Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

Vận dụng phương pháp tính giá trên cơ sở hoạt động tại công ty cổ phần xi măng hải vân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (461.14 KB, 98 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Điều kiện kinh doanh ngày nay đã buộc các doanh nghiệp phải tìm mọi biện
pháp để tăng sức cạnh tranh, mở rộng và phát triển thị trường. Việc hội nhập vào
nền kinh tế thế giới là một bước đi chiến lược tất yếu và cũng là con đường mà tất
cả các nước muốn xây dựng một nền kinh tế công nghiệp hiện đại đều phải hướng
tới. Tuy nhiên khi hội nhập, các quốc gia sẽ có nhiều cơ hội thuận lợi nhưng cũng
gặp nhiều khó khăn thách thức phía trước. Kinh tế Việt nam đang đứng trước hoàn
cảnh đó và chỉ còn con đường duy nhất là đẩy nhanh tiến trình hội nhập, nếu muốn
phát triển nền kinh tế theo hướng công nghiệp hiện đại. Tổng công ty Xi măng Việt
Nam là một doanh nghiệp hạng đặc biệt của nền kinh tế nước nhà không thể nằm
ngoài vòng xoáy đó. Vì vậy, những thông tin kế toán quản trị chính xác, đầy đủ và
linh hoạt gắn với nhu cầu quản lý của từng doanh nghiệp được coi là không thể
thiếu, nhất trong là trong điều kiện kinh tế của Việt Nam.
Hiện nay, tại Công ty cổ phần xi măng Hải Vân có chi phí sản xuất chung
chiếm tỷ trọng tương đối cao trong giá thành sản phẩm, tỷ trọng này có xu hướng
gia tăng bởi điều kiện sản xuất ngày được nâng cao. Tuy nhiên, ở mỗi phân xưởng
việc tính toán phân bổ chi phí sản xuất chung cho từng giai đoạn sản xuất theo tỷ lệ
9:1 và trong từng giai đoạn phân bổ đều các sản phẩm được tiến hành theo số lượng
sản phẩm. Sự phân bổ theo mô hình truyền thống như vậy là không chính xác vì
tiêu thức phân bổ đơn giản và ít có quan hệ nhân quả với mức độ hoạt động của các
bộ phận. Điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến tính chính xác của các quyết định quản trị.
Qua tìm hiểu cho thấy, hệ thống chi phí dựa trên cơ sở hoạt động (ABC –
Activity based costing) có thể được xem là một trong những giải pháp cho vấn đề
trên, với ABC chi phí sẽ được theo dõi một cách cụ thể cho từng hoạt động gắn liền
với từng loại sản phẩm, vì thế thông tin chi phí cung cấp bởi hệ thống ABC có mức
độ chính xác cao hơn, có khả năng đáp ứng được nhu cầu thực tiển của Công ty.



2

Theo nhiều học giả kế toán trên thế giới như Kaplan và Cooper (1988), Turney
(1994), phương pháp tính giá dựa trên hoạt động (Activity Based Costing- ABC)
được xem như một sự lựa chọn thích hợp bởi lẽ phương pháp này tập hợp chi phí
dựa trên hoạt động mà nguồn lực được sử dụng và phân bổ cho các đối tượng dựa
trên các tiêu thức phân bổ thích hợp, phản ánh mối quan hệ nhân quả giữa đối tượng
chi phí và chi phí gián tiếp. Hơn nữa, phương pháp ABC còn có thể giúp cho các
doanh nghiệp quản trị dựa trên hoạt động, đây là cơ sở để xác định hoạt động nào
tạo ra giá trị hay không tạo ra giá trị, từ đó cải tiến quá trình, nâng cao hiệu quả hoạt
động cho doanh nghiệp.
Trên cơ sở các vấn đề nêu trên nên tôi chọn đề tài “Vận dụng phương pháp
tính giá trên cơ sở hoạt động tại Công ty cổ phần xi măng Hải Vân’
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Mục đích nghiên cứu của luận văn là:
- Hệ thống hóa lý thuyết về phương pháp tính giá ABC.
- Mô tả hệ thống kế toán hiện tại ở Công ty cổ phần xi măng Hải Vân.
- Xác định và phân tích vấn đề liên quan đến phương pháp tính giá ở Công ty
cổ phần xi măng Hải Vân
- Tổ chức vận dụng phương pháp tính giá ABC Công ty cổ phần xi măng
Hải Vân
- So sánh việc thực hiện giữa phương pháp tính giá truyền thống và phương
pháp tính giá ABC và hướng sử dụng thông tin từ phương pháp ABC cho việc quản
trị dựa trên hoạt động.
3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Công ty cổ phần xi măng Hải Vân
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu



3

Luận văn sử dụng kết hợp phương pháp khảo sát, thực chứng, phân tích
thống kê…. Phương pháp khảo sát, thực chứng được sử dụng để miêu tả thực trạng
tính giá. Quá trình tự luận dựa vào một cơ sở lý thuyết khoa học được phát triển từ
những năm 90 của thế kỷ XX và những năm đầu của thế kỷ XXI. Tự luận và giải
thích được đặt trong doanh nghiệp điển hình: Công ty cổ phần xi măng Hải Vân
Lựa chọn mô hình ABC
Luận văn vận dụng có cải tiến mô hình tính giá dựa trên hoạt động của
Narcyz Roztocki (1999), được chứng minh rất phù hợp với các doanh nghiệp sản
xuất ở Việt Nam nói chung.
Nguồn số liệu
Luận văn sử dụng nguồn số liệu có được từ việc trực tiếp quan sát toàn bộ
qui trình hoạt động tại đơn vị để xác định các hoạt động chính cũng như mối quan
hệ giữa các hoạt động và chi phí. Ngoài ra, tác giả còn tiến hành phỏng vấn những
người có liên quan trong công ty, mục đích của việc phỏng vấn là xác định rõ hơn
một số hoạt động cũng như xác định một số thông tin về chi phí mà thông tin thứ
cấp không cung cấp được. Thông tin này được lấy chủ yếu từ số liệu kế toán tài
chính do Phòng kế toán công ty cung cấp. Ngoài ra, thông tin từ các giáo trình, các
tạp chí, internet cũng được sử dụng để bổ sung những thông tin cần thiết.
5. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI
Luận văn gồm 3 chương, có kết cấu như sau:
Phần mở đầu
Chương 1: Cơ sở lý luận về phương pháp tính giá dựa trên cơ sở hoạt động
Chương 2: Thực trạng về công tác tính giá tại Công ty cổ phần xi măng Hải Vân
Chương 3: Vận dụng phương pháp tính giá ABC ở Công ty cổ phần xi măng
Hải Vân
Kết luận và kiến nghị.



4

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHƯƠNG PHÁP TÍNH GIÁ
TRÊN CƠ SỞ HOẠT ĐỘNG (ABC)
1.1. KHÁI QUÁT VỀ PHƯƠNG PHÁP TÍNH GIÁ TRÊN CƠ SỞ HOẠT
ĐỘNG
1.1.1. Lịch sử hình thành phương pháp tính giá theo hoạt
động
Trong suốt những năm 1980, hệ thống tính giá thành truyền thống trong các
doanh nghiệp đã bộc lộ rất nhiều những hạn chế. Đây là một phương pháp được
thiết lập cách đây từ nhiều thập kỷ, khi mà hầu hết các công ty chỉ sản xuất một số ít
loại sản phẩm và lao động trực tiếp và nguyên vật liệu trực tiếp là những nhân tố chi
phí chiếm ưu thế cao, chi phí sản xuất chung là tương đối nhỏ và những bóp méo
nảy sinh từ sự phân bổ chi phí sản xuất chung là không quan trọng, chi phí xử lý số
liệu lại quá cao. Vì vậy, đây là những khó khăn cản trở sự ra đời của nhiều phương
pháp phân bổ chi phí sản xuất chung tiên tiến hơn.
Ngày nay, chủng loại mặt hàng mà các công ty sản xuất là rất đa dạng. Chi
phí nhân công trực tiếp chỉ là nhân tố nhỏ, còn chi phí sản xuất chung lại là một
thành phần đáng kể trong tổng chi phí sản xuất. Cơ sở lao động trực tiếp được sử
dụng để phân bổ chi phí sản xuất chung không được tin dùng như trước đây. Đặc
biệt, chi phí xử lý số liệu không còn là rào cản đối với việc ra đời nhiều hệ thống
tính giá mới. Hơn nữa, vào những năm 1980 với sự cạnh tranh dữ dội toàn cầu, nhà
quản lý đã taọ ra nhiều quyết định sai lầm do sự nghèo nàn và sai lệch về thông tin
chi phí. Từ đó, chi phí cơ hội của sự nghèo nàn về thông tin chi phí tăng lên dẫn đến
sự đòi hỏi một phương pháp tính giá chính xác hơn. Trong hoàn cảnh ấy, một
phương pháp tính giỏ mới được thiết kế nhằm khắc phục các nhược điểm của những
hệ thống tính giá thành truyền thống, đó là phương pháp tớnh giỏ theo hoạt động
(ABC – Activities Based Costing) ra đời.



5

Nhưng đó không phải là sự đổi mới gần đây, vào năm 1949 Goetz đã viết:
“Mỗi nước chi phí sản xuất chung ban đầu phải được đồng nhất đối với mỗi
khía cạnh của hoạt động quản trị, lập kế hoạch, điều khiển và hoạt động tác nghiệp.
Một vài khía cạnh chính này có thể khác nhau như số lượng đầu ra, số đơn đặt hàng,
số các hoạt động, năng suất máy móc, số các Catalo được cung cấp".
Trong suốt những năm 1980, với sự giảm sút của chi phí xử lý số liệu, một
vài công ty ở Mỹ và Anh quốc áp dụng mô hình phân bổ chi phí sản xuất chung trên
cơ sở hoạt động để tính giá thành cho sản phẩm, dịch vụ của họ. Điển hình, công ty
Elgin Sweepr của Bắc Mỹ đã áp dụng mô hình này như sau:
- Bước đầu tiên là nghiên cứu hoạt động tạo phí, lập danh sách các đơn vị
tính phí có thể cho mỗi hoạt động. Các đơn vị tính phí của Elgin bao gồm: Tiền
công lao động, giờ lao động, số lượng hàng gửi đi, số lượng thành phẩm, số đơn đặt
hàng, doanh thu, ngày làm việc, thông báo thay đổi kỹ thuật, thời gian lao động kỹ
thuật... Các chi phí thay đổi với từng đơn vị tính phí được nhận dạng và tính toán.
- Tiếp theo Elgin thiết lập báo cáo về dây chuyền sản xuất cho phép đánh giá
hiệu quả của các quyết định phân bổ nguồn lực. Kết quả của việc áp dụng hệ thống
xác lập chi phí có sự tham gia của các giám đốc sản xuất vào việc nhận dạng kích tố
chi phí.
Dựa trên quan sát quá trình ứng dụng mô hình ở các công ty, Robin Cooper,
Robert Kaplan, và H. Thomas Johnson là những người đầu tiên đưa ra phương pháp
ABC. Đây là một phương pháp tính chi phí được sử dụng để tính thẳng chi phí
chung vào các đối tượng tính chi phí (Cooper, 1988a; 1988b; 1990; Cooper và
Kaplan, 1988; Johnson, 1990). Những đối tượng này có thể là các sản phẩm, dịch
vụ, quá trình, hoặc khách hàng… ABC cũng giúp cho nhà quản lý ra được những
quyết định đúng tương ứng với cơ cấu sản phẩm và chiến lược cạnh tranh của doanh
nghiệp mình. Theo Turney, ABC cụ thể thay đổi toàn diện cách thức những nhà
quản lý ra quyết định về cơ cấu sản phẩm, giá cả sản phẩm, và đánh giá công nghệ

mới (Turney, 1989). Trong một nghiên cứu tổng quát các công ty ở Anh vào năm


6

1991, Innes và Mitchell báo cáo khoảng 10% các công ty được nghiên cứu đã áp
dụng mô hình này trong việc tính giá thành.
Ngày nay, các lý thuyết này được trình bày trong các tài liệu chuyên nghành
kế toán quản trị trên thế giới và được nhiều người tham gia tìm hiểu.
1.1.2. Các khái niệm về phương pháp tính giá theo hoạt
động
Rất nhiều các học giả kinh tế trên thế giới đã đưa ra khái niệm về phương
pháp tính giá ABC:
Theo Krumwiede và Roth (1997): phương pháp ABC là một hệ thống kế
toán quản trị tập trung đo lường chi phí, các hoạt động, sản phẩm, khách hàng và
các đối tượng chi phí... Phương pháp này phân bổ chi phí cho các đối tượng chi phí
dựa trên số lượng hoạt động sử dụng bởi đối tượng chi phí đó.
Kaplan (1987) cho rằng phương pháp ABC được thiết kế nhằm cung cấp một
cách thức phân bổ chính xác chi phí gián tiếp cho các hoạt động, quá trình kinh
doanh, các sản phẩm và dịch vụ. Trên thực tế, nhiều nguồn lực của doanh nghiệp
không chỉ phục vụ cho việc cấu thành nên yếu tố vật chất của sản phẩm mà còn
cung cấp nhiều hoạt động hỗ trợ để đưa các sản phẩm, dịch vụ đến với khách hàng.
Mục tiêu của phương pháp ABC không phải là phân bổ chi phí chung cho các sản
phẩm mà mục tiêu của ABC là đo lường và tính giá tất cả các nguồn lực sử dụng
cho các hoạt động mà có thể hỗ trợ cho việc sản xuất và phân phối sản phẩm, dịch
vụ đến với khách hàng.
Theo Narcyz Roztocki (1999): Để tiến hành tính giá theo phương pháp ABC
cần thực hiện hai giai đoạn: giai đoạn một phân bổ hoặc kết chuyển chi phí cho các
hoạt động, giai đoạn hai sẽ phân bổ cho từng sản phẩm, dịch vụ dựa trên các hoạt
động mà sản phẩm hay dịch vụ đã tiêu dùng.

Theo Horngren (2000): Phương pháp ABC là sự cải tiến của phương pháp
tính giá truyền thống bằng việc tập trung vào các hoạt động cụ thể như là các đối


7

tượng chi phí cơ bản. Một hoạt động có thể là một sự kiện, một hành động hay là
một công việc với mục đích riêng như thiết kế sản phẩm, lắp đặt máy móc hay phân
phối sản phẩm. Hệ thống ABC tập hợp chi phí cho từng hoạt động và phân bổ chi
phí cho từng sản phẩm hoặc dịch vụ dựa trên hoạt động được tiêu dùng bởi sản
phẩm hay dịch vụ đó.
Maher (2001) cho rằng ABC là công cụ quản trị dựa trên hoạt động, trước
hết, chi phí được phân bổ cho các hoạt động, sau đó sẽ phân bổ cho từng sản phẩm,
dịch vụ dựa trên các hoạt động mà sản phẩm hay dịch vụ đã tiêu dùng. Quản trị dựa
trên hoạt động sẽ tìm kiếm sự cải tiến không ngừng. ABC cung cấp thông tin về
hoạt động và nguồn lực cần thiết để thực hiện chúng. Vì thế, ABC không chỉ đơn
thuần là quá trình phân bổ chi phí.
Như vậy, mỗi học giả có một khái niệm khác nhau nhưng nhìn chung phương
pháp tính giá sản phẩm dựa trên cơ sở hoạt động (Activity Based Costing) là
phương pháp tính giá thành mà việc phân bổ các chi phí gián tiếp cho các sản
phẩm, dịch vụ dựa trên cơ sở mức độ hoạt động của chúng.
Khác với phương pháp truyền thống, phương pháp ABC tập hợp toàn bộ chi
phí gián tiếp trong quá trình sản xuất theo từng loại hoạt động hoặc nhóm các hoạt
động tương tự nhau, sau đó phân bổ các chi phí gián tiếp này cho từng sản phẩm
theo mức độ sử dụng hoạt động của sản phẩm đó
Phương pháp ABC có thể được trình bày như sau:

Đầu tiên, phương pháp này nghiên cứu các hoạt động tạo ra chi phí tại mỗi
trung tâm chi phí, lập danh sách các hoạt động khác nhau. Sau đó, chi phí tại mỗi
trung tâm sẽ được phân bổ cho mỗi hoạt động có quan hệ trực tiếp với hoạt động

được phân bổ.


8

Thứ hai, trong từng loại hoạt động, cần xác định các tiêu chuẩn đo lường sự
thay đổi của mức sử dụng chi phí. Các tiêu chuẩn này được xem là tiêu chuẩn phân
bổ chi phí cho mỗi loại sản phẩm, dịch vụ hay các đối tượng chịu chi phí. Các tiêu
chuẩn thường sử dụng để phân bổ là: số giờ lao động trực tiếp của công nhân, tiền
lương công nhân trực tiếp, số đơn đặt hàng, số đơn vị vận chuyển,…
Cuối cùng, các hoạt động có cùng tiêu chuẩn phân bổ phải được tập hợp tiếp
tục vào một “trung tâm phân nhóm”. Tuỳ theo tính chất kỹ thuật của sản phẩm, dịch
vụ hay đối tượng chịu chi phí mà tiếp tục phân thành các nhóm nhỏ để tính giá
thành. Như vậy, có thể nói rằng phương pháp ABC có thể biến một chi phí gián tiếp
thành một chi phí trực tiếp với một đối tượng tạo lập chi phí xác định. Việc lựa chọn
các hoạt động và tiêu chuẩn phân bổ chi phí hợp lý giúp các nhà quản trị doanh
nghiệp có được những báo cáo về giá thành sản phẩm, dịch vụ với độ tin cậy cao
hơn nhiều so với phương pháp truyền thống. Đây không chỉ đơn thuần là phương
pháp tính giá thành cho sản phẩm dịch vụ mà phương pháp ABC còn là một công cụ
quản lý chi phí chiến lược. Nó giúp doanh nghiệp xác định hoạt động nào tạo ra giá
trị, hoạt động nào không tạo ra giá trị, từ đó không ngừng cải tiến quá trình kinh
doanh nhằm hạ giá thành sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp.
Phương pháp tính giá theo hoạt động hình thành một hệ thống gồm nhiều khái
niệm đặc trưng, dưới đây là một số khái niệm cơ bản:
- Khái niệm hoạt động (Activity): Hoạt động là một sự kiện hoặc một nghiệp
vụ gây ra sự phát sinh chi phí trong doanh nghiệp. Một nguyên nhân gây ra chi phí
là một hoạt động tao ra chi phí đó. Tất cả những chi phí cùng bị gây ra bởi một
nguyên nhân gây ra chi phí được nhóm lại thành một chi phí. Quá trình sản xuất sản
phẩm và cung ứng dịch vụ của doanh nghiệp thực chất là sự hợp thành một cách có

hệ thống, có tổ chức của nhiều hoạt động khác nhau.
Có 4 nhóm hoạt động sau:


9

Nhóm các hoạt động đầu vào là những hoạt động sẵn sàng cho việc chế tạo
sản phẩm như: Thiết kế sản phẩm, thiết kế quy trình, mua, nhận, đào tạo….
Nhóm các hoạt động sản xuất là các hoạt động liên quan đến chế tạo sản
phẩm, như: Vận hành máy móc, kiểm tra chất lượng công việc hoàn thành
Nhóm các hoạt động đầu ra là những hoạt động có liên quan đến sự giao dịch
với khách hàng, như: Hoạt động bán hàng, hoạt động quảng cáo, hoạt động bảo
hành, hoạt động giao nhận…….
Nhóm các hoạt động hành chính là các hoạt động khác nhằm hỗ trợ cho 3
nhóm hoạt động trên, như: Nhân sự, tài chính, kế toán, quản lý…..
- Khái niệm nguồn phát sinh chi phí (Cost driver): Nguồn phát sinh chi phí
là một nhân tố, một khía cạnh của hoạt động có thể định lượng được và gây ra sự
phát sinh chi phí. Một hoạt động có thể được xem xét theo nhiều khía cạnh khác
nhau nhưng chỉ những khía cạnh nào gây ra sự phát sinh chi phí và có thể định
lượng được mới có thể được coi là nguồn phát sinh chi phí.
Có ba loại nguồn phát sinh chi phí như sau:
- Nguồn phát sinh chi phí chỉ số lượng nghiệp vụ: Chẳng hạn như số đơn
mua hàng được xử lý, số đơn đặt hàng của khách hàng, số lần kiểm tra, số lần chuẩn
bị máy móc. Nguồn phát sinh chi phí chỉ số lượng nghiệp vụ là ít tốn kém nhất khi
thu nhập thông tin liên quan nhưng đây cũng là sự lựa chọn ít chính xác nhất vì nó
đòi hỏi cùng số lượng nguồn tiêu dùng mỗi thời gian thực hiện hoạt động. Tuy
nhiên, nếu sự khác nhau về số lượng nguồn cần có cho mỗi sản phẩm, dịch vụ là
không lớn thì nguồn sinh phí chỉ số lần là một phương pháp đo lường hợp lý về chi
phí được tiêu dùng trên mỗi hoạt động của các sản phẩm. Còn nếu trong trường hợp
này vẫn không thể áp dụng được thì nguồn phát sinh chi phí chỉ khoảng thời gian

được áp dụng


10

- Nguồn phát sinh chi phí chỉ khoảng thời gian: Thể hiện thời lượng thời
gian được yêu cầu để thực hiện các hoạt động. Ví dụ như số giờ kiểm tra, số giờ
chuẩn bị máy móc. Đối với một sản phẩm đòi hỏi ít thời gian chuẩn bị máy móc và
sản phẩm khác đòi hỏi nhiều thời gian hơn, nếu nguồn phát sinh chi phí là số giờ
chuẩn bị máy móc thì đây là một phương pháp đo lường chính xác hơn so với khi
nó là số lần chuẩn bị máy móc. Sử dụng số lần chuẩn bị máy móc sẽ dẫn đến kết
quả sản phẩm cần nhiều thời gian hơn có chi phí giảm đi, và ngược lại sản phẩm
cần ít thời gian lại có chi phí tăng lên so với mức tiêu dùng thực sự của chúng. Tuy
nhiên, sử dụng loại nguồn phát sinh chi phí này thì chi phí đo lường sẽ tốn kém hơn.
- Nguồn phát sinh chi phí chỉ cường độ: Trong khi nguồn phát sinh chi phí
chỉ khoảng thời gian thiết lập tỉ lệ chi phí trung bình mỗi giờ của một hoạt động, thì
nguồn phát sinh chi phí chỉ cường độ liên quan trực tiếp đến lượng chi phí tiêu dùng
thực sự cho mỗi hoạt động. Ví dụ, một hoạt động cần người có kỹ năng và người
không có kỹ năng thực hiện, thì nguồn phát sinh chi phí chỉ khoảng thời gian sẽ
thiết lập một tỉ lệ chi phí trung bình mỗi giờ (là tỉ số giữa chi phí của hoạt động và
tổng thời gian của hai loại lao động), trái lại nguồn phát sinh chi phí chỉ cường độ sẽ
ghi lại thời gian thực tế hoặc ước tính cho mỗi loại lao động và phân bổ trực tiếp
từng chi phí cụ thể đến các sản phẩm.
- Khái niệm trung tâm hoạt động (Activities center): Trung tâm hoạt động
được hiểu là một phần của quá trình sản xuất mà kế toán phải báo cáo một cách
riêng biệt tình hình chi phí của các hoạt động thuộc trung tâm đó. Tóm lại, sản
phẩm là kết quả quá trình liên kết một số tác nghiệp cần thiết trong việc thiết kế, sản
xuất, và bán sản phẩm này. Như vậy sản phẩm là sự kết tinh của một nhóm các hoạt
động. Khái niệm này dẫn đến:
- Để biết được chi phí, giá thành của một loại hoạt động, cần phải tập hợp giá

phí của các hoạt động cần thiết để tạo ra sản phẩm này.
- Để tác động lên giá phí của sản phẩm, cần tác động lên chính giá phí của
các hoạt động tạo nên sản phẩm.


11

Theo phương pháp tính giá ABC, đối tượng tập hợp chi phí là các hoạt động
làm phát sinh chi phí, sau đó chi phí của các hoạt động sẽ được phân bổ cho các đối
tượng tính giá thành thông qua các kích tố chi phí (nguồn phát sinh chi phí).
1.2. TRÌNH TỰ THỰC HIỆN PHƯƠNG PHÁP TÍNH GIÁ ABC
Để tiến hành vận dụng ABC trong các doanh nghiệp, các học giả kế toán đã
đưa ra nhiều cách tiếp cận khác nhau.
Cooper đề xuất mô hình ABC hai giai đoạn (Cooper, 1987a; Cooper, 1987b).
Trong giai đoạn đầu, chi phí được tính vào các hoạt động theo từng trung tâm hoạt
động, dựa trên tiêu thức phân bổ chi phí. Trong các phương pháp tính chi phí truyền
thống không có bước công việc tương tự như vậy. Ở giai đoạn hai, chi phí được
phân bổ từ các hoạt động đến từng sản phẩm dựa vào mức độ sử dụng các hoạt
động đối với các sản phẩm đó. Giai đoạn này tương tự với phương pháp truyền
thống, tuy nhiên, phương pháp truyền thống chỉ sử dụng những tiêu thức phân bổ
liên quan đến sản lượng của phẩm mà không xem xét đến những yếu tố không ảnh
hưởng hay không liên quan trực tiếp đến sản lượng. Một vài ví dụ của các yếu tố
không liên quan trực tiếp đến sản lượng bao gồm số giờ chuẩn bị máy, số lần chuẩn
bị, số lượng đơn hàng... Việc phân bổ những chi phí không liên quan đến sản lượng
mà lại sử dụng những phương pháp dựa trên sản lượng sẽ làm sai lệch chi phí sản
phẩm.
Theo Sollenberger (1997), có 5 bước cơ bản để áp dụng ABC như sau:
Bước 1: Tập hợp các hoạt động tương tự vào một trung tâm hoạt động
Bước 2: Phân chia chi phí theo trung tâm hoạt động và theo loại chi phí
Bước 3: Lựa chọn các nguồn phát sinh chi phí của hoạt động

Bước 4: Tính toán các hàm chi phí
Bước 5: Phân bổ chi phí cho các hoạt động và cho từng sản phẩm, dịch vụ.
Horngren (1997) đã mô tả quá trình vận dụng phương pháp ABC gồm 5
bước:


12

Bước 1: Xác định từng hoạt động được chọn làm đối tượng chi phí
Bước 2: Xác định chi phí trực tiếp cho từng hoạt động
Bước 3: Xác định chi phí gián tiếp có liên quan đến các hoạt động
Bước 4: Lựa chọn tiêu thức phân bổ để phân bổ chi phí gián tiếp cho từng
hoạt động
Bước 5: Tính tỉ lệ phân bổ cho mỗi tiêu thức và phân bổ chi phí cho từng
hoạt động
Như vậy, để vận dụng phương pháp ABC trong doanh nghiệp, có thể trải qua
các bước khác nhau tùy thuộc vào quan điểm của mỗi tác giả, nhìn chung trình tự
thực hiện phương pháp này có thể chia thành 2 giai đoạn với các bước nhỏ cụ thể
sau:

Giai đoạn 1

Giai đoạn 2

Sơ đồ 1.1: Hai giai đoạn của phương pháp ABC
Nguồn: Tạp chí kế toán
1.2.1. Giai đoạn I: Phân chia chi phí vào các trung tâm hoạt
động



13

Trong giai đoạn này cần thực hiện các bước cụ thể sau:
1.2.1.1. Phân nhóm các chi phí
Bước này được thực hiện bằng cách phân chia các chi phí chung thành các
nhóm chi phí có tính chất đồng nhất
1.2.1.2. Xác định các hoạt động và trung tâm hoạt động
Họat động là khái niệm chỉ một quy trình, cách thức chuyển hóa đầu vào
thành đầu ra. Ví dụ: họat động lập dự toán chi phí sản xuất, hoạt động thu mua
nguyên vật liệu, hoạt động phân loại phẩm cấp chất lượng sản phẩm, …
Phân chia quá trình sản xuất thành các hoạt động là công việc quan trọng của
phương pháp ABC.Thực chất quá trình sản xuất là một chuỗi các hoạt động nối tiếp,
do đó người ta thường vẽ ra lưu đồ của quá trình sản xuất để xác định được những
hoạt động chính này. Số lượng hoạt động trong một doanh nghiệp rất đa dạng và có
thể khá lớn, nếu chia thành nhiều hoạt động để tập hợp và phân bổ chi phí thì độ
chính xác của thông tin sẽ rất cao, nhưng chi phí cho việc thu thập và xử lý thông
tin sẽ lớn. Các doanh nghiệp thường nhóm các hoạt động có liên quan tiêu dùng
cùng một nguồn lực vào một tâm điểm hoạt động, được gọi là trung tâm hoạt động
(Activities center).Việc làm này giúp doanh nghiệp giảm được chi phí nhân lực
trong việc đo lường chi phí và theo dõi diễn biến của từng hoạt động. Để dễ dàng
nhận diện các hoạt động, Kaplan (1998) đã chia các hoạt động trong doanh nghiệp
theo các cấp độ khác nhau, bao gồm:
+ Hoạt động ở cấp độ đơn vị (unit-level activities): hoạt động này được
thực hiện mỗi khi một đơn vị sản phẩm hay dịch vụ được sản xuất. Chi phí trong
hoạt động này gồm chi phí lao động trực tiếp, nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí về
năng lượng chi phí bao gói sản phẩm, chi phí về hoạt động của máy móc khi sản
xuất một sản phẩm, ...
+ Hoạt động ở cấp độ lô, nhóm sản phẩm (batch - level activities): hoạt
động này diễn ra khi có một lô hàng được sản xuất, chi phí ở cấp lô sản phẩm thay
đổi theo từng lô sản phẩm sản xuất ra nhưng là cố định cho tất cả sản phẩm trong



14

cùng một lô. Ví dụ: chi phí lắp đặt máy móc, tài nguyên dùng cho việc lập kế hoạch
sản xuất, dự toán chi phí sản xuất cho lô sản phẩm, kiểm tra chất lượng mỗi lô sản
phẩm, và vận chuyển nguyên vật liệu.
+ Hoạt động cấp độ sản phẩm (product - level activities): hoạt động này
gắn với việc sản xuất và tiêu thụ một loại sản phẩm độc lập, ví dụ như hoạt động
nghiên cứu, thiết kế sản phẩm, thực hiện cải tiến sản phẩm.
+ Hoạt động cấp khách hàng (customer-level activities): hoạt động này bao
gồm toàn bộ chi phí liên quan đến việc bán sản phẩm hoặc cung cấp dịch vụ đến
từng khách hàng riêng biệt. Chi phí này sẽ thay đổi phụ thuộc vào số lượng và kết
cấu sản phẩm và dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Điển hình cho chi phí của hoạt
động này bao gồm chi phí vận chuyển hàng đi bán, chi phí cài đặt vận hành thử,
hướng dẫn sử dụng cho sản phẩm, chi phí bảo hành sản phẩm,...
+ Hoạt động hỗ trợ phương tiện sản xuất (Facility- level activities): hoạt
động này ở cấp độ cao nhất, được thực hiện nhằm hỗ trợ cho quá trình sản xuất nói
chung bao gồm hoạt động của đội ngũ nhân viên quản lý phân xưởng, quản lý
chung và quản lý tài sản, chi phí vệ sinh...
Tuy nhiên, tùy theo đặc điểm của doanh nghiệp mà có thể phân chia thành
các trung tâm hoạt động cho phù hợp.
1.2.1.3. Liên hệ chi phí vào các trung tâm hoạt động
Liên hệ những chi phí vào các hoạt động nghĩa là xác định chi phí của từng
trung tâm họat động đã được phân chia ở trên bằng cách thiết lập ma trận Chi phí –
Hoạt động (EAD).
Theo ma trận EAD này, các nhóm chi phí ở bước 1 biểu diễn theo cột, các
hoạt động xác định trong bước 2 được biểu diễn theo hàng. Nếu hoạt động i có sử
dụng loại chi phí j, đánh dấu vào ô ij.



15

Sau đó, thay thế những dấu đã đánh bằng một tỉ lệ nhất định, tỉ lệ này được
ước lượng bằng cách sử dụng một trong các phương pháp sau sao cho tổng các cột
của ma trận EAD phải bằng 1.
- Phương pháp ước đoán: phương pháp này được sử dụng trong trường hợp
không có số liệu thực tế hoặc việc thu thập số liệu thực tế sẽ rất tốn kém. Phương
pháp ước tính được thực hiện bằng cách phối hợp giữa nhà quản lý tài chính, bộ
phận quản lý và các nhân viên chức năng có quan hệ trực tiếp đến hoạt động. Nhóm
này có thể cung cấp tỉ lệ ước đoán về tỉ lệ chi phí phân bổ trong cả hai giai đoạn của
phương pháp ABC. Mức độ chính xác của phương pháp này dựa trên sự phối hợp
giữa các bộ phận và kiến thức của họ.
- Phương pháp đánh giá hệ thống: đây là một cách tiếp cận khoa học hơn để
xác định tỉ lệ chi phí bằng cách sử dụng kỹ thuật hệ thống như quá trình phân tích
thứ bậc (AHP - Analytic Hierarchical Process). AHP là công cụ thích hợp cho việc
xử lý các ý kiến chủ quan thành những thông tin đại diện. Ví dụ, doanh nghiệp cần
phân bổ chi phí nhiên liệu cho 3 hoạt động là bán hàng, phân phối và bảo trì. Thông
qua việc đặt câu hỏi cho những bộ phận sử dụng nguồn lực này và yêu cầu họ đánh
giá về tỉ lệ nhiên liệu sử dụng trong một thời gian nhất định, AHP có thể đưa ra
được tỉ lệ chi phí này và phân bổ chúng cho từng hoạt động. AHP cũng có thể sử
dụng trong giai đoạn phân bổ chi phí từ các hoạt động cho sản phẩm.
- Phương pháp thu thập dữ liệu thực tế: đây là phương pháp chính xác nhất
nhưng cũng tốn nhiều chi phí nhất để tính toán tỉ lệ dựa trên việc thu thập số liệu
thực tế. Trong hầu hết các trường hợp, thủ tục thu thập số liệu phải được xây dựng
và phải mua các thiết bị thu thập số liệu. Hơn nữa, việc thu thập số liệu phải đúng
thời điểm và người thu thập số liệu đòi hỏi phải có kỹ năng nhất định. Kết quả
thường được phân tích bằng các công cụ thống kê. Ví dụ, lấy mẫu công việc có thể
được sử dụng để ước tính tỉ lệ thời gian để giám sát việc sản xuất một sản phẩm
nhất định. Trong trường hợp này, cán bộ giám sát sẽ được phỏng vấn vào những



16

thời điểm ngẫu nhiên để xác định sản phẩm đang được giám sát. Những thông tin
cần thiết có thể có được dựa trên những dữ liệu này.
1.2.1.4. Tính toán giá trị bằng tiền của các hoạt động
Để có được giá trị bằng tiền của từng hoạt động, chúng ta áp dụng công thức
sau

j=1

TCA (i) = ∑ Chi phí (j) * EAD(i,j)
Với:

M

TCA (i) = Tổng chi phí của hoạt động i
M = Số loại chi phí
Chi phí (j) = Giá trị bằng tiền của nhóm chi phí j
EAD (i,j) = Hệ số tỉ lệ ở ô i, j của ma trận EAD
1.2.2. Giai đoạn II:Phân bổ chi phí từ các hoạt động vào sản
phẩm
Trình tự thực hiện của giai đoạn này như sau:
1.2.2.1. Xác định nguồn phát sinh chi phí (kích tố chi phí)
Xác định nguồn phát sinh chi phí là thực chất là xác định nguyên nhân gây ra
chi phí.
Đối với các chi phí phát sinh của hoạt động liên quan trực tiếp đến sản phẩm
thì tập hợp trực tiếp cho sản phẩm đó, do vậy có thể không cần xác định nguồn phát
sinh chi phí, đối với các chi phí của hoạt động liên quan đến nhiều sản phẩm cần

xác định nguồn sinh phí như là một tiêu thức phân bổ chi phí cho các sản phẩm.
Một hoạt động có thể liên quan đến nhiều nguồn sinh phí và ngược lại, một nguồn
sinh phí có thể là nguyên nhân phát sinh chi phí của nhiều hoạt động.
Nguồn sinh phí được chọn dựa trên 2 tiêu chí:
-

Quan hệ nhân quả hợp lý giữa nguồn sinh phí và lượng tiêu hao nguồn
lực

-

Dữ liệu về nguồn sinh phí có thể thu thập được


17

Trong giai đoạn này, các hoạt động sẽ trở thành những điểm tích lũy chi phí,
các nguồn sinh phí chính là các tiêu thức phân bổ chi phí từ hoạt động đến sản
phẩm. Để thể hiện mối quan hệ này, ma trận hoạt động – sản phẩm (APD) sẽ được
thiết lập. Những hoạt động được biểu diễn theo cột còn các sản phẩm được biểu
diễn theo hàng. Nếu sản i sử dụng hoạt động j ta đánh dấu vào ô ij.
Những ô ij đã đánh dấu trên được thay thế bằng một tỷ lệ ước lượng, tỷ lệ
này được xác định bằng cách sử dụng một trong ba phương pháp: ước đoán, đánh
giá hệ thống và thu thập dữ liệu thực tế như đã trình bày ở trên. Tổng các cột của
ma trận APD phải bằng 1.
1.2.2.2. Tính toán giá trị bằng tiền của các sản phẩm
Để có được giá trị bằng tiền của từng sản phẩm, chúng ta áp dụng công thức
sau:

j=1


OCP(i) = ∑ TCA(j) * APD(i,j)
Trong đó:

N

OCP(i)

= chi phí chung của sản phẩm i

N

= Số hoạt động

TCA(j)

= Giá trị bằng tiền của họat động j

APD(i,j)

= tỷ lệ ở ô ij của ma trận EAD

Trong phương pháp truyền thống, tỷ lệ tổng chi phí gián tiếp phân bổ vào
thành phẩm thường phụ thuộc vào tỷ lệ của tổng số giờ lao động trực tiếp cần có để
làm ra thành phẩm đó. Còn trong ABC, các hoạt động gián tiếp đáng chú ý (như
chạy máy, lắp ráp, kiểm tra chất lượng,...) được xác định bởi giám đốc vận hành.
Sau đó, chi phí cho các nguồn lực gián tiếp đã tiêu dùng để thực hiện các hoạt động
đó sẽ được truy nguyên theo hoạt động thông qua kích tố chi phí (cost driver) thích
hợp. Cuối cùng, tập hợp các chi phí của từng hoạt động sẽ được phân bổ tiếp về các
thành phẩm thông qua các kích tố chi phí hợp lý khác. Nói một cách hình tượng



18

hơn, hệ thống ABC xé nhỏ chiếc bánh chi phí gián tiếp thành các mẩu bánh tương
ứng với mỗi hoạt động nhất định.
1.3. SO SÁNH PHƯƠNG PHÁP TÍNH GIÁ ABC VÀ PHƯƠNG PHÁP TÍNH
GIÁ TRUYỀN THỐNG, ƯU ĐIỂM, HẠN CHẾ VÀ ĐIỀU KIỆN VẬN DỤNG
PHƯƠNG PHÁP TÍNH GIÁ ABC
1.3.1. So sánh phương pháp tính giá ABC và phương pháp
tính giá truyền thống
Mặc dù là một phương pháp đang được áp dụng phổ biến, dưới góc độ phục
vụ cho việc ra các quyết định quản trị, phương pháp tính giá truyền thống vẫn thể
hiện những hạn chế nhất định
Cooper và Robert Kaplan (1988) nghiên cứu và chỉ ra rằng: mô hình tính giá
truyền thống làm sai lệch giá thành sản phẩm bởi chi phí sản xuất chung được phân
bổ cho sản phẩm, dịch vụ thông qua các yếu tố như giờ công lao động trực tiếp, giờ
máy chạy hay lượng nguyên vật liệu tiêu hao. Vì vậy, mỗi loại sản phẩm có sản
lượng sản xuất khác nhau nhận được chi phí sản xuất chung phân bổ cho từng đơn
vị sản phẩm là như nhau. Cooper và Kaplan cho rằng cần phân tích các hoạt động
thực tế thực hiện phải gánh chịu chi phí. Các hoạt động được kết hợp với đối tượng
chi phí đã tiêu dùng chúng và vì thế, trước tiên chi phí được phân bổ cho các hoạt
động và sau đó chi phí hoạt động được phân bổ cho đối tượng chi phí thông qua
nguồn phát sinh chi phí.
Việc phân bổ chi phí chung trong phương pháp truyền thống để tính giá
thành sản phẩm chịu sự chi phối lớn bởi việc lập báo cáo tài chính. Chi phí chung
được xác định 1 cách đơn giản, nghĩa là những chi phí chỉ liên quan đến hoạt động
sản xuất. Trong khi đó, một vài chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp có
liên quan đến sản phẩm nhưng không được tính vào giá thành sản phẩm vì những
quy định của việc lập báo cáo tài chính. Trong phương pháp ABC, trọng tâm của

phương pháp là giải quyết chi phí sản xuất chung 1 cách toàn diện hơn. Chi phí sản
xuất chung trong phương pháp ABC bao hàm một phạm vi rộng hơn, không chỉ


19

những chi phí liên quan trực tiếp đến sản xuất sản phẩm mà còn những chi phí
mang tính chất chung khác. Điều này có nghĩa là, giá thành sản phẩm sẽ là cơ sở sát
thực hơn cho việc định giá bán sản phẩm.
Innes (1994) cho rằng cả hai phương pháp tính giá đều trải qua hai giai đoạn.
Giai đoạn thứ nhất liên quan đến việc tập hợp chi phí đầu vào vào các trung tâm chi
phí. Giai đoạn hai là phân bổ chi phí cho từng sản phẩm, dịch vụ. Tuy nhiên, sự
khác nhau trong mỗi giai đoạn được thể hiện rõ qua sơ đồ sau:


20

Giai đoạn 1: Tập hợp
chi phí SXC theo các bộ phận

Bộ phận sản xuất

Chi phí
gián tiếp

Giai đoạn 2: Phân bổ chi phí SXC
theo các tiêu thức phân bổ chung

Tiêu thức phân bổ
dựa trên sản lượng


Bộ phận
sản xuất 1

Tiêu thức 1

Bộ phận
sản xuất 2

Tiêu thức 2

Bộ phận
sản xuất …

Tiêu thức…

Sản phẩm

S

n

S

n

p
h

m


p
h

m

A
B

Bộ phận
sản xuất n

Tiêu thức m

Sơ đồ 1.2: Hai giai đoạn tính giá của phương pháp truyền thống
Nguồn: Peter.B.B.Turney (1996), trang 81


21

Giai đoạn 1: Tâp hợp chi phí
SXC theo hoạt động

Chi phí
gián tiếp

Giai đoạn 2: Phân bổ chi phí SXC
của các hoạt động theo từng tiêu thức

Hoạt động


Tỉ lệ chi phí
trên hoạt động

Hoạt động 1

Tỉ lệ CP
trên HĐ 1

Hoạt động 2

Tỉ lệ CP
trên HĐ 2

Sản phẩm

S

n

S

n
p
h

m

Hoạt động...


Tỉ lệ CP
trên HĐ …

p
h

m

Hoạt động n

Tỉ lệ CP
trên HĐ m

A
B

Nguồn: Peter. B.B. Turney (1996), trang 81

Có thể thấy sự khác nhau cơ bản là ở chỗ phương pháp truyền thống sử dụng
Sơ đồ 1.3: Hai giai đoạn tính giá của phương pháp ABC
một tiêu thức phân bổ chung dựa trên sản lượng sản phẩm sản xuất ra hoặc chi phí
tiền lương của lao động trực tiếp đối với chi phí sản xuất chung. Tỷ trọng chi phí
tiền lương của công nhân trực tiếp thường là lớn đối với các doanh nghiệp nhỏ và
ngược lại chi phí này thường thấp hơn đối với các doanh nghiệp có quy mô lớn. Các
loại sản phẩm có sản lượng lớn hơn, sử dụng nhiều giờ công lao động trực tiếp hơn
sẽ phải gánh chịu nhiều chi phí sản xuất chung hơn so với các sản phẩm có quy mô
sản xuất ít. Trong khi đó, ở nhiều hoạt động phát sinh chi phí sản xuất chung, loại
sản phẩm sản xuất với quy mô nhỏ có thể tiêu dùng nhiều nguồn lực hơn các sản
phẩm khác. Sở dĩ như vậy là vì, các loại sản phẩm đặc biệt có tính phức tạp cao hơn
và các lô sản phẩm có quy mô nhỏ hơn. Hoặc trong một số trường hợp nhất định,

chi phí nhân công trực tiếp tỷ lệ nghịch với chi phí chi phí về máy móc thiết bị,
nghĩa là khi mức độ tự động hóa càng cao, chi phí khấu hao càng lớn thì chi phí về
nhân công sẽ thấp lại. Như vậy, sử dụng một tiêu thức phân bổ chung như chi phí
nhân công trực tiếp cho mọi loại chi phí sản xuât gián tiếp là không phù hợp.


22

Cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hoá và dịch vụ, của kinh tế thị
trường, phương pháp kế toán chi phí truyền thống với những đặc điểm nêu trên đã
tỏ ra không còn phù hợp, làm giảm giá trị của thông tin kế toán đối với công tác
quản lý kinh doanh. Trong nền kinh tế còn kém phát triển, chi phí trực tiếp cấu
thành phần lớn giá trị sản phẩm. Do đó, việc phân bổ chi phí gián tiếp dù không hợp
lý, thậm chí bỏ qua không phân bổ vào giá thành sản phẩm các chi phí bán hàng, chi
phí quản lý cũng không ảnh hưởng lớn đến giá thành sản phẩm. Ngày nay, cùng với
sự phát triển của kinh tế thị trường, sự ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất
kinh doanh, chi phí gián tiếp này càng đóng vai trò quan trọng và chiếm tỷ trọng
cao trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Ví dụ: chi phí
nghiên cứu phát triển của các công ty dược, chi phi quảng cáo của các công ty nước
giải khát, các nhà sản xuất phim. Do mức độ trọng yếu của các chi phí gián tiếp này,
việc không phân bổ hay phân bổ không hợp lý sẽ khiến cho giá thành sản phẩm bị
phản ánh sai lệch, cản trở việc ra quyết định tối ưu của các nhà quản lý.
Bên cạnh đó, trong một nền kinh tế chưa phát triển, cạnh tranh chưa gay gắt,
các doanh nghiệp (đặc biệt là các doanh nghiệp có sản phẩm đặc thù) có thể chủ
động trong việc xác định giá bán cao hơn nhiều so với giá thành sản phẩm. Mức lợi
nhuận cao đó khiến cho thiệt hại do những quyết định kinh doanh không tối ưu trở
nên khó nhận biết hơn. Ví dụ, do xác định giá thành không chính xác nên một
doanh nghiệp có thể định giá bán thấp hơn giá thành thực tế cho một sản phẩm. Tuy
nhiên mức lỗ do định giá sai đó sẽ được bù đắp bởi mức lãi cao của các sản phẩm
khác. Kết quả là thiệt hại được giảm đi đáng kể. Ngược lại, trong một nền kinh tế

thị trường phát triển, mức độ cạnh tranh khốc liệt khiến cho các doanh nghiệp
không thể tự do xác định giá bán sản phẩm (trừ một số ít doanh nghiệp độc quyền).
Thay vào đó, thị trường sẽ quyết định mức giá bán. Trong điều kiện đó, những sai
sót trong việc xác định giá thành sản phẩm có thể khiến cho các doanh nghiệp phải
trả giá đắt.


23

Tóm lại, sự khác biệt cơ bản của 2 phương pháp này xuất phát từ cách tập
hợp và phân bổ chi phí sản xuất chung đến từng đối tượng tính giá thành. Cụ thể như
sau:
Nội dung
Đối

tượng

Phương pháp tính giá truyền

Phương pháp tính giá ABC

thống
Chi phí được tập hợp theo công

tập hợp chi

việc, nhóm sản phẩm hay nơi phát Tập hợp dựa trên hoạt động

phí


sinh chi phí

Nguồn sinh Có nhiều nguồn sinh phí đối với
phí

đối tượng tập hợp chi phí.



Nguồn sinh phí xác định rõ.



Thường chỉ có 1 nguồn sinh phí
trong mỗi hoạt động.

Dựa trên một trong nhiều tiêu thức
phân bổ chi phí như: giờ công, tiền
Tiêu

thức lương, giờ máy,… Tuy nhiên,

phân bổ chi trong một số trường hợp, tiêu thức
phí

này kém thuyết phục làm cho việc



Dựa trên nhiều tiêu thức phân bổ

ở nhiều cấp độ khác nhau.



Tiêu thức lựa chọn thực sự là
nguồn sinh phí ở mỗi hoạt động.

phân bổ chi phí không được chính

xác.
Tính hợp lý Giá thành được tính hoặc quá cao Giá thành chính xác hơn, do vậy tin
và chính xác hoặc quá thấp.
Kiểm

soát Kiểm soát trên cơ sở trung tâm chi

chi phí

phí, phân xưởng, phòng, đơn vị.

thực hiện

và duy trì hệ thống này.

cậy trong việc ra quyết định.
Kiểm soát chi phí theo từng hoạt
động, cho phép những ưu tiên trong

quản trị chi phí.
Chi phí và Đơn giản, ít tốn kém để thực hiện Khá phức tạp, chi phí tương đối cao

để thực hiện và duy trì hệ hống này.

1.3.2. Ưu điểm của phương pháp ABC
Phương pháp ABC được giới thiệu đầu tiên vào giữa thập kỷ 80, bởi Robert
Kaplan và Robin Cooper, trước hết nhằm giải quyết những nhược điểm của phương
pháp kế toán chi phí truyền thống nêu trên. Theo phương pháp ABC, giá thành sản
phẩm không chỉ bao gồm chi phí sản xuất mà là toàn bộ chi phí sản xuất kinh
doanh, bao gồm cả các chi phí gián tiếp như chi phí bán hàng, chi phí quản lý.


24

Như trình bày ở trên, do tỷ trọng chi phí gián tiếp ngày càng lớn, việc không
phân bổ các chi phí này vào giá thành sản phẩm có thể dẫn tới những ngộ nhận về
mức lợi tức sản phẩm và do đó sai lầm trong ra quyết định kinh doanh. Ví dụ, một
sản phẩm mới có thể có giá thành công xưởng nhỏ hơn các sản phẩm hiện tại,
nhưng đòi hỏi một khoản chi phí marketing lớn để đưa ra thị trường. Nếu chỉ căn cứ
vào giá thành công xưởng thì có thể thấy sản xuất sản phẩm đó sẽ mang lại lợi
nhuận cao hơn, nhưng nếu phân bổ đủ cả chi phí marketing tăng thêm thì có thể sản
phẩm đó sẽ bị lỗ.
Cùng với việc phân bổ toàn bộ các chi phí vào giá thành sản phẩm, phương
pháp ABC sử dụng một hệ thống các tiêu thức phân bổ được xây dựng trên cơ sở
phân tích chi tiết mối quan hệ nhân quả giữa chi phí phát sinh cho từng hoạt động
và mức độ tham gia của từng hoạt động vào quá trình sản xuất và kinh doanh sản
phẩm, thay vì chỉ sử dụng một tiêu thức phân bổ (ví dụ chi phí nhân công trực tiếp)
như phương pháp truyền thống. Các tiêu thức phân bổ do đó phản ánh chính xác
hơn mức độ tiêu hao nguồn lực thực tế của từng sản phẩm. Theo đó, ABC sẽ giúp
các nhà quản lý tránh được những quyết định sai lầm do sử dụng thông tin không
chính xác về giá thành như trình bày ở trên. Ngoài ra, bên cạnh việc cung cấp thông
tin chính xác về giá thành, ABC còn cung cấp thông tin chi tiết về cơ cấu chi phí

của từng sản phẩm, giúp cho nhà quản lý có thể linh hoạt hơn trong việc lập kế
hoạch ngân sách cũng như điều chỉnh các chính sách, chiến lược sản phẩm của
doanh nghiệp trong điều kiện thị trường luôn biến động.
Như vậy, có thể thấy phương pháp ABC cung cấp thông tin giá thành chính
xác và hợp lý hơn so với phương pháp kế toán chi phí truyền thống. Tuy nhiên, đó
chỉ là một trong những mục tiêu của ABC. Việc áp dụng ABC còn tạo điều kiện
nâng cao hiệu quả công tác quản lý doanh nghiệp thông qua các ứng dụng sau:
Để xây dựng được hệ thống các tiêu thức phân bổ chi phí, yêu cầu đầu tiên là
phải xác định được toàn bộ các hoạt động diễn ra trong doanh nghiệp trong một chu
kỳ sản xuất kinh doanh. Bước thứ hai, doanh nghiệp cần xác định mức chi phí cho


25

mỗi hoạt động trong từng kỳ. Cuối cùng, mức đóng góp của từng hoạt động vào
từng sản phẩm được xác định. Với những thông tin chi tiết như vậy, các nhà quản lý
có thể dễ dàng phân loại các hoạt động trong doanh nghiệp theo các nhóm: các hoạt
động có mức đóng góp cao vào giá trị sản phẩm (high value adding activities), các
hoạt động có mức đóng góp thấp (low value adding activities), và các hoạt động
không đóng góp, thậm chí là nhân tố cản trở quá trình sản xuất kinh doanh (nonvalue adding activities/constraints). Trên cơ sở hiểu rõ tầm quan trọng của các hoạt
động, nhà quản lý có thể đưa ra các biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp bằng cách loại bỏ những hoạt động không có đóng góp vào giá trị sản
phẩm, tổ chức lại các hoạt động có mức đóng góp thấp nhằm nâng cao hơn mức
đóng góp của các hoạt động này. Ngay đối với các hoạt động có mức đóng góp cao,
ABC cũng cung cấp thông tin về quá trình phát sinh chi phí, nguyên nhân phát sinh
chi phí cho các hoạt động, qua đó tạo cơ hội cắt giảm chi phí kinh doanh. Cần lưu ý
việc cắt giảm chi phí kinh doanh ở đây được xét trên phạm vi tổng thể. Tức là nhà
quản lý có thể tăng chí phí cho một hoạt động cụ thể nào đó nhằm nâng cao mức
đóng góp của hoạt động đó vào quá trình sản xuất kinh doanh, qua đó giảm giá
thành sản phẩm.

Ngày nay, trong một nền kinh tế thị trường phát triển, một xu hướng khá phổ
biến là việc các doanh nghiệp không còn tự mình thực hiện toàn bộ các hoạt động
sản xuất kinh doanh nữa mà chỉ tập trung vào một số khâu có hiệu quả nhất. Các
công đoạn khác sẽ được thuê ngoài (outsource). Ví dụ, năm 2005 hãng sản xuất
máy bay Airbus công bố thuê ngoài 70% các công đoạn trong quá trình sản xuất
máy bay. Để ra quyết định thuê ngoài đó, các doanh nghiệp cần có các thông tin chi
tiết về toàn bộ các hoạt động của mình, chi phí cho từng hoạt động, vai trò của từng
hoạt động trong toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh. Trên cơ sở đó các nhà quản
lý có thể xác định được các hoạt động nào không thể thuê ngoài vì lý do bảo mật
công nghệ hoặc vì đó là các hoạt động có tính chất sống còn nên doanh nghiệp phải
luôn chủ động kiểm soát, các hoạt động doanh nghiệp có lợi thế so sánh nên tự thực
hiện sẽ hiệu quả hơn thuê ngoài, và các hoạt động thuê ngoài sẽ hiệu quả hơn. Có


×