi bị tác động bởi các hành vi thương mại không lành mạnh.[7,

30]
- Chế định về hợp đồng tiêu dùng: không nằm ngoài các quy định chung về chế
định hợp đồng dân sự, tuy nhiên chịu chi phối bởi nhiều yếu tố, cũng như mối quan hệ
đặc thù kinh doanh – tiêu dùng, NTD nằm ở vị trí có thể bị hạn chế một số quyền tự do
cơ bản (tự do thỏa thuận, tự do định đoạt,…) Trong trường hợp đó pháp luât về
BVQLNTD sẽ đưa ra những quy định đảm bảo các nội dung trong hợp đồng giao kết vẫn
sẽ được giải thích theo hướng có lợi cho NTD, đảm bảo các lợi ích hợp lý của NTD.
- Chế định về bảo hành sản phẩm hàng hóa: chế định này quy định người sản xuất
và cung ứng, trong một thời gian nhất định kể từ khi bán sản phẩm, hàng hóa cho NTD
phải tiến hành đổi mới hoặc sửa chữa nếu sản phẩm hàng hóa đó không vận hành đúng
theo yêu cầu cần phải đáp ứng. Pháp luật BVQLNTD cũng sẽ đưa ra những ràng buộc để
hạn chế tới mức thấp nhất bên sản xuất cung ứng đưa ra các biện pháp nhằm lảng tránh
trách nhiệm bảo hành.[7, 31 ]
Các chế định pháp luật bảo vệ NTD trên đều BVQLNTD trong mối quan hệ trực
tiếp với người cung cấp hàng hoá, dịch vụ. Còn chế định trách nhiệm BTTH ngoài hợp
đồng lại không cần thiết có mối liên hệ trực tiếp đó. Theo đó trách nhiệm này quy định
NTD được bảo vệ không phụ thuộc vào việc họ có quan hệ hợp đồng với người cung cấp
sản phẩm đó hay không. Nếu một NTD bị thiệt hại bởi một khuyết tật trong sản phẩm và
có thể xác định được nhà sản xuất sản phẩm đó thì NTD sẽ có khả năng đòi bồi thường
cho thiệt hại mà mình phải gánh chịu. Nói cách khác, chế định trách nhiệm BTTH ngoài


hợp đồng bảo vệ NTD trong tất cả các trường hợp có tiêu dùng sản phẩm chỉ với điều
kiện sản phẩm đó có nguồn gốc xác định.[7, 31]

1.2.4. Vai trò của trách nhiệm bồi thưởng thiệt hại ngoài hợp đồng với
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và nền kinh tế
Qua quá trình phân tích ở trên, có thể vai trò quan trọng và cần thiết của trách
nhiệm BTTH ngoài hợp đồng đối với việc BVQLNTD.
Thứ nhất, chế định này đã mở rộng diện được bảo vệ quyền lợi của NTD, không chỉ

trong hợp đồng mà còn cả ngoài hợp đồng. Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng đã ràng
buộc nhà sản xuất phải có trách nhiệm tới cùng đối với sản phẩm, hàng hóa của mình dù
cho quá trình mua bán đã kết thúc.Việc mở rộng diện được bảo vệ, NTD sẽ an tâm hơn
trong quá trình tiêu dùng, đảm bảo tối đa các thiệt hại do sản phẩm khuyết tật gây ra sẽ
được bồi thường. Bảo vệ quyền lợi NTD là mục đích cao nhất của chế định trách nhiệm
BTTH ngoài hợp đồng.
Thứ hai, bảo vệ ở mức tối đa các quyền lợi của người tiêu dùng. Như đã phân tích
trước đó, mối quan hệ giữa NTD và nhà sản xuất luôn bất bình đẳng, các yếu tố bất lợi
luôn thiên về phía NTD, vì vậy trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng của nhà sản xuất sẽ
giúp hoàn thiện hơn việc bảo vệ quyền của NTD. NTD sẽ được bồi thường ở mức hợp lý,
tương xứng với các thiệt hại mà mình phải gánh chịu do sản phẩm có khuyết tật gây ra.
Đây là công cụ pháp lý mạnh mẽ để NTD có thể bảo vệ được các quyền và lợi ích hợp
pháp của mình, dựa vào đó để khởi kiện, khiếu nại khi bị thiệt hại. Với chế định trách
nhiệm này, quyền được an toàn của NTD duy trì ở vị trí tối thượng.
Thứ ba, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng cũng có tác động mạnh tới các nhà sản
xuất. Trước áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường, cũng như việc nâng cao
ý thức, đạo đức kinh doanh đã khiến nhiều nhà sản xuất tự đưa ra những cam kết của
mình trong việc BTTH cho NTD. Quy định về trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng (đặc
biệt là vấn đề trách nhiệm nghiêm ngặt – BTTH không phụ thuộc vài lỗi của nhà sản
xuất) đồng thời tác động đến quá trình cạnh tranh nâng cao chất lượng và an toàn sản
phẩm giữa các nhà sản xuất. Trong quá trình cạnh tranh đó, nhà sản xuất bán các sản
phẩm có khuyết tật hoặc kém chất lượng sẽ bị quy luật cạnh tranh loại bỏ khỏi thị trường;
các nhà sản xuất làm ăn chân chính, biết quan tâm đến lợi ích của người tiêu dùng sẽ
đứng vững và phát triển. Người hưởng lợi nhiều nhất từ quá trình này không ai khác,
chính là NTD.
Chế định này không chỉ giúp NTD đòi lại quyền lợi của mình khi bị thiệt hại, mà
còn có tác dụng răn đe các nhà sản xuất, nếu không muốn giảm uy tín và thương hiệu trên



×