Tải bản đầy đủ (.doc) (129 trang)

Phát triển sản phẩm du lịch tại thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (578.58 KB, 129 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Du lịch ngày nay trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn
của các nước và sẽ trở thành động lực quan trọng thúc đẩy kinh tế thế giới.
Theo Tổ chức Du lịch thế giới, du lịch đang ngày càng trở thành một trong
những công cụ có hiệu quả trong cuộc đấu tranh chống nghèo đói trên thế
giới, do tiềm năng tạo ra nhiều việc làm mới và nhiều việc làm nhất trên thế
giới; là một trong các nguồn thu ngoại tệ lớn nhất tại 83% các nước trên thế
giới. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế chung này, du lịch là ngành kinh
tế mũi nhọn có tốc độ phát triển nhanh nhất và GDP của ngành đã tăng gần
gấp đôi so với một vài năm trở lại đây.
Xác định tầm quan trọng của ngành du lịch trong cơ cấu kinh tế của Đà
Nẵng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố Đà Nẵng lần thứ XX đã đề ra 5
hướng đột phá về phát triển kinh tế-xã hội, thành phố sẽ tập trung phát triển 2
lĩnh vực kinh tế mũi nhọn trong đó có Du lịch. Để làm được điều này, trong
suốt những năm qua thành phố phải luôn đổi mới, sáng tạo trong việc tạo ra
các sản phẩm du lịch mới để thu hút du khách đến và ở lại với thành phố.
Đà Nẵng là một địa phương có nhiều thuận lợi trong việc phát triển du
lịch bởi vị thế địa lý, tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên của Đà Nẵng và các
tỉnh miền Trung rất thuận lợi và phong phú nên được đánh giá cao. Song Đà
Nẵng vẫn đang trong quá trình tạo dựng một thương hiệu du lịch và còn trăn
trở trong việc lựa chọn loại hình nào để đột phá phát triển du lịch nhằm đạt
được các mục tiêu đề ra. Xuất phát từ những vấn đề trên, tôi chọn đề tài
“Phát triển sản phẩm du lịch tại thành phố Đà Nẵng” làm đề tài luận văn
nghiên cứu tốt nghiệp của mình.


2


2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận liên quan đến các sản phẩm du
lịch nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển sản phẩm du lịch.
- Đánh giá thực trạng việc phát triển các sản phẩm du lịch của thành
phố Đà Nẵng trong thời gian qua.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển sản phẩm du lịch tại thành
phố Đà Nẵng trong thời gian đến.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: là những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan
đến phát triển sản phẩm du lịch tại thành phố Đà Nẵng trong thời gian qua.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về nội dung: Luận văn chỉ đề cập một số nội dung chủ yếu có tính
khả thi để phát triển các sản phẩm du lịch đó là sản phẩm du lịch biển đảo,
sản phẩm du lịch sinh thái, sản phẩm du lịch văn hóa.
+ Về mặt không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu việc phát triển sản
phẩm du lịch trong phạm vi thành phố Đà Nẵng.
+ Về mặt thời gian: Các giải pháp, đề xuất trong luận văn có ý nghĩa áp
dụng trong thời gian ngắn.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu thực hiện luận văn, phương pháp chung là
kết hợp giữa nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn. Trên cơ sở đó, luận
văn sử dụng tổng hợp các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, suy luận,
đồng thời khảo sát thực tế để có giải pháp hoàn thiện phù hợp.
5. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, đề tài
được kết cầu gồm 3 chương chính sau:


3


Chương 1: Cơ sở lý luận chung về sản phẩm du lịch và phát triển sản
phẩm du lịch.
Chương 2: Thực trạng và tiềm năng phát triển các sản phẩm du lịch
thành phố Đà Nẵng
Chương 3: Một số giải pháp phát triển sản phẩm du lịch thành phố Đà
Nẵng
6. Tổng quan tài liệu
Hiện nay, ngành du lịch Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức,
việc lựa chọn được phương hướng phát triển phù hợp với tiềm năng về tài
nguyên du lịch phong phú của mình để tạo ra những sản phẩm du lịch có khả
năng cạnh tranh cao là yêu cầu cần thiết và cấp bách. Để làm được điều đó,
công tác nghiên cứu quy hoạch phát triển du lịch và các sản phẩm du lịch
chiếm vị trí hết sức quan trọng, làm cơ sở cho việc đầu tư và quản lý phát
triển du lịch đạt được mục tiêu nhiệm vụ đã đề ra. Chính vì thế, thời gian qua
đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều luận văn đề cập đến vấn đề này, có
thể lược khảo một số công trình như :
1/ Giáo trình “Kinh tế Du lịch” năm 2009 của Trường Đại học Kinh tế
quốc dân do GS.TS Nguyễn Văn Đính và PGS.TS Trần Thị Minh Hòa đồng
chủ biên. Giáo trình giới thiệu những kiến thức nền tảng về khái niệm du lịch;
lịch sử hình thành, xu hướng phát triển, ý nghĩa kinh tế - xã hội của du lịch;
nhu cầu, loại hình và các lĩnh vực kinh doanh du lịch; điều kiện phát triển du
lịch; tính thời vụ trong du lịch. Đồng thời bao hàm cả những vấn đề kinh tế du
lịch như lao động, cơ sở vật chất – kỹ thuật, chất lượng dịch vụ và hiệu quả
kinh tế du lịch; những vấn đề quản lý như quy hoạch phát triển du lịch, tổ
chức và quản lý ngành du lịch ở Việt Nam và thế giới.
2/ Giáo trình “Quản trị marketing” do PGS.TS Lê Thế Giới (chủ biên)Nguyễn Xuân Lãn. Giáo trình cung cấp những kiến thức căn bản, có tính hệ


4


thống về quản trị marketing hiện đại. Trong đó có phần quan trọng về thiết kế
phối thức marketing bao gồm 4 yếu tố trụ cột là hoạch định chính sách sản
phẩm, thiết kế chiến lược và chính sách định giá, thiết kế và quản trị kênh
phân phối, thiết kế chiến lược truyền thông và cổ định.
3/ Đề tài “Hiện trạng và giải pháp phát triển các khu du lịch biển quốc
gia tại vùng du lịch Bắc Trung Bộ”. TS. Nguyễn Thu Hạnh (năm 2011). Nội
dung nghiên cứu của đề tài gồm: Các cơ sở lý luận về phát triển khu du lịch
biển ; Đánh giá đặc điểm của các khu du lịch quốc gia biển tại vùng du lịch
Bắc Trung Bộ và các nhân tố tác động đến quán trình phát triển tại 4 khu du
lịch biển: Khu du lịch biển quốc gia “Phá Tam Giang- Thuận An” (Thừa
Thiên Huế), Khu du lịch biển quốc gia “Cảnh Dương – Lăng Cô – Sơn Chà
(Thừa Thiên Huế), Khu du lịch biển quốc gia “Hải Vân – Sơn Trà – Non
Nước” (Đà Nẵng), Khu du lịch biển quốc gia “Cửa Đại – Hội An – Cù Lao
Chàm” (Quảng Nam).
Trên cơ sở những nội dung nghiên cứu trên, tác giả đánh giá thực trạng
phát triển và xác định những tồn tại thách thức trong quá trình phát triển.
Đồng thời đề xuất các định hướng và giải pháp phát triển đến năm 2020 nhằm
góp phần thúc đẩy sự phát triển các khu du lịch quốc gia biển tại vùng du lịch
Bắc Trung Bộ có hiệu quả và bền vững.
4/ Đề tài “Phát triển bền vững ngành du lịch trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng” của TS.Hồ Kỳ Minh (2011). Đề tài nêu những nội dung cơ bản về phát
triển du lịch theo hướng bền vững; Đánh giá tiềm năng và thực trạng phát
triển du lịch Đà Nẵng những năm qua; Phân tích cạnh tranh về du lịch Đà
Nẵng trong bối cảnh cạnh tranh và hội nhập quốc tế; Phân tích và dự báo
nguồn khách du lịch đến TP. Đà Nẵng; Xác lập quan điểm, mục tiêu, định
hướng phát triển du lịch theo hướng bền vững; Xây dựng mô hình phát triển
bền vững du lịch thành phố Đà Nẵng; Đề xuất các nhóm giải pháp phát triển


5


du lịch theo hướng bền vững trên địa bàn TP. Đà Nẵng đến năm 2020 về kinh
tế, văn hóa - xã hội và tài nguyên - môi trường, cùng các kiến nghị đối với các
cơ quan quản lý nhà nước.
5/ Nghiên cứu xây dựng sản phẩm du lịch Việt Nam có tính cạnh tranh
trong khu vực, quốc tế. TS. Đỗ Cẩm Thơ (2007)
Nội dung của đề tài này tập trung vào việc nghiên cứu chính sau: Hệ
thống những vấn đề lý luận về sản phẩm du lịch và cạnh tranh sản phẩm du
lịch: tiếp cận trên quan điểm quản lý nhà nước và kinh tế vĩ mô ; Phân tích và
đánh giá thực trạng hệ thống sản phẩm du lịch Việt Nam: Rà soát và đánh giá
thực trạng sản phẩm du lịch Việt Nam hiện tại theo 2 tiêu chí, cấu thành sản
phẩm chung của điểm đến và sản phẩm theo các loại hình du lịch ; Nghiên
cứu tính cạnh tranh và định vị sản phẩm du lịch Việt Nam trong thị trường du
lịch khu vực và quốc tế: Phân tích và đánh giá hệ thống sản phẩm du lịch của
các nước cạnh tranh trong khu vực như Thái Lan, Malaysia, Singapo, Trung
Quốc, Indonexia. Nghiên cứu điều tra tính cạnh tranh từ góc độ tiêu dùng.
Tìm ra định vị hiện tại của sản phẩm du lịch Việt Nam ; Phân tích đặc thù và
thế mạnh cho sản phẩm du lịch Việt Nam, tập trung 3 nhóm: Sản phẩm du lịch
biển đảo, Sản phẩm du lịch văn hóa, Sản phẩm du lịch sinh thái ; Đề xuất biện
pháp chủ yếu góp phần tăng cường tính cạnh tranh của sản phẩm du lịch Việt
Nam hiện tại ; Đề xuất xây dựng sản phẩm du lịch có tính cạnh tranh
Đề tài đã làm rõ về mặt lý luận, tiến đến nghiên cứu đánh giá sản phẩm
du lịch Việt Nam và sau đó đề xuất được quy trình và các nguyên tắc xây
dựng sản phẩm du lịch cạnh tranh cũng như đề xuất cụ thể định hướng xây
dựng sản phẩm du lịch cạnh tranh cho giai đoạnh 2015.
6/ Báo cáo “Nghiên cứu phát triển các loại hình và hoạt động dịch vụ
du lịch trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng”; Nguyễn Đăng Trường, Ngô Trường
Thọ, Dương Thị Thơ (2003).



6

Nội dung báo cáo gồm: hệ thống hóa cơ sở lý luận có liên quan: sản
phẩm du lịch, loại hình sản phẩm du lịch; hệ thống thông tin và đánh giá về
thực trạng loại hình sản phẩm và hoạt động dịch vụ du lịch trên địa bàn Thành
phố Đà Nẵng; đề xuất hệ thống các giải pháp phát triển các sản phẩm và hoạt
động dịch vụ du lịch của Đà Nẵng.
7/ “Nghiên cứu đề xuất tiêu chí khu du lịch sinh thái ở Việt Nam” do
TS Đỗ Thị Thanh Hoa thực hiện năm 2007.
Nội dung: Hệ thống cơ sở lý luận về du lịch sinh thái, khu du lịch và
khu du lịch sinh thái; tổng quan về phát triển du lịch sinh thái Việt Nam và
một số nước như Thái Lan, Singapore, Malaysia; Phân tích thực trạng hoạt
động du lịch sinh thái và các khu du lịch sinh thái ở Việt Nam. Từ đó, đề tài
đưa ra khung một số tiêu chí khu du lịch sinh thái ở Việt Nam, gồm: nhóm
tiêu chí về tài nguyên, nhóm các tiêu chí về quy mô, quy hoạch và kiến trúc
cảnh quan; nhóm tiêu chí về kết cấu hạ tầng – kỹ thuật dịch vụ; nhóm các tiêu
chí về bảo vệ môi trường; nhóm tiêu chí về tổ chức quản lý và tham gia cộng
đồng.
Ngoài ra, còn có nhiều những bài báo khoa học, những nghiên cứu nói
về việc phát triển du lịch nói chung và sản phẩm du lịch nói riêng ở nhiều
khía cạnh mà luận văn tham khảo thêm trong quá trình nghiên cứu.


7

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ SẢN PHẨM DU LỊCH
VÀ PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM DU LỊCH
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN ĐẾN SẢN PHẨM DU LỊCH,
LOẠI HÌNH DU LỊCH VÀ DỊCH VỤ DU LỊCH

1.1.1. Sản phẩm du lịch
a. Khái niệm sản phẩm du lịch
Sản phẩm du lịch là một khái niệm rộng và tổng hợp, bao hàm rất nhiều
các thành phần hữu hình và vô hình, các thành phần này kết hợp với nhau tạo
thành sản phẩm du lịch hoàn chỉnh phục vụ nhu cầu mong muốn của khách du
lịch. Theo Michael M.Coltman: “Sản phẩm du lịch là một tổng thể bao gồm
các thành phần không đồng nhất hữu hình và vô hình” [12, tr.06], tính hữu
hình của nó được thể hiện cụ thể như thức ăn, đồ uống, các sản phẩm lưu
niệm… còn tính vô hình của nó được thể hiện đó là các loại hình dịch vụ du
lịch, các dịch vụ bổ trợ khác.
Theo Điều 4 chương I - Luật Du lịch Việt Nam năm 2005 giải thích từ
ngữ: “Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thoả mãn nhu cầu
của khách du lịch trong chuyến đi du lịch”. Các dịch vụ đó bao gồm: các dịch
vụ lữ hành, dịch vụ vận chuyển khách, dịch vụ lưu trú, dịch vụ ăn uống, dịch
vụ vui chơi giải trí, dịch vụ thông tin hướng dẫn và các dịch vụ khác nhằm
đáp ứng nhu cầu của khách du lịch. Như vậy, theo quan điểm trong Luật Du
lịch Việt Nam thì sản phẩm du lịch đơn thuần chỉ là các hoạt động dịch vụ du
lịch nhưng trên thực tế thì nội dung về sản phẩm du lịch nó còn đa dạng và
phong phú hơn nhiều.
Theo Tổ chức Du lịch thế giới WTO “Sản phẩm du lịch là sự tổng hợp
của 3 yếu tố cấu thành: (i) kết cấu hạ tầng du lịch, (ii) tài nguyên du lịch và


8

(iii) cơ sở vật chất kỹ thuật, dịch vụ, lao động và quản lý du lịch”. Thực tế cho
thấy khái niệm này của WTO là “bao trùm” và thể hiện đầy đủ những gì chứa
đựng trong một sản phẩm du lịch. [08, tr.14]
Trong mối quan hệ với khách du lịch, sản phẩm du lịch có thể được thể
hiện trên sơ đồ sau [08, tr.14-15]:

Giá trị
SPDL

I: lõi

J: DV bổ trợ
k: DV gia tăng

Thời gian
h: hour

Hình 1.1: Sơ đồ mối quan hệ sản phẩm du lịch với khách du lịch
Trong đó:
(i): Phần dịch vụ cơ bản của sản phẩm du lịch, điều mà du khách kỳ
vọng nhất trong chuyến đi du lịch. Đây được xem là nhu cầu của du khách đối
với một tour du lịch.
(j): Phần dịch vụ “trang sức”(jewelry) hay dịch vụ bổ trợ là cơ sở vật
chất du lịch bao gồm: hệ thống vui chơi giải trí, kiến trúc cảnh quan, các quầy
bán hàng lưu niệm…
(k): Phần dịch vụ có tính “sáng tạo” có tính khác biệt, hấp dẫn làm tăng
giá trị của sản phẩm du lịch. Đây là yếu tố quan trọng để du khách, đặc biệt là


9

khách du lịch “khó tính” lựa chọn. Trước hết đó là tài nguyên du lịch, dịch vụ
quảng cáo, quan hệ công chúng PR, uy tín, thương hiệu, sự sang trọng…
(h): khoảng thời gian nhu cầu tiêu thụ sản phẩm của du khách. Đây là
khoảng thời gian phải cung cấp kịp thời, đúng lúc nhu cầu của khách.
Như vậy có thể khái quát khái niệm sản phẩm du lịch nếu tiếp cận ở

khía cạnh của du khách thì sản phẩm du lịch là tất cả những cảm xúc mà du
khách trải nghiệm và cảm nhận được trong một chuyến đi du lịch.
b. Các yếu tố cấu thành của sản phẩm du lịch
Sản phẩm du lịch trên cơ sở lý thuyết, hệ thống cấu thành của sản phẩm
du lịch: gồm 3 phần chính
- Phần cốt lõi của sản phẩm: tài nguyên du lịch là yếu tố cốt lõi cực kỳ
quan trọng cấu thành nên sản phẩm du lịch, bao gồm tất cả mọi hiện tượng, sự
vật, sự kiện tự nhiên và xã hội tạo thành sức hút, lôi cuốn, hấp dẫn và có khả
năng tạo ra ấn tượng tốt đối với khách du lịch.
- Phần cơ sở để hình thành sản phẩm du lịch: Đây chính là các điều
kiện ràng buộc để hình thành sản phẩm du lịch tại mỗi điểm đến, đó là cơ sở
hạ tầng du lịch, cơ sở vật chất du lịch, môi trường không gian cảnh quan, môi
trường kinh tế - văn hóa xã hội, và các yếu tố bổ trợ khác.
- Phần bổ sung của sản phẩm: là phần các dịch vụ, hàng hóa trong sản
phẩm du lịch. Có thể nói sản phẩm du lịch là một loại hình sản phẩm dịch vụ
do yếu tố dịch vụ chiếm phần lớn trong tỷ trọng của sản phẩm du lịch.
Trong lý thuyết của Tổ chức Du lịch Thế giới (WTO) có đưa ra 2 nhóm
chính cấu thành bản chất của sản phẩm du lịch [12, tr.07]
Nhóm thứ nhất bao gồm các yếu tố tự nhiên như: Các điều kiện về khí
hậu; Tính hấp dẫn, sự dạng của tài nguyên du lịch; Đa dạng về tài nguyên văn
hóa lịch sử, khảo cổ; Khả năng tiếp cận với nguồn nước dồi dào; Lòng hiếu
khách của người dân tại các điểm đến; Nằm ở vị trí có khả năng tiếp cận tốt


10

với thị trường mục tiêu, hoặc có hướng tốt dễ dàng cho nhu cầu phát triển các
sân bay, cảng biển cần thiết.
Nhóm thứ hai là nhóm có các đặc điểm tự tạo: Hệ thống giao thông tốt,
có khả năng tiếp cận dễ dàng tới các vùng khác nhau trong cả nước, có sân

bay tương xứng; Tập hợp các khách sạn, khu du lịch, và các tiện nghi lưu trú
khác, các nhà hàng, quán bar; và các dịch vụ giải trí khác; Đa dạng các tiện
nghi thể thao, giải trí; Một chuỗi các tiện nghi vui chơi và mua sắm; Kinh tế
địa phương tại mỗi điểm đến có thể cung ứng được các dịch vụ cần thiết cho
nhu cầu du lịch của du khách; Cơ sở hạ tầng phát triển du lịch có đủ năng lực
và khả năng phát triển them; Các dịch vụ cộng đồng đã phát triển tốt như cảnh
sát, đội cứu hỏa, các dịch vụ y tế, dịch vụ bưu điện, dịch vụ ngân hang…; Các
hoạt động văn hóa và nghệ thuật phát triển rộng rãi và sôi nổi; Dân số địa
phương đủ đáp ứng nhu cầu về lao động du lịch gia tăng.
Tất cả các đặc điểm đó tập hợp lại và hình thành nên sản phẩm du lịch.
Như vậy, các bộ phận hợp thành có thể chia thành một hoặc vài loại trong ba
yếu tố lớn:
- Những thành phần tạo lực hút (lực hấp dẫn đối với du khách) gồm
nhóm tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn.
- Cơ sở du lịch (điều kiện vật chất để phát triển ngành du lịch) gồm cơ
sở hạ tầng kỹ thuật và cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch.
- Dịch vụ du lịch: là kết quả mang lại nhờ các hoạt động tương tác giữa
những tổ chức cung ứng du lịch và khách du lịch và thông qua các hoạt động
tương tác đó để đáp ứng nhu cầu của khách du lịch và mang lại lợi ích cho tổ
chức cung ứng du lịch.
c. Phân loại sản phẩm du lịch
- Nhóm phân loại theo mục tiêu quản lý
* Nhóm phân loại theo quan điểm quản lý vĩ mô: bao gồm 2 loại


11

- Sản phẩm du lịch tổng thể: là giá trị hoàn hảo của không gian tổng thể
điểm du lịch sau khi đã đầu tư toàn diện các cấu thành của nó. Giai đoạn đầu,
sản phẩm này chỉ tồn tại dưới dạng ý tưởng, mang tính chiến lược, được thiết

lập bởi các nhà quản lý và hoạch định, là công cụ để quản lý kiểm soát sự
phát triển của những sản phẩm đơn lẻ nhằm tạo ra sự phát triển hài hòa và bền
vững cho hệ thống sản phẩm du lịch.
- Sản phẩm du lịch đơn lẻ: bao gồm các dạng thức sau
+ Sản phẩm du lịch do ngành du lịch cung cấp bao gồm các loại hình
dịch vụ du lịch tổng hợp hoặc dịch vụ du lịch đơn lẻ (do các doanh nghiệp
đầu tư và quản lý).
+ Sản phẩm du lịch do các ngành kinh tế khác cung cấp: các trung tâm
thương mại sầm uất, các khu công nghiệp hay sản xuất mang tính đặc thù của
điểm đến (ví dụ: một số điểm du lịch ven biển); Các công trình kiến trúc thể
hiện trình độ khoa học công nghệ tân tiến (tháp đôi Malaysia..
+ Sản phẩm du lịch do cộng đồng dân cư cung cấp: các làng nghề, khu
phố ẩm thực, chợ đêm…
* Phân loại sản phẩm du lịch theo đơn vị quản lý hành chính: Sản
phẩm du lịch cấp quốc gia; Sản phẩm du lịch cấp tỉnh; Sản phẩm du lịch cấp
huyện
* Phân loại theo quan điểm tổ chức không gian du lịch:
- Không gian du lịch (không gian hạt nhân): Không gian tài nguyên du
lịch; Không gian dịch vụ du lịch.
- Không gian phụ trợ cho du lịch: Không gian các khu ở của dân cư địa
phương; Không gian công cộng trong đô thị; Không gian của các ngành kinh
tế khác (cảng, công nghiệp khai thác vật liệu, chế biến hải sản…); Không gian
thiên nhiên – quỹ không gian dự trữ phát triển.
* Phân loại sản phẩm du lịch theo phân vị không gian lãnh thổ du lịch:


12

Sản phẩm vùng du lịch; Sản phẩm của tiểu vùng du lịch; Sản phẩm của đô thị
du lịch; Sản phẩm của khu du lịch; Sản phẩm của điểm tham quan du lịch

- Nhóm phân loại sản phẩm theo mục tiêu khai thác
* Phân loại theo đặc điểm giá trị:
- Sản phẩm có giá trị vật chất hay tinh thần
- Sản phẩm có giá trị thẩm mỹ, giá trị địa chất, giá trị văn hóa, giá trị đa
dạng sinh học, giá trị văn hóa – lịch sử, giá trị kiến trúc, giá trị sử dụng (giá trị
kinh tế)
* Phân loại sản phẩm theo đặc thù tài nguyên: Sản phẩm du lịch sinh
thái; Sản phẩm du lịch văn hóa; Sản phẩm du lịch biển – đảo; Sản phẩm du
lịch đô thị; Sản phẩm du lịch nông thôn.
* Phân loại sản phẩm du lịch trên quan điểm bảo vệ môi trường:
- Sản phẩm du lịch ít gây ô nhiễm đến môi trường
- Sản phẩm du lịch gây ô nhiễm nhiều đến môi trường
* Phân loại sản phẩm du lịch theo đặc điểm hoạt động du lịch: Sản
phẩm du lịch nghỉ dưỡng; Sản phẩm du lịch vui chơi giải trí; Sản phẩm du
lịch tham quan; Sản phẩm du lịch mạo hiểm
- Nhóm phân loại sản phẩm theo mục tiêu đáp ứng nhu cầu thị trường
* Phân loại sản phẩm du lịch theo các nhóm thị trường: Sản phẩm du
lịch cao cấp, sản phẩm du lịch bình dân (đại trà); Sản phẩm du lịch cho thị
trường Châu Âu, châu Á, châu Mỹ...; Sản phẩm du lịch cho khách cao tuổi,
trung niên, thanh niên...; Sản phẩm du lịch cho khách quốc tế, khách nội địa.
* Phân loại sản phẩm du lịch theo quan điểm đầu tư kinh doanh: Sản
phẩm có vốn đầu tư ít, vốn đầu tư nhiều; Sản phẩm có lãi suất ít, lãi suất
nhiều ; Sản phẩm du lịch chính, sản phẩm du lịch phụ trợ; Sản phẩm có yêu
cầu kỹ thuật cao, yêu cầu kỹ thuật thấp.


13

d. Những nét đặc trưng cơ bản của sản phẩm du lịch
Khi nghiên cứu sản phẩm du lịch, ngoài việc chú trọng đến các yếu tố

hình thành lên sản phẩm, cần thiết phải lưu ý đến những đặc điểm cơ bản của
sản phẩm du lịch.
Sản phẩm du lịch về cơ bản là không cụ thể, không tồn tại dưới dạng
vật thể do thành phần chính của sản phẩm du lịch là dịch vụ (thường chiếm
80-90% về mặt giá trị), hàng hoá chiếm tỷ trọng nhỏ. Do đó dẫn đến việc:
- Du lịch đòi hỏi phải có du khách để tồn tại, nên sản phẩm du lịch phụ
thuộc vào khách du lịch. Vì vậy việc đánh giá chất lượng sản phẩm du lịch rất
khó khăn, vì phần lớn không phụ thuộc vào người kinh doanh mà phụ thuộc
vào khách du lịch.
- Sản phẩm du lịch không thể dịch chuyển được do sản phẩm du lịch
thường được tạo ra gắn liền với yếu tố tài nguyên du lịch. Trên thực tế, không
thể đưa sản phẩm du lịch đến nơi có khách du lịch mà bắt buộc khách du lịch
phải đến với nơi có sản phẩm du lịch để thoả mãn nhu cầu của mình thông
qua việc tiêu dùng sản phẩm du lịch. Chính vì vậy, công tác tuyên truyền,
quảng bá các sản phẩm du lịch vô cùng quan trọng.
- Phần lớn quá trình tạo ra và tiêu dùng các sản phẩm du lịch trùng
nhau về không gian và thời gian. Đặc điểm này của sản phẩm du lịch là một
trong những nguyên nhân gây khó khăn cho các nhà kinh doanh du lịch trong
việc tiêu thụ sản phẩm. Chúng không thể cất đi, tồn kho như các hàng hoá
thông thường khác. Do vậy, để tạo sự ăn khớp giữa sản xuất và tiêu dùng là
rất khó khăn. Việc thu hút khách du lịch nhằm tiêu thụ sản phẩm du lịch là
vấn đề vô cùng quan trọng đối với các nhà kinh doanh du lịch.
- Việc tiêu dùng sản phẩm du lịch thường không diễn ra đều đặn, mà có
thể chỉ tập trung vào những thời gian nhất định trong ngày (đối với sản phẩm
ở bộ phận nhà hàng), trong tuần (đối với sản phẩm của thể loại du lịch cuối


14

tuần), trong năm (đối với sản phẩm của một số loại hình du lịch như: du lịch

nghỉ biển, du lịch nghỉ núi…).
1.1.2. Loại hình du lịch
a. Khái niệm loại hình du lịch
Loại hình du lịch là các hình thức du lịch được tổ chức nhằm thỏa mãn
mục đích đi du lịch của khách du lịch.
Tác giả Trương Sỹ Quý trong Luận án Tiến sỹ kinh tế “Phương hướng
và một số giải pháp để đa dạng hóa loại hình và sản phẩm du lịch ở Quảng
Nam Đà Nẵng” đã đề cập một cách khá đầy đủ và toàn diện về các khái niệm
về loại hình và sản phẩm du lịch, trong đó đã đúc rút ra khái niệm đáp ứng
đầy đủ nhất là các lý thuyết và thực tiễn phát triển du lịch như sau: “Loại hình
du lịch được hiểu là một tập hợp các sản phẩm du lịch có những đặc điểm
giống nhau, hoặc vì chúng thỏa mãn những nhu cầu, động cơ du lịch tương tự,
hoặc được bán cho cùng một giới khách hàng, hoặc vì chúng có cùng một
cách phân phối, một cách tổ chức như nhau hoặc xếp chung một mức giá bán
nào đó” [2, tr.64]. Với quan niệm này, tác giả cũng làm rõ “mỗi điểm đến khi
muốn phát triển du lịch, từ nghiên cứu nhu cầu và khả năng nguồn cung của
mình, từ các điều kiện phát triển du lịch có thể xác định các tập (nhóm) sản
phẩm cần ưu tiên phát triển, hình thành các loại hình du lịch”.
b. Phân loại loại hình du lịch
Có nhiều cách phân loại loại hình du lịch, trong đó dựa vào các tiêu
thức thường được sử dụng như sau:
- Căn cứ theo mục đích chuyến đi
* Mục đích thuần tuý du lịch: Trong các chuyến đi du lịch, mục đích
của du khách là nghỉ ngơi, giải trí và nâng cao nhận thức về thế giới xung
quanh nên có thể bao gồm những loại hình sau:


15

- Du lịch tham quan: Tham quan là một hoạt động của con người để

nâng cao nhận thức về mọi mặt. Tuỳ thuộc vào đối tượng tham quan mà có
các loại hình: Du lịch văn hoá và du lịch sinh thái
- Du lịch giải trí
- Du lịch thể thao không chuyên
- Du lịch khám phá: Tuỳ thuộc vào mức độ, tính chất của chuyến du
lịch có thể chia thành hai loại hình: Du lịch tìm hiểu và Du lịch mạo hiểm
- Du lịch nghỉ dưỡng
* Mục đích du lịch kết hợp: Những người thực hiện các chuyến đi do
nhu cầu công tác, học tập, hội nghị, tín ngưỡng ..., trong đó có sử dụng các
dịch vụ du lịch như lưu trú, ăn uống tại khách sạn …đã tranh thủ thời gian rỗi
có được để tham quan, nghỉ ngơi và nâng cao nhận thức về thiên nhiên, đời
sống, văn hoá nơi họ đến. Gồm có các loại hình du lịch: Du lịch tôn giáo; Du
lịch học tập, nghiên cứu; Du lịch thể thao kết hợp; Du lịch công vụ (kinh
doanh, hội nghị); Du lịch chữa bệnh; Du lịch thăm thân nhân.
- Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ của chuyến đi du lịch:
+ Du lịch quốc tế: là hình thức du lịch mà ở đó điểm xuất phát và điểm
đến của khách nằm ở lãnh thổ của các quốc gia khác nhau. Trong đó có du
lịch quốc tế chủ động và du lịch quốc tế bị động.
+ Du lịch nội địa: là hình thức đi du lịch mà điểm xuất phát và điểm
đến của khách nằm trong lãnh thổ của một quốc gia.
- Căn cứ vào đối tượng khách du lịch: du lịch thanh, thiếu niên; du lịch
dành cho người cao tuổi; du lịch phụ nữ, du lịch gia đình;
- Căn cứ vào hình thức tổ chức chuyến đi: du lịch theo đoàn; du lịch cá
nhân.
- Căn cứ vào phương tiện giao thông được sử dụng:
+ Phương tiện vận chuyển hiện đại: du lịch bằng tàu hỏa; du lịch bằng


16


ôtô; du lịch bằng tàu thủy; du lịch bằng máy bay.
+ Phương tiện vận chuyển thô sơ: du lịch bằng xe đạp; du lịch bằng xe
máy; du lịch bằng voi, du lịch bằng ngựa, du lịch bằng trâu;
- Căn cứ vào phương tiện lưu trú được sử dụng: du lịch ở khách sạn
(Hotel); du lịch ở khách sạn ven đường (Motel); du lịch ở lều, trại (Camping);
du lịch ở làng du lịch (Tourism village).
- Căn cứ vào thời gian đi du lịch: du lịch dài ngày, du lịch ngắn ngày.
- Căn cứ vào vị trí địa lý của nơi đến du lịch: du lịch nghỉ núi; du lịch
nghỉ biển, sông, hồ; du lịch thành phố; du lịch đồng quê.
1.1.3. Dịch vụ du lịch
a. Khái niệm dịch vụ du lịch
Theo Điều 4 chương I - Luật Du lịch Việt Nam, dịch vụ du lịch là việc
cung cấp các dịch vụ về lữ hành, vận chuyển, lưu trú, ăn uống, vui chơi giải
trí, thông tin, hướng dẫn và những dịch vụ khác nhằm đáp ứng nhu cầu của
khách du lịch.
b. Phân loại các dịch vụ du lịch
Các dịch vụ du lịch rất phong phú, song ta có thể chia các hoạt động
dịch vụ du lịch thành các nhóm sau:
- Các loại hình dịch vụ du lịch chính: Dịch vụ lữ hành, Dịch vụ lưu trú,
Dịch vụ vận chuyển.
- Các dịch vụ du lịch bổ sung: là các dịch vụ phục vụ các nhu cầu đòi
hỏi rất đa dạng và phát sinh trong chuyến đi của du khách
Hoạt động dịch vụ du lịch là nội dung kinh doanh chính của đa phần
các doanh nghiệp du lịch, khu du lịch, trung tâm du lịch. Song bên cạnh đó,
việc cung cấp các dịch vụ bổ sung cũng là một phần quan trọng trong hoạt
động du lịch. Việc tổ chức cung cấp các dịch vụ bổ sung sẽ đáp ứng đầy đủ
hơn nhu cầu của khách du lịch, kéo dài hơn mùa du lịch, tăng doanh thu cho


17


ngành du lịch của một vùng, một quốc gia và tận dụng triệt để hơn các cơ sở
vật chất kỹ thuật sẵn có. Thường thì chi phí tổ chức cung cấp dịch vụ bổ sung
không đáng kể so với lợi nhuận thu được nên đây là giải pháp hữu hiệu để
tăng tính hấp dẫn của một sản phẩm du lịch, tăng sự khác biệt và tăng cường
vị thế cạnh tranh.
c. Mối quan hệ giữa sản phẩm du lịch và hoạt động dịch vụ du lịch
- Trước hết sản phẩm du lịch và hoạt động dịch vụ du lịch đều là đầu ra
của hệ thống ngành du lịch của một vùng (quốc gia, địa phương).
- Các sản phẩm du lịch và hoạt động du lịch của một vùng là kết quả
của việc sử dụng các yếu tố đầu vào của hệ thống ngành du lịch vùng và sự
“chế biến” thông qua cơ chế tác động qua lại lẫn nhau của các phần từ bên
trong hệ thống đó.
- Các sản phẩm du lịch và hoạt động dịch vụ du lịch của môt vùng thể
hiện sự thích nghi và tương tác giữa các phần từ bên trong của hệ thống du
lịch vùng với các yếu tố bên ngoài hệ thống.
- Sản phẩm du lịch là đầu ra của hệ thống xét ở góc độ tiêu dùng, hoạt
động dịch vụ du lịch là đầu ra của hệ thống xét ở góc độ cung ứng. Các hoạt
động dịch vụ du lịch càng phong phú, đa dạng, hiệu quả thì sản phẩm du lịch
mà khách có được càng đa dạng và chất lượng.
d. Nguyên tắc và các yêu cầu đối với việc phát triển dịch vụ du lịch
Nguyên tắc chung với tất cả các dịch vụ du lịch là thông qua các hoạt
động của mình để giới thiệu với du khách các giá trị đặc thù của tài nguyên du
lịch nhưng phải đảm bảo không phá vỡ môi trường cảnh quan, không gây ô
nhiễm, bảo đảm an ninh trật tự và an toàn cho du khách.
Các yêu cầu riêng đối với từng loại hình dịch vụ là:
- Dịch vụ lữ hành: phải xây dựng các tour hợp lý, phong phú, phối hợp
nhịp nhàng các dịch vụ đơn lẻ theo những cách phù hợp để thỏa mãn hoàn



18

toàn được các thị trường đa dạng của nó.
- Dịch vụ vận chuyển: cần tạo khả năng tiếp cận tốt nhất với tài nguyên,
không gây khói bụi, tiếng ồn và chất thải ra môi trường. Quy mô và kiểu dáng
hài hòa với cảnh quan.
- Dịch vụ lưu trú: có số lượng và quy mô phát triển đáp ứng được nhu
cầu khách mà không vượt quá sức chứa môi trường. Bảo đảm các yêu cầu sử
dụng thuận lợi, tiện nghi, vệ sinh. Quy hoạch, thiết kế công trình kiến trúc
phải tạo ra sức hấp dẫn tổng thể cho điểm đến và đáp ứng tốt tâm lý thẩm mỹ
của từng đối tượng thị trường khách.
- Dịch vụ vui chơi giải trí: ưu tiên đầu tư các loại hình vui chơi, giải trí
gắn với việc khai thác đặc thù của tài nguyên du lịch để tạo ra nét đặc trưng
riêng biệt. Vị trí, quy mô công trình phải hài hòa với cảnh quan và không vượt
quá khả năng chịu tải của môi trường.
- Dịch vụ ăn uống: Ngoài tiêu chuẩn vệ sinh và chất lượng thực phẩm,
các dịch vụ ăn uống cần phải thông qua hoạt động của mình để giới thiệu với
du khách về phong tục, tập quán và văn hóa ẩm thực của địa phương.
- Dịch vụ hàng hóa: Phù hợp với nhu cầu của khách về nội dung, chất
lượng, thẩm mỹ. Hàng hóa lưu niệm phải mang đậm nét đặc trưng bản địa mà
các địa phương khác không có.
1.2. PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM DU LỊCH
1.2.1. Quan điểm phát triển sản phẩm du lịch
Phát triển là một khái niệm bao trùm, mang tính xã hội. Phát triển được
hiểu là một quá trình tăng trưởng bao gồm nhiều yếu tố cấu thành khác nhau
về kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội, khoa học kỹ thuật… Phát triển là xu
hướng tự nhiên tất yếu của thế giới vật chất nói chung, của xã hội loài người
nói riêng.
Nội dung phát triển du lịch có nêu tại Điều 1 [16, tr.01] tại Quyết định



19

số 2473/QĐ-TTg ngày 30/12/2011 về phê duyệt “Chiến lược phát triển du
lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”, quan điểm như sau:
- Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn; du lịch chiếm tỷ
trọng ngày càng cao trong cơ cấu GDP, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh
tế - xã hội.
- Phát triển du lịch theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, có trọng tâm,
trọng điểm; chú trọng phát triển theo chiều sâu đảm bảo chất lượng và hiệu
quả, khẳng định thương hiệu và khả năng cạnh tranh.
- Phát triển đồng thời cả du lịch nội địa và du lịch quốc tế; chú trọng du
lịch quốc tế đến; tăng cường quản lý du lịch ra nước ngoài.
- Phát triển du lịch bền vững gắn chặt với việc bảo tồn và phát huy các
giá trị văn hóa dân tộc; giữ gìn cảnh quan, bảo vệ môi trường; bảo đảm an
ninh, quốc phòng, trật tự an toàn xã hội.
- Đẩy mạnh xã hội hóa, huy động mọi nguồn lực cả trong và ngoài
nước cho đầu tư phát triển du lịch; phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế quốc gia
về yếu tố tự nhiên và văn hóa dân tộc, thế mạnh đặc trưng các vùng, miền
trong cả nước; tăng cường liên kết phát triển du lịch.
Như vậy phát triển sản phẩm du lịch hiện nay không chỉ chú trọng đến
phát triển về quy mô, số lượng các doanh nghiệp kinh doanh du lịch, dịch vụ
du lịch…; kết hợp với sự tăng trưởng về doanh thu, số lượng khách du lịch
đến lưu trú kể cả trong nước và quốc tế, mà chuyển trọng tâm sang nâng cao
chất lượng sản phẩm dịch vụ du lịch, hoàn thiện các sản phẩm du lịch, các
loại hình du lịch ngày càng được đa dạng hóa, cơ cấu dịch vụ du lịch tăng lên
chiếm tỷ trọng cao trong tổng cơ cấu kinh tế chung. Bên cạnh đó, phát triển
sản phẩm du lịch cần quan tâm đến chất lượng nguồn nhân lực du lịch, công
tác quản lý điểm đến.



20

1.2.2. Nội dung phát triển sản phẩm du lịch
Hiện nay quan điểm chiến lược dẫn dắt du lịch Việt Nam trong thập kỷ
tới “Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm
2030” là chuyển trọng tâm sang phát triển chiều sâu chất lượng và hiệu quả.
Chiến lược xác định 7 giải pháp bao gồm phát triển sản phẩm du lịch, phát
triển hệ thống hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch, đào tạo và
phát triển nguồn nhân lực du lịch, phát triển thị trường, xúc tiến quảng bá và
thương hiệu du lịch, đầu tư và chính sách phát triển du lịch, hợp tác quốc tế về
du lịch và quản lý nhà nước về du lịch. Quan điểm chuyển từ phát triển về
lượng, theo chiều rộng sang tập trung phát triển về chất, theo chiều sâu theo
hướng hiện đại. Do đó phát triển sản phẩm du lịch không chỉ phát triển về số
lượng mà phải coi trọng chất lượng và được đặt lên hàng đầu, các sản phẩm
du lịch phải có chất lượng và giá trị gia tăng cao.
a. Xây dựng chiến lược phát triển sản phẩm du lịch
- Định hướng phát triển sản phẩm du lịch:
+ Xác định vị trí, vai trò du lịch của địa phương.
+ Định hướng khai thác tài nguyên du lịch theo không gian và đầu tư
phát triển.
+ Định hướng phát triển các loại hình du lịch, tuyến điểm du lịch và
loại hình dịch vụ phù hợp với nhu cầu thị trường mà không làm tổn hại đến tài
nguyên và môi trường trong tương lai.
- Phân tích nhu cầu sản phẩm du lịch của thị trường: Dựa trên việc
phân tích các khía cạnh sau
+ Bối cảnh kinh tế - xã hội, chính trị và trình độ khoa học kỹ thuật thế
giới.
+ Cơ chế chính sách của Đảng và Nhà nước có liên quan đến sự phát
triển của du lịch và sản phẩm du lịch.



21

+ Xác định xu hướng phát triển của thị trường
- Phân tích khả năng đáp ứng nhu cầu du lịch của điểm đến: Đánh giá
tiềm năng du lịch của điểm đến trên cơ sở
+ Phân tích đánh giá điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội.
+ Thống kê, phân tích, đánh giá mức độ hấp dẫn của tài nguyên du lịch
và mức độ nhạy cảm của môi trường.
+ Phân tích đánh giá điều kiện cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất của ngành
du lịch.
- Phân tích đánh giá hiện trạng khai thác tài nguyên và phát triển sản
phẩm du lịch tại địa phương
+ Hiện trạng khách: số lượng, doanh thu, cơ cấu, đặc điểm nhu cầu…
+ Hiện trạng khai thác tài nguyên và những tác động đến môi trường.
+ Hiện trạng tổ chức không gian và tuyến điểm du lịch.
+ Những khó khăn về quản lý, kinh doanh, nguồn nhân lực trong quá
trình xây dựng sản phẩm.
- Xác định danh mục, loại hình sản phẩm du lịch.
b. Phát triển quy mô sản phẩm du lịch
* Doanh thu du lịch: là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ số tiền thu được do
kết quả hoạt động kinh doanh của các cơ sở kinh doanh phục vụ các nhu cầu
khách du lịch trong một thời gian nhất định (bao gồm cả khách du lịch trong
nước và khách du lịch của nước ngoài). Phát triển sản phẩm du lịch bảo đảm
sự gia tăng nhanh về thu nhập; lấy doanh thu du lịch là chỉ tiêu đánh giá khái
quát hiệu quả kinh tế. Sự tăng trưởng của doanh thu đem lại nguồn thu nhập
lớn cho địa phương, tạo việc làm cho xã hội, góp phần đảm bảo an sinh, giữ
vững an ninh quốc phòng.
* Phát triển các cơ sở kinh doanh: Sự phát triển cơ sở kinh doanh du

lịch thể hiện ở tốc độ tăng trưởng số lượng, quy mô cơ sở kinh doanh du lịch,


22

phân theo các nhóm ngành dịch vụ. Để phân tích sự phát triển du lịch, sản
phẩm du lịch của mỗi địa phương, cần phân tích biến động số lượng cơ sở
kinh doanh du lịch (doanh nghiệp), sự tăng trưởng số lượng doanh nghiệp
phân theo các nhóm ngành dịch vụ như vận chuyển, lưu trú, nhà hàng...
* Khách du lịch: Xác định khách du lịch quốc tế và du lịch nội địa có
quan hệ qua lại, bổ sung cho nhau, đây là tiền đề cơ bản kích thích sự tăng
trưởng cùng phát triển sản phẩm du lịch.
c. Nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch
- Nâng cao chất lượng lao động: Lao động là một nhân tố quan trọng và
không thể thiếu trong quá trình phát triển du lịch. Sự phát triển nguồn nhân
lực du lịch thể hiện ở số lượng, cơ cấu, trình độ, kỹ năng ứng xử của đội ngũ
lao động trong các doanh nghiệp kinh doanh du lịch.
- Tăng cường cơ sở vật chất – kỹ thuật du lịch: Là toàn bộ các phương
tiện vật chất do các tổ chức du lịch tạo ra để khai thác các tiềm năng du lịch
do đó đây là điều kiện ràng buộc để hình thành sản phẩm du lịch nhằm cung
cấp và làm thỏa mãn nhu cầu du khách. Muốn phát triển gia tăng, bền vững
thì ngành du lịch nói chung và sản phẩm du lịch nói riêng phải có một hệ
thống cơ sở vật chất kỹ thuật tốt.
- Tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ du lịch: góp phần hiện đại
hóa cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, tạo ra những sản phẩm du lịch ngày càng
mới lạ, hấp dẫn, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của du khách.
- Nâng cao năng lực và tạo lập sự liên kết chặt chẽ giữa các chủ thể
tham gia hoạt động du lịch: Phát triển du lịch cần có sự liên kết hợp tác giữa
các doanh nghiệp kinh doanh du lịch và cần có sự liên kết hợp tác của cộng
đồng địa phương, các đối tượng liên quan.

- Nâng cao chất lượng môi trường cho phát triển sản phẩm du lịch:
Bảo vệ môi trường trong hoạt động du lịch là rất cần thiết đối với việc phát


23

triển du lịch và phát triển sản phẩm du lịch. Bởi vì hoạt động du lịch luôn gắn
với việc khai thác các tiềm năng của nguồn tài nguyên tự nhiên (là nguồn tài
nguyên không thể tái tạo), cũng như tài nguyên nhân văn do đó nó chịu tác
động và gây ảnh hưởng rất lớn đến môi trường. Đây những thành phần quan
trọng tạo nên lực hấp dẫn đối với khách du lịch.
1.2.3. Các yêu cầu và nguyên tắc phát triển sản phẩm du lịch
Yêu cầu chủ đạo và xuyên suốt quá trình xã hội và phát triển sản phẩm
du lịch, đó là phát triển bền vững: Thỏa mãn các nhu cầu du lịch của thị
trường, đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội lớn cho điểm đến mà không làm suy
giảm quá nhiều chất lượng của tài nguyên và môi trường trong tương lai.
Để bảo đảm được yêu cầu này, phát triển sản phẩm phải tuân thủ các
nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc phát triển hệ thống: Sản phẩm du lịch phải được phát triển
một cách hệ thống và đồng bộ, đúng với chức năng được quy định trong chiến
lược phát triển của tỉnh, của ngành và của đất nước. Tránh sự phát triển manh
mún, trùng lặp ảnh hưởng đến sức hấp dẫn tổng thể và sự bền vững về cấu
trúc.
- Nguyên tắc kinh tế thị trường: thể hiện ở các khía cạnh sau:
+ Các sản phẩm du lịch phải có nét đặc trưng riêng biệt để tạo ra
thương hiệu và sức cạnh tranh lớn trong thị trường khu vực.
+ Sản phẩm du lịch phải đáp ứng được toàn diện các nhu cầu đa dạng
của thị trường mục tiêu (nhu cầu vật chất, nhu cầu tinh thần, khả năng chi trả,
khả năng tiếp cận).
+ Sản phẩm du lịch phải phù hợp với điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh

tế - xã hội đặc thù của địa phương và khả năng đầu tư sản xuất của doanh
nghiệp để tiết kiệm chi phí, đem lại lợi nhuận cao.
- Nguyên tắc bền vững môi trường (bao gồm cả môi trường tự nhiên và


24

xã hội):
+ Sự phát triển của sản phẩm du lịch phải góp phần bảo tồn và tôn vinh
các giá trị tài nguyên, môi trường và văn hóa của khu vực.
+ Phải tạo điều kiện cho các ngành nghề địa phương cùng phát triển và
thu hút được người dân tham gia vào quá trình đầu tư sản xuất.
1.2.4. Các tiêu chí về phát triển sản phẩm du lịch
Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp có tính liên ngành, liên vùng và
xã hội hóa cao với sự tham gia của nhiều thành phần xã hội. Sự phát triển của
du lịch và sản phẩm du lịch phụ thuộc nhiều và các điều kiện kinh tế, chính
trị, xã hội … của đất nước cũng như của khu vực và thế giới. Chính vì vậy để
có thể đánh giá phát triển sản phẩm du lịch một cách chính xác phải dựa vào
các tiêu chí cơ bản sau:
* Tiêu chí về kinh tế
- Tăng trưởng kinh tế cho địa phương: Doanh thu trực tiếp và gián tiếp
từ du lịch ; Tỉ lệ giữa doanh thu khách nội địa và doanh thu khách quốc tế.
- Kinh doanh du lịch:
+ Lượng du khách đến với địa phương hàng năm
+ Quốc tịch của du khách và thời gian lưu trú tại địa phương.
+ Đánh giá của du khách và giá cả/giá trị: bao gồm giá cả và mức độ
hấp dẫn của sản phẩm du lịch.
+ Số lượng khách sạn, cơ sở lưu trú, số phòng và số lượng các doanh
nghiệp tham gia kinh doanh trong lĩnh vực du lịch.
+ Số kênh marketing hiện có và phần trăm du khách biết được thông tin

về sản phẩm du lịch địa phương qua các kênh này.
- Giải quyết việc làm: Số lượng việc làm trực tiếp và gián tiếp do du
lịch tạo ra ; Tỷ lệ người địa phương so với người ngoài địa phương tham gia
vào sản phẩm du lịch.


25

* Tiêu chí về văn hóa – xã hội
Bảo tồn các nét văn hóa vật thể và phi vật thể
+ Các nét văn hóa mới tốt và xấu du nhập vào cộng đồng theo thời gian
+ Số lượng tổ chức các hoạt động sản phẩm văn hóa địa phương trong
năm
+ Công tác bảo tồn di tích, nét văn hóa truyền thống
* Tiêu chí về môi trường : Thay đổi về tỷ lệ che phủ rừng của địa
phương trước và sau khi áp dụng sản phẩm du lịch ; Ngân sách đầu tư vào bảo
tồn và tôn tạo các dự án về cải thiện môi trường ; Thay đổi về lượng rác thải
sinh ra ; Nhận thức của du khách về vấn đề rác thải ; Chi phí xử lý rác thải
của địa phương và các doanh nghiệp
1.3. CÁC NHÂN TỐ PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM DU LỊCH
1.3.1. Nhân tố phát triển kinh tế - xã hội
Đây được xem là điều kiện chung có ảnh hưởng nhiều đến hoạt động
kinh doanh du lịch. Để đảm bảo có thể thu hút và khai thác khách du lịch nói
chung thì cần có: Tình hình chính trị hòa bình ổn định, tình hình kinh tế tăng
trưởng và phát triển, tình hình an ninh trật tự an toàn và đảm bảo.
1.3.2. Nhân tố tài nguyên du lịch
Tài nguyên là nhóm yếu tố góp phần quan trọng nhất trong việc tạo ra
bản sắc đặc trưng cho sản phẩm du lịch và đóng vai trò quyết định trong việc
tạo sức hút đối với các thị trường khách du lịch. Đây là điều kiện đặc trưng
riêng của từng nơi, từng vùng và là cơ sở để xây dựng sản phẩm du lịch và

phát triển du lịch. Tất cả những gì con người sáng tạo ra thêm đều nhằm tăng
thêm giá trị cho điểm tài nguyên.
Tài nguyên du lịch được phân làm 2 nhóm: tài nguyên thiên nhiên và
tài nguyên nhân văn.
- Tài nguyên thiên nhiên gồm: địa hình, khí hậu; động, thực vật, nguồn


×