Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

MỐI QUAN HỆ GIỮA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG TRONG VIỆC ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ VÀ ĐỔI MỚI KINH TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.67 KB, 37 trang )

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự ra đời của chủ nghĩa duy vật lịch sử đã đem lại cho triết học một quan niệm
vừa duy vật, vừa biện chứng về lịch sử; đã kết hợp một cách hữu cơ chủ nghĩa duy
vật với phép biện chứng. Đó chính là một trong những ý nghĩa thời đại mà C. Mác đã
đóng góp cho nhân loại. Với việc ra đời của khái niệm hình thái kinh tế - xã hội, C.
Mác đã cung cấp cho khoa học xã hội cách tiếp cận mới khi nghiên cứu về xã hội. Sự
thay thế khái niệm xã hội nói chung bằng khái niệm hình thái kinh tế - xã hội cho
phép chúng ta hình dung rõ các yếu tố cấu thành xã hội, các giai đoạn phát triển của
xã hội, đồng thời thấy được nguyên nhân vận động và phát triển của xã hội nói
chung.
Trong hình thái kinh tế - xã hội, theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử,
cơ sở hạ tầng (bao gồm tổng thể các quan hệ sản xuất) có vai trò quyết định đối với
kiến trúc thượng tầng bao gồm hệ tư tưởng, các thể chế tương ứng - cái được thiết lập
trên cơ sở hạ tầng đó. Tuy nhiên, kiến trúc thượng tầng có tính độc lập tương đối và
có tác động ngược trở lại đối với cơ sở hạ tầng. Đây chính là điểm mà C. Mác đã nói
đến khi khẳng định rằng, “cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng
đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng”. Đó là sự tác động qua lại giữa hai nhân
tố này ảnh hưởng trực tiếp tới sự vận động của mỗi hình thái kinh tế - xã hội.
Vận dụng quan điểm trên vào quá trình đổi mới theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam cần vận dụng và quán triệt quan hệ biện
chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng là kết cấu kinh tế đa
thành phần trong đó có thành phần kinh tế Nhà nước, thành phần kinh tế tập thể,
thành phần kinh tế tư nhân và thành phần kinh tế có nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Tính chất đan xen - quá độ về kết cấu của cơ sở kinh tế vừa làm cho nền kinh tế sôi
động, phong phú, vừa mang tính phức tạp trong quá trình thực hiện định hướng xã
Trang 1



hội chủ nghĩa. Đây là một kết cấu kinh tế năng động, phong phú được phản chiếu trên
nền kiến trúc thượng tầng và đặt ra đòi hỏi khách quan là nền kiến trúc thượng tầng
cũng phải đổi mới để đáp ứng đòi hỏi của cơ sở kinh tế. Vận dụng quan điểm này vào
công cuộc đổi mới ở đất nước ta hiện nay, chúng ta cần nghiên cứu, tìm hiểu mối
quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng để tìm hiểu và xác
định những định hướng đúng đắn nhằm khắc phục những mâu thuẫn nội tại trong xã
hội nhằm duy trì và củng cố sự ổn định của xã hội hiện thời.
Nhằm mục đích nâng cao năng lực lý luận chính trị, năng lực hiểu biết về cơ sở
khoa học trong việc giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Qua đó, có thể góp phần vào công cuộc xây dựng và
phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy,
việc nghiên cứu để làm rõ mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở
nước ta hiện nay là vấn đề quan trọng và có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Do đó,
tác giả đã chọn đề tài: “Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng vào việc giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị ở Việt Nam hiện nay” làm tiểu luận tốt nghiệp chương trình trung cấp
lý luận - hành chính, lớp H513. Do hạn chế về thời gian nghiên cứu và trình độ nhận
thức của học viên nên đề tài không thể không có những thiếu sót. Tác giả rất mong
nhận được sự hướng dẫn, góp ý của quý Thầy, Cô khoa Lý luận chính trị của Học
viện Cán bộ thành phố Hồ Chí Minh.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của đề tài là vận dụng một cách đúng đắn mối quan hệ biện chứng
giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác - Lênin vào việc giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị ở Việt Nam từ khi đổi mới (Đại hội Đảng lần thứ VI, 1986) đến nay.
Để thực hiện mục đích trên, nhiệm vụ của đề tài là phân tích làm rõ mối quan hệ
biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng và ý nghĩa phương pháp luận;
thành tựu, hạn chế của việc vận dụng mối quan hệ biện chứng trên vào giải quyết mối
Trang 2



quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ
đó, đề tài chỉ ra phương hướng, giải pháp và một số kiến nghị để thực hiện, vận dụng
vào thực tiễn đất nước có hiệu quả hơn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng
và kiến trúc thượng tầng thuộc phạm trù chủ nghĩa duy vật lịch sử - một trong những
phát kiến vĩ đại (hòn đá tảng) của Mác; mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế
và đổi mới chính trị ở Việt Nam từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra chủ trương đổi
mới (Đại hội VI, 1986) cho đến nay.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là tập trung giải quyết sự vận dụng lý luận về mối
quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của Đảng Cộng sản
Việt Nam vào việc giải các vấn đề về đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị được đề
cập trong các văn kiện của Đảng.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để làm rõ đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp luận triết học Mác - Lênin,
phương pháp lịch sử và logic, phương pháp so sánh, tổng hợp và phân tích, kết hợp
chặt chẽ với quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, với kinh nghiệm
thực tiễn và kiến thức khoa học hiện đại đã học từ chương trình trung cấp lý luận
chính trị - hành chính.
5. Kết cấu của đề tài
Đề tài tiểu luận tốt nghiệp ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo, bao gồm 2 chương.
Chương 1: Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Chương 2: Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng váo quá trình đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị

Trang 3



CHƯƠNG 1:
MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CƠ SỞ HẠ TẦNG
VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG
1.1.

Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng

Xét về tổng thể, đời sống xã hội là một hệ thống cơ cấu tổ chức hết sức phức
tạp, những mối quan hệ chi phối lẫn nhau từ lĩnh vực của những quan hệ kinh tế đến
lĩnh vực của những quan hệ chính trị, pháp luật, đạo đức, tôn giáo... Và quan hệ sản
xuất được hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất tạo thành quan hệ
vật chất của xã hội. Trên cơ sở quan hệ sản xuất hình thành nên các quan hệ về chính
trị và tinh thần của xã hội. Hai mặt đó của đời sống xã hội được khái quát thành cơ sở
hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội. Mác khẳng định: “Toàn bộ những quan
hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó
dựng nên một kiến trúc thượng tầng phá lý chính trị và những hình thái ý thức xã hội
nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó”1.
1.1.1. Cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của
một xã hội nhất định.2
Cơ sở hạ tầng đã phản ánh chức năng xã hội của các quan hệ xã hội của các
quan hệ sản xuất với tư cách là cơ sở kinh tế của các hiện tượng xã hội. Đúng vậy,
mỗi một hình thái kinh tế - xã hội có một kết cấu kinh tế đặc trưng là cơ sở hiện thực
của xã hội, hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất vật chất xã hội.
Nó bao gồm không chỉ những quan hệ trực tiếp giữa người với người trong sản xuất
vật chất mà nó còn bao gồm cả những quan hệ kinh tế, trao đổi trong quá trình tái sản
xuất ra đời sống vật chất của con người.
Cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể thường bao gồm: kiểu quan hệ sản xuất
thống trị trong nền kinh tế. Đồng thời trong mỗi cơ sở hạ tầng xã hội còn có những
quan hệ sản xuất khác như: dấu vết, tàn dư quan hệ sản xuất cũ và mầm mống, tiền

đề của quan hệ sản xuất mới. Cơ sở hạ tầng của xã hội cụ thể được đặt trong trước
1 Bộ giáo dục và đào tạo, giáo trình triết học Mác - Lênin, NXB Chính trị quốc gia, 2003, tr358.
2 Bộ giáo dục và đào tạo, giáo trình triết học Mác - Lênin, NXB Chính trị quốc gia, 2003, tr359

Trang 4


hết bởi kiểu quan hệ sản xuất thống trị tiêu biểu cho cuộc sống hiện tại và những
quan hệ sản xuất quá độ, hay những tàn dư cũ, mầm mống mới có vai trò nhất định
giữa chúng tuy có khác nhau nhưng không tách rời nhau vừa đấu tranh với nhau, vừa
liên hệ với nhau và hình thành cơ sở hạ tầng của mỗi xã hội cụ thể ở mỗi giai đoạn
phát triển nhất định của lịch sử.
Ví dụ như: Trong xã hội phong kiến ngoài quan hệ sản xuất phong kiến chiếm
địa vị thống trị, nó còn có quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội chiếm hữu nô lệ, mầm
mống của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và chính ba yếu tố đó cấu thành nên cơ
sở hạ tầng phong kiến.
Đặc trưng cho tính chất của một cơ sở hạ tầng là do quan hệ sản xuất thống trị
quy định. Quan hệ sản xuất thống trị qui định và tác động trực tiếp đến xu hướng
chung của toàn bộ đời sồng kinh tế - xã hội. Qui định tính chất cơ bản của toàn bộ cơ
sở hạ tầng xã hội đương thời mặc dù quan hệ tàn dư, mầm mống có vị trí không đáng
kể trong xã hội có nền kinh tế xã hội phát triển đã trưởng thành, nhưng lại có vị trí
quan trọng trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần của xã hội đang ở giai đoạn mang
tính chất quá độ.
Cơ sở hạ tầng mang tính chất đối kháng tồn tại trong xã hội dựa trên cơ sở
chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Tính chất đối kháng của cơ sở hạ tầng được
bắt nguồn từ những mâu thuẫn nội tại không thể điều hoà được trong cơ sở hạ tầng đó
và do bản chất của kiểu quan hệ sản xuất thống trị quy định. Đó là sự biểu hiện của
sự đối lập về lợi ích kinh tế giữa các tập đoàn người trong xã hội.
Như vậy, cơ sở hạ tầng là tổng thể và mâu thuẫn rất phức tạp, là quan hệ vật chất
tồn tại khách quan độc lập với ý thức con người. Nó được hình thành trong quá trình

sản xuất vật chất và trực tiếp biến đổi theo sự tác động và phát triển của lực lượng sản
xuất.

1.1.2. Kiến trúc thượng tầng
Trang 5


Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, đạo
đức, triết học, tôn giáo, nghệ thuật... cùng với những thiết chế xã hội tương ứng như
nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể... được hình thành trên một cơ sở hạ
tầng nhất định3.
Kiến trúc thượng tầng là những hiện tượng xã hội, biểu hiện tập trung đời sống
tinh thần của xã hội, là bộ mặt tinh thần tư tưởng của hình thái kinh tế - xã hội. Nó
đóng vai trò quan trọng cùng các bộ phận khác trong xã hội hợp thành cơ cấu hoàn
chỉnh của hình thái kinh tế - xã hội.
Như vậy, các bộ phận khác nhau của kiến trúc thượng tầng đều ra đời và có vai
trò nhất định trong việc tạo nên bộ mặt tinh thần, tư tưởng của xã hội phát triển trên
một cơ sở hạ tầng nhất định, là phản ánh cơ sở hạ tầng. Song không phải tất cả các
yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều liên quan như nhau với cơ sở hạ tầng của nó. Mà
trong xã hội có giai cấp, tư tưởng chính trị, tư tưởng pháp quyền cùng những tổ chức
tương ứng như chính đảng, nhà nước là những bộ phận quan trọng nhất, mạnh mẽ
nhất và là thành phần chính của kiến trúc thượng tầng, tiêu biểu cho chế độ chính trị,
xã hội ấy. Ngoài ra còn có các yếu tố khác đối lập với những tư tưởng quan điểm, tổ
chức chính trị của các giai cáp bị trị.
Kiến trúc thượng tầng của xã hội có đối kháng giai cấp mang tính giai cấp sâu
sắc. Tính giai cấp của kiến trúc thượng tầng biểu hiện ở sự đối địch về quan điểm, tư
tưởng và các cuộc đấu tranh về tư tưởng của các giai cấp đối kháng. Bộ phận có
quyền lực mạnh nhất của kiến trúc thượng tầng của xã hội có tính chất đối kháng giai
cấp là nhà nước. Đây là công cụ của giai cấp thống trị tiêu biểu cho xã hội về mặt
pháp lý chính trị. Nhờ có nhà nước, giai cấp thống trị mới thực hiện được sự thống trị

của mình về tất cả các mặt của đời sống xã hội.
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên cộng sản chủ nghĩa, những tàn dư tư
tưởng của các giai cấp thống trị bóc lột vẫn còn tồn tại trong kiến trúc thượng tầng.
Vì vậy, trong kiến trúc thượng tầng của các nước xã hội chủ nghĩa ở thời kỳ này vẫn
còn sự đấu tranh giữa tư tưởng xã hội chủ nghĩa với những tàn dư tư tưởng khác. Chỉ
3 Bộ giáo dục và đào tạo, giáo trình triết học Mác - Lênin, NXB Chính trị quốc gia, 2003, tr359

Trang 6


đến chủ nghĩa cộng sản, tính giai cấp của giai cấp của giai cấp thượng tầng mới bị
xoá bỏ.
1.2.

Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy tâm thì nhà nước và pháp luật quyết định

quan hệ kinh tế, ý thức tư tưởng quyết định tiến trình phát triển của xã hội. Theo chủ
nghĩa duy vật, kinh tế là yếu tố duy nhất quyết định còn ý thức tư tưởng, chính trị
không có vai trò gì đối với tiến bộ xã hội.
Chủ nghĩa Mác- Lênin khẳng định: Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có
quan hệ biện chứng không tách rời nhau, trong đó có cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết
định kiến trúc thượng tầng. Còn kiến trúc thượng tầng là phản ánh cơ sở hạ tầng,
nhưng nó có vai trò tác động trở lại to lớn đối với cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó.
Trong sự thống nhất biện chứng này, sự phát triển của cơ sở hạ tầng đóng vai trò
quyết định với kiến trúc thượng tầng. Kiến trúc thượng tầng phải phù hợp với tính
chất trình độ phát triển của cơ sở hạ tầng hay cơ sở hạ tầng như thế nào thì kiến trúc
thượng tầng như thế ấy. Sự biến đổi giữa hai yếu tố này cũng tuân theo mối quan hệ
biện chứng giữa chất và lượng diễn ra theo hai hướng :
Một là: sự phát triển hoặc giảm đi về lượng dẫn đến sự biến đổi ngay về chất.

Hai là: sự tăng hay giảm về lượng không làm cho chất thay đổi ngay mà thay
đổi dần dần từng phần từng bước .
Theo quy luật này thì quá trình biến đổi giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng diễn ra như sau:
Khi cơ sở hạ tầng phát triển đến một mức độ giới hạn nào đó gọi là điểm nút, thì
nó đòi hỏi phải kéo theo sự thay đổi về kiến trúc thượng tầng. Quá trình này không
chỉ đơn thuần là sự biến một hay nhiều bộ phận mà là sự chuyển đổi cả một hình thái
kinh tế chính trị và hình thái kinh tế chính trị ưu thế sẽ chiếm giữ giai đoạn lịch sử
này: trong giai đoạn hình thái kinh tế chính trị đó chiếm giữ thì cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng có sự dung hoà với nhau hay đạt được giới hạn độ.Tại đây, cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng tác động biện chứng với nhau theo cách thức bắt đầu sự
Trang 7


thay đổi tuần tự về cơ sở hạ tầng (tăng hoặc giảm dần) nhưng tại đây kiến trúc thượng
tầng chưa có sự thay đổi.
Cơ sở hạ tầng ở mỗi giai đoạn lịch sử lại mâu thuẫn phủ định lẫn nhau dẫn đến
quá trình đào thải. Do cơ sở hạ tầng cũ được thay thế bằng cơ sở hạ tầng mới bao
hàm những mặt tích cực tiến bộ của cái cũ đã được cải tạo đi trên những nấc thang
mới. Chính vì cơ sở hạ tầng thường xuyên vận động như vậy nên kiến trúc thượng
tầng luôn luôn thay đổi nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của cơ sở hạ tầng.
1.2.1. Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng
Mỗi hình thái kinh tế xã hội có cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của nó.
Do đó, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng mang tính lịch sử cụ thể, giữa chúng có
mối quan hệ biện chứng với nhau, và cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định đối với kiến
trúc thượng tầng.
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng thể hiện trước hết là ở chỗ: Cơ sở hạ tầng là
những quan hệ vật chất khách quan quy định mọi quan hệ khác: về chính trị, tinh
thần, tư tưởng của xã hội. Cơ sở hạ tầng nào sinh ra kiến trúc thượng tầng ấy, nói
cách khác cơ sở hạ tầng đã sinh ra kiến trúc thượng tầng, và kiến trúc thượng tầng

bao giờ cũng phản ánh một cơ sở hạ tầng nhất định, không có kiến trúc thượng tầng
chung cho mọi xã hội.
Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng về tính chất, nội dung và kết cấu:
Tính chất của kiến trúc thượng tầng đối kháng hay không đối kháng, nội dung của
kiến trúc thượng tầng nghèo nàn hay đa dạng, phong phú và hình thức của kiến trúc
thượng tầng gọn nhẹ hay phức tạp do cơ sở hạ tầng quyết định.
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng còn thể hiện ở
chỗ những biến đổi căn bản trong cơ sở hạ tầng dẫn đến sự biến đổi căn bản trong
kiến trúc thượng tầng. Sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng diễn ra rõ rệt khi cơ sở
hạ tầng này thay thế cơ sở hạ tầng khác. Nghĩa là, khi cách mạng xã hội đưa đến sự
thủ tiêu cơ sở hạ tầng cũ bị xoá bỏ và thay thế cơ sở hạ tầng mới thì sự thống trị cũ bị
xoá bỏ và thay thế bằng sự thống trị của giai cấp mới. Qua đó mà chính trị của giai

Trang 8


cấp thay đổi, bộ máy nhà nước mới thành lập thay thế nhà nước cũ, ý thức xã hội
cũng biến đổi.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, sự biến đổi của cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng diễn ra do kết quả của cuộc đấu tranh gay go phức tạp giữa các giai cấp
thống trị và giai cấp bị trị, mà đỉnh cao là cách mạng xã hội. Những biến đổi của cơ
sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xét cho cùng là do sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Nhưng lực lực lượng sản xuất trực tiếp gây ra sự biến đổi của cơ sở hạ tầng và
sự biến đổi của cơ sở hạ tầng đến lượt nó lại làm cho kiến trúc thượng tầng biến đổi.
Trong sự biến đổi của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, không phải cứ cơ
sở hạ tầng mới xuất hiện thì kiến trúc thượng tầng mới mất đi ngay mà có bộ phận
thay đổi dần dần chậm chạp. Vì trong cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, những
tàn dư của cái cũ còn tồn tại rất lâu. Mặt khác cũng có những yếu tố, những hình thức
không cơ bản nào đó của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ được giai cấp mới
giữ lại, cải tạo để phục vụ cho yêu cầu phát triển của cơ sở hạ tầng và kiến trúc

thượng tầng mới.
Trong mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng thì cốt lõi là mối
quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Trong đó, kinh tế quyết định chính trị. Mác viết:
“Cơ sở kinh tế thay đổi thì tất cả các kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị thay đổi ít
nhiều nhanh chóng”4.
Như vậy, chúng ta có thể thấy cơ sở hạ tầng có quyết định to lớn đối với kiến
trúc thượng tầng. Do đó, trong cách mạng xã hội chủ nghĩa việc xây dựng cơ sở chủ
nghĩa có tác dụng vô cùng to lớn đối với cuộc sống của xã hội. Chính vì tầm quan
trọng của nó mà khi xem xét, cải tạo một bộ phận nào đó của kiến trúc thượng tầng
phải xem xét cải tạo từ cơ sở hạ tầng xã hội. Tính quyết định của cơ sở hạ tầng đối
với với kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp trong quá trình chuyển từ một hình
thái kinh tế - xã hội khác.

4 Bộ giáo dục và đào tạo, giáo trình triết học Mác - Lênin, NXB Chính trị quốc gia, 2003, tr361

Trang 9


Tuy nhiên, những quan hệ tinh thần, tư tưởng của xã hội đó là kiến trúc thượng
tầng, cũng không hoàn toàn thụ động, nó có vai trò tác động trở lại to lớn đối với cơ
sở hạ tầng sinh ra nó.
1.2.2. Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
Trong mối quan hệ với cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng phản ánh cơ sở hạ
tầng biểu hiện tập trung đời sống tinh thần xã hội, do đó có vai trò tác động to lớn trở
lại với cơ sở hạ tầng.
Là một bộ phận cấu thành hình thành kinh tế - xã hội, được sinh ra và phát triển
trên một cơ sở hạ tầng nhất định, cho nên sự tác động tích cực của kiến trúc thượng
tầng đối với cơ sở hạ tầng được thể hiện ở chức năng xã hội của kiến trúc thượng
tầng là luôn luôn bảo vệ duy trì, củng cố và hoàn thiện cơ sở hạ tầng sinh ra nó, đấu
tranh xoá bỏ cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng đã lỗi thời lạc hậu. Kiến trúc

thượng tầng tìm mọi biện pháp để xoá bỏ những tàn dư của cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng cũ, ngăn chặn những mầm mống tự phát của cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng mới nảy sinh trong xã hội ấy. Thực chất trong xã hội có giai cấp đối
kháng, kiến trúc thượng tầng bảo đảm sự thống trị chính trị và tư tưởng của giai cấp
giữ địa vị thống trị trong kinh tế. Nếu giai cấp thống trị không xác lập được sự thống
trị về chính trị và tư tưởng thì cơ sở kinh tế của nó không thể đứng vững được. Vì
vậy, kiến trúc thượng tầng thực sự trở thành công cụ, phương tiện để duy trì, bảo vệ
địa vị thống trị về kinh tế của giai cấp thống trị của xã hội.
Trong các yếu tố cấu thành nên kiến trúc thượng tầng, nhà nước giữ vai trò đặc
biệt quan trọng và có tác dụng to lớn đối với cơ sở hạ tầng vì, nó là một lượng vật
chất tập trung sức mạnh kinh tế và chính trị của giai cấp thống trị . Nhà nước không
chỉ dựa trên hệ tưởng, mà còn dựa trên những hình thức nhất định của việc kiểm soát
xã hội, sử dụng bạo lực, bao gồm các yếu tố vật chất: quân đội, cảnh sát, toà án, nhà
tù... để tăng cường sức mạnh kinh tế của giai cấp thống trị, củng cố địa vị của quan hệ
sản xuất thống trị.
Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp đối kháng đấu tranh với nhau giành chính
quyền về tay mình, cũng chính là tạo cho mình sức mạnh kinh tế. Sử dụng quyền lực
Trang 10


nhà nước, giai cấp thống trị sẽ không ngừng mở rộng ảnh hưởng kinh tế trên toàn xã
hội. Kinh tế vững mạnh làm cho nhà nước được tăng cường. Nhà nước được tăng
cường lại tạo thêm phương tiện vật chất để củng cố vững chắc hơn địa vị kinh tế và
xã hội của giai cấp thống trị. Cứ như thế, sự tác động qua lại biện chứng giữa kiến
trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng đưa lại sự phát triển hợp quy luật của kinh tế và
chính trị. Ở đây, nhà nước là phương tiện vật chất, có sức mạnh kinh tế, còn kinh tế là
mục đích của chính trị, điều này được chứng minh qua sự ra đời và sự tồn tại của nhà
nước khác nhau. Cùng với nhà nước, các yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng cũng
đã tác động đến cơ sở hạ tầng bằng nhiều hình thức khác nhau. Các yếu tố của kiến
trúc thượng tầng không những chỉ có tác động lẫn nhau. Song thường thường những

sự tác động đó phải thông qua nhà nước, pháp luật và thể chế tương ứng, chỉ qua đó
chúng mới phát huy được hết hiệu lực đối với cơ sở hạ tầng, và đối với toàn xã hội.
Sự tác động của kiến trúc thượng tầng sẽ thúc đẩy sự phát triển cơ sở hạ tầng
nếu nó tác động cùng chiều với quy luật vận động của cơ sở hạ tầng. Trái lại, khi nó
tác động ngược chiều vớ quy luật kinh tế khách quan nó sẽ cản trở sự phát triển của
cơ sở hạ tầng. Hiệu quả tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng, phụ
thuộc vào năng động chủ quan trong nhận thức và vận dụng quy luật kinh tế - xã hội,
vào hoạt động thực tiễn của con người. Kiến trúc thượng tầng có vai trò to lớn, định
hướng những hoạt động thực tiễn đưa lại phương án phát triển tối ưu cho kinh tế - xã
hội. Tuy nhiên, nếu nhấn mạnh, tuyệt đối hoá, phủ nhận tính tất yếu kinh tế của xã
hội, sẽ phạm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm chủ quan dưới những hình thức khác
nhau.
Như vậy, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có quan hệ biện chứng với
nhau. Do đó, khi xem xét và cải tạo xã hội phải thấy rõ vai trò quyết định của cơ sở
hạ tầng và tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng, không được tuyệt đối hoá hoặc
hạ thấp yếu tố nào.
1.3.

Ý nghĩa phương pháp luận

Trang 11


Nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
đem lại những ý nghĩa về mặt phương pháp luận trong nhận thức và trong thực tiễn.
Cụ thể:
Một là, trong nhận thức chúng ta đề phòng hai khuynh hướng. Thứ nhất, không
được tuyệt đối hóa vai trò của kinh tế, coi nhẹ vai trò của yếu tố tư tưởng, chính trị,
pháp lý. Thứ hai, không tuyệt đối hóa vai trò của chính trị, tư tưởng, pháp lý, biến các
yếu tố này thành tính thứ nhất so với yếu tố kinh tế. Cả hai khuynh hướng này đều là

quan điểm phiến diện, một chiều.
Hai là, trong thực tiễn đời sống xã hội, nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữ
cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng đem lại cho chúng ta cái nhìn toàn diện khi đề
ra chiến lược đổi mới toàn diện đất nước trên các mặt của đời sống xã hội. Đặc biệt là
đổi mới kinh tế phải đi đôi với đổi mới chính trị; quan trọng hơn cả là đổi mới tư duy
về kinh tế. Lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, từng bước đổi mới chính trị. Kiến trúc
thượng tầng là do cơ sở hạ tầng sinh ra. Vì vậy, phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật, cơ chế, chính sách, chiến lược đầu tư phù hợp với cơ sở hạ tầng. Tức là
phù hợp với quan hệ sản xuất hiện tại và cơ cấu thành phần kinh tế nhằm kích thích
sản xuất, nâng cao năng suất lao động. Cơ sở hạ tầng đóng vai trò quyết định đối với
kiến trúc thượng tầng. Vì vậy, để củng cố kiến trúc thượng tầng vững mạnh thì cần
phải mở rộng và phát huy vai trò của các quan hệ sản xuất trong đời sống xã hội như:
Thực hiện mở rộng, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần đặt dưới sự quản lý
của Nhà nước.
Thực hiện đa dạng hóa các hình thức sở hữu, tổ chức quản lý, phân phối sản
phẩm nhằm đảm bảo lợi ích cho các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Qua đó thúc đẩy,
mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, góp phần củng cố kiến trúc thượng tầng,
tình hình an ninh, chính trị quốc gia. Nhà nước và các tổ chức xã hội cần có cơ chế,
chính sách loại bỏ dần các quan hệ sản xuất tàn dư, lạc hậu và củng cố vững chắc
quan hệ sản xuất thống trị hiện tại.
Từng bước ưu tiên phát triển những quan hệ sản xuất mới tiến bộ, khoa học
nhằm thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển đáp ứng thời kỳ Công nghiệp hóa, hiện
Trang 12


đại hóa gắn với kinh tế tri thức để nâng cao năng suất lao động. Qua đó, củng cố kiến
trúc thượng tầng vững mạnh.
Ba là, vận dụng lý luận vào giải quyết quan hệ giữa kinh tế và chính trị; kinh tế
có vai trò quyết định, nó quy định nội dung và kết cấu chính trị. Còn đối với chính trị
có tác động mạnh mẽ tới kinh tế, định hướng cho quá trình phát triển kinh tế. Lênin

khẳng định: “chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế. Chính trị không thể không
chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế” 5. Nắm vững và giải quyết tốt mối quan hệ biện
chứng này là nhiệm vụ khó khan, phức tạp, song có ý nghĩa quyết định đối với sự
thành bại của tiến trình cách mạng.
Bốn là, mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là
cơ sở lý luận khoa học giải quyết mối quan hệ biện chứng đối với việc kết hợp giữa
đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị ở nước ta hiện nay.
Đó là mối quan hệ giữa cái khách quan với cái chủ quan. Nhận thức đúng và giải
quyết thành công quan hệ giữa kinh tế và chính trị là vấn đề có ý nghĩa quyết định
chiều hướng, nội dụng, nhịp độ, hiệu quả và mức độ bền vững của sự phát triển.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng vào giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị trong quá trình xây dựng đất nước, đặc biệt là trong quá trình đổi mới
đất nước. Vận dụng sáng tạo vào tình hình thực tiễn ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt
Nam chủ trương tập trung đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân
dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác coi đó là nhiệm vụ quan trọng
để tiến hành thuận lợi đổi mới trên lĩnh vực chính trị: “Nhà nước phải thực hiện tốt
vai trò quản lý về kinh tế - xã hội bằng pháp luật, kế hoạch, chính trị, thông tin, tuyên
truyền giáo dục và công cụ khác”. ( Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc
Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 7). Đây là nhận thức đúng cả về mặt lý luận và thực
tiễn của Đảng trong tiến trình vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng vào quá trình đổi mới đất nước trong 30 năm qua.
CHƯƠNG 2:
5 Lênin, toàn tập, NXB Tiến bộ, Matxcova, 1977, tập 42, tr311

Trang 13


VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN
TRÚC THƯỢNG TẦNG VÀO QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI KINH TẾ VÀ ĐỔI MỚI

CHÍNH TRỊ
2.1.

Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam
Trong chủ nghĩa xã hội, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng thuần nhất và
thống nhất. Vì cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa không có tính chất đối kháng, không
bao hàm những lợi ích kinh tế đối lập nhau. Hình thức sở hữu bao trùm là sở hữu toàn
dân và tập thể, hợp tác tương trợ nhau trong quá trình sản xuất, phân phối sản phẩm
theo lao động, không còn chế độ bóc lột .
Kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa phản ánh cơ sở hạ tầng của xã hội chủ
nghĩa, vì vậy mà có sự thống trị về chính trị và tinh thần. Nhà nước xã hội chủ nghĩa
là nhà nước kiểu mới: của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Pháp luật xã hội
chủ nghĩa là công cụ để cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội chủ nghĩa tiến bộ, khoa
học trở thành động lực cho sự phát triển xã hội.
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách
mạng sâu sắc và triệt để, là một giai đoạn lịch sử chuyền tiếp. Cho nên cơ sở hạ tầng
và kiến trúc thượng tầng với đầy đủ những đặc trưng của nó. Bởi vì, cơ sở hạ tầng
mang tính chất quá độ với một kết cấu kinh tế nhiều thành phần đan xen của nhiều
loại hình kinh tế xã hội khác nhau. Còn kiến trúc thượng tầng có sự đối kháng về tư
tưởng và có sự đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản trên lĩnh vực tư tuởng
văn hoá.
Bởi vậy, công cuộc cải cách kinh tế và đổi mới thể chế chính trị là một quá trình
mang tính cách mạng lâu dài, phức tạp mà thực chất là cuộc đấu tranh gay go, quyết
liệt giữa hai con đường tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Chính vì những lý do
đó mà nước ta từ một nền kinh tế lạc hậu sản xuất nhỏ là chủ yếu, đi lên chủ nghĩa xã
hội (bỏ qua chế độ phát triển tư bản chủ nghĩa) chúng ta đã gặp rất nhiều khó khăn
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cơ sở hạ tầng thời kỳ quá độ ở nước ta
bao gồm các thành phần kinh tế như: thành phần kinh tế nhà nước, thành phần kinh tế
Trang 14



tập thể, thành phần kinh tế tư nhân và thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài,
cùng các kiểu quan hệ sản xuất gắn liền với hình thức sở hữu khác nhau, thậm chí đối
lập nhau cùng tồn tại trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất. Đó là nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Các thành phần đó vừa khác nhau về vai trò, chức năng, tính chất, lại vừa
thống nhất với nhau trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất, chúng vừa cạnh
tranh nhau, vừa liên kết với nhau, bổ sung với nhau.
Để định hướng xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế này, nhà nước
phải sử dụng tổng thể các biện pháp kinh tế hành chính và giáo dục. Trong đó biện
pháp kinh tế có vai trò quan trọng nhất nhằm từng bước xã hội hoá nền sản xuất với
hình thức và bước đi thích hợp theo hướng: kinh tế quốc doanh được củng cố và phát
triển vươn lên giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể dưới hình thức thu hút phần lớn
những người sản xuất nhỏ trong các ngành nghề, các hình thức xí nghiệp, công ty cổ
phần phát triển mạnh, kinh tế tư nhân phát huy được mọi tiềm năng để phát triển lực
lượng sản xuất, xây dựng cơ sở kinh tế hợp lý.
Trong văn kiện Hội nghị đại biểu Đảng giữa nhiệm kỳ khoá VII, Đảng ghi rõ
“phải tập trung nguồn vốn đầu tư nhà nước cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế
xã hội và một số công trình công nghiệp then chốt đã được chuẩn bị vốn và công
nghệ. Nâng cấp và xây dựng mới hệ thống giao thông, sân bay, bến cảng, thông tin
liên lạc, giáo dục và đào tạo, y tế ”. Đồng thời văn kiện Đảng cũng ghi rõ: “Từ nay
tới cuối thập kỷ, phải quan tâm tới công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và
kinh tế nông thôn, phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp
chế biến nông lâm thuỷ sản, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”.
Về kiến trúc thượng tầng, Đảng ta khẳng định: Lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hành động của toàn Đảng, toàn dân
ta. Nội dung cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng
về sự giải phóng con người khỏi chế độ bóc lột thoát khỏi nỗi nhục của mình là đi
làm thuê bị đánh đập, lương ít.


Trang 15


Bởi vậy, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta, việc giáo
dục truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành tư tưởng chủ
đạo trong đời sống tinh thần của xã hội là việc làm thường xuyên, liên tục của cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực kiến trúc thượng tầng. Xây dựng hệ thống
chính trị, xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân, do Đảng Cộng sản lãnh
đạo đảm bảo cho nhân dân là người chủ thực sự của xã hội. Toàn bộ quyền lực của xã
hội thuộc về nhân dân thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa đảm bảo phát huy mọi khả
năng sáng tạo, tích cực chủ động của mọi cá nhân.
Trong cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng
ghi rõ: “xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân
và vì Nhân dân, liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí
thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo”. Như vậy, tất cả các tổ chức, bộ máy
tạo thành hệ thống chính trị - xã hội kkhông tồn tại như một mục đích tư nhân mà vì
phục vụ con người, thực hiện cho được lợi ích và quyền lợi thuộc về nhân dân lao
động.
Mỗi bước phát triển của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là một bước
giải quyết mâu thuẫn giữa chúng. Việc phát triển và củng cố cơ sở hạ tầng điều chỉnh
và củng cố các bộ phận của kiến trúc thượng tầng là một quá trình diễn ra trong suốt
thời kỳ quá độ.
2.2.

Đường lối đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam
Giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một nội
dung cốt lõi quan trọng trong các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng ta từ
khi đổi mới đến nay. Sự nhận thức và giải quyết đúng đắn vấn đề này của Đảng cũng
là khâu đột phá trong tư duy và thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp đổi mới của Đảng.

Thời kỳ trước đổi mới, về nhận thức, chúng ta đã nhấn mạnh quá mức vai trò
kiến trúc thượng tầng, coi chính trị là thống soái, quyết định kinh tế và tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội; chưa đánh giá đúng vai trò của kinh tế trong quan hệ với
chính trị. Về cơ chế, chúng ta cũng nhận thức một cách đơn giản về tác động của kiến
Trang 16


trúc thượng tầng chính trị đối với cơ sở kinh tế. Chính trị can thiệp quá sâu vào các
quá trình kinh tế - xã hội bằng hệ thống những mệnh lệnh chủ quan của các cơ quan
quản lý các cấp. Và thiết chế, bộ máy hành chính còn quan liêu, cửa quyền, cồng
kềnh, kém hiệu quả.
Từ khi đổi mới đến nay, về quan điểm Đảng ta chủ trương “Kết hợp ngay từ đầu
đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời
từng bước đổi mới chính trị”6. Đây là nhận thức đúng cả về mặt lý luận cả về mặt
thực tiễn.
Khái niệm “đổi mới kinh tế” qua các văn kiện của Đảng được hiểu là quá trình
chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung, bao cấp chủ yếu dựa trên chế độ sở hữu
toàn dân và tập thể sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là bước chuyển từ nền kinh tế cơ bản là
“khép kín” sang nền kinh tế “mở” đối với khu vực và thế giới, kết hợp tăng trưởng
kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh
thái và từng bước đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Khái niệm “đổi mới chính trị” qua các văn kiện của Đảng được hiểu là đổi mới
tư duy chính trị về chủ nghĩa xã hội; đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của
hệ thống chính trị, trước hết là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; đổi mới,
nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa nhằm giữ vững ổn đinh
chính trị để xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh; thực hiện tốt
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa nhằm phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân
trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tếxã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Trong quá trình đổi mới, Đảng ta cho rằng ổn định chính trị không có nghĩa là
bảo thủ, trì trệ, ngược lại nó có vai trò quan trọng đảm bảo điều kiện cho các lĩnh vực
6 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996

Trang 17


khác phát triển, làm cho quá trình đổi mới trở nên toàn diện hơn. Ổn định chính trị
cũng đồng thời góp phần tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của
Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quá trình đổi mới đất nước.
Để giữ vững ổn định chính trị, tư tưởng trong Đảng và trong nhân dân, Hội nghị
lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khoá VI (3-1989) quyết định các nguyên tắc cơ
bản để chỉ đạo toàn bộ quá trình đổi mới theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa:
“Đổi mới tư duy là nhằm khắc phục những quan niệm không đúng, làm phong phú
những quan niệm đúng về thời đại, về chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo vào phát
triển chứ không phải xa rời những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin”.
Về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, Hội nghị lần 6 Ban
Chấp hành Trung ương khoá VI đã chỉ rõ: “Chúng ta tập trung sức làm tốt đổi mới
kinh tế, đồng thời từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ
chức chính trị. Không thể tiến hành cải cách hệ thống chính trị một cách vội vã khi
chưa đủ căn cứ, mở rộng dân chủ không có giới hạn, không có mục tiêu cụ thể và
không đi đôi với tập trung thì dẫn đến sự mất ổn định về chính trị, gây thiệt hại cho
sự nghiệp đổi mới”7. Một bước đi cực kỳ đứng đắn và thể hiện được bản lĩnh chính trị
của Đảng ta biểu hiện bằng nghị quyết hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương
khoá VI (8-l989) về công tác tư tưởng trong bối cảnh quốc tế vô cùng phức tạp khi
đó: “Chế độ chính trị của chúng ta là chế độ làm chủ của nhân dân lao động dưới sự
lãnh đạo của Đảng... Chúng ta không chấp nhận chủ nghĩa đa nguyên chính trị, không
để cho các tổ chức chống đối chủ nghĩa xã hội ra đời và hoạt động, không coi việc
thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần là thực hiện chủ trương đa nguyên về
kinh tế”8.

Chủ trương giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị
được tiếp tục nhấn mạnh trong văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VII:
“Phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân
7 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương, khóa VI.
8 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương, khóa VI, tr.17.

Trang 18


dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi
mới trong lĩnh vực chính trị. Đồng thời với đổi mới kinh tế, phải từng bước đổi mới
tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy ngày càng tốt
quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế,
văn hoá, xã hội”9. Kinh nghiệm thành công của sự kết hợp đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng khẳng định: “Kết hợp
chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm
trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị”10.
Đó là những quan điểm đúng đắn của Đảng ta phù hợp với nhu cầu và nguyện
vọng của nhân dân lao động, những quan điểm này tiếp tục được khẳng định trong
các kỳ Đại hội IX, X với mục tiêu: “đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước
đi, hình thức và cách làm phù hợp. Phải đổi mới từ nhận thức, tư duy đến hoạt động
thực tiễn; từ kinh tế, chính trị, văn hóa, đối ngoại đến tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước đến hoạt động cụ thể
trong từng bộ phận của hệ thống chính trị” 11. Đại hội XI của Đảng đã đưa ra quan
điểm về đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị: “Đổi mới chính trị phải đồng bộ với
đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn
với tăng cường kỷ luật, kỷ cương.”12.

Đại hội XII của Đảng xác định: tiếp tục quán triệt và xử lý tốt các quan hệ lớn;
trong đó có quan hệ “giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị”. Điều này được thể
hiện ở các nhiệm vụ: “Tiếp tục hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định
9 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Sđd, tr.54.
10 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Sđd, tr.14.
11 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Sđd, tr.70.
12 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011,
tr.99-100.

Trang 19


hướng xã hội chủ nghĩa”, “Hoàn thiện, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền
làm chủ của nhân dân; không ngừng củng cố, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn
kết toàn dân tộc”, “Tiếp tục hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, “Xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, …”. Đó chính là tiếp tục đổi mới đồng bộ thể chế
chính trị và thể chế kinh tế.
Như vậy, về đổi mới kinh tế, Đại hội XI của Đảng tập trung vào đổi mới để hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Để hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa, Đại hội XI của Đảng chủ trương:
Thứ nhất, Đảng ta coi hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ và hiện đại
là tiền đề quan trọng thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình
tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô.
Thứ hai, đổi mới việc xây dựng và thực thi luật pháp cho cạnh tranh bình đẳng,
minh bạch, giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Thứ ba, đổi mới công tác quy hoạch, kế hoạch, điều hành phát triển kinh tế theo
cơ chế thị trường.
Thứ tư, chú ý đặc biệt trong việc thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ bảo đảm
phát triển lành mạnh nền kinh tế.
Thứ năm, tạo lập đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường: Thực hiện

tốt năm giải pháp này sẽ góp phần trực tiếp hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường xã
hội chủ nghĩa. Đây là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới kinh tế giai đoạn này.
Một nền kinh tế muốn phát triển nhanh và bền vững phải có một hệ thống chính
trị phù hợp với hệ thống kinh tế. Sự phù hợp giữa hệ thống chính trị với hệ thống
kinh tế sẽ tạo ra động lực to lớn thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển nhanh và bền
vững.

Trang 20


Về đổi mới chính trị, Đại hội XI của Đảng tập trung 3 yếu tố cơ bản, trọng yếu là
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa; mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ
cương. Đây là ba lĩnh vực cơ bản, trọng yếu mang tính đột phá trong đổi mới chính
trị. Trong đó, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là cấp thiết và hàng đầu.
Về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, Đại hội XI chủ trương:
Thứ nhất, rà soát, bổ sung, điều chỉnh, ban hành mới, xây dựng đồng bộ hệ
thống các quy chế, quy định, quy trình công tác để đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị.
Thứ hai, khắc phục tình trạng Đảng bao biện làm thay, hoặc buông lỏng lãnh đạo
các cơ quan quản lý nhà nước.
Thứ ba, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân.
Thứ tư, đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng
từ trung ương đến địa phương cơ sở; cải cách thủ tục hành chính trong Đảng.
Thứ năm, đổi mới cách ra nghị quyết, tổ chức thực hiện nghị quyết, kiểm tra, sơ
kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết.
Đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Đại hội XI của
Đảng chủ trương:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa.
Thứ hai, tiếp tục đối mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước.
Thứ ba, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp ứng
yêu cầu trong tình hình mới.
Trang 21


Thứ tư, tích cực thực hành tiết kiệm, phòng ngừa và kiên quyết chống tham
nhũng, lãng phí.
Điều quan trọng là Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh phải lấy mục tiêu xây dựng
nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
“làm tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá hiệu quả của quá trình đổi mới và phát
triển”13 nói chung, đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta nói riêng. Tiếp tục
quán triệt và giải quyết tốt các quan hệ lớn là vấn đề cấp thiết, quan trọng. Trong đó,
“đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ, có bước đi phù hợp trên các lĩnh vực, nhất
là giữa kinh tế và chính trị” được Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh trong mục tiêu,
nhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước 5 năm tới (2016 - 2020). Tiêu chí này chỉ rõ
mục đích đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị của Đảng ta.
2.3.

Thành tựu và hạn chế của đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị

2.3.1. Thành tựu
Trong những năm đổi mới, sự kết hợp hài hòa giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị đã đem lại bước chuyền biến tích cực đối với đời sống kinh tế, chính trị, xã
hội của đất nước, với những thành tựu nổi bật là:
Thứ nhất, thành công lớn nhất và quan trọng nhất có ý nghĩa sống còn đối với
dân tộc Việt Nam là chúng ta tiến hành quá trình đổi mới không phải bắt đầu từ việc
“đổi mới” trong lĩnh vực chính trị như ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác
ở Đông Âu, cũng không đồng thời “đổi mới” ngay lập tức cả hai lĩnh vực chính trị lẫn

kinh tế. Chúng ta rất tỉnh táo và đủ bản lĩnh giữ vững ổn định chính trị, giữ vững sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản để làm trục đỡ chính trị cho việc điều chỉnh và đổi mới
kinh tế.
Thứ hai, nhờ có định hướng chính trị rõ ràng, bằng các chính sách chuyển đổi cơ
chế và cơ cấu phù hợp với yêu cầu khách quan của thực tiễn, kinh tế của nước ta tăng
13 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011,
tr.100.

Trang 22


trưởng vượt bậc, đời sống của nhân dân được cải thiện rỡ rệt. Người dân tin tưởng
vào đường lối đổi mới khi nhận thấy lợi ích của mình được đảm bảo. Nhờ có tư duy
mới và dựa vào lợi ích của nhân dân nên đường lối đổi mới đã gắn chặt với thực tiễn
đất nước, mang “hơi thở” cuộc sống. Bằng các chủ trương, chính sách vừa có tính
định hướng, vừa cụ thể thiết thực, đường lối đổi mới của Đảng đã đi vào cuộc sống,
tạo tiền đề để giải phóng sức sản xuất xã hội, phát huy tinh thần sáng tạo, tính tích
cực chính trị của nhân dân. Nhân dân chủ động tham gia vào đời sống kinh tế, đời
sống chính trị để xây dựng, phát triển kinh tế, bảo vệ chế độ đã, đang đảm bảo lợi ích
cho họ.
Nhờ vậy, nhìn lại 30 năm đổi mới, mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị ngày càng được xác định như là mối quan hệ cơ bản và quan trọng hàng đầu
trong quá trình đổi mới đất nước, là nội dung quan trọng trong các quan điểm, đường
lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước. Hơn nữa, nhận thức và giải quyết
đúng đắn mối quan hệ này còn là khâu đột phá trong lý luận của Đảng về công cuộc
đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Cho đến nay, đã có những đổi mới căn bản về sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của
Nhà nước trong việc giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị.
Đã khắc phục một bước lớn những quan niệm và cách làm từng tồn tại trong hàng
thập niên trước đây, như nhấn mạnh quá mức vai trò của chính trị đối với kinh tế;

xem chính trị là yếu tố quyết định kinh tế và mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; nhận
thức một cách giản đơn về tác động của chính trị đối với kinh tế; chính trị can thiệp
quá sâu vào các quá trình kinh tế; chính trị tác động đến kinh tế chủ yếu bằng hệ
thống mệnh lệnh hành chính, chủ quan của cơ quan lãnh đạo, quản lý các cấp...
Đồng thời, đã có những đổi mới căn bản về sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của
Nhà nước từ trực tiếp bằng kế hoạch thành lãnh đạo, quản lý bằng chính sách; từ chỉ
huy, điều hành trực tiếp thành quản lý, điều tiết một cách gián tiếp thông qua vai trò
của chính sách, tạo môi trường dân chủ, tự do, chủ động, tự chịu trách nhiệm hơn cho

Trang 23


người sản xuất, kinh doanh; thay đổi phương thức tác động của chính trị đối với kinh
tế thông qua vai trò của thể chế, chính sách...
Công cuộc đổi mới ở nước ta không phải bắt đầu từ việc đổi mới trong lĩnh vực
chính trị, cũng không đồng thời đổi mới ngay lập tức cả hai lĩnh vực chính trị và kinh
tế. Vấn đề là ở chỗ, định hướng chính trị ngày càng rõ ràng cho sự phát triển kinh tế;
chính sách chuyển đổi cơ chế và cơ cấu kinh tế ngày càng phù hợp với yêu cầu khách
quan của thực tiễn; tạo tiền đề cho việc giải phóng sức sản xuất xã hội, tạo ra tăng
trưởng kinh tế, nâng cao thế và lực của đất nước; phát huy tinh thần sáng tạo, tính
tích cực chính trị của nhân dân.
2.3.2. Hạn chế
Bên cạnh những thành công vừa nêu trên, việc vận dụng và xử lý mối quan hệ
biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị của chúng ta còn có nhiều đem
cần phải cố gắng hoàn thiện hơn nữa. Đổi mới là cả một quá trình lâu dài và phức tạp
do thực tiễn luôn vận động và thay đổi. Đường lối đổi mới và định hướng đổi mới
kinh tế với đổi mới chính trị của Đảng cần phải khẳng định là đúng đắn, tuy nhiên
vấn đề lại là hiệu quả của việc thực thi đường lối đó trên từng giai đoạn cụ thể, trong
từng cách làm cụ thể, của từng mối quan hệ cụ thể. Đại hội XI của Đảng thắng thắn
nhìn nhận về hạn chế trong đổi mới chính trị so với đổi mới kinh tế: “Nền dân chủ xã

hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ.
Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đổi mới,
nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân chuyển
biến chậm”14; “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu
cầu phát triển kinh tế và quản lý đất nước” 15; “công tác xây dựng Đảng còn nhiều hạn
chế, yếu kém, chậm được khắc phục”16.
14 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011,
tr.179.
15 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011,
tr.171.
16 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011,
tr.172.

Trang 24


Vẫn còn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn trong mối quan hệ giữa đổi mới kinh
tế và đổi mới chính trị chưa được nhận thức và giải quyết đúng đắn, kịp thời, nhằm
thúc đẩy công cuộc đổi mới tiến lên. Đó là vấn đề phát triển kinh tế thị trường với
dân chủ hóa, xây dựng xã hội công bằng, văn minh, phát triển văn hóa, bảo đảm ổn
định chính trị, xã hội và bảo vệ môi trường; phát triển kinh tế thị trường với yêu cầu
đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp
quyền; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế với đổi mới hệ
thống chính trị... Đó là vấn đề nhận thức đúng và giải quyết hợp lý tính chủ động của
đổi mới chính trị đối với đổi mới kinh tế. Đổi mới chính trị phải nhằm xác lập những
bảo đảm chính trị cho phát triển kinh tế; thực hiện quyền làm chủ và lợi ích của nhân
dân. Nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, quản lý của Nhà nước phải
đáp ứng yêu cầu của phát triển kinh tế.
Những hạn chế của đổi mới chính trị trong mọi quan hệ với đổi mới kinh tế này
đã cản trở quá trình đổi mới kinh tế, thậm chí kìm hãm kinh tế phát triển. Vấn đề đổi

mới chính trị chưa thực sự có hiệu quả một phần do chúng ta chưa làm rõ và phân
định dứt khoát chức năng lãnh đạo của Đảng với chức năng quản lý của Nhà nước.
Mặt khác, trong đổi mới chính trị chúng ta mới chỉ tập trung nhấn mạnh ý nghĩa của
đổi mới tư duy về chính trị chứ chưa thực sự tiến hành đổi mới ở con người chính trị chủ thể hoạt động chính trị và cơ chế hoạt động có hiệu quả của hệ thống chính trị.
2.3.3. Nguyên nhân
Nguyên nhân khách quan là do đổi mới chính trị, hệ thống chính trị trong điều
kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế,
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng và phát huy dân chủ, ... là
những vấn đề mới mẻ, khó khăn, phức tạp cả về lý luận và thực tiễn, đòi hỏi phải vừa
làm, vừa tổng kết kinh nghiệm, phát triển lý luận. Diễn biến nhanh chóng, phức tạp
và khó lường của tình hình thế giới; sự chống phá của các thế lực thù địch, nhất là
trên lĩnh vực tư tưởng, chính trị.

Trang 25


×