Tải bản đầy đủ (.doc) (121 trang)

Phát triển kinh tế tư nhân tỉnh quảng trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 121 trang )

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan tất cả các nội dung của luận văn này hoàn toàn được
hình thành và phát triển từ những quan điểm của cá nhân tôi, dưới sự hướng
dẫn khoa học của PGS.TS Bùi Quang Bình. Các số liệu và kết quả có được
trong luận văn này hoàn toàn trung thực.

Tác giả luận văn

Hoàng Lê Duy


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
NHẬN XÉT CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG TRỊ


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

DN

Doanh nghiệp

Cty

Công ty



UBND

Uỷ ban Nhân dân

CBCC

Cán bộ công chức

PCI

Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

DNTN

Doanh nghiệp tư nhân

KT

Kinh tế

KTTN

Kinh tế tư nhân

NLNTS


Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản

CN

Công nghiệp

XD

Xây dựng

TM-DV

Thương mại, dịch vụ

HĐND

Hội đồng Nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu bảng

Tên bảng

Trang

2.1


Tình hình giải quyết việc làm của kinh tế tư nhân

50

2.2

Số lượng doanh nghiệp phân theo quy mô lao động

57

2.3

Trình độ của chủ doanh nghiệp

60

2.4

Số lượng doanh nghiệp theo quy mô nguồn vốn

64

2.5

Vốn đầu tư của các doanh nghiệp thực hiện

65

2.6


Một số chỉ tiêu tài chính của các doanh nghiệp

77


DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ

Số hiệu

Tên hình vẽ

hình vẽ

Trang

2.1

Đóng góp của kinh tế tư nhân vào GDP của tỉnh

48

2.2

Tình hình thực hiện nghĩa vụ của các doanh nghiệp

49

2.3

Thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước


50

2.4

Số lượng doanh nghiệp theo loại hình doanh nghiệp

51

2.5

Số cơ sở cá thể tiểu chủ

52

2.6

Số lượng doanh nghiệp theo ngành kinh tế

53

2.7

Tỷ lệ lao động trong các doanh nghiệp thuộc kinh tế
tư nhân

55

2.8


Số lao động của kinh tế cá thể tiểu chủ

56

2.9

Tỷ lệ trình độ lao động của các doanh nghiệp

59

2.10

Tỷ lệ đóng góp thu nhập của lao động trong các
doanh nghiệp thuộc kinh tế tư nhân

61

2.11

Tổng nguồn vốn của các doanh nghiệp

63

2.12

Cơ cấu nguồn vốn của kinh tế cá thể tiểu chủ

66

2.13


Tài sản cố định còn lại theo loại hình doanh nghiệp

67

2.14

Tài sản cố định còn lại theo ngành kinh tế

69

2.15

Tài sản lưu động theo loại hình doanh nghiệp

71

2.16

Doanh thu theo loại hình doanh nghiệp

72

2.17

Doanh thu theo ngành kinh tế

73

2.18


Doanh thu của kinh tế cá thể tiểu chủ

74

2.19

Lợi nhuận trước thuế theo loại hình doanh nghiệp

75


1

MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Kinh tế tư nhân là một lực lượng kinh tế có từ lâu ở nước ta, nhưng
trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung thành phần này còn bị xem nhẹ,
thậm chí có những ý kiến đòi xoá bỏ hẳn thành phần kinh tế này. Thực hiện
đường lối "Đổi mới" của Đảng, lực lượng kinh tế tư nhân đã được khẳng định
về mặt chính trị và pháp lý. Về mặt chính trị, các Nghị quyết của Đảng đã coi
kinh tế tư nhân là một hướng phát triển chiến lược, là một bộ phận hợp thành
của nền kinh tế nhiều thành phần trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Về mặt pháp lý, vị thế và các chủ trương chính sách của Nhà
nước ta đối với kinh tế tư nhân được khẳng định trong Hiến pháp và các luật
có liên quan, các Nghị định của chính phủ. Xã hội đã có những nhìn nhận mới
cởi mở hơn đối với khu vực kinh tế này và bước đầu thừa nhận nó là một
trong những động lực thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Trong những năm gần đây, khu vực kinh tế tư nhân đã phát triển rất
nhanh cả về số lượng lẫn chất lượng, đã có những đóng góp to lớn vào tốc độ

tăng trưởng kinh tế, tạo ra nhiều công ăn việc làm, đóng góp ngày càng nhiều
cho ngân sách Nhà nước, thúc đẩy xuất khẩu.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, đặc biệt là trong giai đoạn
hiện nay khi xu hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ thì
khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam nói chung và ở Tỉnh Quảng Trị nói riêng,
còn yếu về nhiều mặt, đã và đang phải đứng trước nhiều khó khăn và thách
thức như yếu kém về môi trường kinh doanh, năng lực cạnh tranh, trình độ
công nghệ, trình độ quản lý, vốn ít và cả những vướng mắc về môi trường
pháp lý và môi trường tâm lý xã hội. Tất cả khó khăn vướng mắc trên cần
phải có những giải pháp đồng bộ để tháo gỡ, khai thác tối ưu tiềm năng nhằm


2

vượt qua những thách thức, chớp lấy những cơ hội phát triển mà quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế đem lại.
Xuất phát từ điều kiện tự nhiên, tình hình đóng góp của khu vực kinh tế
tư nhân vào phát triển kinh tế - xã hội Tỉnh Quảng Trị trong những năm qua,
việc phân tích thực trạng phát triển, từ đó đề xuất những quan điểm, giải pháp
để phát huy ưu điểm và khắc phục những mặt còn hạn chế của khu vực kinh
tế tư nhân có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Qua phân tích chúng ta sẽ đánh giá được kết quả phát triển của khu vực
kinh tế tư nhân theo xu hướng tốt hay xấu để từ đó đề xuất, kiến nghị hợp lý
cho việc phát triển của khu vực kinh tế tư nhân trong những năm tiếp theo.
Việc phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động của khu vực kinh tế tư
nhân sẽ giúp cho Lãnh đạo các cấp, các ngành và người đọc nhận định, đánh
giá đúng thực trạng của khu vực kinh tế tư nhân trong những năm qua, từ đó
đề ra các chủ trương, giải pháp hợp lý để phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở
tỉnh Quảng Trị trong những năm tiếp theo.
Bởi vậy, em đã chọn đề tài “Phát triển kinh tế tư nhân tỉnh Quảng

Trị” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ của mình.
2. Mục tiêu của đề tài:
- Khái quát được lý luận và kinh nghiệm thực tế phát triển kinh tế tư
nhân để hình thành khung nội dung nghiên cứu cho đề tài.
- Đánh giá được những thành công trong phát triển kinh tế tư nhân ở
Tỉnh Quảng Trị.
- Chỉ ra được các vấn đề phải giải quyết trong phát triển kinh tế tư nhân
ở Quảng Trị.
- Tìm ra cách giải quyết các vấn đề phát triển kinh tế tư nhân ở Tỉnh
Quảng Trị.


3

3. Tổng quan các nghiên cứu liên quan tới đề tài:
Nghiên cứu trong nước
Sự phát triển kinh tế tư nhân từ lâu đã được quan tâm nghiên cứu vì tầm
quan trọng của nó. Chính phủ Việt Nam đã chú trọng tạo dựng môi trường
kinh doanh thuận lợi để thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế. Đã
có nhiều nghiên cứu tập trung vào chủ đề này.
Nghiên cứu lý luận về kinh tế tư nhân phải nói tới nghiên cứu của Hà
Huy Thành [1]. Nghiên cứu đã đi sâu phân tích thực trạng phát triển khu vực
kinh tế tư nhân ở nước ta trong thời kỳ đổi mới trong đó phân theo ngành
nghề và phân theo vùng lãnh thỗ từ đó tìm ra những kết quả đạt được, những
tồn tại yếu kém và những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thực trạng đó. Trên
cơ sở đó tác giả đã khuyến nghị những chính sách và giải pháp nhằm thúc đẩy
sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân.
Nguyễn Anh Dũng [2] đã đưa ra cơ cấu các loại hình doanh nghiệp,
đóng góp của nó về mặt kinh tế, việc làm, nguồn thu ngoại tệ, nguồn thu ngân
sách, góp phần phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đồng thời tác giả

cũng tìm ra được những hạn chế và yếu kém của khu vực kinh tế tư nhân, trên
cơ sở đó kiến nghị các giải pháp để phát triển khu vực kinh tế này.
Hồ Văn Vĩnh [3] không chỉ phân tích thực trạng hoạt động của khu vực
kinh tế tư nhân mà còn phân tích thực trạng quản lý Nhà nước đối với khu
vực kinh tế tư nhân. Trên cơ sở đó tác giả đưa ra khuyến nghị, phương hướng
và giải pháp tiếp tục đổi mới quản lý Nhà nước đối với khu vực kinh tế tư
nhân ở nước ta.
Tại Quảng Trị, nhóm tác giả do ông Nguyễn Đăng Việt [4] – Cục
trưởng Cục thống kê Quảng Trị có công trình nghiên cứu: “Phân tích thống kê
thực trạng Kinh tế tư nhân tỉnh Quảng Trị” nhưng chỉ mới dừng lại ở mức độ


4

phân tích thống kê chứ chưa đi sâu vào đánh giá thực trạng phát triển cũng
như những giải pháp để phát triển kinh tế tư nhân ở Tỉnh Quảng Trị.
Nghiên cứu nước ngoài
Cuốn sách “Phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở các quốc gia có thu
nhập thấp” của Ngân hàng thế giới [5]. Cuốn sách đã đánh giá sự phát triển
tiến bộ của khu vực kinh tế tư nhân ở các quốc gia có thu nhập thấp. Sự phát
triển của khu vực kinh tế tư nhân đã góp phần xoá đói giảm nghèo cho những
quốc gia này.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng một số phương pháp phân tích thống kê như sau:
- Phương pháp phân tổ: Những thông tin thu thập được qua số liệu điều
tra hàng năm hết sức đa dạng, phức tạp, phản ánh diễn biến các hiện tượng
không đều nhau ngay trong từng bộ phận cũng như toàn bộ tổng thể. những
thông tin thu thập dù chính xác, đầy đủ đến đâu cũng chỉ là các hiện tượng cá
thể rời rạc chưa nói lên bản chất có tính quy luật của hiện tượng, do vậy
chúng ta phải phân tổ để phân chia tổng thể nghiên cứu thành các tổ có đặc

điểm, tính chất khác nhau căn cứ theo một (hay một số) tiêu thức nào đó.
+ Phân tổ theo loại hình Doanh nghiệp: Doanh nghiệp tu nhân, Công ty
TNHH, Công ty cỏ phần. Tỉnh Quảng Trị không có Công ty hợp danh.
+ Phân tổ theo ngành kinh tế: Nông, lâm, thuỷ sản; Công nghiệp; Xây
dựng; Thương mại dịch vụ.
- Phương pháp phân tích các chỉ tiêu số tuyệt đối, tương đối và số bình
quân:
+ Số tuyệt đối trong thống kê là loại chỉ tiêu tổng hợp nói lên quy mô,
khối lượng của hiện tượng nghiên cứu trong điều kiện không gian và thời gian
cụ thể.


5

+ Số tương đối trong thống kê là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh mối quan
hệ so sánh giữa hai chỉ tiêu thống kê cùng loại nhưng khác nhau về không
gian và thời gian cụ thể, về thể loại song lại có quan hệ với nhau về mặt kinh
tế.
+ Số bình quân trong thống kê là một loại chỉ tiêu tổng hợp phản ánh
mức độ đại diện của tổng thể nghiên cứu được tính ra từ các lượng biến của
tiêu thức số lượng nào đó thuộc tất cả các đơn vị tổng thể nghiên cứu.
- Phương pháp đồ thị thống kê là phương pháp trình bày và phân tích
các thông tin thống kê bằng các biểu đồ, đồ thị và bản đồ thống kê. Phương
pháp đồ thị thống kê sử dụng con số kết hợp với các hình vẽ, đường nét và
màu sắc để trình bày các đặc điểm số lượng của hiện tượng. Chính vì vậy,
ngoài tác dụng phân tích giúp ta nhận thức được những đặc điểm cơ bản của
hiện tượng bằng trực quan một cách dễ dàng và nhanh chóng, đồ thị thống
kê còn là một phương pháp trình bày các thông tin thống kê một cách khái
quát và sinh động, chứa đựng tính mỹ thuật; thu hút sự chú ý của người đọc,
giúp người xem dễ hiểu, dễ nhớ nên có tác dụng tuyên truyền cổ động rất

tốt. Luận văn chủ yếu sử dụng Biểu đồ hình cột.
5. Nguồn thông tin dữ liệu, công cụ phân tích chính:
Luận văn chủ yếu sử dụng số liệu của niên gián thống kê năm 2009 và
Kết quả số liệu điều tra Doanh nghiệp, cơ sở sản suất kinh doanh cá thể các
năm từ 2005 – 2009 của Cục thống kê Quảng Trị.
Công cụ chính: Sử dụng chương trình xử lý số liệu bằng excel, kết hợp
với thống kê mô tả.
6. Điểm mới của đề tài:
Trên cơ sở khái quát những vấn đề lý luận chung về kinh tế tư nhân,
làm rõ đặc điểm, vai trò, những nhân tố tác động đến sự phát triển của kinh tế
tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, những đặc


6

điểm về điều kiện tự nhiên, văn hoá, kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến sự phát
triển của kinh tế tư nhân ở Tỉnh Quảng Trị.
Luận văn góp phần làm rõ thêm một số vấn đề về phát triển kinh tế tư
nhân ở Tỉnh Quảng Trị;
Từ đó sẽ đưa ra một số quan điểm có tính chất định hướng và một số
giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân ở Tỉnh
Quản Trị trong thời gian tới.
7. Nội dung nghiên cứu:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về phát triển kinh tế tư nhân
Chương 2: Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân ở Tỉnh Quảng Trị
Chương 3: Những giải pháp phát triển kinh tế tư nhân trong thời gian
tới ở Tỉnh Quảng Trị
Trong quá trình thực hiện đề tài không tránh khỏi những thiếu sót nhất

định, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô để đề tài của
em được hoàn thiện và có thể áp dụng vào thực tế tại Tỉnh Quảng Trị.
Em xin chân thành cám ơn sự quan tâm, giúp đỡ của Cục Thống kê, Sở
Kế hoạch & Đầu tư, Uỷ ban Nhân dân Tỉnh Quảng Trị, sự hướng dẫn nhiệt
tình của PGS.TS Bùi Quang Bình, cám ơn những kiến thức bổ ích mà các
thầy cô của Đại học Đà Nẵng cũng như của Trường Đại học kinh tế đã truyền
đạt trong suốt quá trình em theo học, cám ơn Chi nhánh Ngân hàng Phát triển
Quảng Trị nơi em công tác đã tạo điều kiện về vật chất và tinh thần để em
theo học lớp đào tạo sau đại học. Bên cạnh đó, em cũng xin gửi lời cám ơn tới
gia đình, những người luôn bên em, động viên em trong suốt thời gian qua.
Một lần nữa em xin chân thành cám ơn!


7

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ TƯ NHÂN
1.1. Kinh tế tư nhân và vai trò của kinh tế tư nhân đối với phát
triển kinh tế - xã hội.
1.1.1. Quan niệm và các thành phần của kinh tế tư nhân
1.1.1.1. Quan niệm về kinh tế tư nhân
Theo dòng lịch sử, có lẽ phải nhắc đến những tư duy mới về phát huy
tiềm năng của các thành phần kinh tế ngay từ Hội nghị lần thứ 6 của Trung
ương Khóa IV (tháng 8-1979) khi đất nước lâm vào tình trạng khó khăn trầm
trọng. Có thể coi hội nghị này là bước mở đầu có ý nghĩa, đặt ra những nền
móng đầu tiên cho đường lối đổi mới mà sau này được Đại hội VI khẳng
định. Cùng với nhiều chủ trương kinh tế đúng đắn nhằm "làm cho sản xuất
bung ra", Hội nghị khẳng định sự cần thiết kết hợp kế hoạch với thị trường,
kết hợp thị trường có kế hoạch với thị trường không có kế hoạch, nhìn nhận

tích cực hơn với kinh tế tư nhân ... Chính trên cơ sở những quyết sách đúng
đắn ở thời điểm đó, mà nhiều địa phương đã mở ra những tìm tòi sáng tạo về
phát triển kinh tế hộ tiểu thủ công nghiệp, sửa đổi giá, lương, tiền, tiếp đến
Ban Bí thư ra Chỉ thị 100 về Khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động
trong hợp tác xã nông nghiệp, Chính phủ ra Nghị định 25-CP, 26-CP xác định
việc sử dụng các quan hệ thị trường, v.v...
Bước ngoặt cơ bản là từ Đại hội lần thứ VI của Đảng [6]. Sau khi phê
phán "những biểu hiện nóng vội muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi
xã hội chủ nghĩa, nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh",
mắc bệnh "chủ quan, duy ý chí, giản đơn hóa", "chưa thật sự thừa nhận những
quy luật của sản xuất hàng hóa đang tồn tại khách quan", Đại hội khẳng định
đường lối đổi mới, chỉ rõ "nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc


8

trưng của thời kỳ quá độ", chỉ rõ sáu thành phần kinh tế: kinh tế quốc doanh;
kinh tế tập thể; kinh tế gia đình; kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa; kinh tế tư bản
tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước. Xin lưu ý là Đại hội VI, trong khi thừa nhận
sự cần thiết của kinh tế tư bản tư nhân, cũng chỉ "cho phép những nhà tư sản
nhỏ sử dụng vốn, kiến thức kỹ thuật và quản lý của họ để tổ chức sản xuất,
kinh doanh trong một số ngành, nghề thuộc khu vực sản xuất và dịch vụ ở
những nơi cần thiết ... Quy mô và phạm vi hoạt động của các cơ sở kinh tế tư
bản tư nhân được quy định tùy theo ngành, nghề và mặt hàng". Theo nghị
quyết Đại hội VI, "quá trình sử dụng kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa và kinh tế
tư bản tư nhân luôn luôn gắn liền với quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa đối
với các thành phần đó bằng nhiều hình thức". "Kinh tế xã hội chủ nghĩa với
khu vực quốc doanh làm nòng cốt phải giành được vai trò quyết định trong
nền kinh tế quốc dân, cụ thể là chiếm tỷ trọng lớn cả trong sản xuất và lưu
thông, thể hiện tính ưu việt và chi phối được các thành phần kinh tế khác

thông qua liên kết kinh tế và "trong lĩnh vực lưu thông, phải xóa bỏ thương
nghiệp tư bản tư nhân".
Khái niệm "kinh tế tư nhân" được chính thức sử dụng từ Hội nghị lần
thứ 6 của Trung ương Khóa VI (tháng 3-1989). Nghị quyết chỉ rõ: "trong điều
kiện của nước ta, các hình thức kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư
nhân) vẫn cần thiết lâu dài cho nền kinh tế và nằm trong cơ cấu của nền kinh
tế hàng hóa đi lên chủ nghĩa xã hội".
Về mặt quy định pháp lý, việc ban hành Luật Công ty và Luật Doanh
nghiệp tư nhân (năm 1990) đã đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc hình thành
và phát triển các doanh nghiệp tư nhân với các loại hình công ty trách nhiệm
hữu hạn, công ty cổ phần và doanh nghiệp tư nhân.
Đại hội lần thứ VII của Đảng [7] quy định "Kinh tế tư nhân được phát
triển, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất, theo sự quản lý, hướng dẫn của Nhà


9

nước, trong đó, kinh tế cá thể và tiểu chủ có phạm vi hoạt động tương đối
rộng ở những nơi chưa có điều kiện tổ chức kinh tế tập thể, hướng kinh tế tư
bản tư nhân phát triển theo con đường tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức".
Đại hội lần thứ VIII của Đảng [8] quyết định "kinh tế nhà nước đóng
vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế hợp tác xã dần dần trở thành nền tảng. Tạo
điều kiện kinh tế và pháp lý thuận lợi để các nhà kinh doanh tư nhân yên tâm
đầu tư làm ăn lâu dài".
Đại hội lần thứ IX của Đảng [9] khẳng định " Kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế,
trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh
tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc". Đại hội quyết định
"Khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong những ngành,
nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh

doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư nhân phát triển trên
những định hướng ưu tiên cùa Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài; khuyến
khích chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động,
liên doanh, liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước. Xây
dựng quan hệ tốt giữa chủ doanh nghiệp và người lao động".
Bước chuyển biến mới về tư duy đối với kinh tế tư nhân được thể hiện
rõ trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 của Trung ương Khóa IX (3-2002).
Theo Nghị quyết, "Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền
kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong
phát triển kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nhghĩa".
Và đến Đại hội X năm 2006 [10] đã đưa ra quan niệm thống nhất về
kinh tế tư nhân. Hai thành phần kinh tế là kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư
bản tư nhân đã được gộp chung vào thành một thành phần kinh tế duy nhất là
thành phần kinh tế tư nhân với hai hình thức tồn tại cơ bản là cá thể, tiểu chủ


10

và tư bản tư nhân. Điều này trong văn kiện Đạt hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X đã xác định rõ: "trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân),
hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế
tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài"
Như vậy, có thể hiểu kinh tế tư nhân là một thành phần kinh tế
dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, vốn và kết quả sản xuất kinh
doanh được tạo ra cũng thuộc về người sở hữu tư liệu sản xuất và vốn ấy.
1.1.1.2. Các thành phần của kinh tế tư nhân
a. Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ:
Kinh tế cá thể là thành phần kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản
xuất và khả năng lao động của bản thân người lao động.

Kinh tế tiểu chủ cũng chính là hình thức kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về
tư liệu sản xuất nhưng có thuê mướn lao động, tuy nhiên thu nhập vẫn chủ
yếu dựa vào sức lao động và vốn của bản thân và gia đình.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ đang có vị trí rất quan trọng trong nhiều ngành
nghề ở nông thôn và thành thị, có điều kiện phát huy nhanh tiềm năng về vốn,
sức lao động, tay nghề của từng gia đình, từng người lao động. Do đó, việc
mở rộng sản xuất, kinh doanh của kinh tế cá thể và tiểu chủ cần được khuyến
khích.
Hiện nay, ở nước ta, thành phần kinh tế này phần lớn hoạt động dưới
hình thức hộ gia đình, đang là một bộ phận đông đảo, có tiềm năng to lớn, có
vị trí quan trọng, lâu dài. Đối với nước ta, cần phát triển mạnh mẽ thành phần
kinh tế này để vừa góp phần tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội, vừa giải
quyết nhiều việc làm cho người lao động - một vấn đề bức bách hiện nay của
đời sống kinh tế xã hội. Trong những năm gần đây, thành phần kinh tế này
phát triển nhanh chóng trong nông, lâm, ngư nghiệp và thương mại, dịch vụ.


11

Nó đã góp phần quan trọng vào các thành tựu kinh tế - xã hội. Tuy nhiên,
cũng cần thấy rằng, kinh tế cá thể tiểu chủ dù cố gắng đến bao nhiêu cũng
không loại bỏ được những hạn chế vốn có như: tính tự phát, manh mún, hạn
chế về kỹ thuật.
b. Thành phần kinh tế tư bản tư nhân:
Kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế mà sản xuất kinh doanh
dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc
lột sức lao động làm thuê.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, thành
phần này có vai trò đáng kể xét về phương diện phát triển lực lượng sản xuất,
xã hội hoá sản xuất cũng như về phương diện giải quyết các vấn đề xã hội.

Đây cũng là thành phần kinh tế rất năng động nhạy bén với kinh tế thị trường,
do đó sẽ có những đóng góp không nhỏ vào quá trình tăng trưởng kinh tế của
đất nước. Hiện nay, kinh tế tư bản tư nhân bước đầu có sự phát triển, nhưng
phần lớn tập trung vào lĩnh vực thương mại, dịch vụ và kinh doanh bất động
sản; đầu tư vào sản xuất con ít và chủ yếu quy mô vừa và nhỏ.
1.1.1.3. Các loại hình tổ chức kinh doanh cơ bản
a. Doanh nghiệp tư nhân
Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh
nghiệp.
Doanh nghiệp tư nhân là một đơn vị kinh doanh do một cá nhân bỏ vốn
ra thành lập làm chủ. Cá nhân này vừa là chủ sở hữu, vừa là người sử dụng tài
sản, đồng thời cũng là người quản lý hoạt động của doanh nghiệp. Thông
thường chủ doanh nghiệp là giám đốc, trực tiếp tiến hành hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp. Nhưng cũng có trường hợp vì những lí do cần thiết,
chủ doanh nghiệp không trực tiếp điều hành hoạt động kinh doanh mà thuê


12

người khác làm giám đốc. Nhưng dù trực tiếp hay gián tiếp điều hành hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp tư nhân quản
lý và tự chịu trách nhiệm không có sự phân chia rủi ro với ai.
Chủ doanh nghiệp tư nhân chịu trách nhiêm vô hạn về các khoản nợ
trong kinh doanh của doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanh, nếu làm ăn phát đạt thu được nhiều lợi nhuận, chủ doanh nghiệp được
hưởng toàn bộ số lợi đó. Ngược lại, nếu gặp rủi ro hay kinh doanh bị thua lỗ,
họ phải chịu trách nhiệm bằng chính tài sản của doanh nghiệp.
b. Công ty trách nhiệm hữu hạn
Công ty trách nhiệm hữu hạn là doanh nghiệp có không quá 50 thành

viên góp vốn thành lập công ty chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của
công ty bằng tài sản của mình.
Công ty trách nhiệm hữu hạn có thể chỉ có một thành viên.
Công ty chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản
khác của công ty bằng tài sản của mình (trách nhiệm hữu hạn). Thành viên
công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghiac vụ tài sản khác của
công ty trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào công ty. Đối với công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên thì chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm
về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số
vốn đã cam kết góp vào công ty. Như vậy, trong công ty trách nhiệm hữu hạn
có sự phân tách tài sản: tài sản của công ty và tài sản của thành viên. Nguyên
tắc phân tách được áp dụng trong mọi quan hệ tài sản, nợ nần và trách nhiệm
của công ty.
Công ty trách nhiệm hữu hạn không được quyền phát hành cổ phiếu ra
công chúng để công khai huy động vốn. Việc chuyển nhượng vốn góp của
thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn trước hết phải ưu tiên cho các thành
viên khác của công ty. Chỉ được chuyển nhượng cho người không phải là


13

thành viên công ty nếu các thành viên còn lại của công ty không mua hoặc
không mua hết. Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên thì chủ
sở hữu công ty có quyền chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần vốn điều lệ
của công ty cho tổ chức, cá nhân khác.
c. Công ty cổ phần
Công ty cổ phần là loại hình đặc trưng của công ty đối vốn, vốn của
công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, ngưòi sở hữu
cổ phần gọi là cổ đông, chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty cho
đến hết giá trị cổ phần mà họ sở hữu.

Trong suốt quá trình hoạt động của công ty cổ phần ít nhất phải có 3
thành viên tham gia công ty cổ phần. Là loại công ty đặc trưng cho công ty
đối vốn cho nên có sự liên kết của nhiều thành viên và vì vậy việc quy định số
thành viên tối thiểu phải có đã trở thành thông lệ quốc tế trong mấy trăm năm
tồn tại của công ty cổ phần. Ở hầu hết các nước đều có quy định số thành viên
tối thiểu của công ty cổ phần.
Phần vốn góp (cổ phần) của các thành viên được thể hiện dưới hình
thức cổ phiếu. Các cổ phiếu do công ty phát hành là một loại hàng hoá. Người
có cổ phiếu có thể tự do chuyển nhượng theo quy định của pháp luật. Công ty
cổ phần chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty bằng tài sản của công
ty. Các cổ đông chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công
ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Trong quá trình hoạt động công
ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán (như cổ phiếu, trái phiếu) ra công
chúng theo quy định của pháp luật về chứng khoán để huy động vốn. Điều
này thể hiện khả năng huy động vốn lớn của công ty cổ phần.
d. Công ty hợp danh
Công ty hợp danh được pháp luật ghi nhận là một hình thức của công ty
đối nhân, trong đó có ít nhất 2 thành viên (đều là cá nhân và là thương nhân)


14

cung tiến hành hoạt động thương mại (theo nghĩa rộng) dưới một hãng chung
(hay hội danh) và cùng liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ của
công ty.
Ngoài các thành viên hợp danh, có thể có thành viên góp vốn. Thành
viên hợp danh phải là cá nhân, có trình độ chuyên môn và uy tín nghề nghiệp
và phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của
công ty. Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công
ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.

Do tính an toàn pháp lý đối với công chúng cao, mặt khác các thành
viên thường có quan hệ mật thiết về nhân thân, nên việc quản lý công ty hợp
danh chịu rất ít sự ràng buộc của pháp luật. Về cơ bản, các thành viên có
quyền tự thoả thuận về việc quản lý, điều hành công ty. Tuy nhiên cần lưu ý là
quyền quản lý công ty hợp danh chỉ thuộc về các thành viên hợp danh, thành
viên góp vốn không có quyền quản lý công ty.
Trong công ty hợp danh, Hội đồng thành viên là cơ quan quyết định cao
nhất của công ty bao gồm tất cả các thành viên hợp danh. Hội đồng thành viên
có quyền quyết định mọi hoạt động của công ty. Khi họp Hội đồng thành
viên, các thành viên hợp danh có quyền ngang nhau trong biểu quyết (mỗi
thành viên chỉ có một phiếu biểu quyết) mà không phụ thuộc vào giá trị phần
vốn góp của họ trong công ty. Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa quyền của
các thành viên trong quản lý của công ty hợp danh với quyền của các thành
viên trong quản lý công ty đối vốn (công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty
cổ phần).
Trong quá trình hoạt động của công ty, các thành viên hợp danh phân
công nhau đảm nhiệm các trức trách quản lý và kiểm soat công ty và cử một
người (trong số thành viên hợp danh) làm Giám đốc công ty. Giám đốc thực
hiện nhiêm vụ điều hành công việc trong công ty, phân công, điều hoà, phối


15

hợp công việc của các thành viên hợp danh và thực hiên các công việc khác
theo uỷ quyền của các thành viên hợp danh.
1.1.2. Vai trò của kinh tế tư nhân trong việc phát triển kinh tế - xã hội
Phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa đã là một xu hướng tất yếu, một chủ trương đúng đắn và nhất
quán của Đảng ta.
Điều này thể hiện ở chỗ, thứ nhất, với trình độ phát triển như hiện nay

của lực lượng sản xuất ở nước ta, sự tồn tại của kinh tế tư nhân vẫn là nhu cầu
khách quan, thứ hai, kinh tế tư nhân đã và đang tiếp tục chứng tỏ vai trò động
lực của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thứ ba, sự phát
triển của kinh tế tư nhân trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua đã đóng góp
không nhỏ vào việc giải quyết các vấn đề kinh tế và xã hội của đất nước.
Trong thời đại ngày nay, bất cứ một nền sản xuất xã hội nào muốn đạt
hiệu quả tăng trưởng cao đều phải thực hiện nền kinh tế thị trường. Công cuộc
đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã đạt được nhiều thành tựu to
lớn. Một trong những nguyên nhân cơ bản tạo nên sự phát triển của nền kinh
tế nước ta là đã khơi dậy được tiềm năng của các thành phần kinh tế thông
qua chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế tư nhân
có vai trò quan trọng và tiếp tục được khuyến khích phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Sự phát triển của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là sản phẩm gắn liền với chủ trương đúng đắn của
Đảng về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Những thành tựu kinh tế
quan trọng đạt được qua 20 năm đổi mới đất nước là bằng chứng minh động,
xác nhận một cách thuyết phục sự khởi sắc của nền kinh tế nói chung và triển
vọng tiềm tàng của kinh tế tư nhân nói riêng. Bởi vậy, có thể nói, đối với nước
ta, phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, lâu dài trong tiến


16

trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đây có thể coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng của công cuộc
đổi mới của đất nước trong những năm sắp tới.
Sự phát triển của kinh tế tư nhân đã đóng góp quan trọng vào sự phát
triển chung của toàn bộ nền kinh tế xã hội, như huy động được nhiều nguồn
vốn đầu tư với số lượng lớn vào sản xuất kinh doanh, góp phần nâng cao sức

sản xuất của xã hội, tạo thêm nhiều việc làm mới vừa làm tăng của cải vật
chất cho xã hội, vừa làm giảm áp lực giải quyết việc làm cho người lao động,
thúc đẩy sự hình thành và phát triển các loại thị trường, làm tăng sức cạnh
tranh của hàng hoá sản xuất trong nước, tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng giữa
các thành phần kinh tế trong hoạt động sản xuất và kinh doanh, vừa góp phần
tạo nên tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, vừa tham gia giải quyết nhiều vấn đề
xã hội... Sự biến đổi của quan hệ sở hữu khiến quan hệ quản lý và phân phối
cũng thay đổi, do vậy, quan hệ sản xuất trở nên linh hoạt và phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất vốn còn thấp và phát triển không đều
giữa các vùng, ngành trong cả nước. Nhờ vậy, đã khơi dậy và phát huy được
tiềm năng về vốn, đất đai, lao động, kinh nghiệm sản xuất của các tầng lớp
nhân dân vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chính vì
những lý do đó, chúng ta có thể khẳng định rằng, sự phát triển của kinh tế tư
nhân đã đóng góp quan trọng vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chuyển
dịch cơ cấu nền kinh tế quốc dân theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá.
Sự xuất hiện ngày càng nhiều chủ thể sản xuất, kinh doanh thuộc khu
vực kinh tế tư nhân trong tất cả các lĩnh vực, các ngành sản xuất, kinh doanh
đã đẩy lùi dần tình trạng độc quyền, làm cho sản xuất hàng hoá phát triển, thị
trường được mở rộng, các quy luật kinh tế thị trường phát huy được tác dụng
đẩy lùi cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp vốn đã ăn sâu trong tiềm
thức xã hội. Thông qua việc phát triển kinh tế tư nhân mà quyền làm chủ của


17

nhân dân, trước hết là quyền làm chủ về kinh tế được phát huy. Ở nước ta
hiện nay, trong mối quan hệ giữa kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân, kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo, quyết định bản chất và định hướng cho sự phát
triển của toàn bộ nền kinh tế, còn kinh tế tư nhân là "chỗ dựa thiết yếu”, "có
vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế”. Sở dĩ kinh

tế tư nhân có vai trò như vậy là vì những lý do sau đây:
Thứ nhất, kinh tế tư nhân tạo ra một khối lượng của cải vật chất to lớn,
đóng góp đáng kể vào giá trị thu nhập của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Cũng
cần nói thêm rằng, hiện nay, không một quốc gia nào trên thế giới lại coi nhẹ
vai trò, vị trí của kinh tế tư nhân.
Thứ hai, trong nền kinh tế thị trường hiện đại, ở các nước có nền kinh tế
phát triển cao và hiệu quả, tỷ lệ đóng góp vào tổng sản phẩm quốc dân của
khu vực kinh tế tư nhân bao giờ cũng cao hơn khu vực kinh tế Nhà nước.
Thứ ba, kinh tế tư nhân tạo ra động lực phát triển mạnh mẽ, đóng góp
ngày càng lớn vào ngân sách Nhà nước, tham gia tích cực và hiệu quả trong
việc thực hiện các mục tiêu xã hội.
Thứ tư, ở Việt Nam, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kinh tế
tư nhân đã và đang từng bước khẳng định vị trí "chỗ dựa thiết yếu” của nó
theo đúng quy luật của nền kinh tế thị trường. Nó đã thực sự trở thành một bộ
phận của kinh tế dân doanh, thể hiện định hướng phát triển theo nguyên tắc
"lấy dân làm gốc” với mục tiêu thực hiện dân giàu, nước mạnh. Kinh tế tư
nhân đang có cơ hội phát triển mạnh cả về bề rộng lẫn chiều sâu, cả về quy
mô số lượng lẫn chất lượng.
Thứ năm, phát triển kinh tế tư nhân là một tất yếu xuất phát từ quy luật
về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, có tác đụng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Nếu chúng ta chỉ coi
kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể là nền tảng mà không đặt kinh tế tư nhân


18

vào đúng vị trí của nó, thì về thực chất, chúng ta vẫn coi sở hữu là mục đích
của mọi chính sách. Chúng ta không thể để quan hệ sản xuất vượt quá xa so
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất như trước đây, cũng như không
thể "ép" kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể phải có tiềm lực lớn hơn kinh tế

tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong khi
chúng chưa đủ khả năng làm điều đó một cách hiệu quả.
Ngoài ra kinh tế tư nhân còn có một vai trò quan trọng mà không thể
không nói đến đó là giá trị nhân văn của kinh tế tư nhân. Thực tế cho thấy
kinh tế tư nhân có vai trò đắc lực tạo ra sự phát triển của xã hội, tạo cho mỗi
cá nhân vô số cơ hội có việc làm để khẳng định mình, để mưu cầu cuộc sống
và hạnh phúc, tức là góp phần tạo ra con người với nhiều phẩm chất tốt đẹp
hơn. Phát triển kinh tế, suy cho cùng không phải là mục tiêu mà chỉ là
phương tiện. Mục tiêu cao nhất của nhân loại là xã hội phát triển, con người
phát triển. Có thể nói rằng kinh tế tư nhân là một phương tiện quan trọng để
con người có cơ hội hoàn thiện mình trong quá trình phát triển hướng thiện
của nhân loại. Con người đã sáng tạo ra và quyết định lựa chọn kinh tế tư
nhân để phát triển, nhưng đồng thời kinh tế tư nhân lại là môi trường tốt để
con người tự thân phát triển, con người có cơ hội tự hoàn thiện vì sự phát
triển của chính nó và thông qua đó phát triển toàn xã hội. Như vậy, cho dù
còn những cách nhìn nhận khác nhau về vai trò của khu vực kinh tế tư nhân
nhưng rõ ràng là kinh tế tư nhân đang từng bước trở thành động lực chính
cho sự phát triển kinh tế nhanh và bền vững, tạo sự ổn định xã hội, là công
cụ quan trọng để tạo công ăn việc làm cho người lao động, tiếp nhận những
tri thức, công nghệ, phương pháp quản lý mới, đáp ứng nhu cầu đa dạng của
thị trường, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thu hút vốn nhàn rỗi, tạo nguồn thu
cho ngân sách nhà nước và tạo động lực cạnh tranh và phát triển kinh tế.
Hay nói một cách khác phát triển khu vực kinh tế tư nhân cũng có nghĩa là


19

bảo tồn tính đa dạng và phong phú của đời sống kinh tế, xem nó như là
nguồn gốc của mọi sự phát triển.
1.2. Đặc điểm, ưu thế, hạn chế của kinh tế tư nhân.

1.2.1. Đặc điểm của kinh tế tư nhân
Để hiểu rõ về bản chất của kinh tế tư nhân, cần phải xem xét đặc điểm
kinh tế - xã hội của nó trên ba mặt:
- Quan hệ sở hữu: nó dựa trên quan hệ sở hữu tư nhân. Điều đó có nghĩa
là toàn bộ tư liệu sản xuất và sản phẩm sản xuất ra nhờ tư liệu sản xuất ấy
thuộc về tư nhân. Người chủ sở hữu có toàn quyền chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt và chịu trách nhiệm hoàn toàn đối với tư liệu sản xuất do họ làm chủ.
Trong lịch sử, quan hệ sở hữu tư nhân được chia làm 2 hình thức: sơ hữu tư
nhân nhỏ và sở hữu tư nhân lớn.
Trong sở hữu tư nhân nhỏ thì tư liệu sản xuất là do chính người sở hữu
sử dụng và chi phối. Còn trong sở hữu tư nhân lớn thì tư liệu sản xuất thường
được giao cho người khác sử dụng. Thường nó gắn với quan hệ người bốc lột
người.
- Quan hệ về quản lý: do sở hữu là của tư nhân nên vai trò quản lý trong
doanh nghiệp cuãng do tư nhân là người quyết định.
Cũng cần chỉ ra rằng, về mặt lịch sử, khi mới ra đời các chủ sở hữu
doanh nghiệp tư nhân đồng thời là người quản lý. Song cùng với sự phát triển
của sản xuất, của tín dụng và công ty cổ phần đã góp phần tách chức năng sở
hữu với chức năng quản lý.
- Quan hệ phân phối:
Nguyên tắc chung: chủ sở hữu tư nhân là người có quyền quyết định
việc phân phối sản phẩm. Trong các doanh nghiệp tư bản tư nhân chủ sở hữu
chiếm đoạt giá trị thặng dư, nguời lao động hưởng theo giá trị sức lao động.


20

Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường hiện đại, khi nhiều tổ chức kinh
tế hoạt động dựa trên sự kết hợp, đan xen nhiều hình thức sở hữu khác nhau
thì quan hệ phân phối càng trở nên phức tạp. Nhiều hình thức phân phối tồn

tại đan xen lẫn nhau trong từng đơn vị sản xuất kinh doanh và cho từng cá
nhân. Song nguyên tắc cơ bản vẫn là phân phối theo mức đóng góp các nguồn
lực vào quá trình sản xuất kinh doanh.
Ngoài những đặc điểm chung về mặt kinh tế - xã hội, kinh tế tư nhân ở
nước ta còn có thêm những đặc điểm sau:
- Quy mô sản xuất kinh doanh còn nhỏ bé. Các doanh nghiệp thuộc
kinh tế tư nhân ở nước ta đại bộ phận thuộc doanh nghiệp vừa và nhỏ, thậm
chí siêu nhỏ.
- Kỹ thuật công nghệ sản xuất kinh doanh đa phần lạc hậu, năng suất
thấp.
Những đặc điểm trên hạn chế sự phát triển cũng như hiệu quả và khả
năng cạnh tranh của kinh tế tư nhân nước ta trước thách thức của hội nhập với
khu vực và thế giới.
1.2.2. Ưu thế và hạn chế của kinh tế tư nhân
1.2.2.1. Ưu thế:
- Chủ doanh nghiệp là những người trực tiếp sở hữu vốn nên các doanh
nghiệp này có chủ đích thực và các quan hệ liên quan tới tài sản như thế chấp,
thuê mướn và các tranh chấp tài sản được giải quyết rõ ràng. Kinh tế tư nhân
gắn với sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất nên có thể truyền lại cho các thế hệ
con cháu kể cả kinh nghiệm, kiến thức kinh doanh và tài sản. Điều đó tạo ra
động lực thúc đẩy phát triển hoạt động kinh doanh không giới hạn. Ngoài ra,
lợi ích cá nhân gắn với sở hữu tư nhân là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế
phát triển.


×