Chuyên đề tốt nghiệp.
LỜI NÓI ĐẦU.
Trong điều kiện cạnh tranh mạnh mẽ hiện nay, mỗi một Ngân hàng đều
phải tự hoàn thiện, nâng cao chất lượng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, trong
các sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng có rất nhiều nhưng sản phẩm tín dụng là
một trong những sản phẩm quan trọng của các ngân hàng Việt Nam hiện nay vì
nó mang lại thu nhập lớn cho ngân hàng( chiếm tới 70% doanh thu hoạt động
của ngân hàng). Đứng trước tình hình đó, đòi hỏi ngân hàng phải chú trọng đến
chất lượng công tác thẩm định khi cho vay vì công tác thẩm định cho vay rất
quan trọng bởi nó ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng tín dụng, đến kết quả kinh
doanh của ngân hàng. Do đó để hạn chế rủi ro trong cho vay, đảm bảo thu hồi
gốc lãi tiền vay đầy đủ, đúng hạn đòi hỏi công tác thẩm định cho vay ban đầu
phải rất chặt chẽ, tuân thủ theo đúng chế độ, quy trình, quy chế , thể lệ cho vay
.Do đó để hạn chế rủi ro từ phía khách hàng và cũng giảm bớt rủi ro đến vốn
mà Ngân hàng đã cấp tín dụng, thì không gì khác hơn là phải tập trung làm kỹ
từ khâu thẩm định trước khi cho vay, kiểm tra giám sát trong khi cho vay và
kiểm tra giám sát quá trình sử dụng vốn vay đúng mục đích, kịp thời phát hiện
khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích, kinh doanh không có hiệu quả để có
biện pháp xử lý kịp thời, đảm bảo thu hồi gốc lãi và hạn chế đến mức thấp nhất
rủi ro.
Chính vì nhận thức đó mà em tập trung học hỏi, nghiên cứu về nâng cao
chất lượng thẩm định cho vay khách hàng doanh nghiệp tại chi nhánh NHCT
Ninh Bình và lựa chọn đề tài “ Hoàn thiện thẩm định tài chính dự án đầu tư
tại chi nhánh NHCT Ninh Bình ” làm chuyên đề tốt nghiệp.
Chuyên đề gồm 3 chương cơ bản :
Chương I : Dự án đầu tư và thẩm định dự án đầu tư trong hoạt động tín dụng
SV: Nguyễn Thế Hùng
CQ46/11.03
1
Lớp:
Chuyên đề tốt nghiệp.
Chương II : Thực trạng thẩm định tài chính dự án đầu tư tại chi nhánh NHCT
Ninh Bình
Chương III : Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án
đầu tư tại chi nhánh NHCT Ninh Bình
Do hạn chế về kiến thức, kinh nghiệm thực tế cũng như tài liệu sử dụng
nên nội dung chuyên đề khó tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận
được ý kiến đóng góp bổ ích của các thầy cô giáo và các cán bộ Ngân hàng để
đề tài ngày càng hoàn thiện hơn.
Em xin trân trọng cảm ơn!
CHƯƠNG I:DỰ ÁN ĐẦU TƯ VÀ THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TRONG
HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG
SV: Nguyễn Thế Hùng
CQ46/11.03
2
Lớp:
Chuyên đề tốt nghiệp.
1.1. Khái niệm về đầu tư và dự án đầu tư
1.1.1 . Đầu tư
a. Khái niệm đầu tư.
Hoạt động đầu tư (gọi tắt là đầu tư) là quá trình sử dụng các nguồn lực tài
chính, lao động , tài nguyên thiên nhiên và các tài sản vật chất khác nhằm trực
tiếp hoặc gián tiếp tái sản xuất giản đơn, tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất
kỹ thuật của nền kinh tế nói chung, các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ của
ngành, cơ quan quản lý và xã hội nói riêng.Hoạt động đầu tư bao gồm đầu tư
trực tiếp và gián tiếp.
Hoạt động đầu tư gián tiếp là hoạt động bỏ vốn trong đó người đầu tư
không trực tiếp tham gia điều hành quản trị vốn đầu tư đã bỏ ra.
Hoạt động đầu tư trực tiếp là hoạt động trong đó người bỏ vốn trực tiếp
tham gia điều hành quản trị vốn đầu tư đã bỏ ra. Nó chia ra thành 2 loại đầu tư
chuyển dịch và đầu tư phát triển. Trong đó:
- Nâng cấp các hoạt động đó vì mục tiêu phát triển thực chất. Nó tạo ra
của cải vật chất cho nền kinh tế quốc dân, tạo công ăn việc làm Đầu tư chuyển
dịch là hoạt động đầu tư mà chủ đầu tư bỏ tiền để mua lại một số lượng đủ lớn
cổ phiếu của một doanh nghiệp nhằm tham gia nắm quyền điều hành hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó.
- Đầu tư phát triển là hoạt động bỏ vốn nhằm gia tăng giá trị tài sản, tạo ra
những năng lực sản xuất , phục vụ mới bao gồm: xây dựng các công trình mới, các
hoạt động dịch vụ mới, cải tạo mở rộng cải thiện đời sống người lao động.
Có thể nói đầu tư phát triển đó là một quá trình có thời gian kéo dài trong
nhiều năm với số lượng các nguồn lực được huy động cho từng công cuộc đầu
tư khá lớn và vốn nằm đọng trong suốt quá trình thực hiện dự án đầu tư(viết tắt
là DAĐT). Các thành quả của loại đầu tư này cần được sử dụng trong nhiều
năm, đủ để các lợi ích thu được tương ứng và lớn hơn những nguồn lực đã bỏ
ra. Chỉ có như vậy thì công cuộc đầu tư mới được coi là có hiệu quả.
b. Đặc trưng của đầu tư
SV: Nguyễn Thế Hùng
CQ46/11.03
3
Lớp:
Chuyên đề tốt nghiệp.
Để làm rõ hơn nội dung của khái niệm hoạt động đầu tư, chúng ta đi sâu
phân tích các đặc trưng cơ bản của hoạt động này:
- Hoạt động đầu tư là hoạt động bỏ vốn nên quyết định đầu tư thường và
trước hết là quyết định tài chính.
Vốn được hiểu như là các nguồn lực sinh lợi. Dưới các hình thức khác
nhau nhưng vốn có thể xác định dưới hình thức tiền tệ. Vì vậy, các quyết định
đầu tư thường được xem xét trên phương diện tài chính (khả năng sinh lời, tổn
phí, có khả năng thu hồi được hay không…). Trên thực tế, các quyết định đầu tư
cân nhắc bởi sự hạn chế của ngân sách nhà nước, địa phương, cá nhân và được
xem xét từ các khía cạnh tài chính nói trên. Nhiều dự án có khả thi ở các
phương diện khác (kinh tế – xã hội) nhưng không khả thi về phương diện tài
chính vì thế cũng không thể thực hiện được trên thực tế.
- Hoạt động đầu tư là hoạt động có tính chất lâu dài.
Khác với các hoạt động thương mại, các hoạt động chi tiêu tài chính khác,
đầu tư luôn là hoạt động có tính chất lâu dài. Do đó, mọi sự trù liệu đều là dự
tính và chịu một xác suất biến đổi nhất định do nhiều nhân tố biến đổi tác động.
Chính điều này là một trong những vấn đề then chốt phải tính đến trong nội
dung phân tích, đánh giá của quá trình thẩm định dự án.
- Hoạt động đầu tư là một trong những hoạt động luôn cần có sự cân nhắc
giữa lợi ích trước mắt và lợi ích trong tương lai.
Đầu tư về một phương diện nào đó là sự hy sinh lợi ích hiện tại để đánh
đổi lấy lợi ích trong tương lai. Vì vậy, luôn có sự so sánh cân nhắc giữa hai loại
lợi ích này và nhà đầu tư chỉ chấp nhận trong điều kiện lợi ích thu được trong
tương lai lớn hơn lợi ích hiện này họ phải hy sinh - đó là chi phí cơ hội của nhà
đầu tư.
- Hoạt động đầu tư chứa đựng nhiều rủi ro.
Các đặc trưng nói trên đã cho ta thấy đầu tư là một hoạt động chứa đựng
nhiều rủi ro do chịu xác suất nhất định của yếu tố kinh tế – chính trị – xã hội –
tài nguyên thiên nhiên…Bản chất của sự đánh đổi lợi ích và lại thực hiện trong
một thời gian dài không cho phép nhà đầu tư lường hết những thay đổi có thể
xảy ra trong quá trình thực hiện đầu tư so với dự tính. Tuy nhiên, nhận thức rõ
SV: Nguyễn Thế Hùng
CQ46/11.03
4
Lớp:
Chuyên đề tốt nghiệp.
điều này nên nhà đầu tư cũng có những cách thức, biện pháp để ngăn ngừa hay
hạn chế để khả năng rủi ro là ít nhất.
Những đặc trưng nói trên cũng đặt ra cho người phân tích, đánh giá dự án
chẳng những quan tâm về mặt nội dung xem xét mà còn tìm các phương pháp,
cách thức đo lường, đánh giá để có những kết luận giúp cho việc lựa chọn và ra
quyết định đầu tư một cách có căn cứ.
c. Vai trò của đầu tư.
Từ sau Đại hội Đảng lần VI, với chủ trương chuyển đổi cơ chế kinh tế từ
tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường, nền kinh tế Việt Nam đã
có những tiến bộ rõ rệt. Tỉ lệ tăng trưởng cao và tương đối ổn định, tỉ lệ lạm
phát dừng lại ở mức thấp, đặt biệt kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng…cùng
với sự chuyển mình của đất nước cũng như việc thực hiện đa dạng, đa phương
hoá các phương thức sản xuất kinh doanh đã làm cho chúng ta hoà nhập hơn,
thân thiện hơn với bạn bè quốc tế. Theo đó, tư duy về kinh tế của mỗi người dân
đều thay đổi. Chính vì vậy mà người ta đã biết đến đầu tư như là một yếu tố
quan trọng cần thiết. Hay nói khác đi, đầu tư cũng giống như một chiếc chìa
khoá để chiến thắng trong cạnh tranh sinh tồn.
Tăng trưởng và phát triển bền vững là phương hướng, mục tiêu phấn đấu
của mọi quốc gia. Để đạt được điều đó cần quan tâm giải quyết các nhân tố ảnh
hưởng đến sự tăng trưởng là nguồn nhân lực, tài nguyên, vốn và công nghệ.
Thông qua hoạt động đầu tư, các yếu tố đó sẽ được khai thác, huy động và phát
huy một cách tối đa để từ đó tạo cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn lực mới cho sự
tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Đối với nền kinh tế, đầu tư có tác động rất lớn đến tổng cung và tổng cầu.
Do đầu tư tác động không hoàn toàn phù hợp về mặt thời gian đối với nhịp độ
phát triển nên mỗi sự thay đổi tăng hoặc giảm của đầu tư đều cùng lúc vừa là
yếu tố duy trì sự ổn định, vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế.
Với những nước có tỉ lệ đầu tư lớn thì tốc độ tăng trưởng cao. Ngược lại
khi tỉ lệ đầu tư càng thấp thì tốc độ tăng trưởng và mức độ tích luỹ càng thấp.
Trong nền kinh tế quốc dân, để tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý thì vấn đề đầu
tiên có tính chất then chốt là phải thực hiện đầu tư và phân bổ vốn một cách hợp
SV: Nguyễn Thế Hùng
CQ46/11.03
5
Lớp:
Chuyên đề tốt nghiệp.
lý. Có như vậy mới tạo ra được sự dịch chuyển về cơ cấu do mỗi ngành, mỗi
thành phần kinh tế đều có thế lực và tiềm năng riêng. Ngoài ra, kinh nghiệm của
các nơi trên thế giới cho thấy con đường tất yếu để có thể phát triển nhanh là
tăng cường đầu tư vào phát triển khu công nghiệp thương mại du lịch và dịch
vụ.
Đối với một doanh nghiệp thì đầu tư cũng đóng vai trò quyết định đến sự
tồn vong và phát triển. Trong nền kinh tế hiện nay, doanh nghiệp được coi là các
tế bào chủ yếu nhất cho sự phát triển chung. Để thành lập nên một doanh nghiệp
thì điều đầu tiên là phải có vốn đầu tư. Nó là một trong những yếu tố thiết yếu
để có thể tạo dựng nên nền móng cơ sở vật chất ban đầu cho doanh nghiệp.
Ngay cả sau khi doanh nghiệp đã được thành lập thì việc phát triển hay lụi tàn
đến mức nào đó cũng phụ thuộc rất nhiều vào việc đầu tư.
1.1.2. Dự án đầu tư.
a. Khái niệm dự án đầu tư (DAĐT)
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại thì “DAĐT là một tập
hợp các hoạt động đặc thù nhằm tạo nên một thực tế mới có phương pháp trên
cơ sở các nguồn lực nhất định”.
Ở Việt Nam, khái niệm DAĐT được trình bày trong nghị định 52/1999
NĐ-CP về quy chế quản lý đầu tư và xây dựng cơ bản: “ DAĐT là tập hợp các
đề xuất có liên quan tới việc bỏ vốn để tạo vốn, mở rộng hoặc cải tạo những cơ
sở vật chất nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì, cải
tiến, nâng cao chất lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ trong khoảng thơì gian
nhất định”.
Về mặt hình thức: DAĐT là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi
tiết có hệ thống các hoạt động và chi phí theo một kế hoạch để đạt được
những kết quả và thực hiện được những mục tiêu nhất định trong tương
lai.
SV: Nguyễn Thế Hùng
CQ46/11.03
6
Lớp:
Chuyên đề tốt nghiệp.
Về mặt nội dung: DAĐT là một tập hợp các hoạt động có liên quan với
nhau nhằm đạt được những mục đích đã đề ra thông qua nguồn lực đã xác
định như vấn đề thị trường, sản phẩm, công nghệ, kinh tế , tài chính…
Vậy, DAĐT phải nhằm việc sử dụng có hiệu quả các yếu tố đầu vào để thu
được đầu ra phù hợp với những mục tiêu cụ thể. Đầu vào là lao động, nguyên
vật liệu, đất đai, tiền vốn… Đầu ra là các sản phẩm dịch vụ hoặc là sự giảm bớt
đầu vào. Sử dụng đầu vào được hiểu là sử dụng các giải pháp kỹ thuật công
nghệ, biện pháp tổ chức quản trị và các luật lệ…
Dù xem xét dưới bất kỳ góc độ nào thì DAĐT cũng gồm những thành phần
chính sau:
+ Các mục tiêu cần đạt được khi thực hiện dự án: Khi thực hiện dự án, sẽ
mang lại những lợi ích gì cho đất nước nói chung và cho chủ đầu tư nói riêng.
+ Các kết quả: Đó là những kết quả có định lượng được tạo ra từ các hoạt
động khác nhau của dự án. Đây là điều kiện cần thiết để thực hiện các mục tiêu
của dự án.
+ Các hoạt động: Là những nhiệm vụ hoặc hành động được thực hiện trong
dự án để tạo ra các kết quả nhất định, cùng với một lịch biểu và trách nhiệm của
các bộ phận sẽ được tạo thành kế hoạch làm việc của dự án.
+ Các nguồn lực: Hoạt động của dự án không thể thực hiện được nếu thiếu
các nguồn lực về vật chất, tài chính và con người. Giá trị hoặc chi phí của các
nguồn lực này chính là vốn đầu tư cho các dự án.
+ Thời gian: Độ dài thực hiện DAĐT cần được cố định.
DAĐT được xây dựng phát triển bởi một quá trình gồm nhiều giai đoạn.
Các giai đoạn này vừa có mối quan hệ gắn bó vừa độc lập tương đối với nhau
tạo thành chu trình của dự án. Chu trình của dự án được chia làm 3 giai đoạn:
Giai đoạn chuẩn bị đầu tư, giai đoạn thực hiện đầu tư và giai đoạn vận hành kết
quả. Giai đoạn chuẩn bị đầu tư tạo tiền đề quyết định sự thành công hay thất bại
ở giai đoạn sau, đặc biệt đối với giai đoạn vận hành kết quả đầu tư.
Đối với chủ đầu tư và nhà tài trợ, việc xem xét đánh giá các giai đoạn của
chu trình dự án là rất quan trọng. Nhưng đứng ở các góc độ khác nhau, mỗi
SV: Nguyễn Thế Hùng
CQ46/11.03
7
Lớp:
Chuyên đề tốt nghiệp.
người có mối quan tâm và xem xét các giai đoạn và chu trình cũng khác nhau.
Chủ đầu tư phải nắm vững ba giai đoạn, thực hiện đúng trình tự. Đó là điều kiện
để đảm bảo đầu tư đúng cơ hội và có hiệu quả.
b. Vai trò của DAĐT.
Vai trò của DAĐT được thể hiện cụ thể ở những điểm chính sau:
Đối với chủ đầu tư: dự án là căn cứ quan trọng để quyết định sự bỏ
vốn đầu tư. DAĐT được soạn thảo theo một quy trình chặt chẽ trên cơ sở nghiên
cứu đầy đủ về các mặt tài chính, thị trường, kỹ thuật, tổ chức quản lý. Do đó,
chủ đầu tư sẽ yên tâm hơn trong việc bỏ vốn ra để thực hiện dự án vì có khả
năng mang lại lợi nhuận và ít rủi ro. Mặt khác, vốn đầu tư của một dự án thường
rất lớn, chính vì vậy ngoài phần vốn tự có các nhà đầu tư còn cần đến phần vốn
vay ngân hàng. Dự án là một phương tiện rất quan trọng giúp chủ đầu tư thuyết
phục ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng xem xét tài trợ cho vay vốn. DAĐT
cũng là cơ sở để chủ đầu tư xây dựng kế hoạch đầu tư, theo dõi, đôn đốc và
kiểm tra quá trình thực hiện đầu tư. Quá trình này là những kế hoạch mua sắm
máy móc thiết bị, kế hoạch thi công, xây lắp, kế hoạch sản xuất kinh doanh.
Ngoài ra, dự án còn là căn cứ để đánh giá và điều chỉnh kịp thời những tồn đọng
vướng mắc trong quá trình thực hiện đầu tư, khai thác công trình.
Đối với Nhà nước: DAĐT là cơ sở để cơ quan quản lý Nhà nước xem
xét, phê duyệt cấp vốn và cấp giấy phép đầu tư. Vốn ngân sách Nhà nước sử
dụng để đầu tư phát triển theo kế hoạch thông qua các dự án các công trình, kết
cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước, cac
DAĐT quan trọng của quốc gia trong từng thời kỳ. Dự án sẽ được phê duyệt,
cấp giấy phép đầu tư khi mục tiêu của dự án phù hợp với đường lối, chính sách
phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, khi hoạt động của dự án không gây ảnh
hưỏng đến môi trường và mang lại hiệu quả kinh tế- xã hội. Dự án được phê
duyệt thì các bên liên q uan đến dự án phải tuân theo nội dung, yêu cầu của dự
án. Nếu nảy sinh mâu thuẫn, tranh chấp giữa các bên liên quan thì dự án là một
trong những cơ sở pháp lý để giải quyết.
Đối với nhà tài trợ: Khi tiếp nhận dự án xin tài trợ vốn của chủ đầu tư thì
họ sẽ xem xét các nội dung cụ thể của dự án đặc biệt về mặt kinh tế tài chính, để đi
đến quyết định có đầu tư hay không. Dự án chỉ được đầu tư vốn nếu có tính khả thi
SV: Nguyễn Thế Hùng
CQ46/11.03
8
Lớp:
Chuyên đề tốt nghiệp.
theo quan điểm của nhà tài trợ. Ngược lại khi chấp nhận đầu tư thì dự án là cơ sở để
các tổ chức này lập kế hoạch cấp vốn hoặc cho vay theo mức độ hoàn thành kế
hoạch đầu tư đồng thời lập kế hoạch thu hồi vốn.
1.2. Phương pháp thẩm định dự án đầu tư
1.2.1. Khái niệm và ý nghĩa thẩm định dự án đầu tư
Đối với mỗi DAĐT, từ khi lập xong đến khi thực hiện phải được thẩm định
qua nhiều cấp: Nhà nước, nhà đầu tư, nhà đồng tài trợ… Đứng dưới mỗi giác
độ, có những định nghĩa khác nhau về thẩm định. Nhưng hiểu một cách chung
nhất thì:
“Thẩm định DAĐT là việc tổ chức xem xét một cách khách quan và
toàn diện các nội dung cơ bản có ảnh hưởng trực tiếp đến sự vận hành, khai thác
và tính sinh lợi của công cuộc đầu tư”
Cụ thể theo cách phân chia các giai đoạn của chu trình DAĐT, ta thấy ở cuối
Bước 1 có khâu “Thẩm định và ra quyết định đầu tư”. Đây là bước mà chủ đầu tư
phải trình hồ sơ nghiên cứu khả thi lên các cơ quan có thẩm quyền để xem xét
quyết định và cấp giấy phép đầu tư và cấp vốn cho hoạt động đầu tư.
Dưới góc độ là người cho vay vốn, các Ngân hàng thương mại (viết tắt là
NHTM) khi nhận được bản luận chứng kinh tế kỹ thuật sẽ tiến hành thẩm định
theo các chỉ tiêu và ra quyết định là có cho vay hay không cho vay. Sau đó là đi
đến “đàm phán và ký kết hợp đồng”. Như vậy có thể hiểu thẩm định DAĐT
trong Ngân hàng là thẩm định trước đầu tư hay thẩm định tín dụng. Nó được
đánh giá là công tác quan trọng nhất.
1.2.2. Phương pháp thẩm định dự án tài chính
1.2.2.1. Các bước thực hiện thẩm định tài chính dự án đầu tư.
Bước1: Thu thập số liệu thông tin về đơn vị vay vốn và về các khía cạnh
liên quan đến dự án đầu tư:
- Đơn vị sẽ lập hồ sơ vay vốn rồi nộp cùng hồ sơ pháp lý của mình, của
dự án, và các báo cáo tài chính…
SV: Nguyễn Thế Hùng
CQ46/11.03
9
Lớp:
Chuyên đề tốt nghiệp.
- Ngân hàng sẽ tra cứu thu thập các thông tin pháp lý báo cáo của cơ quan
ngành báo chí về doanh nghiệp, thông tin do trung tâm nghiên cứu doanh
nghiệp cung cấp.
Bước2: Xử lý và đánh giá thông tin.
Như xem xét tính chính xác của thông tin, tính toán các chỉ tiêu, so sánh
chỉ tiêu, hỏi ý kiến chuyên gia tư vấn về những lĩnh vực cán bộ NHTM chưa
rõ…để có kết quả thẩm định tối ưu.
Bước3: Sau khi thẩm định, cán bộ tín dụng cho ý kiến của mình rồi trình
bày giám đốc, phó giám đốc NHTM có cho vay hay không? Nếu có thì các điều
khoản như thế nào?
1.2.2.2. Các phương pháp sử dụng khi thẩm định dự án đầu tư.
Để đánh giá hiệu qủa tài chính dự án đầu tư về lí thuyết cũng như thực tế,
người ta thường phải sử dụng các phương pháp (hay các chỉ tiêu sau đây).
* Giá trị hiện tại ròng (NPV:Net Present Value)
Giá trị hiện tại ròng của một dự án đầu tư là số chênh lệch giữa giá trị
hiện tại các nguồn thu nhập ròng trong tương lai với giá trị hiện tại của vốn đầu
tư.
Công thức tính:
NPV = Co + PV
Trong đó:
NPV là giá trị hiện tại ròng
Co là vốn đầu tư ban đầu vào dự án, Co mang dấu âm (do là khoản đầu tư)
PV là giá trị hiện tại của các luồng tiền dự tính mà dự án mang lại trong
thời gian hữu ích của nó. PV được tính
C1
PV =
C2
C3
+
(1 +r)
SV: Nguyễn Thế Hùng
CQ46/11.03
Ct
+
(1+r)
2
+.....+
(1+r)
10
3
(1+r)t
Lớp:
Chuyên đề tốt nghiệp.
Ct là các luồng tiền dự tính dự án mang lại ở các năm t
r là tỷ lệ chiết khấu phù hợp của dự án
Ý nghĩa của NPV chính là đo lường phần giá trị tăng thêm dự tính mà dự
án đem lại cho nhà đầu tư với mức độ rủi ro cụ thể của dự án… Việc xác minh
chính xác tỷ lệ chiết khấu của mỗi dự án đầu tư là khó khăn. người ta có thể lấy
bằng với lãi suất đầu vào, đầu ra thị trên trường… Nhưng thông thường là chi
phí bình quân của vốn. Tuỳ từng trường hợp, người ta còn xem về biến động lãi
suất trên thị trường, và khả năng giới hạn về vốn của chủ đầu tư khi thực hiện
dự án…
Sử dụng chỉ tiêu NPV để đánh giá dự án đầu tư theo nguyên tắc:
Nếu các dự án đầu tư thì tuỳ thuộc theo quy mô nguồn vốn, các dự án có
NPV≥0 đều được chọn (Sở dĩ dự án NPV=0 vẫn có thể chọn vì khi đó có nghĩa
là các luồng tiêu thụ của dự án vừa đủ để hoàn vốn đầu tư và cung cấp một tỷ lệ
lãi suât yêu cầu cho khoản vốn đó). Ngược lại NPV< 0 bác bỏ dự án
Nếu các dự án loại trừ nhau thì dự án nào có NPV≥ 0 và lớn nhất thì được
chọn.
Sử dụng phương pháp NPV để đánh giá, lựa chọn dự án đầu tư có ưu
nhược điểm sau:
Ưu điểm:
Phương này tính toán dựa trên cơ sở dòng tiền có chiết khấu (tức là hiện
tại hoá dòng tiền) là hợp lý vì tiền có giá trị theo thời gian.
Lựa chọn dự án theo chỉ tiêu NPV là thích hợp vì nó cho phép chọn dự án
nào có làm tối đa hoá sự giàu có của chủ đầu tư.
Phương pháp này ngầm giả định rằng tỷ lệ lãi suất mà tại các luồng có
tiền có thể được tái đầu tư là chi phí sử dụng vốn, nó là giả định thích hợp nhất.
SV: Nguyễn Thế Hùng
CQ46/11.03
11
Lớp:
Chuyên đề tốt nghiệp.
Nhược điểm:
Phụ thuộc nhiều vào tỷ lệ chiết khấu r được lựa chọn. Cụ thể: r càng nhỏ
NPV càng lớn và ngược lại. Trong khi đó, việc xác định đúng r là rất khó
khăn.
Chỉ phản ánh được quy mô sinh lời (số tương đối: hiệu quả của một đồng
vốn bỏ ra là bao nhiêu).
Với các dự án có thời gian khác nhau, dùng NPV để lựa chọn dự án là
không có ý nghĩa. Muốn so sánh được, phải giả định rằng dự án có thời gian
ngắn hơn sẽ được đầu tư bổ sung với số liệu lặp lại như cũ để sao cho các dự án
có thời gian bằng nhau. Thời kỳ phân tích dự án là bội số chung nhỏ nhất của
các thời gian dự án. Đây là việc tính toán phức tạp mất thời gian.
* Chỉ tiêu tỷ lệ hoàn vốn nội bộ (IRR: Internal Rate of Return)
Tỷ suất hoàn vốn nội bộ đo lường tỷ lệ hoàn vốn đầu tư của một dự án.
Về mặt kỹ thuật tính toán, IRR của một dự án đầu tư là tỷ lệ chiết khấu mà tại
đó NPV=0, tức là thu nhập ròng hiện tại đúng bằng giá trị hiện tại của vốn đầu
tư. đối với dự án đầu tư có thời gian là T năm, ta có công thức:
C1
NPV = C0
+
C2
CT
+
(1 +IRR)
+…. +
(1+IRR)
2
=0
(1+IRR)
T
Ý nghĩa của chỉ tiêu IRR: IRR đối với dự án chính là tỉ lệ sinh lời càn
thiết của dự án. IRR được coi bằng mức lãi suất tiền vay cao nhất mà nhà đầu tư
có thể chấp nhận mà không bị thua thiệt nếu toàn bộ số tiền đầu tư cho dự án
đều là vốn vay (cả gốc và lãi cộng dồn) được trả bằng nguồn tiền thu được từ dự
án mỗi khi chúng phát sinh.
Người ta sử dụng hai cách:
Tính trực tiếp: Đầu tiên chọn 1 lãi suất chiết khấu bất kì, tính NPV. Nếu
NPV>0, tiếp tục nâng mức lãi suất chiết khấu và ngược lại. Lặp lại cách làm
SV: Nguyễn Thế Hùng
CQ46/11.03
12
Lớp:
Chuyên đề tốt nghiệp.
trên cho tới khi NPV= 0 hoặc gần bằng 0, khi đó mức lãi suất này bằng IRR của
dự án đầu tư.
Phương pháp nội suy tuyến tính: thường được sử dụng. Đầu tiên chọn 2
mức lãi suất chiết khấu sao cho: Với r1 có NPV1> 0
Với r2 có NPV2< 0
Áp dụng công thức:
IRR r1
NPV (r r )
NPV NPV
1
1
2
1
2
Chênh lệch giữa r1 và r2 không quá 0.05 thì nội suy IRR mới tương đối
đúng.
Sử dụng IRR để đánh giá, lựa chọn dự án sau :
Trước hết lựa chọn một mức lãi suất chiết khấu làm IRR ĐM (IRR định
mức thông thường đó chính là chi phí cơ hội)
So sánh nếu IRR ≥ IRRĐM thì dự án khả thi thi về tài chính, tức là: nếu là
các dự án đầu tư là độc lập tuỳ theo quy mô nguồn vốn, các dự án có IRR ≥
IRRĐM được chấp nhận.
Nếu các dự án đầu tư loại trừ nhau: chọn dự án có IRR ≥ 0 và lớn nhất.
Ưu điểm: của phương pháp IRR chú trọng xem xét tính thời gian của
tiền. Sự thừa nhận giá trị thời gian của tiền làm cho kĩ thuật xác định hiệu quả
vốn đầu tư ưu điểm hơn các phương pháp khác.
Phản ánh hiệu quả sinh lời của một đồng vốn (tính tỉ lệ %) nên có thể sử
dụng so sánh chi phí sử dụng vốn. IRR cho biết mức lãi suất tiền vay tối đa mà
dự án có thể chịu được. Giải quyết được vấn đề lựa chọn các dự án khác nhau.
SV: Nguyễn Thế Hùng
CQ46/11.03
13
Lớp:
Chuyên đề tốt nghiệp.
Nhược điểm: Không đề cập đến độ lớn, quy mô của dự án, sử dụng IRR
để lựa chọn dự án loại trừ có quy mô, thời gian khác nhau nhiều khi sai lầm.
Với dự án có những khoản đầu tư thay thế lớn, dòng tiền đổi dấu liên tục dẫn tới
hiện tượng IRR đa trị, và như vậy việc áp dụng IRR không còn chính xác.
Phương pháp IRR ngầm định rằng thu nhập ròng của dự án được tái đầu
tư tại tỉ lệ lãi suất IRR nghĩa là không giả định đúng tỉ lệ tái đầu tư.
Ngoài ra còn tính theo phương pháp tỉ lệ hoàn vốn nội bộ điều chỉnh
(MIRR) MIRR là tỉ lệ chiết khấu mà tại đó giá trị hiện tại của chi phí đầu tư
bằng giá trị hiện tại của tổng giá trị tương lai của các luồng tiền ròng thu từ dự
án với giả định luồng tiền này được tái đầu tư tại tỉ lệ lãi suất bằng chi phí vốn.
Đây cũng chính là điểm ưu việt của phương pháp MIRR so với phương pháp
IRR.
Về mặt toán học, phương pháp tính NPVvà IRR luôn cùng đưa đến quyết
định chấp thuận hay bác bỏ dự án đói với những dự án độc lập. Tuy nhiên có thể
có hai kết luận trái ngược cho những dự án loại trừ. Trong trường hợp có sự
xung đột giữa hai phương pháp, việc lựa chọn dự án đầu tư theo phương pháp
NPVcần được coi trọng hơn bởi những phân tích đã chỉ ra rằng: phương pháp
NPV ưu việt hơn phương pháp IRR.
* Thời gian hoàn vốn: (P.P:Payback Peried)
Thời gian hoàn vốn của một dự án là độ dài thời gian để thu hồi đủ vốn
đầu tư ban đầu.
Có hai cách tính chỉ tiêu này: thời gian hoàn vốn không chiết khấu
(không tính đến giá trị thời gian của tiền) và thời gian hoàn vốn có chiết khấu
(quy tất cả các khoản thu nhập chi phí hiện tại theo tỷ suất chiết khấu lựa chọn).
Công thức tương tự nhau
Thời gian hoàn vốn =
SV: Nguyễn Thế Hùng
CQ46/11.03
Số năm trước năm
các luồng tiền
của DA đáp ứng
được chi phí
14
+
=
+
Số năm ngay trước
năm các
Luồng tiền thu
Lớp:
được
trong năm
Chuyên đề tốt nghiệp.
Việc tính toán có thể được thực hiện trên cơ sở lập bảng:
Công thức tính thời gian hoàn vốn cung cấp một thông tin quan trọng
rằng vốn của công ty bị trói buộc vào mỗi dự án là bao nhiêu thời gian. Thông
thường nhà quản trị có thể đặt ra khoảng thời gian hoàn vốn tối đa và sẽ bác bỏ
dự án đầu tư có thời gian hoàn vốn lâu hơn.
Sử dụng chỉ tiêu thời gian hoàn vốn để đánh giá, lựa chọn dự án đầu tư
theo nguyên tắc: Dự án có thời gian hoàn vốn càng nhỏ càng tốt, chọn dự án có
thời gian hoàn vốn nhỏ nhất trong các dự án loại trừ nhau.
Ưu điểm: của phương pháp này:
Đơn giản, dễ áp dụng và được sử dụng như một công cụ sàng lọc. Nếu có
một dự án nào đó không đáp ứng được kỳ hoàn vốn trong thời gian đã định thì
việc tiếp tục nghiên cứu dự án là không cần thiết. Vì luồng tiền mong đợi trong
một tương lai xa được xem như rủi ro hơn một luồng tiền trong một tương gần
thời gian thu hồi vốn được sử dụng như một thước đo để đánh giá mức độ rủi ro
của dự án.
Việc thấy rõ được thời gian thu hồi vốn cho phép đề xuất những giải pháp
để rút ngắn thời hạn đó.
Hạn chế: Tuy nhiên phương pháp thời gian hoàn vốn có một số hạn chế
mà có thể dẫn tới những quyết định đó là: thời gian hoàn vốn không chiết khấu
không tính tới những sai biệt về thời điểm xuất hiện luồng tiền, tức là yếu tố giá
trị thời gian của tiền tệ không được đề cập. Phần thu nhập sau thời điểm hoàn
vốn bị bỏ qua hoàn toàn, như vậy không đánh giá được hiệu quả tài chính của cả
đời dự án. Yếu tố rủi ro đối với luồng tiền tương lai của dự án không được xem
xét và đánh giá. Xếp hạng các dự án không phù hợp với mục tiêu tối đa hoá lợi
nhuận của chủ sở hữu.
SV: Nguyễn Thế Hùng
CQ46/11.03
15
Lớp:
Chuyên đề tốt nghiệp.
* Phương pháp tỷ số lợi ích / chi phí (Benefit-Cost Ratio: BCR)
Phản ánh khả năng sinh lời của dự án trên mỗi đơn vị tiền tệ vốn đầu tư
(quy về thời điểm hiện tại).
B
(1r )
BCR
C
(1r )
n
i
i
i 0
n
i
i
i 0
Bi: Luồng tiền dự kiến năm i
Ci: Chi phí năm i
Nguyên tắc đánh giá: nếu có dự án có BCR 1. Suy ra được chấp nhận
(khả thi về mặt tài chính).
BCR là chỉ tiêu chuẩn để xếp hạng các dự án theo nguyên tắc dành vị trí
cao hơn cho dự án có BCR cao hơn.
Ưu điểm: nó cho biết lợi ích thu được trên một đồng bỏ ra, từ đó giúp
chủ đầu tư lựa chọn, cân nhắc các phương án có hiệu quả.
Nhược điểm: là một chỉ tiêu tương đối nên dễ dẫn đến sai lầm khi lựa
chọn các dự án loại trừ nhau, vì thông thường các dự án có BCR lớn thì có NPV
nhỏ và ngược lại.
* Phương pháp điểm hoà vốn:
Điểm hoà vốn là điểm tại đó mức doanh thu vừa đủ trang trải mọi phí tổn
(không lỗ, không lãi).
Điểm hoà vốn có thể được thể hiện bằng mức sản lượng hoặc doanh thu:
Sản lượng hoà vốn: Qhv
Q
SV: Nguyễn Thế Hùng
CQ46/11.03
HV
FC
P V
16
Lớp:
Chuyên đề tốt nghiệp.
Trong đó:
FC: là tổng chi phí
P : giá bán đơn vị sản phẩm
V : chi phí biến đổi một sản phẩm (P-V. lãi gộp một đơn vị
sản phẩm) Doanh thu hoà vốn
R
HV
Q
HV
P P
FC
FC
V
P V
1
P
Trường hợp sản xuất một loại sản phẩm
Nếu sản xuất nhiều loại sản phẩm khác nhau thì tính thêm trọng số của
từng loại sản phẩm.
R
HV
FC
(1 V ) w
P
n
i 1
i
i
i
Thông thường người ta chọn một năm đặc trưng để tính. Dự án có điểm
hoà vốn càng nhỏ càng tốt.
Khả năng thu lợi nhuận càng cao Khả năng thua lỗ càng nhỏ (hay
vùng an toàn cao).
Sau khi có điểm hoà vốn, có thể xác định thêm chỉ tiêu mức hoạt động
hoà vốn. Tính:
Doanh thu hoà vốn
Mức hoạt động hoà vốn =
x 100%
Doanh thu lý thuyết
SV: Nguyễn Thế Hùng
CQ46/11.03
17
Lớp:
Chuyên đề tốt nghiệp.
Doanh thu lí thuyết là doanh thu tính theo công suất thiiết kế. Mức hoạt
động vốn cho thấy khả năng phát triển của dự án.
Điểm hoà vốn chỉ xét riêng cho từng dự án cụ thể vì thực tế dự án thuộc
các ngành khác nhau, có cơ cấu vốn đầu tư khác nhau.
Nếu cùng một dự án mà có nhiều phương án khác nhau thì có thể nên ưu
tiên cho những phương án có điểm hoà vốn nhỏ hơn.
Ưu điểm: của phân tích điểm hoà vốn
Đưa ra những chỉ tiêu về mức độ hoat động tối thiểu cần thiết để doanh
nghiệp có lợi nhuận.
Nó cho biết sản lượng hoà vốn là bao nhiêu, do đó lầm chủ đầu tư tìm
cách đạt đến điểm hoà vốn trong thời gian ngắn nhất.
Hạn chế: Điểm hoà vốn không cho biết quy mô lãi ròng của cả đời dự án
cũng như hiệu quả của một đồng vốn bỏ ra.
Mặt khác, việc phân tích trở nên phức tạp và tính chính xác không cao
khi có đầu tư bổ sung thay thế.
Một yếu tố không kém phần quạn trọng cần được xem xét là.
* Độ nhạy của dự án:
Môi trường xung quanh thường xuyên tác động tới dự án đầu tư trên
nhiều mặt cấp độ khác nhau. Do vậy khi xem xét dự án ngoài cách xem xét dự
án qua các chỉ tiêu ở trạng thaí tĩnh, cần phải đặt dự án đầu tư ở trạng thái động
trong xu thế biến động của các yếu tố bên ngoài.
Để có một cách đánh giá khách quan toàn diện hơn về dự án, thông
thường để xem xét độ nhạy người ta thường tính toán thay đổi các chỉ tiêu NPV,
IRR khi có sự biến đổi của một số nhân tố:
+Giá bán sản phẩm.
+ Giá đầu vào thay đổi.
SV: Nguyễn Thế Hùng
CQ46/11.03
18
Lớp:
Chuyên đề tốt nghiệp.
+Vốn đầu tư.
+Tỷ giá lên xuống.
Trên thực tế khi tính độ nhạy cảm của dự án, người ta cho các biến số
thay đổi 1% so với phương án lựa chọn ban đầu và tính NPV và IRR thay bao
nhiêu %.
Ý nghĩa của việc phân tích độ nhạy của dự án là giúp cho ngân hàng có
thể khoanh được hành lang cho sự đầu tư của doanh nghiệp.
Ngoài các nội dung trên, thẩm định dự án còn tiến hành thêm phân tích
tài chính dự án đầu tư trong đó thường sử dụng các phương pháp phân tích sau.
Phân tích diễn biến nguồn vốn sử dụng.
Phân tích luồng tiền mặt.
Phân tích các chỉ tiêu tài chính trung gian.
Kết hợp giữa đánh giá hiệu quả tài chính với phân tích tài chính dự án
trong thẩm định tài chính dự án đầu tư sẽ cho Ngân hàng một kết qủa chính xác
hơn, toàn diện hơn và bao quát hơn được toàn bộ dự án vừa xem xét trên từng
góc độ cấp khác nhau.
Như vậy mỗi chỉ tiêu được sử dụng trong đánh giá hiệu quả tài chính dự
án đầu tư có những ưu nhược điểm nhất dịnh. Tuy nhiên mức độ không như
nhau. Mỗi chỉ tiêu thẩm định dư án sẽ được so sánh với các tiêu chuẩn chấp
nhận dự án nhất định (có thể do nội tại chỉ tiêu mang lại hoặc tiêu chuẩn qua so
sánh chỉ tiêu khác). Kết quả thẩm định thông qua những chỉ tiêu sau khi so sánh
với giá trị tiêu chuẩn sẽ nói lên ý nghĩa của từng mặt vấn đề. Như vậy qua việc
thẩm định bằng một hệ nhiều chỉ tiêu, kết luận chung, cuối cùng về dự án đầu tư
phải là kết luận mang tính tổng hợp, khái quát, thậm chí phải nhờ vào sự cho
điểm có phân biệt tầm quan trọng khác nhau của chỉ tiêu đánh giá. Mặt khác,
kết luận chung đôi khi cũng cần tính linh hoạt, tuỳ vào từng điều kiện cụ thể và sự
SV: Nguyễn Thế Hùng
CQ46/11.03
19
Lớp:
Chuyên đề tốt nghiệp.
ưu tiên khía cạnh nào đó của dự án.
Song mặt quan trọng nhất ở đây, là phải dự kiến và xác định chính xác
luồng tiền ra vào bởi các phương pháp trên đều dựa trên cơ sở các dòng lợi ích,
chi phí của dự án.
Thuế thu nhập cũng ảnh hưởng đến các dự án không giống nhau nên số
liệu về các dòng tiền liên quan đến mỗi dự án đưa và để tính toán, đánh giá dự
án phải là số liệu sau thuế. Không đưa chi phí trả lãi vay vào dòng tiền mặt của
dự án vì khi chiết khấu ta đã tính đến giá trị theo thời gian của tiền, nếu đưa vào
nghĩa là đưa chi phí vay tiền mà không tính tới lợi ích vay vốn mang lại. Bên
cạnh đó cần chú ý rằng, thu nhập ròng hàng năm của dự án bao gồm lợi nhuận
sau thúe và khấu hao tài sản cố định vào năm cuối dự án có thêm vốn lưu động
ròng thu hồi và giá trị thanh lí tài sản cố định. Khi thẩm định Ngân hàng phải
kiểm tra tính hợp lí của phương pháp khấu hao do chủ đầu tư đưa ra vì khấu
hao là một khoản thu trong nội bộ dự án để bù đắp những chi phí đã bỏ ra trước
kia.
Xử lí vấn đề lạm phát trong phân tích tài chính dự án: Lạm phát tác động
tới tình hình tài chính của dự án theo nhiều mối quan hệ và theo những hướng
khác nhau. Lạm phát là thay đổi các biến số tài chính trong bản báo cáo tài
chính và đó tác động đến tính toán các chỉ tiêu thẩm định. Tuy nhiên việc phân
tích dự án trong điều kiện có lạm phát dự tính vẫn theo nguyên tắc cơ bản như
trường hợp không có rủi ro lạm phát, có thể dùng dòng tiền danh nghĩa hoặc
dòng tiền theo sức mua nhưng phải được thực hiện một cách nhất quán (nghĩa là
sử dụng tương ứng với tỉ suất chiết khấu danh nghĩa và tỉ suất chiết khấu thực).
Trong thực tế, thường giá cả các yếu tố đầu vào, ra trong thời gian hoạt động
của dự án được điều chỉnh theo một diễn tiến mà người thẩm định giả định cho
các thời kì tương lai, phần nào nêu lên chiều hướng thay đổi tương đối của giá
trong tương lai cũng như dự đoán được tác động của lạm phát. Một yếu tố
không kém phần quan trọng mà ta cần phải nói tới đó là độ nhạy của dự án.
1.3. Nội dung công tác thẩm định DAĐT tại các NHTM
Xem xét sơ bộ theo các nội dung chính của dự án:
SV: Nguyễn Thế Hùng
CQ46/11.03
20
Lớp:
Chuyên đề tốt nghiệp.
Mục tiêu của dự án
Sự cần thiết đầu tư dự án
Quy mô đầu tư: Công suất thiết kế, giải pháp công nghệ, cơ cấu sản
phẩm và dịch vụ đầu ra của các dự án, phương án tiêu thụ sản phẩm.
Quy mô vốn đầu tư: Tổng vốn đầu tư, cơ cấu đầu tư theo các tiêu chí
khác nhau(lắp đặt, thiết bị và các chi phí khác…)
Phân tích về thị trường và khả năng tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ đầu ra của
các dự án.
Thị trường tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ đầu ra của các dự án đóng vai trò rất
quan trọng quyết định việc thành bại của một dự án. Vì vậy việc thẩm định dự
án cần được xem xét đánh giá kỹ về phương diện này khi thẩm định dự án. Các
nội dung chính cần xem xét đánh giá là:
- Đánh giá tổng quan về nhu cầu sản phẩm của dự án:
+ Định dạng sản phẩm của dự án.
+ Đặc tính của nhu cầu đối với sản phẩm, dịch vụ đầu ra của dự án, tình hình
sản xuất, tiêu thụ các sản phẩm, dịch vụ thay thế đến thời điểm thẩm định.
+ Xác định tổng nhu cầu hiện tại và dự đoán nhu cầu tương lai đối với sản
phẩm, dịch vụ đầu ra của dự án, ước tính mức tiêu thụ gia tăng hàng năm của thị
trường nội địa và khả năng xuất khẩu sản phẩm của dự án trong đó lưu ý liên hệ
với mức gia tăng trong quá khứ, khả năng sản phẩm của dự án có thể bị thay thế
bởi sản phẩm khác có cùng công dụng.
-Đánh giá về cung sản phẩm:
+ Xác định năng lực sản xuất, cung cấp đáp ứng nhu cầu trong nước hiện tại
của sản phẩm dự án như thế nào, các nhà sản xuất trong nước đã đáp ứng được
bao nhiêu phần trăm, phải nhập khẩu bao nhiêu, việc nhập khẩu là do sản xuất
trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu hay sản phẩm nhập khẩu có ưu thế cạnh
tranh hơn.
+ Dự đoán biến động của thị trường trong tương lai khi có các dự án khác,
đối tượng khác cũng tham gia vào thị trường sản phẩm và dịch vụ đầu ra của dự
án.
+ Sản lượng nhập khẩu trong những năm qua, dự kiến khả năng nhập khẩu
trong những năm tới.
SV: Nguyễn Thế Hùng
CQ46/11.03
21
Lớp:
Chuyên đề tốt nghiệp.
+ Dự đoán ảnh hưởng của chính sách thuế xuất – nhập khẩu đến thị trường
sản phẩm của dự án.
+ Đưa ra một số liệu dự kiến về tổng cung hoặc tốc độ tăng trưởng về tổng
cung sản phẩm, dịch vụ.
-Thị trường mục tiêu và khả năng cạnh tranh của sản phẩm dự án:
Để đánh giá về khả năng đạt được các mục tiêu của thị trường, cán bộ thẩm
định cần thẩm định khả năng cạnh tranh của sản phẩm dự án như sau:
+ Thị trường nội địa: cần xem xét đánh giá về hình thức, mẫu mã , giá cả,
chất lượng sản phẩm xem có phù hợp với thị hiếu của người tiêu thụ.
+ Thị trường nước ngoài: cần xem xét đánh giá về tiêu chuẩn để xuất khẩu,
quy cách chất lượng, mẫu mã, thị trường xuất khẩu dự kiến, sản phẩm cùng loại
của Việt Nam đã thâm nhập vào thị trường xuất khẩu dự kiến chưa, kết quả…
-Phương pháp tiêu thụ và mạng lưới phân phối:
Cần xem xét đánh giá trên các mặt: sản phẩm của dự án dự kiến được tiêu
thụ theo phương thức nào, cần có hệ thống phân phối không. Mạng lưới phân
phối sản phẩm của dự án đã được thiết lập hay chưa, có phù hợp với đặc điểm
của thị trường hay không, phương thức bán hàng trả chậm hay trả ngay để dự
kiến các khoản phải thu khi tính toán nhu cầu vốn lưu động ở phân tích tính
toán hiệu quả của các dự án.
-Đánh giá về dự kiến khả năng tiêu thụ sản phẩm của dự án:
Trên cơ sở đánh giá thị trường tiêu thụ, công suất thiết kế và khả năng cạnh
tranh của sản phẩm dự án, cán bộ thẩm định phải đưa ra được các dự kiến về
khả năng tiêu thụ được sản phẩm của dự án sau khi đi vào hoạt động theo các
chỉ tiêu chính thức như sản lượng sản xuất tiêu thụ hàng năm, sự thay đổi của cơ
cấu, sản phẩm nếu dự án có nhiều loại sản phẩm, diễn biến giá bán sản phẩm
dịch vụ đầu ra hàng năm.
Thẩm định về khả năng cung cấp nguyên vật liệu và các yếu tố đầu
vào của một dự án.
Trên cơ sở hồ sơ dự án(báo cáo đánh giá chất lượng, trữ lượng tài nguyên,
giấy phép khai thác tài nguyên, nguồn thu mua bên ngoài, nhập khẩu…) và đặc
tính kỹ thuật của dây chuyền công nghệ, đánh giá đáp ứng đến khả năng cung
cấp nguyên vật liệu đầu vào cho dự án:
-Nhu cầu về nguyên vật liệu đầu vào để phục vụ sản xuất hàng năm.
SV: Nguyễn Thế Hùng
CQ46/11.03
22
Lớp:
Chuyên đề tốt nghiệp.
-Các nhà cung ứng nguyên vật liệu đầu vào: do một hay nhiều nhà cung cấp,
quan hệ từ trước hay mới thiết lập, khả năng cung ứng và mức độ tín nhiệm.
-Chính sách nhập khẩu đối với các nguyên vật liệu đầu vào nếu có.
-Biến động về giá mua, nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu đầu vào, tỉ giá trong
trường hợp phải nhập khẩu.
Tất cả những phân tích đánh giá trên đều nhằm kết luận được hai vấn đề
chính sau đây:
+ Có chủ động được nguyên nhiên vật liệu đầu vào hay không tức tính ổn
định lâu dài của nguồn nguyên vật liệu.
+ Những thuận lợi khó khăn đi kèm với việc đó có thể chủ động được
nguyên nhiên vật liệu đầu vào.
Thẩm định về phương diện kỹ thuật
Thẩm định dự án về phương diện kỹ thuật là việc kiểm tra phân tích các yếu
tố kỹ thuật và công nghệ chủ yếu của dự án để đảm bảo tính khả thi về mặt thi
công và xây dựng dự án cũng như việc vận hành dự án theo đúng các mục tiêu
đã dự kiến. Đối với ngân hàng, việc phân tích kỹ thuật lại là một vấn đề khó
nhất vì nó đề cập đến rất nhiều chỉ tiêu và quan trọng hơn cả là nó quyết định
đến chất lượng sản phẩm. Chính vì vậy mà cán bộ tín dụng cần đặc biệt quan
tâm đến việc thẩm định dự án trên phương diện kỹ thuật, về việc thẩm định dự
án này dựa trên các nội dung chính sau đây:
-Địa điểm xây dựng:
+ Xem xét, đánh giá địa điểm có thuận lợi về giao thông hay không, có gần
nguồn cung cấp nguyên vật liệu, điện nước và thị trường tiêu thụ hay không, có
nằm trong quy hoạch hay không.
+ Cơ sở vật chất, hạ tầng liên quan đến địa điểm đầu tư thế nào, đánh giá so
sánh về chi phí đầu tư so với các dự án tương tự ở địa điểm khác.
+ Địa điểm đầu tư có ảnh hưởng lớn đến vốn đầu tư của dự án cũng như ảnh
hưởng đến giá thành, sức cạnh tranh, khả năng tiêu thụ sản phẩm.
-Quy mô sản xuất và sản phẩm của dự án:
+ Sản phẩm của dự án là sản phẩm mới hay đã có sẵn trên thị trường.
+ Quy cách phẩm chất, mẫu mã của sản phẩm như thế nào.
+ Yêu cầu kỹ thuật tay nghề để sản xuất sản phẩm có cao hay không.
SV: Nguyễn Thế Hùng
CQ46/11.03
23
Lớp:
Chuyên đề tốt nghiệp.
+ Công suất dự kiến của dự án là bao nhiêu, có phù hợp với khả năng tài
chính và trình độ quản lý, địa điểm, thị trường tiêu thụ hay không.
Công nghệ thiết bị:
Quy trình công nghệ có tiên tiến hiện đại, ở mức độ nào của thế giới.
Công nghệ này có phù hợp với trình độ hiện nay của Việt Nam hay
không, lý do lựa chọn công nghệ này.
Phương thức chuyển giao công nghệ có hợp lý hay không, có đảm bảo
cho chủ đầu tư nắm bắt và vận hành được công nghệ hay không.
Xem xét đánh giá về số lượng công suất quy hoạch chủng loại, danh
mục, máy móc thiết bị và tính đồng bộ của dây chuyền sản xuất.
Trình độ tiên tiến của thiết bị, khi cần thiết phải thay đổi sản phẩm thì
thiết bị này có đáp ứng được hay không.
Giá cả thiết bị và phương thức thanh toán có hợp lý, đáng ngờ không.
Thời gian giao hàng và lắp đặt thiết bị, các nhà cung cấp thiết bị có
chuyên sản xuất các thiết bị của dự án hay không.
Khi đánh giá về mặt công nghệ thiết bị ngoài việc dựa vào hiểu biết, kinh
nghiệm đã tích luỹ của mình, cán bộ thẩm định cần tham khảo các nhà chuyên
môn để việc thẩm định được chính xác và cụ thể hơn.
Quy mô và giải pháp xây dựng:
+ Xem xét quy mô xây dựng, giải pháp kiến trúc có phù hợp với dự án hay
không, có tận dụng được các cơ sở vật chất hiện có hay không.
+ Tổng dự toán, dự toán của từng hạng mục công trình, có hạng mục nào cần
đầu tư mà chưa được tích luỹ hay không, có hạng mục nào cần thiết hoặc chưa
cần thiết phải đầu tư hay không.
+ Tiến độ thi công có phù hợp với việc cung cấp máy móc thiết bị, có phù
hợp với thực tế hay không.
+ Vấn đề hạ tầng cơ sở: Giao thông, điện, cấp thoát nước…
Môi trường:
+ Xem xét đánh giá các giải pháp về môi trường của dự án có đầy đủ, phù
hợp chưa, đã được cơ quan có thẩm quyền chấp nhận trong từng trường hợp yêu
cầu phải có hay chưa.
Trong phần này, cán bộ thẩm định cần phải đối chiếu với các quy định hiện
hành về việc lập dự án và duyệt trình báo cáo đánh giá tác động môi trường.
SV: Nguyễn Thế Hùng
CQ46/11.03
24
Lớp:
Chuyên đề tốt nghiệp.
Thẩm định về phương diện tổ chức và quản lý thực hiện dự án
Xem xét năng lực uy tín của các nhà đầu tư, thi công cung cấp thiết bị,
công nghệ.
Xem xét kinh nghiệm, trình độ tổ chức vận hành chủ yếu của các nhà
đầu tư, đánh giá sự hiểu biết, kinh nghiệm của khách hàng đối với việc tiếp cận
điều hành công nghệ, thiết bị mới của dự án.
-
Khả năng ứng xử của khách hàng khi thị trường dự kiến biến mất.
Đánh giá về nguồn lực của dự án cần đòi hỏi về tay nghề, trình độ kỹ
thuật, kế hoạch đào tạo, khả năng cung ứng nguồn nhân lực cho dự án.
Thẩm định về mặt tài chính của dự án.
Thẩm định tài chính DAĐT, đối với NHTM, ngoài mục tiêu đánh giá hiệu
quả của dự án còn nhằm đảm bảo sự an toàn cho các nguồn vốn mà ngân hàng
tài trợ cho dự án. Đó là việc phân tích, xem xét, đánh giá về mặt tài chính của
DAĐT bao gồm một loạt các phương pháp đánh giá hiệu quả tài chính và các
chỉ tiêu phân tích DAĐT. Qua đó đi đến kết luận có đầu tư cho dự án hay
không.
Trong công tác thẩm định tài chính DAĐT, giá trị thời gian của tiền là một
trong những nguyên tắc cơ bản của việc tính toán các chỉ tiêu, việc thẩm định
chi phí và lợi ích của dự án phải được quy về thời điểm gốc để tiện cho việc so
sánh. Thẩm định tài chính DAĐT ở các NHTM thường được tiến hành với các
nội dung sau:
Thẩm định về tổng vốn đầu tư và nguồn vốn đầu tư.
Việc thẩm định tổng vốn đầu tư là rất quan trọng để tránh việc khi thực hiện,
vốn đầu tư tăng lên hoặc giảm đi quá lớn so với dự kiến ban đầu dẫn đến việc
không cân đối được nguồn ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính và khả năng trả nợ
của dự án. Xác định tổng vốn đầu tư sát với thực tế sẽ là cơ sở để tính toán hiệu
quả tài chính và khả năng trả nợ của dự án.
Tổng vốn đầu tư của dự án là tập hợp toàn bộ các khoản chi phí hợp lý góp
phần hình thành nên dự án và đảm bảo cho dự án sẵn sàng đi vào hoạt động.
Vốn đầu tư gồm: Vốn cố định, vốn lưu động, vốn đầu tư và dự phòng:
SV: Nguyễn Thế Hùng
CQ46/11.03
25
Lớp: