Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Tiểu luận Luật sư và nghề luật sư:"thực trạng luật sư và những giải pháp nâng cao chất lượng"

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.59 KB, 23 trang )

Thực trạng về chất lượng luật sư Việt Nam hiện nay và những giải pháp để nâng cao chất lượng

MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................2
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LUẬT SƯ VÀ NGHỀ LUẬT SƯ...............4
1.1 Một số khái niệm..................................................................................................4
1.1.1 Khái niệm luật sư..........................................................................................4
1.1.2 Khái niệm nghề luật sư..................................................................................4
1.2 Sự hình thành phát triển nghề luật sư trên thế giới..............................................4
1.3 Sự hình thành phát triển của nghề luật sư ở Việt Nam.........................................6
1.3.1 Giai đoạn phong kiến....................................................................................6
1.3.2 Giai đoạn sau cách mạng tháng Tám.............................................................6
1.3.3 Thời kì đổi mới..............................................................................................7
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VỀ CHẤT LƯỢNG LUẬT SƯ VIỆT NAM................9
2.1 Những kết quả đạt được.......................................................................................9
2.2 Thực trạng về chất lượng luật sư........................................................................10
2.2.1 Về đội ngũ luật sư.......................................................................................10
2.2.2 Về đào tạo luật sư........................................................................................11
2.2.3 Về sự chuyên môn hóa trong hành nghề.....................................................11
2.2.4 Về khả năng tranh tụng tại Tòa án...............................................................12
2.2.5 Về đạo đức nghề nghiệp luật sư..................................................................13
2.2.6 Về khả năng hội nhập quốc tế.....................................................................13
2.2 Nguyên nhân thực trạng.....................................................................................14
2.2.1 Thuận lợi.....................................................................................................14
2.2.2 Khó khăn.....................................................................................................15
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG LUẬT SƯ.........17
3.1 Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ luật sư..................................................17
3.2 Giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo luật sư..................................................17
3.3 Giải pháp nâng cao sự chuyên môn hóa trong hành nghề..................................18


3.4 Giải pháp nâng cao khả năng tranh tụng tại Tòa................................................19
3.5 Giải pháp về đạo đức nghề nghiệp luật sư.........................................................19
3.6 Giải pháp nâng cao khả năng hội nhập quốc tế..................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................23

1


Thực trạng về chất lượng luật sư Việt Nam hiện nay và những giải pháp để nâng cao chất lượng

LỜI MỞ ĐẦU


Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam đang trong thời kỳ hội nhập sâu rộng vào nền
kinh tế thế giới, tham gia đàm phán, ký kết các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới
như Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), Hiệp định Thương mại tự do
Việt Nam – EU, Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh kinh tế Á Âu….
đã tạo nên sức cộng hưởng để thúc đẩy nền kinh tế sang một giai đoạn mới, đòi hỏi
những luật sư phải tăng cường trau dồi chuyên môn, kiến thức cũng như kỹ năng nghề
nghiệp để bắt kịp, đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội.
Trong thời gian qua, các cấp, các ngành đã không ngừng nỗ lực nhằm tìm ra các
giải pháp để cải thiện tình hình chất lượng luật sư ở Việt Nam. Các cuộc khảo sát,
điều tra cả trong nước và nước ngoài đều cho thấy rằng những định hướng, chính sách
về chiến lược phát triển đội ngũ luật sư ở Việt Nam đang tiến gần hơn với thế giới.
Thế nhưng, chất lượng của luật sư Việt Nam vẫn chưa thể đáp ứng được yêu cầu phát
triển nước ta hiện nay.
Chính vì vậy, Mục tiêu tổng quát trong Quyết định số 123/QĐ-TTg ngày
18/1/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Phát triển đội ngũ luật sư phục
vụ hội nhập kinh tế quốc tế từ năm 2010 đến năm 2020” đã khẳng định: “Xây dựng
đội ngũ luật sư giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, am hiểu luật pháp và tập quán thương

mại quốc tế, thông thạo tiếng Anh, thành thạo về kỹ năng hành nghề luật sư quốc tế,
có đủ khả năng tư vấn các vấn đề liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế cho các tổ
chức, cá nhân, doanh nghiệp trong xã hội, trong đó có các cơ quan của Chính phủ, Ủy
ban nhân dân một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các tập đoàn kinh tế của
Nhà nước”. Điều này phần nào cho thấy tầm quan trọng, giá trị to lớn của trình độ,
chất lượng của đội ngũ luật sư đối với sự phát triển của đất nước ta hiện nay.
Đó là lý do tôi chọn đề tài tiểu luận: “Thực trạng về chất lượng luật sư Việt
Nam hiện nay và những giải pháp để nâng cao chất lượng” để chúng ta có cái nhìn

2


Thực trạng về chất lượng luật sư Việt Nam hiện nay và những giải pháp để nâng cao chất lượng

khái quát chung về chất lượng luật sư Việt Nam trong bối cảnh hội nhập thế giới đồng
thời đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ luật sư hiện nay.
Bài tiểu luận có kết cấu như sau:
Lời mở đầu
Chương 1: Khái quát chung về luật sư và nghề luật sư
Chương 2: Thực trạng về chất lượng luật sư Việt Nam
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng luật sư
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo

3


Thực trạng về chất lượng luật sư Việt Nam hiện nay và những giải pháp để nâng cao chất lượng

CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LUẬT SƯ VÀ NGHỀ LUẬT SƯ

1.1 Một số khái niệm
1.1.1 Khái niệm luật sư
Luật sư là người hành nghề liên quan đến lĩnh vực pháp luật khi có đủ tiêu
chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật của mỗi quốc gia. Luật sư
thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Luật sư cung
cấp các dịch vụ pháp lý như: tư vấn pháp luật, soạn thảo văn bản, tổ chức đàm
phán, thương lượng về các vấn đề pháp luật, và có thể đại diện cho thân chủ hoặc bảo
vệ quyền lợi của thân chủ trước tòa án trong quá trình tiến hành tố tụng.
Ở Việt Nam luật sư được hiểu theo Luật Luật sư 2006: “Luật sư là người có đủ
tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật luật sư, thực hiện dịch vụ
pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức” 1. Tiêu chuẩn luật sư được quy
định: “Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật,
có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng Cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua
thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khoẻ bảo đảm hành nghề luật sư thì có thể
trở thành luật sư”2. Lưu ý rằng, người có đủ tiêu chuẩn muốn được hành nghề luật sư
phải có Chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập một Đoàn luật sư.
1.1.2 Khái niệm nghề luật sư
Nghề luật sư ở Việt Nam trước hết là một nghề luật, trong đó các luật sư bằng
kiến thức pháp luật của mình, độc lập thực hiện các hoạt động trong phạm vi hành
nghề theo quy định của pháp luật và quy chế trách nhiệm nghề nghiệp, nhằm mục
đích phụng sự công lý, góp phần bảo vệ pháp chế và xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam.
1.2 Sự hình thành phát triển nghề luật sư trên thế giới
Không ai biết được nghề luật sư xuất hiện từ bao giờ, chỉ biết rằng nghề này
xuất hiện từ thời xa xưa. Sử sách kể lại rằng, vào khoảng thế kỷ thứ V trước Công
1
2

Điều 2 Luật Luật sư 2006
Điều 10 Luật Luật sư 2006


4


Thực trạng về chất lượng luật sư Việt Nam hiện nay và những giải pháp để nâng cao chất lượng

nguyên, trong nhà nước Hy Lạp cổ, tổ chức toà án đã được hình thành và việc xét xử
có sự tham gia của người dân. Nguyên cáo hoặc bị cáo có thể tự trình bày ý kiến, lý lẽ
của mình trước Toà hoặc nhờ người khác có tài hùng biện trình bày hộ ý kiến, lý lẽ
bảo vệ hoặc bào chữa. Vào thời đó, việc bào chữa xuất phát tự nhiên nhằm minh oan
cho bạn bè hoặc người thân bị chính quyền bắt giam, trừng phạt một cách độc đoán và
vô cớ. Còn ở La Mã cổ đại, phiên toà thường có sự tham gia của các nhà chuyên môn,
người am hiểu pháp luật để nhắc nhỡ những quy tắc tôn giáo để tránh việc viện dẫn
sai hoặc vi phạm thủ tục tố tụng; xã hội dần dần hình thành một nhóm người chuyên
sâu, am hiểu về pháp luật và việc diễn giải pháp luật của họ được xem xét như hoạt
động nghề nghiệp. Từ đó, hoạt động của họ (luật sư) được chấp nhận và uy tín của họ
trong xã hội ngày càng được nâng cao, nghề luật sư được xem như một nghề vinh
quang trong xã hội.
Sau khi Nhà nước La Mã tan rã, châu Âu chuyển sang thời kỳ Trung cổ với các
triều đại phong kiến phân quyền cát cứ, Toà án và chế độ luật sư ở các nước được xây
dựng dưới nhiều hình thức khác nhau nhằm mục đích phục vụ tôn giáo và chế độ
phong kiến. Luật sư thời kỳ này không thể hiện rõ và đầy đủ các tính chất nghề
nghiệp của họ, vai trò của luật sư bị hạn chế và bóp nghẹt bởi chế độ xã hội chuyên
quyền hà khắc.
Bước sang chế độ tư bản, nghề luật sư được tổ chức chặt chẽ với những điều
kiện khắt khe nhằm bảo vệ quyền lợi riêng cho một bộ phận người xuất thân từ giai
cấp tư sản. Dần dần, các cuộc đấu tranh vì dân chủ, bình đẳng diễn ra thường xuyên
đã buộc chính quyền các nước tư sản phải mở rộng quyền dân chủ cho người dân, nhu
cầu của người dân đối với việc được đảm bảo quyền và lợi ích của mình trên cơ sở
các quy định pháp luật luôn thường trực. Nghề luật sư thể hiện vai trò to lớn của

mình, dần hình thành một nghề tự do.

5


Thực trạng về chất lượng luật sư Việt Nam hiện nay và những giải pháp để nâng cao chất lượng

1.3 Sự hình thành phát triển của nghề luật sư ở Việt Nam
1.3.1 Giai đoạn phong kiến
Việc xét xử của chính quyền phong kiến Việt Nam qua các thời kỳ do vua, quan
thực hiện mà không có sự tham gia của người bào chữa, bảo vệ. Đến thời kỳ Pháp
thuộc, nước ta bị thực dân Pháp xâm lược và là thuộc địa Pháp. Sau khi xâm lược Nam
kỳ, thực dân Pháp đã ban hành sắc lệnh áp dụng Bộ luật Naponeon của Pháp, thừa nhận
chế định luật sư của Pháp tại Đông Dương được thực hiện thống nhất theo Sắc lệnh
ngày 25.7.1864 của Hoàng Đế Naponeon III tổ chức luật sư được thành lập theo khu
vực: Hà Nội, Sài Gòn, Campuchia, Lào đặt cạnh Tòa án thuộc địa. Tuy nhiên, ở Việt
Nam, trước năm 1930, hoạt động luật sư do người Pháp giữ độc quyền, sau khi ban
hành Sắc lệnh ngày 25.5.1930, thực dân Pháp mới tổ chức Hội đồng luật sư ở Hà Nội
và Sài Gòn và có quy định mở rộng đối tượng tham gia là người Việt Nam.
1.3.2 Giai đoạn sau cách mạng tháng Tám
Khi cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra
đời, chính quyền về tay nhân dân, Bộ máy tư pháp đã được sắp xếp lại. Chỉ sau hơn
một tháng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 46/SL ngày 10-10-1945 về tổ
chức đoàn thể luật sư. Vào cuối năm 1949, để bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị
cáo, chính quyền cách mạng đã thiết lập chế độ bào chữa viên tạm thời thay thế vai
trò của luật sư. Chế độ bào chữa viên được tiếp tục thực hiện sau khi chính quyền
cách mạng giành thắng lợi ở vào năm 1954 ở Bắc cho đến ngày đất nước thống nhất
(năm 1975). Trong suốt thời kỳ xây dựng miền Bắc lên chủ nghĩa xã hội, đội ngũ bào
chữa viên ngày càng phát triển. Bên cạnh các luật sư cũ đã tham gia kháng chiến,
nhiều luật sư, luật gia đã từng làm việc trong chế độ cũ cũng được chọn cho gia nhập

đội ngũ bào chữa viên của nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa.
Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà năm 1946 khẳng định quyền bào
chữa là một trong những quyền cơ bản của công dân, cụ thể Điều 67 của Hiến Pháp
quy định "Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư”. Tiếp tục

6


Thực trạng về chất lượng luật sư Việt Nam hiện nay và những giải pháp để nâng cao chất lượng

khẳng định quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân, Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà năm 1959
(Điều 101) đã quy định "Quyền bào chữa của người bị cáo được bảo đảm"; tiếp đó
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980 ngoài việc khẳng
định bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo, còn quy định việc thành lập tổ chức luật sư
để giúp cá nhân, tổ chức bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp.
Sau ngày giải phóng miền Nam 30/4/1975, Chính phủ Cách mạng lâm thời
Cộng hòa miền Nam Việt Nam, kế thừa thực tế ở miền Bắc, tiếp tục cho thực hiện chế
định bào chữa viên nhân dân ở các tỉnh miền Nam, vì các Luật sư đoàn ở miền Nam
ra đời từ các chế độ cũ đều đã bị giải tán. Việc thực hiện quyền bào chữa này được
triển khai trên cơ sở Điều 4 Sắc luật số 01-SL/76 ngày 18/3/1976 của Hội đồng Chính
phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và tinh thần Thông tư số 06-BTP/TT
ngày 11/6/1976 của Bộ Tư pháp Chính phủ Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
Ngày 24/11/1984, Đại hội thành lập Đoàn luật sư thành phố Hà Nội đã diễn ra,
với 16 luật sư thành viên sáng lập đầu tiên. Trong khi đó, ở thành phố Hồ Chí Minh,
các tỉnh khác và đặc khu Vũng Tàu Côn Đảo thì lập Đoàn bào chữa viên nhân dân.
Đoàn bào chữa viên nhân dân thành phố Hồ Chí Minh được thành lập với 28 người.
Ngày 18/12/1987, Hội đồng Nhà nước đã thông qua Pháp lệnh Tổ chức luật sư. Từ
đó, các tổ chức luật sư chuyên nghiệp ra đời thay thế các hình thức bào chữa viên
nhân dân đã được thiết lập từ 38 năm trước ở miền Bắc (1949), hơn 10 năm sau ngày

giải phóng miền Nam (1975), thống nhất đất nước (1976).
1.3.3 Thời kì đổi mới
Cuối thập niên 90, nhu cầu đẩy mạnh quá trình xây dựng cơ chế thị trường, yêu
cầu cấp thiết xây dựng nhà nước pháp quyền, mở rộng dân chủ, hội nhập quốc tế. Để
đáp ứng nhu cầu mới, Pháp lệnh luật sư năm 2001 đã được ban hành. Chỉ sau 5 năm
thi hành Pháp lệnh, đội ngũ luật sư đã tăng đáng kể cả về số lượng và chất lượng. Đặc
biệt, trong 5 năm đó các luật sư đã thành lập trên 1.000 tổ chức hành nghề là các văn

7


Thực trạng về chất lượng luật sư Việt Nam hiện nay và những giải pháp để nâng cao chất lượng

phòng luật sư, các công ty luật hợp danh .Có thể nói, Pháp lệnh luật sư năm 2001 là
văn bản mở đầu cho quá trình chuyên nghiệp hoá và hội nhập quốc tế của nghề luật sư
ở Việt Nam, đã tạo một bộ mặt mới với triển vọng phát triển nghề luật sư ở nước ta.
Không dừng lại ở đó, khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại quốc tế
(WTO) đã tạo ra vị thế và những cơ hội mới phát triển đất nước, đồng thời cũng đặt ra
nhiệm vụ quan trọng là phải chuyển đổi hệ thống pháp luật và các thiết chế cùng cơ chế
vận hành theo lộ trình phù hợp với các cam kết khi gia nhập WTO. Do đó, Luật Luật sư
được Quốc hội thông qua ngày 29/6/2006 và được sửa đổi, bổ sung có hiệu lực thi hành
kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2013 đã góp phần nâng cao vị thế của luật sư, tạo cơ sở
pháp lý vững chắc cho nghề luật sư ở Việt Nam. Để sau đó, từ ngày 10-12/5/2009 Đại
hội đại biểu Luật sư toàn quốc lần thứ nhất đã diễn ra với sự ra đời của Liên đoàn Luật
sư Việt Nam.
Trải qua 70 năm hình thành, hoạt động với sứ mệnh bảo vệ công lý, góp phần
tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, ngày nay đội ngũ luật sư Việt
Nam đã phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng; cung cấp các dịch vụ pháp
lý cho cộng đồng xã hội ngày càng chất lượng, trở thành một trong những yếu tố
không thể thiếu được của việc phát triển kinh tế tri thức và xây dựng nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

8


Thực trạng về chất lượng luật sư Việt Nam hiện nay và những giải pháp để nâng cao chất lượng

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VỀ CHẤT LƯỢNG LUẬT SƯ VIỆT NAM
2.1 Những kết quả đạt được
Từ chỗ có vài chục luật sư hoạt động chủ yếu ở các thành phố đến nay cả nước
đã có trên 10.000 luật sư cùng vài nghìn người đang tập sự hành nghề luật sư. Tất cả
các tỉnh trong cả nước đều có Đoàn luật sư. Theo ghi nhận Liên đoàn luật sư Việt
Nam, từ tháng 5/2009 đến tháng 4/2015 số lượng vụ việc luật sư tham gia bào chữa,
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, cung cấp dịch vụ pháp lý khác cho các cá nhân, tổ
chức được 77.129 vụ án hình sự (trong đó có 34.635 vụ án hình sự được mời, 42.494
vụ án hình sự theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng); 65.263 vụ án dân sự; 5.486
vụ án kinh tế; 5.575 vụ án hành chính; 724 vụ án lao động; 272.365 vụ tư vấn trong
các vụ việc khác; 9.133 đại diện ngoài tố tụng; 89.491 dịch vụ pháp lý khác; 37.827
vụ việc trợ giúp pháp lý miễn phí... Trong những năm gần đây đội ngũ luật sư đã đảm
nhận 100% việc bào chữa trong các vụ án do cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu với
chất lượng ngày càng được nâng cao.
Nhiều Luật sư, tổ chức hành nghề đã được một số tổ chức quốc tế phong tặng
các danh hiệu cao quý về hành nghề. Đặc biệt là những đóng góp của luật sư trong
hoạt động tư pháp. Luật sư và nghề luật sư đã và đang trở thành một yếu tố không thể
thiếu được của hoạt động tranh tụng, cải cách tư pháp, trong phát triển nền kinh tế thị
trường và xây dựng nhà nước pháp quyền Xã Hội Chủ Nghĩa.
Hoạt động nghề nghiệp của luật sư thời gian qua không những đáp ứng nhu cầu
giúp đỡ pháp lý ngày càng cao của cá nhân, cơ quan, tổ chức, góp phần tích cực trong
việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, phục vụ tích cực cho công cuộc cải
cách tư pháp, mà còn đóng góp tích cực, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, xây

dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, từ đó vị thế và hình
ảnh của luật sư và nghề luật sư từng bước được nâng lên rõ rệt .

9


Thực trạng về chất lượng luật sư Việt Nam hiện nay và những giải pháp để nâng cao chất lượng

2.2 Thực trạng về chất lượng luật sư
2.2.1 Về đội ngũ luật sư
Luật sư ở nước ta hiện nay vẫn còn đang thiếu và mới chỉ đáp ứng một phần
nhỏ nhu cầu của xã hội. Thống kê cho thấy số lượng luật sư tính theo tỷ lệ bình quân
trên đầu người ở Việt Nam còn thấp, khoảng 1/14.000. Trong khi đó tỷ lệ này ở Thái Lan
là 1/1.526; Xin-ga-po là 1/1.000; Nhật Bản là 1/4.546; và đặc biệt ở Mỹ, tỷ lệ là 1/250 3.

Số luật sư lại chủ yếu tập trung tại các đô thị lớn (riêng ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí
Minh chiếm hơn 50% tổng số luật sư toàn quốc), luật sư còn rất thiếu ở vùng sâu,
vùng xa. Chỉ khoảng dưới 10% vụ án có luật sư, do đó không thể đảm bảo đáp ứng
thích đáng nhu cầu dịch vụ pháp lý của xã hội, nếu vấn đề về chất lượng không được
coi trọng.
Về chất lượng, đa số các luật sư được đào tạo cơ bản, nhiều luật sư xuất thân từ
điều tra viên, kiểm sát viên và thẩm phán có nhiều kinh nghiệm, có khả năng phát
hiện những sai sót của cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án. Đội ngũ cán bộ này là
nguồn ngày càng tăng cho đội ngũ luật sư nhưng lại thiếu kinh nghiệm hành nghề; số
luật sư mới ra trường còn trẻ, có trình độ nhưng lại chưa có thực tiễn hành nghề.
Xét về quy mô, hoạt động hành nghề luật sư hiện nay khá phân tán. Luật sư
hành nghề đa phần riêng lẻ, với quy mô phổ biến chỉ có từ 1 đến 2 luật sư, số tổ chức
có trên 10 luật sư còn rất ít. Quy mô nhỏ này phù hợp với đặc điểm phát triển của thị
trường dịch vụ pháp lý thời gian qua, khi mà cá nhân vẫn là đối tượng khách hàng
chính, và dịch vụ chủ yếu là tham gia tố tụng và các giao dịch dân sự của cá nhân.

Tập quán hành nghề riêng lẻ của luật sư, sự chú trọng chuyên môn mà thiếu quan tâm
đến tổ chức hoạt động, và hầu hết luật sư đều chưa qua đào tạo bài bản về quản lý đã
hạn chế đến chất lượng phát triển đội ngũ luật sư và hoạt động của các tổ chức hành
nghề luật sư trong thời gian qua.

Xem Quyết định 1072/QĐ-TTg Chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020 của Thủ tướng
Chính phủ.
3

10


Thực trạng về chất lượng luật sư Việt Nam hiện nay và những giải pháp để nâng cao chất lượng

2.2.2 Về đào tạo luật sư
Một trong các nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng luật sư là chất lượng đào
tạo đầu vào. Ở Việt Nam, các trường luật không có chương trình đào tạo sinh viên để
trở thành luật sư, các sinh viên luật được học chung một chương trình và chủ yếu tập
trung vào lý thuyết, các khái niệm pháp luật cơ bản. Sau khi ra trường, sinh viên
muốn hành nghề luật sư thì phải tham gia khóa đào tạo hành nghề luật sư trong thời
gian mười hai tháng tại các cơ sở đào tạo hành nghề luật sư theo quy định của pháp
luật, sau đó trải qua một thời gian tập sự tại các tổ chức hành nghề luật sư. Để được
công nhận luật sư chính thức, sau khi kết thúc thời gian tập sự theo quy định, luật sư
tập sư phải trải qua kỳ kiểm tra do Bộ Tư pháp tổ chức và chỉ được cấp Chứng chỉ
hành nghề nếu đạt yêu cầu.
Chương trình đào tạo nghiệp vụ luật sư thường nghiêng về các nội dung tranh
tụng, mà chưa chú trọng các kỹ năng trong hoạt động tư vấn. Do tình trạng trên, nên
đa phần luật sư hiện nay chưa được đào tạo một cách bài bản về kỹ năng hành nghề
và kỹ năng mềm. Các luật sư vẫn còn thiếu kinh nghiệm trong việc thu thập tài liệu,
đồ vật, tình tiết liên quan đến quá trình bào chữa, tranh luận, đưa ra yêu cầu, kiến nghị

tại phiên toà. Từ đó, khó có thể độc lập nghiên cứu hồ sơ, tình huống, đưa ra được
luận cứ thuyết phục hay tư vấn hiệu quả cho khách hàng.
2.2.3 Về sự chuyên môn hóa trong hành nghề
Với sự phát triển khá nhanh của nền kinh tế, bao gồm sự gia tăng đối tượng
khách hàng doanh nghiệp, sự gia tăng số lượng, quy mô và tính chất phức tạp của các
giao dịch, đang đòi hỏi dịch vụ pháp lý có mức độ chuyên môn hóa cao, đồng thời có
quy mô tập trung hơn. Bởi vì, khi chuyên môn hóa lĩnh vực pháp luật càng sâu thì kỹ
năng tranh tụng càng được nâng cao và giành ưu thế trên phiên tòa.
Tuy số lượng luật sư ở nước ta trong những năm gần đây tăng lên đáng kể, song
vẫn chưa hình thành được đội ngũ các luật sư chuyên sâu về những lĩnh vực khác
nhau. Số luật sư hành nghề kiêm nhiệm các công việc khác vẫn còn khá cao, chiếm

11


Thực trạng về chất lượng luật sư Việt Nam hiện nay và những giải pháp để nâng cao chất lượng

trên 20%, số tổ chức hành nghề luật sư có quy mô nhỏ, cơ sở vật chất thiếu thốn, quản
lý điều hành kém còn chiếm đa số 4. Các luật sư chủ yếu hành nghề trong hai lĩnh vực
dân sự và hình sự. Trong các lĩnh vực pháp luật khác như hành chính, lao động, kinh
tế…tỷ lệ vụ việc mà các luật sư tham gia tương đối thấp.
2.2.4 Về khả năng tranh tụng tại Tòa án
Thực tiễn xét xử cho thấy rằng, trong vụ án hình sự, chất lượng tranh tụng tại
phiên tòa nhìn chung chưa cao, rất ít luật sư đưa ra những tài liệu, chứng cứ có tính
thuyết phục để bảo vệ có hiệu quả cho thân chủ của mình. Hầu hết các luật sư mới chỉ
dựa vào hồ sơ vụ án và tìm ra trong đó những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
cho bị cáo. Còn không ít trường hợp luật sư không nhất quán trong quan điểm bào
chữa, viện dẫn những điều luật đã lạc hậu, những văn bản đã bị bãi bỏ hoặc bổ sung,
sửa đổi. Có trường hợp luật sư tranh luận gay gắt, tạo ra không khí căng thẳng, thiếu
văn hóa pháp lý. Luật sư thường tập trung vào việc phê phán các cơ quan tiến hành tố

tụng trong việc thu thập các tài liệu, chứng cứ.
Đối với các vụ án kinh tế hoặc có yếu tố chiếm đoạt, luật sư thường viện dẫn
các quy định của pháp luật về dân sự, kinh tế để “lái” vụ án theo hướng vi phạm về
dân sự, là quan hệ vay nợ và cho rằng các cơ quan pháp luật đã hình sự hóa các quan
hệ dân sự, kinh tế. Một số luật sư khi thấy bị cáo rõ ràng là có tội, tất yếu không tránh
khỏi hình phạt nhưng để tìm cách gỡ tội cho bị cáo, họ đã “đạo diễn” hoặc tạo cớ cho
rằng bị cáo có dấu hiệu của một người không bình thường rồi đề nghị trưng cầu giám
định tâm thần nhằm trì hoãn xét xử đã dẫn đến việc giải quyết vụ án bị kéo dài.
Ngoài ra, một số luật sư chưa thực hiện đúng nghĩa vụ của người bào chữa theo
quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, chỉ tập trung vào chứng cứ chứng minh theo
hướng nhẹ tội cho bị cáo, thậm chí theo hướng bị cáo không có tội, nên việc đưa ra
các chứng cứ, lập luận không khách quan, không có căn cứ pháp luật, cách đặt câu hỏi
thường mớm cho bị cáo khai.
Xem Quyết định 1072/QĐ-TTg Chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020 của Thủ tướng
Chính phủ.
4

12


Thực trạng về chất lượng luật sư Việt Nam hiện nay và những giải pháp để nâng cao chất lượng

2.2.5 Về đạo đức nghề nghiệp luật sư
Trong những năm qua, các luật sư có giúp đỡ nhau trong hành nghề và trong
sinh hoạt giao tiếp xã hội. Tuy nhiên, vẫn có luật sư còn thiếu tôn trọng đồng nghiệp,
thực hiện các biện pháp cạnh tranh không lành mạnh để giành khách hàng về cho
mình, vi phạm quy định về đạo đức và ứng xử nghề nghiệp. Một bộ phận luật sư còn
có thái độ ứng xử nghề nghiệp chưa đúng mực trong quan hệ với các cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và luật sư đồng nghiệp, làm ảnh hưởng đến uy
tín của đội ngũ luật sư. Một số luật sư còn sử dụng mạng xã hội để bài xích, nói xấu

nhau, hạ uy tín của đồng nghiệp khi tiếp xúc khách hàng, hứa hẹn những việc quá
thẩm quyền, khả năng của của mình... Trong đội ngũ luật sư hiện còn tình trạng chưa
thực sự tận tâm trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng. Họ
coi nghề của mình như một loại dịch vụ để kiếm sống nên luôn tìm mọi cách để đánh
bóng tên tuổi.
2.2.6 Về khả năng hội nhập quốc tế
Trên thực tế, các luật sư Việt Nam tham gia rất hạn chế trong giải quyết các vụ
kiện có liên quan đến yếu tố nước ngoài. Đa phần luật sư của chúng ta chỉ tham gia bào
chữa tại các phiên toà xử các vụ án dân sự, hình sự, lao động, kinh tế và các quan hệ
khác ở trong nước. Việc tham gia giải quyết những tranh chấp có yếu tố nước ngoài đối
với luật sư Việt Nam hiện đang còn những khó khăn.
Hiện nay, số lượng luật sư có đủ kinh nghiệm, kỹ năng tư vấn pháp luật trong
lĩnh vực thương mại quốc tế, đàm phán giải quyết tranh chấp quốc tế chỉ chiếm tỷ lệ
1,2% trong tổng số luật sư, trong đó chỉ khoảng hơn 20 luật sư có trình độ ngang tầm
với luật sư khu vực 5. Mới có khoảng 10/1.500 tổ chức hành nghề luật sư chuyên sâu
trong lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, thương mại có yếu tố nước ngoài. Hơn nữa, luật sư
nước ta còn yếu về trình độ ngoại ngữ cũng như kiến thức về pháp luật quốc tế. Điều
này dẫn đến nguy cơ chúng ta thua ngay trên “sân nhà” trong các vụ tranh chấp liên
Xem Quyết định 1072/QĐ-TTg Chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020 của Thủ tướng
Chính phủ.
5

13


Thực trạng về chất lượng luật sư Việt Nam hiện nay và những giải pháp để nâng cao chất lượng

quan đến việc mâu thuẫn giữa quyền lợi của Nhà nước Việt Nam, các doanh nghiệp,
công dân Việt Nam với nước ngoài.
Tuy nhiên, một số tổ chức luật sư trong nước đã bắt đầu có xu hướng “quốc tế

hóa”, thể hiện qua việc phát triển khách hàng nước ngoài, phát triển thị trường ra
nước ngoài, tuyển dụng luật sư nước ngoài ….Sự trưởng thành bước đầu này tạo ra cơ
sở cho sự phát triển và lớn mạnh của đội ngũ luật sư Việt Nam trong hoạt động kinh
doanh thương mại quốc tế. Trong các giao dịch quốc tế, luật sư trong nước cũng tích
lũy được kinh nghiệm nhờ thường xuyên tiếp xúc với nhiều thông tin về hành nghề
quốc tế, nhờ quá trình tự đào tạo trong hành nghề, được đào tạo ở nước ngoài, cũng
như qua việc “cọ xát” với các đồng nghiệp nước ngoài. Ngày càng ít đi sự khác biệt
về chất lượng dịch vụ pháp lý giữa các tổ chức luật sư trong nước hoạt động chuyên
sâu và các tổ chức luật sư nước ngoài có uy tín. Nhiều lĩnh vực chuyên sâu trong giao
dịch quốc tế đang trở thành thế mạnh của một số tổ chức luật sư trong nước.
2.2 Nguyên nhân thực trạng
2.2.1 Thuận lợi
- Chính sách, pháp luật: Chính sách và pháp luật về cải cách tư pháp và phát
triển nghề luật sư trong thời gian qua đã tạo cơ sở chính trị và pháp lý vững chắc và
điều kiện thuận lợi cho hoạt động hành nghề luật sư cụ thể: Nghị quyết số 49-NQ/TW
của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp; Luật Luật sư năm 2006; Chiến lược
phát triển luật sư đến năm 2020 và Đề án Phát triển đội ngũ luật sư phục vụ hội nhập
kinh tế quốc tế giai đoạn 2010 – 2020 của Thủ tướng Chính phủ đặt ra những mục
tiêu, nhiệm vụ và giải pháp cụ thể cho việc phát triển nghề luật sư nói chung và phát
triển đội ngũ luật sư phục vụ hội nhập. Điều này đã tác động quan trọng và dễ nhận
thấy nhất đó là những chuyển biến của thị trường dịch vụ pháp lý, thể hiện qua sự
phát triển về số lượng luật sư và tổ chức hành nghề, số lượng vụ việc có luật sư tham
gia. Đây là hệ quả từ những quy định rõ ràng và theo hướng mở hơn của Luật Luật sư,
về việc gia nhập đoàn luật sư, tập sự, hành nghề và đào tạo nghề luật sư.

14


Thực trạng về chất lượng luật sư Việt Nam hiện nay và những giải pháp để nâng cao chất lượng


- Nhu cầu thị trường: Cùng với quá trình hội nhập, nhu cầu về dịch vụ pháp lý
ngày càng tăng về số lượng đồng thời cũng đặt ra yêu cầu cao hơn về chất lượng. Một
mặt, nhu cầu tăng do có sự gia tăng về số lượng và mức độ phức tạp trong các giao
dịch của doanh nghiệp nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Mặt khác, nhu cầu cũng
đến từ nhiều doanh nghiệp trong nước, do có sự phát triển của cộng đồng doanh
nghiệp trong nước, và sự chuyển biến rõ rệt trong nhận thức chung về vai trò của luật
sư và sự cần thiết của dịch vụ pháp lý trong hoạt động kinh doanh.
- Sự trưởng thành của đội ngũ luật sư: Qua hơn 20 năm đổi mới và hội nhập,
đội ngũ luật sư trong nước đã dần trưởng thành trong hoạt động hành nghề, cung cấp
các dịch vụ pháp lý đa dạng cho khách hàng trong nước và nước ngoài trong các giao
dịch ngày càng phức tạp. Quy mô cung cấp dịch vụ pháp lý cho doanh nghiệp đã tăng
lên nhanh chóng, nhất là ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Một bộ phận luật sư
và tổ chức hành nghề, tuy chưa nhiều, đã bước đầu hoạt động chuyên nghiệp, tập
trung vào các lĩnh vực chuyên sâu như đầu tư, mua bán - tái cấu trúc doanh nghiệp,
thị trường công cụ tài chính, sở hữu trí tuệ, cạnh tranh…
2.2.2 Khó khăn
- Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do hiện vẫn còn hiện
tượng cản trở quyền hành nghề hợp pháp của luật sư, môi trường hành nghề và cơ chế
tố tụng còn chưa thuận lợi cho luật sư phát huy vai trò trong việc cung cấp dịch vụ
pháp lý cho khách hàng khiến một số luật sư không sống được bằng nghề.
- Do điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta đang phát triển, mức thu nhập của
người dân còn thấp, chưa đồng đều, nhận thức của cơ quan nhà nước, tổ chức, người
dân, đặc biệt là nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp về vị trí, vai trò của luật sư
chưa đầy đủ, chưa toàn diện nên đã có tác động không nhỏ đến việc phát triển nghề
luật sư nói chung cũng như việc phát triển số lượng luật sư và nhu cầu sử dụng dịch
vụ pháp lý của luật sư nói riêng.

15



Thực trạng về chất lượng luật sư Việt Nam hiện nay và những giải pháp để nâng cao chất lượng

- Việc định hướng đào tạo đội ngũ luật sư về kinh tế, thương mại, vận tải, dịch
vụ quốc tế có thể nói là yếu và rất hạn chế. Bên cạnh đó, đối với các luật sư
Việt Nam có một cái rào cản rất lớn là ngoại ngữ. Hiện những luật sư thông thạo
ngoại ngữ để có thể tham gia các vụ kiện quốc tế mới chỉ đếm được trên đầu ngón tay.
- Một bộ phận đội ngũ luật sư còn chưa chủ động, tích cực trong việc tự nâng
cao trình độ, kỹ năng hành nghề cũng như việc trau dồi phẩm chất chính trị, đạo đức
và ứng xử nghề nghiệp. Bên cạnh đó, một số tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư
chưa thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm tự quản của mình.
- Ngoài ra, Tổ chức luật sư nước ngoài được tư vấn pháp luật Việt Nam khi có
luật sư đáp ứng được điều kiện hành nghề luật sư Việt Nam. Với tên tuổi, bề dày kinh
nghiệm và tầm hoạt động toàn cầu, các tổ chức luật sư nước ngoài có uy tín tại Việt
Nam đang dần chiếm ưu thế trong hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách
hàng nước ngoài. Điều này tạo ra áp lực cạnh tranh trong hoạt động nghề nghiệp luật
sư, không phân biệt với tổ chức luật sư trong nước hay nước ngoài. Áp lực cạnh tranh
cũng có thể làm nảy sinh một số hệ quả “tiêu cực”, đó là việc bất chấp các nguyên tắc,
chuẩn mực đạo đức trong hành nghề. Ảnh hưởng tất yếu và lâu dài là làm suy giảm uy
tín chung của giới luật sư trong xã hội, làm cho môi trường hoạt động hành nghề bị
“xuống cấp”.

16


Thực trạng về chất lượng luật sư Việt Nam hiện nay và những giải pháp để nâng cao chất lượng

CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG LUẬT SƯ
3.1 Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ luật sư
Theo đánh giá sơ bộ, Việt Nam phải có được từ 18.000 tới 20.000 luật sư hành
nghề, mới đáp ứng được nhu cầu xã hội hiện nay 6. Chúng ta không thể thực hiện được

điều này một cách nhanh chóng, bởi vì lộ trình đào tạo để có được một đội ngũ luật sư
đạo đức và tài năng phải qua hàng chục năm. Cho nên:
- Trước mắt, cần nâng cao chất lượng hoạt động của Liên đoàn Luật sư
Việt Nam và thiết kế mô hình quản lý nghề nghiệp luật sư phù hợp với đặc điểm của
Việt Nam. Chính Liên đoàn sẽ đóng vai trò kết nối và điều phối hoạt động giữa tổ
chức hành nghề luật sư với tổ chức xã hội- nghề nghiệp là Đoàn Luật sư địa phương,
nhằm tạo ra mô hình chuyên môn, ổn định, để xúc tiến việc giáo dục và đào tạo
thường xuyên, nâng cao chất lượng đội ngũ luật sư.
- Trong thời gian sắp tới, mỗi luật sư cần phải có những định hướng cụ thể cho
mình để đáp ứng những yêu cầu của công cuộc hội nhập và để đáp ứng những đòi hỏi
của cuộc sống.
- Cần định hướng xây dựng và phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, mạnh
về chất lượng, vững vàng về bản lĩnh chính trị, trong sáng về đạo đức nghề nghiệp,
đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và nhu cầu của xã hội, bảo đảm ngày càng có nhiều
các luật sư am hiểu pháp luật và tập quán thương mại quốc tế, thông thạo ngoại ngữ,
giỏi kỹ năng hành nghề luật sư, có trình độ ngang tầm với các luật sư trong khu vực.
3.2 Giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo luật sư
Luật sư nên được đào tạo tính chuyên nghiệp ngay từ khi đang là sinh viên tại
các trường đại học luật thông qua việc định hướng nghề nghiệp và đào tạo kỹ năng
hành nghề. Sinh viên luật nên được nhà trường định hướng nghề nghiệp và đào tạo kỹ
năng hành nghề ngay tại trường đại học. Trong thời gian đầu, sinh viên sẽ được thực
hành bằng các tình huống cụ thể dưới sự hướng dẫn của giảng viên, việc đưa ra các
Xem Quyết định 1072/QĐ-TTg Chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020 của Thủ tướng
Chính phủ.
6

17


Thực trạng về chất lượng luật sư Việt Nam hiện nay và những giải pháp để nâng cao chất lượng


quan điểm, lý luận sẽ được giảng viên đánh giá, nhận xét. Những năm cuối, sinh viên
sẽ được tiếp xúc trực tiếp với các vụ án, tình huống thực tế dưới sự hướng dẫn của
giảng viên hoặc luật sư.
Chính vì được định hướng nghề nghiệp và đào tạo kỹ năng hành nghề khi còn
là sinh viên nên sẽ tạo động lực cho các luật sư tương lai phấn đấu nỗ lực trong học
tập, nghiên cứu các chế định pháp luật và các vụ án, tình huống để tích lũy kiến thức,
kỹ năng làm nền tảng cho việc hành nghề sau này.
3.3 Giải pháp nâng cao sự chuyên môn hóa trong hành nghề
- Luật sư nên được bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, thường xuyên cập nhật
kiến thức pháp luật mới và nâng cao kỹ năng hành nghề. Việc cập nhật các quy phạm
pháp luật mới là một yêu cầu bắt buộc đối với mọi luật sư mà không phân biệt trình
độ chuyên môn, kinh nghiệm hay thâm niên nghề nghiệp. Ngoài ra, luật sư cũng có
thể lựa chọn hình thức cập nhật khác như nghiên cứu văn bản luật, trao đổi với các
đồng nghiệp…
- Thường xuyên mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ thực hiện theo nhu cầu
của luật sư. Các luật sư có thể đăng ký với cơ sở thực hiện bồi dưỡng các lĩnh vực mà
họ có nhu cầu, trên cơ sở đó các tổ chức thực hiện bồi dưỡng sẽ mở lớp theo chuyên đề
như hình sự, dân sự, kinh tế, thương mại…Cách thức bồi dưỡng này không những đảm
bảo việc bồi dưỡng đúng trọng tâm, trọng điểm mà sẽ hỗ trợ để luật sư nâng cao kiến
thức, kỹ năng trong các lĩnh vực họ còn hạn chế, đồng thời giúp luật sư có điều kiện
phát triển chuyên sâu các lĩnh vực theo nhu cầu nghề nghiệp của mỗi luật sư.
- Cần có quy mô tập trung hơn trong hoạt động hành nghề luật sư để tạo nên sự
đồng bộ trong dịch vụ pháp lý. Thật sự bất tiện khi một doanh nghiệp phải đồng thời
sử dụng nhiều nhà cung cấp dịch vụ pháp lý khác nhau cho các giao dịch thuộc những
lĩnh vực khác nhau. Như vậy, việc chuyên môn hóa đồng thời duy trì sự đồng bộ trong
dịch vụ pháp lý chỉ có thể thực hiện được trong các tổ chức hành nghề chuyên nghiệp
và có quy mô.

18



Thực trạng về chất lượng luật sư Việt Nam hiện nay và những giải pháp để nâng cao chất lượng

3.4 Giải pháp nâng cao khả năng tranh tụng tại Tòa
- Cần phải quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự, tranh tụng là một nguyên tắc
cơ bản của hoạt động xét xử và được ghi nhận với tính chất như một nguyên tắc cơ
bản, độc lập của Tố tụng hình sự Việt Nam.
- Xu hướng tranh tụng gần đây và đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập WTO
buộc chúng ta phải tuân thủ các cam kết quốc tế và pháp luật quốc tế, chắc chắn vấn
đề tranh tụng công khai tại phiên toà sẽ là con đường xác định sự công bằng, lẽ phải
để tuyên án. Do vậy, luật sư cần phải tích cực tham gia, tham dự các phiên toà nhiều
hơn để đúc kết kinh nghiệm cho mình; đồng thời ngoài việc lập sẵn cho mình kế
hoạch hỏi, cần biết dự đoán các vấn đề cần tranh tụng công khai tại phiên toà trên cơ
sở nghiên cứu hồ sơ, đánh giá chứng cứ kết hợp với quan điểm bào chữa, bảo vệ của
luật sư.
- Thường xuyên bồi dưỡng kỹ năng nói, tốc độ nói, giọng nói, phong thái, tư
thế đi lại tại phiên toà. Bào chữa hay bản luận cứ xây dựng dưới dạng "mở" có thể
thay đổi linh hoạt cho phù hợp với diễn biến phiên toà chứ không nên theo cách chuẩn
bị cổ điển "đóng" bằng cách viết sẵn để đọc và trình bày trước Hội đồng xét xử.
3.5 Giải pháp về đạo đức nghề nghiệp luật sư
- Tính chuyên nghiệp và sự chuyên môn hóa trong hành nghề của luật sư
thường được thể hiện rõ bằng hiệu quả công việc, tuy nhiên tư cách và thái độ ứng xử
của luật sư cũng thể hiện khả năng chuyên nghiệp của họ. Do vậy, mọi luật sư nên
được bồi dưỡng đạo đức nghề nghiệp thường xuyên mà không nên phân biệt trình độ,
năng lực hay thâm niên nghề nghiệp. Bởi vì, thực tiễn cho thấy một số luật sư vi phạm
pháp luật, vi phạm quy tắc đạo đức nghề nghiệp cũng là những luật sư có trình độ và
kinh nghiệm hành nghề lâu năm. Một luật sư được bồi dưỡng thường xuyên về đạo
đức nghề nghiệp nhất định sẽ thực hiện tốt vai trò của mình trong việc bảo vệ lợi ích
của khách hàng, bảo vệ công lý và nhà nước pháp quyền.


19


Thực trạng về chất lượng luật sư Việt Nam hiện nay và những giải pháp để nâng cao chất lượng

- Trong mỗi tổ chức hành nghề luật sư, cần xây dựng các chuẩn mực về lý
tưởng của nghề luật sư, với độ tin cậy cao về phẩm giá, đạo đức nghề nghiệp và một
chuẩn mực chung về ứng xử văn hóa. Trong quy chế hoạt động của mỗi tổ chức hành
nghề hoặc hợp đồng hợp tác giữa các luật sư, cần đưa thêm một số nội dung quy định
trong Luật Luật sư, Quy tắc đạo đức nghề nghiệp và một số tiêu chí ứng xử văn hóa,
nhất là sự ràng buộc về trách nhiệm bảo đảm uy tín nghề nghiệp, các điều cấm và
trách nhiệm về tài sản đối với tổ chức hành nghề luật sư khi xảy ra việc khách hàng
khiếu nại mà tổ chức hành nghề luật sư đã phải giải quyết với khách hàng; nghĩa vụ
mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp luật sư và đóng bảo hiểm xã hội cho các
thành viên của tổ chức hành nghề luật sư.
- Có cơ chế giám sát hiệu quả của Nhà nước, của tổ chức xã hội nghề nghiệp luật
sư và của xã hội nói chung để hoạt động luật sư phát triển trong điều kiện thuận lợi,
phát huy tốt vai trò là động lực cho sự phát triển của nghề luật sư và thị trường dịch vụ
pháp lý.
3.6 Giải pháp nâng cao khả năng hội nhập quốc tế
- Trong các lớp đào tạo cấp chứng chỉ hành nghề luật sư, ngoài nội dung có tính
chất kỹ năng nghề nghiệp thì phải cung cấp thêm những kiến thức như: thương mại,
tư pháp quốc tế, kinh nghiệm giải quyết các vụ tranh chấp và những vấn đề liên quan
đến yếu tố nước ngoài....
- Hiện nay, có nhiều văn phòng luật sư, công ty luật sư nước ngoài đăng ký hoạt
động tại Việt Nam. Thông qua hợp tác và thực tập tại các văn phòng này, các luật sư
Việt Nam sẽ có điều kiện học hỏi, trao đổi và tham gia vào các vụ việc giải quyết
tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài. Xây dựng phương án chọn lựa một số
luật sư giỏi, có khả năng ngôn ngữ để gửi đi đào tạo ngắn hạn để về phục vụ cho đất

nước.
- Luật sư phải căn cứ vào lĩnh vực chuyên sâu hành nghề của mình để cập nhật
kiến thức pháp luật quốc tế và các kiến thức ngoại ngữ, tin học. Điều này sẽ giúp cho

20


Thực trạng về chất lượng luật sư Việt Nam hiện nay và những giải pháp để nâng cao chất lượng

luật sư hướng tới cơ hội tham gia tranh tụng tốt tại các phiên toà của các vụ việc có
yếu tố nước ngoài hay xét xử tại nước ngoài.
- Cần xây dựng chiến lược dài hạn nhằm phát triển đội ngũ luật sư chuyên
nghiệp ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, tạo điều kiện cho các luật sư
tham gia nhiều hơn vào việc hòa giải và xử lý các loại hình tranh chấp trong nội bộ
nhân dân, các tranh chấp kinh tế, giải quyết các mâu thuẫn trong xã hội, đồng thời
khuyến khích cho phép các tổ chức hành nghề và cá nhân luật sư thành lập các chi
nhánh ở nước ngoài, tham gia cạnh tranh trên thị trường dịch vụ pháp lý quốc tế, tăng
cường giám sát hoạt động của các tổ chức luật sư nước ngoài hành nghề tại Việt Nam.

KẾT LUẬN

21


Thực trạng về chất lượng luật sư Việt Nam hiện nay và những giải pháp để nâng cao chất lượng

Phải khách quan mà nói rằng, chất lượng luật sư Việt Nam hiện nay chưa được
hoàn chỉnh, cần phải nỗ lực rất nhiều thì mới đáp ứng được nhu cầu xã hội. Đất nước
ta hiện nay đang thiếu một đội ngũ luật sư chuyên nghiệp có thể đáp ứng những yêu
cầu cơ bản của hội nhập kinh tế quốc tế. Đội ngũ luật sư còn có những hạn chế về

chuyên môn, kỹ năng, giao tiếp… đặc biệt là tình trạng yếu về trình độ Anh ngữ, kém
tính chuyên nghiệp, thiếu kiến thức về pháp luật quốc tế. Bên cạnh đó, tình trạng thiếu
minh bạch trong hoạt động, vi phạm nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp, thực hiện
những hành vi trái quy định của pháp luật vẫn tồn tại.
Tuy nhiên, hoạt động nghề nghiệp luật sư trong thời gian qua đã góp một phần
đáng kể trong việc lành mạnh hóa các quan hệ xã hội, hóa giải các tranh chấp, dân chủ
hóa hoạt động tố tụng. Đó là kết quả của những nỗ lực không ngừng của bản thân giới
luật sư trong quá trình hoàn thiện kỹ năng, nghiệp vụ và xây dựng vị trí trên cơ sở uy
tín, đạo đức nghề nghiệp.
Tóm lại, trong giai đoạn mới của quá trình hội nhập quốc tế, chất lượng của đội
ngũ luật sư là một vấn đề đang được toàn xã hội quan tâm. Danh tiếng của luật sư do
chính luật sư tạo dựng từ trình độ chuyên môn, kỹ năng và đạo đức nghề
nghiệp… Việc phát triển nghề luật sư, nâng cao chất lượng đội ngũ luật sư trong bối
cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và cải cách tư pháp nước ta, cần thực hiện đồng bộ
nhiều giải pháp theo định hướng, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước,
đồng thời cần sự quan tâm sâu sắc của xã hội, Liên đoàn luật sư Việt Nam và những
đóng góp, nỗ lực của chính đội ngũ luật sư Việt Nam chúng ta./.

22


Thực trạng về chất lượng luật sư Việt Nam hiện nay và những giải pháp để nâng cao chất lượng

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 Danh mục văn bản quy phạm pháp luật
Luật luật sư năm 2006.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật luật sư năm 2012.
Quyết định số 123/QĐ-TTg ngày 18/01/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
Đề án “Phát triển đội ngũ luật sư phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế từ năm 2010 đến

năm 2020”.
Quyết định số 1072/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 05 tháng 7 năm 2011
phê duyệt chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020.
Báo cáo số 46/BC-BTP của Bộ Tư pháp ngày 06/3/2012 tổng kết 5 năm thi hành
luật Luật sư.
Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam ban hành kèm theo Quyết
định số 68/QĐ-HĐLSTQ ngày 20 tháng 7 năm 2011 của Hội đồng luật sư toàn quốc.
 Danh mục sách, báo, tạp chí
Giáo trình Luật sư và nghề luật sư của Học viện Tư pháp năm 2014.
Ths.LS Đinh Văn Quế , Phát triển nghề luật sư: Còn nhiều rào cản, Góc của Đinh
Văn Quế, Nhà xuất bản Lao Động, 2016, tr 95.
 Danh mục trang thông tin điện tử
TS. Nguyễn Văn Tuân, Bàn về khái niệm luật sư và thẩm quyền công nhận luật
sư, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, 2013, [22/8/2017]
Trần Thị Túy, Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ Luật sư Việt Nam, Trang
thông tin điện tử Bộ Tư pháp, 2014, [31/8/2017]
Nguyễn Văn Tiếp, Nâng cao vị trí, vai trò đội ngũ luật sư đáp ứng yêu cầu cải
cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế, Tạp chí cộng sản, 2016,
[06/9/2017]
Một số trang thông tin điện tử chính thức của Việt Nam.
23



×