Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Phát triển kinh tế tư nhân ở thành phố tam kỳ, tỉnh quảng nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.71 KB, 96 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần là một đường lối chiến lược
lâu dài của Đảng và Nhà nước nhằm phát huy mọi nguồn lực để phát triển
lực lượng sản xuất, đồng thời hoàn thiện cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Nghị quyết hội nghị
Trung ương lần thứ 5 (khoá IX) nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách,
khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân”, “các thành phần
kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và
cạnh tranh lành mạnh”. Nhờ có chính sách đúng đắn này mà khu vực kinh tế
tư nhân ở nước ta đã có những bước phát triển vượt bậc trong những năm
gần đây. Các doanh nghiệp ở khu vực kinh tế tư nhân ngày càng có vị trí hết
sức quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X của Đảng tiếp tục khẳng
định:
Phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản
xuất, kinh doanh. Các thành phần kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư
nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành
quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình
đẳng trước pháp luật, cùng tồn tại và phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh
lành mạnh [12, tr.27].
Phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa là một xu thế khách quan. Trong những năm qua, kinh tế tư
nhân đang phát triển mạnh, đóng góp ngày càng lớn vào sự nghiệp phát triển


2



kinh tế - xã hội của đất nước và đang ngày càng khẳng định vai trò động lực
của mình.
Tuy nhiên, sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân trong những
năm qua vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và thế mạnh, khả năng cạnh
tranh và hội nhập còn yếu kém. Hơn nữa, sự phát triển của kinh tế tư nhân có
những khiếm khuyết không nhỏ: Tự phát, quá coi trọng lợi ích cá nhân dẫn
đến những việc làm phi pháp như trốn lậu thuế, buôn bán hàng giả, hàng cấm
không những gây thiệt hại về kinh tế mà còn tác động tiêu cực tới môi trường
văn hoá - xã hội.
Nhìn nhận sự quan trọng của kinh tế tư nhân trong sự phát triển kinh
tế nói chung, trong phạm vi của địa phương, tôi chọn đề tài “Phát triển kinh
tế tư nhân thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam” làm đề tài nghiên cứu cho
luận văn của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Hệ thống hoá các vấn đề lý luận liên quan đến kinh tế tư nhân.
- Phân tích thực trạng phát triển kinh tế tư nhân thành phố Tam Kỳ,
tỉnh Quảng Nam.
- Đề xuất giải pháp để phát triển kinh tế tư nhân thành phố Tam Kỳ
trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: là các vấn đề lý luận, thực tiễn liên quan đến
việc phát triển kinh tế tư nhân tại thành phố Tam Kỳ.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về mặt nội dung: đề tài chỉ tập trung nghiên cứu một số nội dung
phát triển KTTN thành phố Tam Kỳ thông qua các loại hình doanh nghiệp
của tư nhân, như: doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần.


3


+ Về không gian: đề tài nghiên cứu tại thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng
Nam
+ Về thời gian: các giải pháp đề xuất trong luận văn có ý nghĩa trong
05 năm tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu trên, đề tài sử dụng các phương
pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp phân tích, so sánh
- Phương pháp phân tích thực chứng, phương pháp phân tích chuẩn
tắc...
5. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục đề tài
được chia làm 03 chương như sau :
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về phát triển kinh tế tư nhân.
Chương 2. Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn thành phố
Tam Kỳ.
Chương 3. Giải pháp để phát triển kinh tế tư nhân thành phố Tam Kỳ
thời gian tới.


4

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ TƯ NHÂN
1.1. TỔNG QUAN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN
1.1.1. Khái niệm về kinh tế tư nhân và phát triển kinh tế tư nhân
Trong kinh tế học hiện đại, một nền kinh tế thường được phân chia

thành các khu vực kinh tế khác nhau dựa trên quan hệ sở hữu là: khu vực
kinh tế nhà nước, khu vực kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế hỗn hợp. Trong
đó khu vực kinh tế tư nhân là khu vực mà ở đó các hoạt động sản xuất kinh
doanh được tiến hành dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và lao động,
gồm có các hình thức kinh tế tư nhân khác nhau tùy theo điều kiện và hoàn
cảnh của mỗi nền kinh tế.
Khu vực kinh tế tư nhân, hiểu theo nghĩa hẹp, chỉ bao gồm các hoạt
động kinh tế tư nhân trong nước; còn theo nghĩa rộng, bao gồm cả các doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI), vì các doanh nghiệp này
cũng dựa trên cơ sở sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
Việc hiểu kinh tế tư nhân theo nghĩa rộng sẽ là cơ sở để đánh giá hết
vai trò của khu vực kinh tế tư nhân đối với sự phát triển của nền kinh tế. Trên
thực tế ở Việt Nam, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài luôn
nhận được những chính sách và các điều kiện ưu đãi đầu tư kinh doanh khác
với các doanh nghiệp kinh tế tư nhân trong nước cũng như các hình thức kinh
tế tư nhân khác và đưa vào một khu vực riêng là khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài. Bởi vậy khi nói đến kinh tế tư nhân hay khu vực kinh tế tư nhân ở
nước ta thường được hiểu theo nghĩa hẹp là chỉ bao gồm các hình thức kinh
tế tư nhân thuộc sở hữu tư nhân trong nước.


5

Trong luận văn chỉ tập trung nghiên cứu khu vực kinh tế tư nhân dưới
hình thức biểu hiện là các loại hình doanh nghiệp của tư nhân gồm: doanh
nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần.
Phát triển kinh tế tư nhân là một quá trình lớn lên, tăng tiến mọi mặt
của các yếu tố, các bộ phận, các cơ sở, đặc biệt là các khu vực trong khu vực
kinh tế tư nhân. Chính sự phát triển của từng doanh nghiệp là yếu tố cơ bản
quyết định nhất trong việc thúc đẩy sự phát triển của cả khu vực kinh tế tư

nhân. Sự tăng trưởng của khu vực kinh tế tư nhân đồng thời có sự biến đổi
sâu sắc về mặt cơ cấu kinh tế, cơ cấu xã hội theo chiều hướng tiến bộ.
Trong thời đại phát triển kinh tế thị trường, mục tiêu cuối cùng của sản
xuất kinh doanh không chỉ đơn giản là sinh tồn mà tạo ra giá trị thặng dư.
Một mô hình kinh doanh mới ra đời được biểu hiện ở một cách thức tổ chức
sản xuất mới thông qua hình thức doanh nghiệp.
1.1.2. Các hình thức tổ chức của kinh tế tư nhân
Khi đề cập về kinh tế tư nhân, đại hội lần X của Đảng cộng sản Việt
Nam đã xác định, về thành phần: kinh tế tư nhân bao gồm kinh tế cá thể, tiểu
chủ, và tư bản tư nhân.
- Kinh tế cá thể được hiểu là thành tích kinh tế của một hộ gia đình
hay một cá nhân hoạt động dựa trên quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất và lao động của chính hộ hay cá nhân đó, không thuê mướn lao động
làm thuê.
- Kinh tế tiểu chủ là hình thức kinh tế do một chủ tổ chức, quản lý và
điều hành hoạt động trên cơ sở sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và sử dụng
lao động thuê mướn ngoài lao động của chủ; quy mô vốn đầu tư và lao động
nhỏ hơn các hình thức doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ
phần.
- Kinh tế tư bản tư nhân, về hình thức sản xuất, hình thức doanh


6

nghiệp, bao gồm các công ty TNHH, doanh nghiệp tư nhân và công ty cổ
phần được thành lập theo Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty.
Giới hạn vấn đề nghiên cứu, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu một số nội
dung cơ bản của phát triển kinh tế tư nhân tại thành phố Tam Kỳ thông qua
các loại hình doanh nghiệp của nó gồm:
Doanh nghiệp tư nhân: là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự

chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh
nghiệp. Chủ sở hữu duy nhất của một doanh nghiệp tư nhân là cá nhân.
Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân.
Chủ doanh nghiệp tư nhân là đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
Chủ doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quyết định đối với tất cả hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp; có toàn quyền quyết định việc sử dụng lợi
nhuận sau khi đã nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo quy
định của pháp luật. Chủ doanh nghiệp tư nhân có thể trực tiếp hoặc thuê
người khác quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh. Trường hợp thuê người
khác làm giám đốc quản lý doanh nghiệp, thì chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn
phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Do là chủ sở hữu duy nhất của doanh nghiệp nên doanh nghiệp tư nhân
hoàn toàn chủ động trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp. Chế độ trách nhiệm vô hạn của chủ doanh
nghiệp tư nhân tạo sự tin tưởng cho đối tác, khách hàng và giúp cho doanh
nghiệp ít chịu sự ràng buộc chặt chẽ bởi pháp luật như các loại hình doanh
nghiệp khác. Tuy nhiên, do không có tư cách pháp nhân nên mức độ rủi ro
của doanh nghiệp cao, chủ doanh nghiệp tư nhân phải chịu trách nhiệm bằng
toàn bộ tài sản của doanh nghiệp và của chủ doanh nghiệp chứ không giới
hạn số vốn mà chủ đầu tư đã đầu tư vào doanh nghiệp.
Như vậy, có thể thấy doanh nghiệp tư nhân sẽ là loại hình doanh


7

nghiệp ít được lựa chọn trong thời gian đến do những hạn chế và tính rủi ro
của nó không đáp ứng được xu hướng thay đổi của nền kinh tế trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
Công ty trách nhiệm hữu hạn: là doanh nghiệp trong đó thành viên
chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh

nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp. Thành viên
công ty có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng thành viên tối thiểu là 2 và tối đa
không vượt quá năm mươi người. công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách
pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Tuy
nhiên, công ty trách nhiệm hữu hạn không được quyền phát hành cổ phiếu để
huy động vốn.
Công ty trách nhiệm hữu hạn có từ hai thành viên trở lên phải có Hội
đồng thành viên, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc. Công ty trách
nhiệm hữu hạn có trên mười một thành viên phải có Ban kiểm soát.
Công ty trách nhiệm hữu hạn là loại hình doanh nghiệp phổ biến nhất ở
Việt Nam hiện nay. Hoạt động kinh doanh dưới hình thức công ty trách
nhiệm hữu hạn đem lại cho nhà đầu tư nhiều lợi thế như:
- Do có tư cách pháp nhân nên các thành viên công ty chỉ chiệu trách
nhiệm về các hoạt động của công ty trong phạm vi số vốn góp vào công ty
nên ít gây rủi ro cho người góp vốn.
- Số lượng thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn không nhiều và các
thành viên thường là người quen biết, tin cậy nhau, nên việc quản lý, điều
hành công ty không quá phức tạp.
- Chế độ chuyển nhượng vốn điều chỉnh chặt chẽ nên nhà đầu tư dễ
dàng kiểm soát được việc thay đổi các thành viên, hạn chế sự thâm nhập của
người lạ vào công ty. Tuy nhiên, hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn cũng
có những hạn chế nhất định như:


8

- Do chế độ trách nhiệm hữu hạn nên uy tín của công ty trước đối tác,
bạn hàng cũng phần nào bị ảnh hưởng.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn chịu sự điều chỉnh chặt chẽ của pháp
luật hơn là doanh nghiệp tư nhân hay công ty hợp danh.

- Việc huy động vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn bị hạn chế do
không có quyền phát hành cổ phiếu.
Công ty cổ phần: là doanh nghiệp, trong đó:
- Vốn điều lệ được chia làm nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần.
- Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của
doanh nghiệp trong số vốn đã góp vào doanh nghiệp.
- Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người
khác, trừ trường hợp cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết.
- Cổ đông có thể là tổ chức, các nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba
và không hạn chế số lượng tối đa.
Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh. Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán
ra công chúng theo quy định của pháp luật về chứng khoán.
Công ty cổ phần phải có Đại hội đồng cổ đông, Hội đông quản trị và
Giám đốc (Tổng giám đốc); đối với công ty cổ phần có trên mười một cổ
đông phải có Ban kiểm soát.
Do có những đặc thù như vậy công ty cổ phấn có những lợi thế nhất
định, đó là:
- Chế độ trách nhiệm của công ty cổ phần là trách nhiệm hữu hạn, các
cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty
trong phạm vi vốn góp nên múc độ rủi ro của các cổ đông không cao.
- Khả năng hoạt động của công ty cổ phần rất rộng, trong hầu hết các
lĩnh vực, ngành nghề.


9

- Cơ cấu vốn của công ty cổ phần hết sức linh hoạt, tạo điều kiện nhiều
người cùng góp vốn vào công ty. Khả năng huy động vốn của công ty phần
rất cao thông qua việc phát hành cổ phiếu ra công chúng, đây là đặc điểm

riêng của công ty cổ phần.
- Việc chuyển nhượng vốn trong công ty cổ phần là tương đối dễ dàng,
do phạm vi đối tượng được tham gia công ty cổ phần là rất rộng, ngay cả các
cán bộ công chức cũng có quyền mua cổ phiếu của công ty cổ phần.
Bên cạnh những lợi thế nêu trên, loại hình công ty cổ phần cũng có
những hạn chế nhất định như:
- Việc quản lý và điều hành công ty rất phức tạp do số lượng cổ đông
có thể rất lớn, có nhiều người không hề quen biết nhau và thậm chí có thể
phân hóa thành các nhóm cổ đông đối kháng nhau về lợi ích.
- Việc thành lập và quản lý công ty cổ phần cũng phức tạp hơn các loại
hình công ty khác do bị ràng buộc chặc chẽ bởi các quy định của pháp luật,
đặc biệt về chế độ tài chính, kế toán.
Như vậy, so với các loại hình doanh nghiệp khác, công ty cổ phần là
loại hinh doanh nghiệp có tính tổ chức và xã hội hóa cao cả về vốn cũng như
về hoạt động.
Việc lựa chọn hình thức doanh nghiệp trước khi bắt đầu kinh doanh là
rất quan trọng, nó ảnh hưởng không nhỏ đến sự tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp. Về cơ bản, những sự khác biệt tạo ra bởi loại hình doanh
nghiệp là: uy tín doanh nghiệp, khả năng huy động vốn, rủi ro đầu tư, tính
phức tạp của thủ tục và các chi phí thành lập doanh nghiệp, tổ chức quản lý
doanh nghiệp.
1.1.3.

Đặc điểm của kinh tế tư nhân
+ Kinh tế tư nhân gắn liền với lợi ích cá nhân, là một trong những động

lực thúc đẩy xã hội kinh tế phát triển.


10


+ Kinh tế tư nhân có tính tự phát cao, có tính hiệu quả và sức cạnh
tranh được đề cao, ít lãnh phí.
+ Có tính đa dạng vừa quy mô, khả năng lựa chọn quy mô phù hợp và
tổ chức sản xuất tối ưu.
+ Tự quyết định, tự chịu trách nhiệm về chiến lược, định hướng phát
triển sản xuất kinh doanh.
+ Phát triển kinh tế tư nhân chắc chắn sẽ dẫn đến sự phân hóa giàu
nghèo, ảnh hưởng đến vấn đề công bằng xã hôi.
1.1.4. Vai trò của kinh tế tư nhân
Đảng và Nhà nước thừa nhận kinh tế tư nhân là một bộ phận quan
trọng cấu thành nền kinh tế quốc dân, Kinh tế tư nhân đã phát triển nhanh cả
về số lượng lẫn chất lượng, có vai trò vị trí ngày càng tăng, góp phần quan
trọng vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế
và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Kinh tế tư nhân là "chỗ dựa thiết yếu”, "có vai trò quan trọng, là một
trong những động lực của nền kinh tế”.
- Có vai trò quan trọng trong quá trình tích lũy vốn và nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn của nền kinh tế. Kinh tế tư nhân huy động được nhiều nguồn
vốn trong xã hội để đầu tư kinh doanh, khai thác các tiềm lực của nền kinh tế,
từ đó góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Với lợi thế riêng
của mình là có tính nhạy cảm với thị trường và mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận,
kinh tế tư nhân luôn biết nắm bắt các cơ hội đầu tư, đóng góp tích cực vào
việc khai thác các năng lực sản xuất sẵn có và tiềm ẩn trong nền kinh tế.
Ngoài nguồn vốn tự có, kinh tế tư nhân còn linh hoạt trong huy động các
nguồn vốn khác trong và ngoài nước, làm phong phú thêm thị trường tài
chính và đầu tư của đất nước.


11


- Tạo nhiều việc làm mới, giảm bớt áp lực về thất nghiệp, đồng thời
góp phần đào tạo nguồn nhân lực. Hiện nay do tỷ lệ tăng dân số cao trong
những năm trước đây nên hằng năm nước ta có khoảng 1,4 triệu người gia
nhập vào lực lượng lao động. Vấn đề giải quyết việc làm cho những người
này là rất cấp thiết. Các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài hằng năm tạo ra một tỷ lệ việc làm mới không đáng kể, phần
lớn số lao động tham gia vào khu vực kinh tế tư nhân.
- Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Với việc nhiều doanh nghiệp
kinh tế tư nhân được thành lập tại các vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu,
vùng xa sẽ làm giảm tỷ trọng thu nhập của ngành nông nghiệp và tăng tỷ
trọng thu nhập của các ngành công nghiệp và dịch vụ. Điều này sẽ giúp cho
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở nông thôn theo hướng hiện
đại, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và
dịch vụ.
- Làm tăng hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Sự ra dời
và lớn mạnh của doanh nghiệp kinh tế tư nhân làm tăng tính cạnh tranh của
nền kinh tế. Với sự tồn tại của nhiều doanh nghiệp, trong đó có các doanh
nghiệp kinh tế tư nhân hoạt động trong cùng một ngành hay một lĩnh vực sẽ
làm giảm tính độc quyền của các doanh nghiệp nhà nước và buộc các doanh
nghiệp phải chấp nhận cạnh tranh, phải liên tục đổi mới để có thể tồn tại và
phát triển, từ đó làm tăng hiệu quả của nền kinh tế.
- Góp phần tăng cường kinh tế đối ngoại. Với sự năng động và linh
hoạt, kinh tế tư nhân có thể tạo ra những mối quan hệ trực tiếp hay gián tiếp,
nhằm thu hút các nguồn lực từ bên ngoài vào Việt Nam bằng nhiều cách như:
kêu gọi vốn đầu tư trực tiếp, liên doanh liên kết kinh tế, huy động lượng kiều
hối từ thân nhân ở nước ngoài, tiếp thu những kinh nghiệm tốt trong quản lý
của nước ngoài.



12

- Tạo ra nhiều sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ, tăng kim ngạch xuất
khẩu, tăng thu ngân sách nhà nước. Phát triển kinh tế tư nhân tạo ra nhiều sản
phẩm, hàng hóa và dịch vụ, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất
khẩu.
1.1.5. Lợi thế của kinh tế tư nhân
- Về quan hệ sỡ hữu: Chủ doanh nghiệp là người trực tiếp sở hữu vốn,
lợi ích gắn liền với sở hữu tư nhân là động lực mạnh mẽ thúc đẩy tư nhân
phát triển.
- Về quan hệ quản lý: Do sở hữu vốn gắn liền với quản lý nên mối
quan hệ giữa quyền hạn, trách nhiệm và nghĩa vụ - quyền lợi gắn chặt với
nhau. Do vậy, các cơ sở KTTN có tính chủ động cao, năng động ứng xử trước
thị trường. Bộ máy quản lý doanh nghiệp thường gọn nhẹ chứ không cồng
kềnh như doanh nghiệp Nhà Nước. Nhà Nước không cần đầu tư lớn và trực
tiếp cho khu vực này mà chỉ cần có chính sách, chiến lược đúng đắn để
khuyến khích và hỗ trợ.
- Hoạt động sản xuất kinh doanh: Mục tiêu hoạt động của KTTN là lợi
nhuận tối đa, ít bị các mục tiêu xã hội khác chi phối như đối với doanh
nghiệp nhà nước. Đây là cơ hội để DNTN tối ưu cục bộ hiệu quả kinh tế.
Về hình thức tổ chức kinh doanh rất đa dạng, linh hoạt nên tạo ra sự
năng động, giảm bớt rủi ro cho nền kinh tế do tính thay thế lẫn nhau.
1.1.6. Hạn chế của kinh tế tư nhân
Chúng ta không thể phủ định những mặt tích cực của kinh tế tư nhân
đối với sự phát triển nền kinh tế - xã hội của nước ta trong những năm qua.
Tuy nhiên kinh tế tư nhân cũng còn nhiều hạn chế và chứa đựng những
yếu tố bất lợi, như:


13


- Quá trình phát triển kinh tế tư nhân với bản chất vốn có chắc chắn sẽ
dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo, ảnh hưởng không tốt đến vấn đề công bằng
xã hội.
- Mục tiêu kinh doanh là lợi nhuận, luôn xuất phát từ những chi phí và
lợi ích cá nhân để quyết định vấn đề. Các cơ sơ sản xuất tư nhân sẵn sàng bỏ
qua yếu tố tác động xã hội (kể cả khi có hại) để mưu lợi cho cơ sở của mình.
- Tính tự phát trong sản xuất là đặc điểm về xu hướng phát triển của
kinh tế tư nhân.
- Do điểm xuất phát thấp cho nên qui mô vốn của các cơ sơ sản xuất tư
nhân thường rất ít, không đáp ứng nhu cầu sản xuất.
Vì vậy, cần phải đánh giá một cách khách quan, công bằng sự phát
triển của kinh tế tư nhân, chống khuynh hướng đề cao quá mức dẫn đến tuyệt
đối hoá vai trò của kinh tế tư nhân.
1.2. NỘI DUNG CỦA PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN
Phát triển kinh tế tư nhân là một quá trình lớn lên, tăng tiến mọi mặt
của các yếu tố, các bộ phận, các cơ sở, đặc biệt là các khu vực trong khu vực
kinh tế tư nhân. Chính sự phát triển của từng doanh nghiệp là yếu tố cơ bản
quyết định nhất trong việc thúc đẩy sự phát triển của cả khu vực kinh tế tư
nhân. Sự tăng trưởng của khu vực kinh tế tư nhân đồng thời có sự biến đổi
sâu sắc về mặt cơ cấu kinh tế, cơ cấu xã hội theo chiều hướng tiến bộ.
Phát triển kinh tế tư nhân gồm các nội dung sau:
1.2.1. Gia tăng số lượng các doanh nghiệp
Phát triển số lượng các doanh nghiệp tư nhân là số lượng các doanh
nghiệp của kinh tế tư nhân có sự tăng lên đáng kể, năm sau nhiều hơn năm
trước.
Đây là tiêu chí quan trọng để nghiên cứu đánh giá sự phát triển của
kinh tế tư nhân. Phát triển số lượng là tiêu chí quan trọng thể hiện rõ ràng



14

nhất sự lớn mạnh của khu vực kinh tế tư nhân. Phát triển kinh tế tư nhân
trước hết là sự gia tăng về số lượng doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư
nhân. Doanh nghiệp càng nhiều thì sản phẩm, sản phẩm hàng hoá càng nhiều.
Doanh nghiệp là một bộ phận cấu thành kinh tế tư nhân, vì vậy số
lượng doanh nghiệp càng nhiều chứng tỏ kinh tế tư nhân ngày càng phát
triển. Tuy nhiên, phát triển số lượng doanh nghiệp không chỉ là tăng số lượng
doanh nghiệp đăng ký kinh doanh mà phải được thể hiện bằng sự tăng lên về
số lượng doanh nghiệp hoạt động thực tế trên thị trường, có như vậy mới
đánh giá đúng thực tế phát triển số lượng doanh nghiệp.
Nhìn chung sự phát triển số luợng doanh nghiệp phải phù hợp với tình
hình và xu huớng phát triển kinh tế - xã hội của khu vực, phù hợp với cơ cấu
ngành nghề trong khu vực, cũng như phù hợp với trình độ phát triển khoa học
công nghệ của đất nuớc.
Để phản ánh sự phát triển số lượng doanh nghiệp kinh tế tư nhân, có
thể sử dụng 02 tiêu chí phản ánh sau đây:
- Sự gia tăng về số lượng các doanh nghiệp;
- Tốc độ tăng số lượng các doanh nghiệp.
Phát triển số luợng doanh nghiệp phải đuợc tiến hành cùng với việc
nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Bởi vì các doanh nghiệp
nâng cao được năng lực cạnh tranh mới đứng vững được trong điều kiện cạnh
tranh và hội nhập với các yếu tố môi trường thường xuyên biến động như
hiện nay. Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp khu vực KTTN ngày
càng đuợc nâng cao mới đánh giá thực chất sự phát triển đánh giá doanh
nghiệp khu vực KTTN của một khu vực, một quốc gia.
Sự phát triển về số lượng doanh nghiệp phải được kiểm chứng thông
qua cạnh tranh, uy tín thương hiệu, nói cách khác chỉ tăng thêm số lượng



15

những doanh nghiệp đứng vững và phát triển trong điều kiện cạnh tranh, hội
nhập mới đánh giá đúng thực chất sự phát triển của kinh tế tư nhân.
Để phát triển số lượng các đơn vị, doanh nghiệp kinh tế tư nhân bằng
cách tạo điều kiện để các doanh nghiệp ra đời và hoạt động. Đó chính là tạo
điều kiện về thủ tục hành chính, tạo điều kiện về tiếp cận nguồn vốn, đất đai,
cơ sở vật chất, thị trường để các doanh nghiệp ra đời và phát triển.
1.2.2. Mở rộng quy mô các nguồn lực
Mở rộng quy mô các yếu tố nguồn lực của doanh nghiệp có thể hiểu là
làm cho các yếu tố về đất đai, lao động, nguồn vốn, hệ thống cơ sở vật chất
của doanh nghiệp ngày càng tăng lên. Đất đai, lao động, nguồn vốn là những
yếu tố đầu vào cơ bản đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp tư
nhân.
Phải tăng quy mô các yếu tố nguồn lực của một doanh nghiệp bởi vì
các yếu tố nguồn lực là thành phần cấu thành của quá trình sản xuất. Sản xuất
không thể phát triển nếu các nguồn lực không được tăng cường.
Để đánh giá quy mô của doanh nghiệp, thường sử dụng các chỉ tiêu
như quy mô vốn, lao động, mặt bằng sản xuất...
- Vốn: Vốn là một nguồn lực quan trọng cho bất kỳ loại hình doanh
nghiệp nào, các doanh nghiệp tăng quy mô vốn bằng các hình thức: tự tích
luỹ, huy động từ các cổ đông; vay ngân hàng
- Lao động: đây là một trong những yếu tố quan trọng cho sự phát triển
của doanh nghiệp. Quy mô lực lượng lao động trong kinh tế tư nhân càng
đông thể hiện quy mô, số lượng của thành phần kinh tế này chiếm tỷ trọng
càng lớn trong nền kinh tế.
Để phản ánh sự phát triển về lao động của doanh nghiệp kinh tế tư
nhân, có thể dùng các tiêu chí sau:
+ Quy mô lao động và lao động bình quân trong mỗi doanh nghiệp;



16

+ Trình độ của người lao động;
+ Trình độ của chủ doanh nghiệp.
Khu vực kinh tế tư nhân đóng vai trò chủ đạo trong việc tạo ra công ăn
việc làm mới, thu hút đông đảo lực lượng lao động tham gia.
- Mặt bằng sản xuất kinh doanh: Đây là một trong những yếu tố cực kỳ
quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của tất cả các doanh nghiệp.
Mặt bằng sản xuất kinh doanh không chỉ là quy mô về diện tích mà là
các yếu tố sinh lợi như vị trí thuận lợi, kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, nhà
xưởng bố trí xây dựng hợp lý. Đảm bảo mặt bằng sản xuất kinh doanh thuận
tiện, hợp lý là thể hiện sự phát triển của doanh nghiệp đó. Thực tế cho thấy,
mặt bằng sản xuất kinh doanh thuận lợi cũng là một lợi thế so sánh, tạo ra thế
mạnh không nhỏ cho doanh nghiệp. Phát triển mặt bằng sản xuất kinh doanh
đối với doanh nghiệp không đơn thuần là mở rộng diện tích sản xuất kinh
doanh mà còn là xây dựng các mặt bằng sản xuất kinh doanh phù hợp hơn,
thuận tiện và hiệu quả hơn.
- Về công nghệ, máy móc thiết bị.
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh như hiện nay, công nghệ và
máy móc thiết bị là một trong những yếu tố quan trọng quyết định chất lượng
sản phẩm. Để nâng cao hiệu quả cạnh tranh, các doanh nghiệp phải thường
xuyên thay đổi công nghệ, máy móc thiết bị, các phương pháp, bí quyết sản
xuất và năng lực quản lý. Việc phát triển về công nghệ, máy móc thiết bị
không chỉ là đầu tư theo kiểu mở rộng tức là mua nhiều máy móc, thiết bị mà
cần quan tâm đến chiều sâu tức là phương pháp, bí quyết sản xuất, năng lực
quản lý.
Phát triển yếu tố này chính là giúp doanh nghiệp tăng năng suất lao
động, sản xuất ra sản phẩm có chất lượng phù hợp, đáp ứng dược nhu cầu và
thị hiếu của người tiêu dùng, đồng thời giảm chi phí sản xuất, nhờ đó tăng



17

năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Ngược lại, công nghệ lạc hậu và chậm
đổi mới làm hạn chế khả năng sản xuất, hạn chế năng suất và sản lượng, giảm
chất lượng sản phẩm, tăng chi phí sản xuất, ảnh hưởng tiêu cực đến môi
trường, hạn chế năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Như vậy, sự phát triển của công nghệ, máy móc thiết bị chính là biểu
hiện của khả năng nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
Tuy nhiên, việc mở rộng quy mô doanh nghiệp chưa thể hiện được hiệu
quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chẳng hạn sự tăng lên về vốn
đầu tư dài hạn của mỗi doanh nghiệp phần nào thể hiện sự phát triển của
doanh nghiệp, nhưng để đánh giá sự phát triển cần phải xem xét hiệu quả
mang lại sự gia tăng luợng vốn đầu tư đó.
1.2.3. Phát triển hình thức tổ chức sản xuất
Như đã nêu ở trên, kinh tế tư nhân tồn tại dưới ba hình thức: kinh tế cá
thể, kinh tế tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Sự phát triển của các hình thức
tổ chức sản xuất đó thể hiện sự phát triển của kinh tế tư nhân.
Đối với các loại hình doanh nghiệp gồm: doanh nghiệp tư nhân, công
ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần phát triển không chỉ ở quy mô, số
lượng mà còn thể hiện đối với từng ngành nghề. Sự phát triển của kinh tế tư
nhân còn thể hiện ở sự phát triển của từng loại hình doanh nghiệp. Từ sau khi
Luật Doanh nghiệp có hiệu lực, tạo môi trường để các loại hình doanh nghiệp
thuộc kinh tế tư nhân tăng nhanh hơn, thu hút nhiều nguồn đầu tư của xã hội,
giải quyết được nhiều việc làm cho lao động.
Sự phát triển của các hình thức tổ chức sản xuất phụ thuộc vào xu
hướng phát triển của kinh tế xã hội. Một doanh nghiệp khi mới thành lập cần
nghiên cứu và lựa chọn hình thức tổ chức sản xuất phù hợp nhất với điều kiện
hiện có của doanh nghiệp và phù hợp với xu hướng phát triển. Trong điều

kiện kinh tế thị trường, cạnh tranh khốc liệt cần nhiều vốn để trang bị máy


18

móc thiết bị, công nghệ, giảm chi phí đầu vào, hạ giá thành sản phẩm từ đó
nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường, đồng thời uy
tín của doanh nghiệp cần được giữ vững; với những điều kiện đó thì những
loại hình doanh nghiệp có khả năng chịu trách nhiệm cao, có khả năng huy
động được nhiều vốn và có uy tín ngày càng tăng.
1.2.4. Phát triển các hình thức liên kết sản xuất
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, sự cạnh tranh luôn
là yếu tố kích thích sự phát triển, nhưng cạnh tranh cũng làm cho các doanh
nghiệp yếu thế luôn luôn đứng bên bờ vực phá sản, chính vì vậy mà hiện nay
nhiều doanh nghiệp, ngay cả các tập đoàn kinh tế mạnh trên thế giới đang
từng bước xích lại gần nhau hơn qua hình thức liên kết, sát nhập để trở thành
tập đoàn kinh tế lớn với công nghệ và dây chuyền sản xuất khép kín. Theo
các chuyên gia thương mại, sự liên kết giữa các doanh nghiệp lại với nhau là
điều cần thiết trong điều kiện các doanh nghiệp còn yếu về tiềm lực tài chính
cũng như năng lực quản lý. Vì vậy, không còn cách nào khác là các doanh
nghiệp phải liên kết lại với nhau để nâng cao sức mạnh.
Thực tế thì trong thời gian qua, các doanh nghiệp khu vực kinh tế tư
nhân chưa quan tâm nhiều đến việc liên kết và họ quan niệm rằng việc liên
kết chỉ diễn ra giữa các doanh nghiệp lớn với nhau, hoặc các doanh nghiệp
vừa và nhỏ liên kết với nhau hay chí ít các doanh nghiệp lớn phải đóng vai
trò chủ chốt trong các mối liên kết giữa các doanh nghiệp. Nhưng các chuyên
gia kinh tế cho rằng, sự liên kết phải là sự bình đẳng và dựa trên nguyên tắc
tự nguyện mới có thể khai thác hết tiềm năng của mỗi doanh nghiệp, đối với
các doanh nghiệp lớn là khả năng về tài chính, công nghệ, quản lý, còn các
doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò là những vệ tinh chuyên gia công với

giá cả hợp lý. Hay nói cách khác, thế mạnh của tất cả các doanh nghiệp sẽ
được khai thác tốt. Hơn thế nữa, sự liên kết đa dạng giữa các doanh nghiệp


19

không phân biệt lớn nhỏ có thể đem đến sự hỗ trợ lẫn nhau giữa các doanh
nghiệp mạnh và yếu vì mục tiêu phát triển chứ không phải riêng cho doanh
nghiệp nào.
Có hai hình thức liên kết, đó là liên kết để tạo ra các yếu tố đầu vào,
bao gồm nguồn vốn, tạo và sử dụng nguyên liệu, tạo phụ tùng, thiết bị, máy
móc, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ lao động và liên kết ở khâu sản xuất, gồm có
liên kết ngang là liên kết giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất mặt hàng,
nhóm sản phẩm tương tự; liên kết dọc là liên kết giữa các doanh nghiệp sản
xuất bán thành phẩm cung cấp cho nhau để tiếp tục chế biến ra sản phẩm cuối
cùng; liên kết hỗn hợp là kết hợp giữa liên kết ngang và liên kết dọc giữa các
doanh nghiệp khai thác, chế biến tiêu thụ; liên kết để thúc đẩy ứng dụng khoa
học công nghệ.
Phát triển kinh tế tư nhân cũng chính là mở rộng mối quan hệ giữa các
doanh nghiệp thuộc các khu vực kinh tế khác. Liên kết doanh nghiệp mang
lại những lợi ích cơ bản sau:
- Tạo điều kiện để tiết kiệm về quy mô, chi phí.
- Giúp doanh nghiệp làm chủ tốt hơn tính phức tạp của thị trường
trong điều kiện toàn cầu hóa thương mại.
- Giúp doanh nghiệp phản ứng nhanh nhạy hơn với những thay đổi của
môi trường kinh doanh.
- Tạo điều kiện tăng khả năng linh hoạt của doanh nghiệp vì các doanh
nghiệp có thể giảm thiểu cơ cấu theo cấp bậc và như vậy, sẽ dễ dàng hơn
trong việc thay đổi, tập trung hơn cho một lĩnh vực có thế mạnh của doanh
nghiệp.

- Giúp doanh nghiệp tiếp cận nhanh chóng hơn với các công nghệ mới.
Các bên tham gia liên kết có thể chuyển giao công nghệ cho nhau, với những
chi phí hợp lý và thời gian nhanh chóng, do sự tin cậy lẫn nhau.


20

- Giúp giảm thiểu các rủi ro. Khi tham gia liên kết, rủi ro sẽ được phân
bổ cho các đối tác tham gia, chứ không phải chỉ tập trung vào một chủ thể,
khi đó khả năng vượt qua khó khăn sẽ cao hơn.
- Giúp doanh nghiệp dễ dàng chinh phục những thị trường do khả năng
tài chính, tận dụng lợi thế chi phí thấp.
- Tạo điều kiện giảm nhẹ cơ cấu bên trong doanh nghiệp, thông qua
việc chuyên môn hóa trong các công đoạn sản xuất của doanh nghiệp.
Phát triển kinh tế tư nhân cũng chính là mở rộng mối quan hệ giữa các
doanh nghiệp của khu vực kinh tế tư nhân, sự hợp tác giữa các doanh nghiệp
với các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế khác nhằm nâng cao chất lượng,
hiệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Việc phát triển các
hiệp hội giúp doanh nghiệp giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, các quyết
định cấm, dừng nhập khẩu của phía nhập khẩu, do doanh nghiệp thiếu cán bộ
thông thạo ngoại ngữ, am hiểu pháp luật thương mại quốc tế để kiểm soát các
giao dịch, tránh bị thua thiệt áp thuế chống phá giá, theo đuổi các vụ kiện…
Đặc biệt trong quá trình toàn cầu hóa kinh tế, các quy định pháp lý của WTO
lên đến hàng trăm ngàn trang với nội dung phức tạp thì việc các doanh
nghiệp đơn độc trong thương trường quốc tế là bất lợi lớn cần khắc phục.
1.2.5. Mở rộng thị trường
- Mở rộng thị trường khu vực kinh tế tư nhân: là làm cho các yếu tố thị
trường, thị phần, khách hàng của nó ngày càng tăng trưởng và phát triển.
Thị trường là một môi trường mà ở đó xảy ra cạnh tranh giữa các sản
phẩm “có thể thay thế cho nhau vì cùng mục đích sử sụng của người tiêu

dùng”. Một thị trường bao gồm hai yếu tố: thị trường sản phẩm và thị trường
địa lý. Mỗi thị trường lại bị chi phối bởi hai lực là cung và cầu. Hai lực này
phụ thuộc vào “khả năng thay thế cho nhau” trên quan điểm của người tiêu
dùng (cầu) và nhà sản xuất (cung).


21

Phát triển thị trường là từng doanh nghiệp phải tăng khả năng sản xuất
hàng hóa, dịch vụ, khả năng cung cấp sản phẩm cho thị trường, cho xã hội; là
sự hiểu biết vững chắc, rõ ràng về các loại thị trường trong và ngoài nước, về
cơ hội và thách thức tự hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, mở rộng thị
trường, có thêm thị trường mới để đạt được thị phần ngày càng lớn. Có như
vậy doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân mới tự khẳng định được,
mới có vai trò trong thị trường và xã hội.
- Thị phần doanh nghiệp bao gồm: thị phần hàng hóa, dịch vụ và cả thị
phần kết hợp. Trong nền kinh tế thị trường, điều mà người ta quan tâm nhất
chính là nhu cầu của khách hàng hay nói cách khác là đầu ra cho sản phẩm.
Trong xã hội văn minh hiện đại ngày nay, nhân tố kỹ thuật không còn đóng
vai trò quyết định quan trọng đối với sự tồn tại của một doanh nghiệp mà
nhân tố đó chính là nhu cầu của khách hàng. Doanh nghiệp nào thỏa mãn
được nhu cầu của khách hàng sẽ chiếm được thị phần lớn và đưa doanh
nghiệp phát triển. Muốn phát triển doanh nghiệp cần thiết phải đầu tư đúng
hướng và phù hợp với quy mô thị phần doanh nghiệp có trong tương lai.
Việc khu vực kinh tế tư nhân ngày càng chiếm lĩnh được thị phần lớn
trên thị trường hiện nay, mở rộng sang các thị trường khác đặc biệt là thị
trường xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ và biểu hiện của sự phát triển.
- Tăng số lượng khách hàng: khách hàng là những người tiêu thụ sản
phẩm hoặc dịch vụ của doanh nghiệp. Khách hàng có thể là người sử dụng
sản phẩm cũng có thể là người không sử dụng sản phẩm. Nguyên nhân là ở

mục đích mua hàng của khách hàng không giống nhau.
Khách hàng là một trong những yếu tố quan trọng mang tính quyết
định đối với sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp. Trong nền kinh tế
thị trường có sự điều tiết của Nhà Nước, các nhà doanh nghiệp phải tự chủ
trong sản xuất kinh doanh, tự chủ đi tìm nguồn hàng, khách hàng, thị


22

trường…, đồng thời phải tính toán xem nên sản xuất cái gì, sản xuất như thế
nào, sản xuất bán cho ai, bán hàng ở đâu để mang lại lợi nhuận cao nhất.
Thực tế cho thấy có rất nhiều doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả dần
dần khẳng định được chổ đứng của mình trên thị trường và phát triển sức
mạnh ra các thị trường, là do các doanh nghiệp thu hút được ngày càng nhiều
khách hàng, là do họ có chiến lược kinh doanh hợp lý. Bên cạnh đó có không
ít doanh nghiệp lâm vào tình trạng khó khăn dẫn đến phá sản mà nguyên
nhân chính là do không thu hút được khách hàng và tăng số lượng khách
hàng và dần dần đánh mất thị trường, thị phần. Vì vậy, mọi doanh nghiệp dù
lớn hay nhỏ, muốn tồn tại và phát triển vững mạnh cần phải làm tốt việc thu
hút khách hàng và chăm sóc khách hàng. Điều này đòi hỏi mỗi doanh nghiệp
phải xây dựng cho mình một chiến lược phát triển thị trường và khách hàng
hợp lý và kết quả cuối cùng là mang lại doanh thu lợi nhuận cao nhất cho các
doanh nghiệp.
Việc số lượng khách hàng ngày càng tăng lên là điều kiện để các doanh
nghiệp khu vực kinh tế tư nhân mở rộng thị tường tiêu thụ sản phẩm, tăng lợi
nhuận và khẳng định vị trí của mình trên thị tường trong nước cũng như nước
ngoài.
Thực tế hiện nay cho thấy nhiều doanh nghiệp đã thấy được vai trò đặc
biệt của khách hàng để từ đó ngoài việc cung cấp sản phẩm chất lượng cao,
giá cả hợp lý phù hợp với nhu cầu của khách hàng còn có những nỗ lực to lớn

trong quá trình tìm kiếm các chiến lược, giải pháp nhằm thu hút tối đa khách
hàng đến với doanh nghiệp.
1.2.6. Gia tăng kết quả sản xuất
Kết quả sản xuất của một doanh nghiệp nói riêng và của các doanh
nghiệp kinh tế tư nhân nói chung được biểu hiện ở tiêu chí sau:


23

- Giá trị sản lượng của doanh nghiệp: là năng lực sản xuất của doanh
nghiệp trong một thời gian nhất định, thường là 01 năm, được quy đổi thành
tiền.
- Doanh thu thuần: là tổng thu nhập của doanh nghiệp do tiêu thụ sản
phẩm, hàng hoá, cung cấp dịch vụ ra bên ngoài sau khi trừ các thuế.
Doanh thu thuần của doanh nghiệp tăng lên cho thấy phần nào sự tăng
trưởng của doanh nghiệp.
- Nộp Ngân sách Nhà nước: gồm toàn bộ các nguồn thu đã nộp ngân
sách Nhà nước từ các đơn vị sản xuất kinh doanh.
Thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước ngày càng tăng của các doanh
nghiệp thuộc khu vực KTTN cũng thể hiện sự phát triển của các doanh
nghiệp thuộc khu vực này, ngoài ra đó còn là nghĩa vụ của khu vực này đối
với nền kinh tế.
- Thu nhập bình quân của người lao động: là biểu hiện bằng tiền của
giá trị sức lao động mà người lao động đã bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh
doanh và được thanh toán theo kết quả cuối cùng. Tiền lương là thu nhập chủ
yếu của người lao động, vừa là một yếu tố chi phí cấu thành nên giá trị các
loại sản phẩm, lao động, dịch vụ. Do đó, thu nhập ngày càng tăng biểu hiện
cho sự phát triển của doanh nghiệp.
- Lợi nhuận của doanh nghiệp: là số chênh lệch giữa doanh thu với giá
trị vốn của hàng bán, chi phí lưu thông, chi phí quản lý.

Lợi nhuận là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh kết quả tài chính
cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Lợi nhuận là
nguồn vốn cơ bản để tái đầu tư trong phạm vi doanh nghiệp và trong nền kinh
tế quốc dân. Lợi nhuận là đòn bẩy tài chính hữu hiệu thúc đầy mọi hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.


24

1.3. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ
TƯ NHÂN
Khu vực kinh tế tư nhân chỉ có thể tồn tại và phát triển khi có môi
trường kinh doanh thích hợp. Môi trường kinh doanh của khu vực kinh tế tư
nhân ở nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chũ nghĩa. Một số
nhân tố của môi trường kinh doanh ảnh hưởng đến sự phát triển của từng
doanh nghiệp nói riêng và khu vực kinh tế tư nhân nói chung.
1.3.1. Nhân tố về thị trường và đối thủ cạnh tranh
- Về thị trường: Một trong những nhân tố quyết định việc các doanh
nghiệp tư nhân có đầu tư vào một thị trường, một lĩnh vực nào đó hay không
là khả năng tham gia thị trường, nhất là trong điều kiện đẩy mạnh hội nhập
kinh tế quốc tế. Khả năng này tạo thành từ những nhân tố không chỉ do nội
lực của bản thân doanh nghiệp mà chủ yếu phụ thuộc rất nhiều vào môi
trường thuận lợi từ phía Nhà nước, xã hội là sự phát triển đồng bộ các loại thị
trường như: thị trường hàng hóa và dịch vụ, thị trường lao động, thị trường
tài chính, thị trường khoa học công nghệ, thị trường bất động sản… Cùng với
việc thiết lập môi trường cạnh tranh lành mạnh, công khai, minh bạch cũng
như điều kiện, thủ tục thành lập doanh nghiệp, yếu tố tâm lý xã hội…
Đặc biệt, trong giai đoạn phát triển, các doanh nghiệp thuộc tư nhân rất
cần sự hỗ trợ của Nhà nước về mặt như vốn, công nghệ, đào tạo lao động, tìm
kiếm thị trường nhất là tìm một môi trường xã hội, ở đó có sự thừa nhận, tôn

vinh khu vực kinh tế tư nhân.
Một trong những yếu tố làm tăng chi phí đầu vào của doanh nghiệp đặc
biệt; là doanh nghiệp tư nhân là các doanh nghiệp ít có điều kiện tiếp cận vào
nguyên vật liệu đầu vào. Khi có các yếu tố đầu vào thuận lợi các doanh
nghiệp sẽ có nhiều cơ hội tăng cường đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh.


25

Với mục tiêu lợi nhuận, phát triển thị phần và đầu ra luôn là mục tiêu
của kinh tế tư nhân. Mặc dù đã có nhiều chuyển biến trong những năm gần
đây nhưng khả năng chiếm lĩnh thị trường trong và ngoài nước của các doanh
nghiệp tư nhân vẫn chưa thực sự vững chắc ảnh hưởng đến sự phát triển bền
vững của doanh nghiệp.
- Đối thủ cạnh tranh: Trong bất kỳ một lĩnh vực kinh doanh tự do nào
cũng xuất hiện đối thủ cạnh tranh. Với chủ trương của Nhà nước là bình đẳng
giữa các thành phần kinh tế, kinh tế tư nhân có điều kiện phát triển tốt, đóng
góp lớn cho nền kinh tế do đó kinh tế tư nhân là đối tượng quang trọng của
nền kinh tế. Các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác đưa ra các
chính sách ưu đãi nhằm lôi kéo khách hành tạo sức ép cạnh tranh gay gắt
giữa các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh mỗi doanh nghiệp của các thành phần
kinh tế phải tìm cách phát huy thế mạnh của mình, tìm hiểu kỹ các đối thủ
cạnh tranh để đưa ra chính sách sản xuất kinh doanh phù hợp. Các vấn đề
thường được đề cập trong cạnh tranh bao gồm các đối thủ cạnh tranh của các
doanh nghiệp là ai? Tiềm lực của họ như thế nào? Họ muốn gì? Họ có những
chính sách gì đối với khách hàng? Thời điểm mà các doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế đưa ra các chính sách để lôi kéo khách hàng của doanh
nghiệp mình là gì?
Để chủ động cạnh tranh các doanh nghiệp phải tổ chức thu thập thông

tin liên quan như báo cáo thường niên, tài liệu thông báo trên các phương tiện
thông tin đại chúng, thông qua hiệp hội doanh nghiệp kể cả việc thu thập
thông tin một cách không chính thức.
- Chiến lược sản xuất kinh doanh: Trong doanh nghiệp chiến lược sản
xuất kinh doanh có vai trò quan trọng để phát triển doanh nghiệp. Chiến lược
sản xuất kinh doanh là căn cứ quan trọng để triển khai hoạt động sản xuất


×