Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Các phương thức giải quyết tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu hàng hóa – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng theo quy định của pháp luật Việt Nam (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 108 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ

CÁC PHƢƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU HÀNG
HÓA - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ÁP
DỤNG THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh

NGUYỄN PHƢƠNG QUỲNH

Hà Nội – 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ

CÁC PHƢƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU HÀNG
HÓA - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ÁP
DỤNG THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Ngành : Kinh doanh
Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh
Mã số: 8340101


HỌ TÊN HỌC VIÊN: NGUYỄN PHƢƠNG QUỲNH
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN MINH THƢ

Hà Nội - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các tài
liệu trích dẫn theo các nguồn công bố. Kết quả nêu trong Luận văn là trung thực và
nội dung của Luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào.

Tác giả

Nguyễn Phương Quỳnh


LỜI CẢM ƠN
Luận văn “Các phương thức giải quyết tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ đối
với nhãn hiệu hàng hóa – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng theo quy
định của pháp luật Việt Nam” là kết quả của quá trình cố gắng của bản thân và
được sự giúp đỡ, động viên khích lệ của các thầy cô, bạn bè đồng nghiệp và người
thân. Qua trang viết này tác giả xin gửi lời cảm ơn tới những người đã giúp đỡ tôi
trong thời gian học tập - nghiên cứu khoa học vừa qua.
Tôi xin tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đối với TS. Nguyễn Minh Thư đã
trực tiếp tận tình hướng dẫn cũng như cung cấp tài liệu thông tin khoa học cần thiết
cho luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo trường Đại học Ngoại thương, khoa Sau
đại học đã tạo điều kiện cho tôi hoàn thành tốt công việc nghiên cứu khoa học của
mình.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo và đồng nghiệp tại Cục Sở

hữu trí tuệ đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện Luận văn.
Hà Nội, ngày 30 tháng 03 năm 2018

Tác giả

Nguyễn Phương Quỳnh


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH
DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LUẬN VĂN
LỜI MỞ ĐẦU
CHƢƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÁC PHƢƠNG THỨC GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU HÀNG
HÓA ............................................................................................................................7
1.1. Tổng quan về quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu hàng hóa ...............7
1.1.1. Khái quát về nhãn hiệu hàng hóa ........................................................7
1.1.1.1. Khái niệm và đặc điểm ...................................................................7
1.1.1.2. Phân loại nhãn hiệu hàng hóa .....................................................13
1.1.2. Khái quát về quyền sở hữu trí tuệ ......................................................15
1.1.3. Khái quát về quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu hàng hóa .......16
1.2. Tổng quan về các phương thức giải quyết tranh chấp quyền sở hữu trí
tuệ đối với nhãn hiệu hàng hóa ........................................................................19
1.2.1. Khái quát về tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu hàng
hóa..................................................................................................................19
1.2.1.1. Khái niệm về tranh chấp ..............................................................19
1.2.1.2. Khái niệm về tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn

hiệu hàng hóa .............................................................................................20
1.2.1.3. Phân loại tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu ..22
1.2.2. Khái quát về các phương thức giải quyết tranh chấp quyền sở hữu
trí tuệ đối với nhãn hiệu hàng hóa ...............................................................24
1.2.2.1 Khái niệm giải quyết tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ đối với
nhãn hiệu ....................................................................................................24


1.2.2.2. Các phƣơng thức giải quyết tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ
đối với nhãn hiệu hàng hóa .......................................................................25
CHƢƠNG II: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CÁC PHƢƠNG
THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ ĐỐI VỚI
NHÃN HIỆU HÀNG HÓA THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
...................................................................................................................................34
2.1. Thực trạng quy định pháp luật về các phương thức giải quyết tranh chấp
quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu hàng hóa tại Việt Nam ......................34
2.1.1. Luật quốc tế .........................................................................................34
2.1.2. Nhóm quy định chung ........................................................................38
2.1.3. Nhóm quy định riêng ...........................................................................39
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về giải quyết tranh chấp quyền sở hữu trí
tuệ đối với nhãn hiệu hàng hòa theo quy định của pháp luật Việt Nam ........42
2.2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về các phương thức giải quyết tranh
chấp quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu hàng hóa thông qua các cơ
quan nhà nước tại Việt Nam ........................................................................42
2.2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về các phương thức giải quyết tranh
chấp quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu hàng hóa ngoài các cơ quan
nhà nước tại Việt Nam ..................................................................................53
2.2.3. Đánh giá chung thực tiễn áp dụng pháp luật đối với các phương
thức giải quyết tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu hàng
hóa tại Việt Nam ............................................................................................59

2.2.3.1. Những điểm đã đạt đƣợc..............................................................64
2.2.3.2 Hạn chế còn tồn tại ........................................................................66
2.2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế còn tồn tại .........................................72


CHƢƠNG III: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ ÁP DỤNG
MỘT CÁCH HỢP LÝ CÁC PHƢƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU HÀNG HÓA TẠI VIỆT
NAM .........................................................................................................................73
3.1. Định hướng nhằm hoàn thiện pháp luật và áp dụng một cách hợp lý các
phương thức giải quyết tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu
hàng hóa tại Việt Nam ......................................................................................73
3.2. Giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và áp dụng một cách hợp lý các
phương thức giải quyết tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu
hàng hóa tại Việt Nam ......................................................................................74
3.2.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật về các phương thức giải quyết
tranh chấp quyền SHTT đối với NHHH ..........................................................74
3.2.2. Nhóm giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động áp dụng một cách hợp lý
các phương thứ giải quyết tranh chấp quyền SHTT đối với NHHH ..............74
3.3. Kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và áp dụng một cách hợp lý các
phương thức giải quyết tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu
hàng hóa tại Việt Nam ......................................................................................75
3.3.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam quy định về các phương thức
giải quyết tranh chấp quyền SHTT đối với NHHH .........................................75
3.3.2. Kiến nghị đẩy mạnh hoạt động áp dụng một cách hợp lý các phương
thức giải quyết tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu hàng hóa
............................................................................................................................81
KẾT LUẬN ..............................................................................................................93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................96



DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH

Bảng 2.1: Số liệu thực thi và giải quyết tranh chấp quyền SHTT của các bộ, ngành .....43
Bảng 2.2: Số vụ vi phạm và số tiền phạt vụ việc xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
đối với nhãn hiệu hàng hóa 2012 – 2016 ..................................................................44
Hình 2.1: Sơ đồ mối quan hệ giữa các biện pháp thực thi ........................................62


DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT

1.

SHTT

Sở hữu trí tuệ

2.

SHCN

Sở hữu công nghiệp

3.

CQQLNN

Cơ quan quản lý nhà nước

4.


LSHTT

Luật Sở hữu trí tuệ

5.

BLDS

Bộ Luật Dân sự

6.

LTM

Luật Thương mại

7.

BLTTDS

Bộ Luật Tố tụng dân sự


TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LUẬN VĂN
Nhãn hiệu ra đời xuất phát từ nhu cầu trao đổi hàng hóa của con người, không
chỉ để phục vụ cho nhu cầu của chính bản thân mình mà còn đủ để trao đổi với
người khác, thậm chí mở rộng hoạt động trao đổi ra khỏi giới hạn khu vực nơi mình
sinh sống. Cùng với sự phát triển không ngừng của nền sản xuất hàng hóa trong giai
đoạn hiện nay, quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu trở lên nổi bật hơn cả trong hệ

thống bảo hộ sở hữu trí tuệ. Nhãn hiệu hàng hóa chính là công cụ giúp người tiêu
dùng phân biệt được sản phẩm và dịch vụ của nhà sản xuất này với nhà sản xuất
khác. Chính vì thế, nhãn hiệu có một vai trò vô cùng quan trọng, góp phần tạo nên
thương hiệu của sản phẩm, dịch vụ trong lòng người tiêu dùng. Tuy nhiên kéo theo
đó, tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu xảy ra ngày càng phổ biến và
với mức độ tinh vi, phức tạp ngày càng tăng.
Luận văn đã phân tích từ bản chất quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền sở
hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu hàng hóa nói riêng. Để từ đó, đưa ra những nhận định
về các cách phân loại tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu và các
phương thức giải quyết tranh chấp tương ứng. Luận văn cũng đưa ra thực tiễn áp
dụng pháp luật vào các phương thức giải quyết tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ tại
một số quốc gia trên thế giới để so sánh với Việt Nam. Đồng thời, trong quá trình
nghiên cứu, qua việc phân tích số liệu và một số vụ việc đã và đang trong quá trình
giải quyết tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu hàng hóa, để rút ra
những kết luận về những điểm đã đạt được và những điểm còn tồn tại, hạn chế về
pháp luật quy định cũng như hoạt động áp dụng các phương thức giải quyết tranh
chấp nêu trên. Kết thúc, luận văn đã đưa ra các kiến nghị cụ thể xây dựng và hoàn
thiện pháp luật Việt Nam hiện nay về giải quyết tranh chấp nhãn hiệu cũng như thực
tiễn thực thi pháp luật điều chỉnh có liên quan.


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự phát triển của nhân loại, hoạt động sáng tạo của trí tuệ con người
đã tạo nên lịch sử thế giới và ngày càng góp phần quan trọng vào quá trình phát
triển kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia. Với những thành quả sáng tạo và đổi mới
không ngừng, sở hữu trí tuệ tồn tại ở mọi nơi xung quanh chúng ta. Mọi sản phẩm
hay dịch vụ mà chúng ta sử dụng trong cuộc sống hằng ngày đều là kết quả của một

chuỗi sáng tạo, dù là lớn hoặc nhỏ. Nhằm kích thích sự sáng tạo và đẩy mạnh việc
ứng dụng, khai thác thành quả của hoạt động sáng tạo, đóng góp cho sự thịnh vượng
chung của xã hội, một chế định quyền tài sản trí tuệ đã được tạo lập nhằm mục tiêu
chủ yếu là xác lập và bảo vệ quyền của đối tượng. Qua thời gian, tài sản trí tuệ đã
được mở rộng và xác định khái quát bao gồm nhưng không giới hạn ở nhãn hiệu,
các tác phẩm khoa học, văn học, nghệ thuật, các sáng chế, phát minh, kiểu
dáng công nghiệp...
Cùng với sự phát triển không ngừng của nền sản xuất hàng hóa trong giai đoạn
hiện nay, quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu trở lên nổi bật hơn cả trong hệ
thống bảo hộ sở hữu trí tuệ. Nhãn hiệu hàng hóa chính là công cụ giúp người tiêu
dùng phân biệt được sản phẩm và dịch vụ của nhà sản xuất này với nhà sản xuất
khác. Chính vì thế, nhãn hiệu có một vai trò vô cùng quan trọng, góp phần tạo nên
thương hiệu của sản phẩm, dịch vụ trong lòng người tiêu dùng. Tuy nhiên kéo theo
đó, tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu xảy ra ngày càng phổ biến và
với mức độ tinh vi, phức tạp ngày càng tăng. Trong khi hình thức tranh chấp này là
một loại tranh chấp đặc thù và mặc dù xảy ra rất nhiều, nhưng việc giải quyết trên
thực tế gặp rất nhiều khó khăn. Thực tiễn đã có nhiều vụ việc tranh chấp diễn ra
trong một thời gian dài nhưng vẫn chưa thể được giải quyết hoặc chưa được giải
quyết thỏa đáng, dẫn đến việc quyền lợi của chủ sở hữu nhãn hiệu hợp pháp bị ảnh
hưởng trầm trọng. Vì vậy, vấn đề xử lý tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn
hiệu hang hóa là một trong những nội dung hết sức quan trọng nhằm đảm bảo quyền
sở hữu trí tuệ được thực thi một cách có hiệu quả, bảo vệ quyền lợi tối đa cho chủ
sở hữu nhãn hiệu, tạo điều kiện giúp họ khai thác tối đa lợi ích từ nhãn hiệu của
mình trong hoạt động sản xuất kinh doanh.


2

Trước đòi hỏi tất yếu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế, Việt Nam đã và đang không ngừng nỗ lực xây dựng những hành lang pháp

lý quy định về quyền sở hữu trí tuệ. Đặc biệt, phải kể đến LSHTT Việt Nam năm
2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của LSHTT ban hành năm 2009. Tại hai
văn bản luật này, các vấn đề chủ yếu của quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền
đối với nhãn hiệu nói riêng đã được đề cập tới một cách tương đối đầy đủ. Các chủ
thể quyền có quyền tự bảo vệ trước các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của
mình. Theo đó, chủ sở hữu quyền nhãn hiệu có thể lựa chọn nhiều phương thức
khác nhau, kể cả khởi kiện ra tòa án để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của mình. Tuy
nhiên, LSHTT năm 2005 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) chưa đề cập một cách
thỏa đáng tới vấn đề giải quyết tranh chấp, nhất là các hình thức giải quyết tranh
chấp cũng như trình tự, thủ tục tiến hành giải quyết tranh chấp về sở hữu trí tuệ nói
chung và nhãn hiệu nói riêng. Ngoài ra, BLTTDS năm 2015, Luật Trọng tài
Thương mại năm 2010, Luật Cạnh tranh năm 2005 và pháp luật xử lý vi phạm hành
chính chỉ quy định về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp tương ứng tại tòa án,
trọng tài thương mại và cơ quan tiến hành tố tụng cạnh tranh. Vì vậy trên thực tế, số
lượng vụ án tranh chấp về quyền nhãn hiệu được giải quyết tại Tòa án chiếm một tỷ
lệ rất nhỏ so với thực trạng các vụ tranh chấp. Thực tế này do những hạn chế, bất
cập trong thủ tục giải quyết tại Tòa án hiện nay như thời gian kéo dài, năng lực giải
quyết của tòa án đối với các tranh chấp sở hữu trí tuệ còn hạn chế… mà các bên
thường không chọn Tòa án để giải quyết khi có tranh chấp nhãn hiệu xảy ra. Ngược
lại, các phương thức giải quyết ngoài tòa án, bao gồm cả biện pháp hành chính với
những ưu việt như nhanh chóng, đơn giản, chi phí thấp và hiệu quả cũng như duy trì
được mối quan hệ giữa hai bên được lựa chọn nhiều hơn khi xảy ra tranh chấp. Vì
thế, việc nghiên cứu đề tài hi vọng có thể đặt ra những góc nhìn sâu hơn vào những
phương thức giải quyết tranh chấp khác nhau mà chủ sở hữu nhãn hiệu có thể lựa
chọn khi có tranh chấp xảy ra. Đó là lý do để đề tài “Các phương thức giải quyết
tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu hàng hóa – Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn áp dụng theo quy định của pháp luật Việt Nam” được tác giả lựa
chọn làm đề tài nghiên cứu. Do thời gian nghiên cứu còn hạn chế, luận văn không



3

tránh khỏi những sai sót nhất định, tác giả rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến
của các thầy cô và các nhà nghiên cứu. Xin chân thành cảm ơn!
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Trong thời gian khoảng một thập kỷ trở lại đây, ngày càng xuất hiện nhiều
hơn những công trình nghiên cứu, bài báo viết về các khía cạnh của bảo hộ quyền
SHTT nói chung và quyền SHCN với nhãn hiệu hàng hóa nói riêng. Bên cạnh đó,
các vấn đề giải quyết tranh chấp thương mại nói chung và tranh chấp quyền sở hữu
trí tuệ nói chung cũng ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên
cứu và xã hội. Có thể kể tới một vài công trình nghiên cứu như: Xử lý xâm phạm
nhãn hiệu hàng hóa theo Pháp luật Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viên
Khoa học và Xã hội – Viện Hàn lâm Khoa học Việt Nam, 2015 của Nguyễn Xuân
Quang; Xây dựng va hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp đối với các quan hệ
thương mại trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viên
Khoa học và Xã hội – Viện Hàn lâm Khoa học Việt Nam, 2012 của Dương Quỳnh
Hoa; Cơ chế giải quyết tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ của Nhật Bản: Gợi mở đối
với Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và Pháp Luật, Viện Nhà nước và pháp luật, số
03/2015 của Đỗ Thị Minh Thủy. Nhìn chung, các nghiên cứu trong nước về các
phương thức giải quyết tranh chấp quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hóa là chưa
có nhiều. Các nghiên cứu chỉ tập trung vào việc bình luận, đánh giá từng sự vụ, vụ
việc cụ thể, hoặc đề cập tới với một dung lượng nhỏ. Bên cạnh đó, các nghiên cứu
chưa đưa ra những đánh giá cụ thể cũng như một cái nhìn toàn diện tổng quan về
các phương thức giải quyết tranh chấp khác nhau đối với nhãn hiệu hàng hóa.
3. Mục đích, đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ những lý luận của pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ đối với
nhãn hiệu nói riêng và các cơ chế giải quyết tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ đối với
nhãn hiệu để từ đó đưa ra các kiến nghị và thực hành liên quan nhằm:
- Góp phần đưa ra kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam hiện

hành về các phương thức giải quyết tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn
hiệu hàng hóa và;


4

- Đề xuất những kiến nghị nhằm áp dụng một cách hợp lý các phương thức
giải quyết tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu hàng hóa.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của luận văn là các phương thức giải quyết
tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu hàng hóa, được phân tích đánh giá
dựa trên một số vấn đề lý luận và thực tiễn, thông qua các vụ việc và tình huống
tranh chấp xảy ra trên thực tế có liên quan.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung, khi nhắc đến tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu
hàng hóa, thực ra có thể bao gồm rất nhiều trường hợp xung đột có liên quan như
xung đột giữa một nhãn hiệu hay hai hay nhiều nhãn hiệu trùng hoặc tương tự gây
nhầm lẫn, xung đột giữa nhãn hiệu hàng hóa với tên thương mại, xung đột giữa
nhãn hiệu hàng hóa và tên miền, xung đột giữa nhãn hiệu hàng hóa và kiểu dáng
công nghiệp, xung đột giữa nhãn hiệu hàng hóa và quyền tác giả. Trong phạm vi
nghiên cứu có hạn của tác giả, luận văn tập trung vào phân tích và đề cập tới những
tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu hàng hóa, liên quan tới những
xung đột giữa một nhãn hiệu hoặc hai nhãn hiệu trùng hoặc tương tự, gây nhầm lẫn.
Về thời gian, khi nghiên cứu thực tiễn về pháp luật Việt Nam liên quan đến
tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu hàng hóa, luận văn chủ yếu tập
trung phân tích thực tiễn trong giai đoạn sau năm 2012 đến nay. Khi đề xuất định
hướng và giải pháp, luận văn đã đưa ra những ý kiến để hoàn thiện luận văn từ nay
đến năm 2020, thậm chí xa hơn nữa khi Việt Nam đang đứng trước những yêu cầu
hội nhập kinh tế quốc tế, và tất nhiên pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn
hiệu cũng cần có những thay đổi hài hòa.

Về không gian, những nội dung liên quan đến thực tiễn thực thi pháp luật
được giới hạn nghiên cứu trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Việc lấy ví dụ và phân
tích vụ việc cũng không vì thế mà giới hạn những chủ thể nước ngoài có tham gia
vào mối quan hệ kinh tế với Việt Nam, dẫn đến phát sinh mâu thuẫn và xung đột về
quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu hàng hóa. Ngoài ra, luận văn cũng có sự đan
xen học hỏi những kinh nghiệm pháp luật quốc tế như Hoa Kỳ, Nhật Bản,


5

Đức…nhằm giải quyết những bất cập và nâng cao hiệu quả áp dụng và thực thi
pháp luật tại Việt Nam.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để làm rõ các vấn đề được nghiên cứu trong bài, tác giả cũng đã sử dụng
những phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp phân tích và tổng hợp,
phương pháp lý luận kết hợp với thực tiễn, phương pháp hệ thống hóa, phương pháp
tổng hợp ý kiến chuyên gia, phương pháp phân tích tình huống…Cụ thể:
* Phương pháp phân tích và tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng trong
tất cả các chương của luận án. Cụ thể là được sử dụng để đi sâu vào tìm tòi, trình
bày các học thuyết nền tảng lý luận, các quan điểm về hàng hóa, quyền sở hữu trí
tuệ đối với nhãn hiệu, các loại tranh chấp và giải quyết tranh chấp quyền sở hữu trí
tuệ đối với nhãn hiệu, thực tiễn thực thi pháp pháp luật đối với các phương thức giải
quyết tranh chấp (Chương 1, Chương 2), rồi từ đó rút ra các đề xuất định hướng các
đề xuất các kiến nghị và giải pháp phù hợp;
* Phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn: phương pháp này được sử dụng ở
tất cả các chương của luận văn. Cụ thể, phương pháp được sử dụng để đi sâu tìm
tòi, trình bày các nền tảng lý luận về quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu, các loại
tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu và các phương thức giải quyết
tranh chấp, kết hợp với việc phân tích thực tiễn thực thi quyền sở hữu trí tuệ đối với
nhãn hiệu, thông qua việc phân tích một số vụ việc để thấy rõ được những điểm đã

đạt được và những điểm bất cập của thực tiễn thực thi quyền và giải quyết tranh
chấp đối với quyền này;
* Phương pháp hệ thống hóa: phương pháp này được sử dụng xuyên suốt
trong toàn bộ luận văn, nhằm mục đích trình bày các vấn đề, các nội dung theo một
trình tự hợp lý, bố cục chặt chẽ để xây dựng, kế thừa và phát triển các mục đích và
yêu cầu đã được xác định cho luận văn;
* Phương pháp phân tích tình huống: phương pháp được sử dụng dựa trên sự
phân tích một số vụ việc xảy ra trên thực tiễn hoặc đã được xét xử tại tòa án, được
giải quyết tại các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam…
(Chương 2) nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm hoàn thiện pháp luật Việt Nam
và thực tiễn thực thi pháp luật (Chương 3);


6

* Phương pháp tổng hợp ý kiến chuyên gia: luận văn có sử dụng phương pháp
tập hợp ý kiến của các chuyên gia trong lĩnh vực thi hành và áp dụng pháp LSHTT
tại các Cơ quan nhà nước, các luật sư, nhà giáo trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ
(Chương 2, Chương 3).
5. Tính mới của đề tài
Trong quá trình nghiên cứu, các kết quả thu được gồm có: phân loại tranh
chấp nhãn hiệu; đánh giá ưu điểm và bất cập của các phương thức giải quyết tranh
chấp đối với nhãn hiệu hàng hóa ở Việt Nam hiện nay. Luận văn cũng đưa ra các
kiến nghị cụ thể xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam hiện nay về giải quyết
tranh chấp nhãn hiệu cũng như thực tiễn thực thi pháp luật điều chỉnh có liên quan
cũng như các kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng các phương
thức giải quyết tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu hàng hóa tại Việt
Nam.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính

của Luận văn được kết cấu thành ba chương.
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về các phương thức giải quyết tranh chấp quyền sở
hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu hàng hóa
Chƣơng 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật về các phương thức giải quyết tranh
chấp quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu hàng hóa theo quy định của pháp luật
Việt Nam
Chƣơng 3: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật và áp dụng một cách hợp lý các
phương thức giải quyết tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu hàng hóa
tại Việt Nam


7

CHƢƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÁC PHƢƠNG THỨC GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU HÀNG HÓA
1.1. Tổng quan về quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu hàng hóa
1.1.1. Khái quát về nhãn hiệu hàng hóa
1.1.1.1. Khái niệm và đặc điểm
Thế giới mà chúng ta đang sống ngày nay đang bước vào một thời kỳ bùng nổ
với hàng trăm, hàng nghìn loại sản phẩm và dịch vụ mới được phát triển từng giờ.
Hàng hóa đóng một bộ phận quan trọng của nền kinh tế. Trong kinh tế chính trị
Mác-Lenin, hàng hóa cũng được định nghĩa là sản phẩm của lao động thông qua
trao đổi, mua bán. Hàng hóa có thể là hữu hình như sắt thép, quyển sách hay ở dạng
vô hình như sức lao động. Khi nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa,
C. Mác bắt đầu từ hàng hoá. Bởi vì, một mặt, sản xuất tư bản chủ nghĩa, trước hết là
sản xuất hàng hoá đã phát triển cao, trong đó hàng hoá là "tế bào kinh tế của xã hội
tư sản". Muốn nghiên cứu "một cơ thể đã phát triển" thì phải bắt đầu từ "tế bào của
cơ thể đó" (C. Mác và Ph. Ăngghen, 1993, tr.221). Trong từ điển tiếng Việt, hàng
hóa cũng được định nghĩa là “sản phẩm do lao động làm ra được mua bán trên thị
trường” (Từ điển tiếng Việt, 2002).

Trong khía cạnh thương mại, hàng hóa được hiểu là những thứ hữu ích và
hữu hình được tạo ra từ quá trình sản xuất nông nghiệp, xây dựng, sản xuất hoặc
khai khoáng. Theo Công ước của liên hợp quốc về mua bán hàng hóa quốc tế, khái niệm
“hàng hóa” không bao gồm (1) những đồ dùng cho cá nhân, (2) những vật phẩm được mua
từ buổi đấu giá hoặc buổi bán hàng hóa bị tịch biên để trả nợ (3) máy bay hoặc tàu thuyền đi
lại trên biển.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu được một trong những đặc điểm quan trọng
nhất của hàng hóa chính là phải được tạo ra bằng sức lao động của con người và
phải được trao đổi mua bán trên thị trường. Điều này là rất quan trọng để phân biệt
được đâu không phải là hàng hóa và đâu là đối tượng nghiên cứu của luận văn.
Như vậy, sau khi tìm hiểu một vài khái niệm và định nghĩa về hàng hóa, có thể
khẳng định hàng hóa có hai giá trị: Một là, giá trị sử dụng của hàng hóa là ích dụng
của hàng hóa thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người. Và chính vì giá trị sử dụng


8

đó mà con người mong muốn và nỗ lực muốn có được hàng hóa. Một hàng hóa có
thể có một công dụng hay nhiều công dụng nên nó có thể có nhiều giá trị sử dụng
khác nhau. Hai là, giá trị của hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất hàng
hóa kết tinh trong hàng hóa. Cả quần áo và thóc lúa đều là sản phẩm của quá trình
sản xuất thông qua lao động, là sản phẩm của lao động, có lao động kết tinh vào
trong đó. Có sự chi phí về thời gian, sức lực và trí tuệ của con người khi sản xuất
chúng. Như vậy những vật phẩm mà không chứa đựng hoặc được tạo nên bởi quá
trình lao động của con người sẽ không được coi là hàng hóa.
Xuất phát từ nhu cầu trao đổi hàng hóa của con người, nhãn hiệu ra đời. Từ
thời cổ đại, từ khi con người bắt đầu sản xuất tạo ra sản phẩm, không chỉ để phục vụ
cho nhu cầu của chính bản thân mình mà còn đủ để trao đổi với người khác, thậm
chí mở rộng hoạt động trao đổi (tiền thân của hoạt động thương mại) ra khỏi giới
hạn khu vực nơi mình sinh sống. Các thợ thủ công Ấn Độ, cách đây 3000 năm

trước, đã sử dụng chữ ký của mình để đánh dấu lên trên các sản phẩm nghệ thuật
của mình để phân biệt với các thợ thủ công khác, trước khi gửi hàng hóa sang Iran.
Những nhà sản xuất từ Trung Quốc cũng sử dụng những ký hiệu của riêng mình
trên hàng hóa buôn bán tại thị trường Địa Trung Hải từ cách đây hơn 2000 năm
(WIPO 2004, tr.67). Với sự phát triển cường thịnh của hoạt động thương mại, việc
sử dụng những dấu hiệu để phân biệt hàng hóa của các thương nhân hoặc các nhà
sản xuất khác nhau cũng vì thế ngày càng phổ biến.
Nền kinh tế thế giới càng phát triển, đồng hành cùng sự tiến bộ của khoa học
và công nghệ, hàng ngày có rất nhiều hàng hóa mới xuất hiện trên thị trường. Song
song với đó là cũng có rất nhiều yếu tố sẽ ảnh hưởng đến quyết định mua hàng của
khách hàng, từ chất lượng sản phẩm, dịch vụ, bao bì mẫu mã, giá cả, khuyến mãi,
dịch vụ khách hàng, và quan trọng là những ấn tượng trong tâm trí của khách hàng
về sản phẩm và dịch vụ đó. Ấn tượng đó sẽ được lưu giữ và khắc họa thông qua tên
gọi, hình ảnh, kiểu dáng, màu sắc, hương vị, mùi hương…gắn liền với sản phẩm và
dịch vụ. Đó chính là “Nhãn hiệu của sản phẩm”. Nhãn hiệu được nhìn thấy trên hầu
hết các sản phẩm, gắn trên bản mô tả sản phẩm và bao bì sản phẩm. Là khách hàng,
chúng ta có thể đưa ra nhiều quyết định, đôi khi những quyết định đó được đưa ra
theo ý chí chủ quan, thậm chí chẳng cần nhìn thấy sản phẩm, mà dựa vào danh tiếng


9

và uy tín của nhãn hiệu. Theo thời gian, những trải nghiệm tốt về sản phẩm sẽ tạo
nên “thương hiệu” của sản phẩm, dịch vụ. Điều này giúp lưu lại hình ảnh của doanh
nghiệp trong tâm trí khách hàng. Nếu hài lòng với sản phẩm của doanh nghiệp,
khách hàng sẽ tin tưởng thương hiệu đó và dần dần, họ trở thành khách hàng trung
thành đối với sản phẩm của doanh nghiệp. Cùng với sự phát triển của kinh tế hàng
hóa, đặc biệt là sự phát triển của nền kinh tế thị trường tiền tư bản, nhãn hiệu
chuyển thành một công cụ quan trọng hơn là giúp người mua, người tiêu dùng dễ
dàng phân biệt hàng hóa của một nhà sản xuất này với nhà sản xuất khác, giúp họ

dễ dàng chọn lựa hàng hóa theo nhu cầu và sở thích. Nhãn hiệu do đó dần trở thành
một đối tượng có giá trị, và cụ thể hơn là một tài sản vô hình quan trọng của nhà sản
xuất, giúp làm tăng sức cạnh tranh của hàng hóa mang nhãn hiệu. Thông qua việc
giúp phân biệt các doanh nghiệp với nhau và giữa sản phẩm của doanh nghiệp này
với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh, “nhãn hiệu” đóng vai trò then chốt trong chiến
lược tiếp thị của doanh nghiệp, góp phần tạo dựng hình ảnh và danh tiếng của doanh
nghiệp và sản phẩm của doanh nghiệp đó trong mắt khách hàng.
Thuật ngữ nhãn hiệu hàng hóa được sử dụng lần đầu tiên trong một văn bản
pháp luật quốc tế về bảo hộ quyền Sở hữu công nghiệp là Công ước Paris năm
1886. Tiếp đó, Hiệp ước luật về nhãn hiệu hàng hóa giữa Chính phủ Việt Nam và
Chính phủ các nước được ban hành và thông qua tại Geneva năm 1994 , nhằm mục
tiêu đơn giản hóa và hài hòa hóa các yêu cầu, thủ tục hành chính của hệ thống đăng
ký nhãn hiệu quốc gia và khu vực. Mặc dù, Hiệp ước không đưa ra một khái niệm
cụ thể về nhãn hiệu hàng hóa, tuy nhiên, Hiệp ước đã khẳng định bản chất của nhãn
hiệu “cấu tạo bởi các ký hiệu nhìn thấy được” (điểm a, khoản 1, Điều 2). Các hình
thái cấu tạo khác của nhãn hiệu như nhãn hiệu là hình ảnh ba chiều nếu được bên ký
kết chấp nhận việc đăng ký nhãn hiệu ba chiều, mới bắt buộc phải áp dụng Hiệp
ước này (điểm a, khoản 1, Điều 2). Đối với các nhãn hiệu vô hình, cụ thể là nhãn
hiệu âm thanh và nhãn hiệu mùi sẽ không áp dụng hiệp ước này (điểm b, khoản 1,
Điều 2) (Hiệp ước về Luật nhãn hiệu hàng hóa giữa Chính phủ Việt Nam và Chính
phủ các nước ban hành 1994).
Chỉ đến khi Hiệp định TRIPS – Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới
thương mại của quyền sở hữu trí tuệ được ký kết, khái niệm hoàn chỉnh về nhãn


10

hiệu mới được hình hành. Cụ thể, khoản 1 Điều 15 của Hiệp định có quy định nhãn
hiệu hàng hóa là “Bất kỳ một dấu hiệu, hoặc tổ hợp các dấu hiệu nào, có khả năng
phân biệt hàng hoá hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hoá hoặc dịch vụ

của các doanh nghiệp khác”. Các dấu hiệu có thể bao gồm “các từ, kể cả tên riêng,
các chữ cái, chữ số, các yếu tố hình hoạ và tổ hợp các mầu sắc cũng như tổ hợp bất
kỳ của các dấu hiệu” và “Các Thành viên có thể quy định rằng điều kiện để được
đăng ký là các dấu hiệu phải là dấu hiệu nhìn thấy được”. Bên cạnh đó, Hiệp định
cũng đưa ra một quan điểm tương đối mới đối với một số trường hợp bản thân các
dấu hiệu không có khả năng phân biệt hàng hoá hoặc dịch vụ tương ứng thì “các
Thành viên có thể quy định rằng khả năng được đăng ký phụ thuộc vào tính phân
biệt đạt được thông qua việc sử dụng” (Khoản 1, Điều 15 Hiệp định về các khía
cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ).
Theo định nghĩa của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) thì nhãn hiệu là
“các dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ cùng loại hoặc tương tự của các
cơ sở sản xuất, kinh doanh khác nhau” ( Thêm
vào đó, WIPO cũng đưa ra những loại dấu hiệu có thể được đăng ký với tư cách là
một nhãn hiệu là “Một từ hoặc sự kết hợp của các từ, chữ, số” và cũng có thể là
“hình vẽ, biểu tượng, hình ảnh ba chiều như hình dáng và bao gói của sản phẩm,
những dấu hiệu không nhìn thấy được như âm thanh và mùi hương hoặc màu sắc
được sử dụng như một đặc điểm phân biệt”. Và một điều quan trọng nhất, WIPO
khẳng định những dấu hiệu này là “không có giới hạn”. Cuốn cẩm nang Sở hữu trí
tuệ của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới WIPO cũng khẳng định: “Nhãn hiệu hàng
hóa là bất kỳ một dấu hiệu nào mà cá biệt hàng hóa của một doanh nghiệp nhất định
và phân biệt chúng với hàng hóa của các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp này”
(WIPO 2004, tr.68). Như vậy, định nghĩa này của cuốn cẩm nang đã một lần nữa
nhấn mạnh vai trò của nhãn hiệu trong mối tương quan với việc cạnh tranh và phát
triển thương mại của các doanh nghiệp.
Trên cơ sở hội nhập nền kinh tế thế giới cũng như tiếp thu các Điều ước Quốc
tế mà Việt Nam là thành viên, LSHTT Việt Nam 2005, được sửa đổi bổ sung năm
2009 đã định nghĩa nhãn hiệu là “dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của
các cá nhân, tổ chức khác nhau” (Trích Điều 4, Điểm 16, LSHTT 2005, sửa đổi bổ



11

sung năm 2009). Tuy nhiên, cũng chính LSHTT năm 2005, sửa đổi bổ sung năm
2009 lại giới hạn những điều kiện để một dấu hiệu có thể được bảo hộ: “Là dấu hiệu
nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều
hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều mầu sắc” (Khoản
1, Điều 72 LSHTT 2005, được sửa đổi bổ sung năm 2009). Việc thu hẹp phạm vi
bảo hộ thực tế gây khó khăn cho quá trình áp dụng thống nhất pháp luật giữa Việt
Nam với các Điều ước quốc tế và pháp luật của các quốc gia khác trên thế giới.
Xem xét trên mặt bằng chung của một số quốc gia và khu vực, nhìn chung, tùy
từng điều kiện phát triển, mỗi quốc gia sẽ có một quy định riêng và khái niệm riêng
về nhãn hiệu. Tại Nhật Bản, một nhãn hiệu là “bất cứ một hoặc nhiều chữ cái, một
hoặc nhiều số, một hay nhiều biểu tượng hoặc hình ảnh ba chiều hoặc sự kết hợp
của tất cả các yếu tố trên” (Article 2 of the Trademark Act), miễn là dấu hiệu đó
phải được sử dụng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của cá nhân, doanh nghiệp.
Còn trong khi đó, tại một số quốc gia khác như Hoa Kỳ hay Australia, âm thanh và
mùi vị có thể được đăng ký để được bảo hộ với tư cách là một nhãn hiệu (Đinh Văn
Thanh, Đinh La Hằng 2004, tr.86).
Trong xu thế phát triển chung của nền khoa học và công nghệ, sự sáng tạo của
con người dường như đã vượt xa khỏi giới hạn của những điều thông thường mà
chúng ta đã biết, việc hạn chế như vậy sẽ kìm hãm sự phát triển, không khuyến
khích sự sáng tạo của các doanh nghiệp và các nhà sản xuất. Đây chính là một điểm
mà các nhà lập pháp cần xem xét và cân nhắc để điều chỉnh và bổ sung các văn bản
pháp luật trong thời gian sắp tới.
Như vậy, khái quát lại, có thể thấy rằng, dù có một số điểm chưa hoàn toàn
tương đồng giữa pháp luật Việt Nam và các quy định khác của các quốc gia trên thế
giới, nhưng tựu chung lại, các định nghĩa đều phản ánh được chức năng phân biệt
các hàng hóa và dịch vụ của các chủ thể khác nhau. Qua phân tích và nghiên cứu,
tác giả rút ra một định nghĩa về nhãn hiệu là: những dấu hiệu có thể tác động tới
tâm trí và nhận thức của người tiêu dùng và gắn liền với một sản phẩm hoặc dịch vụ

nhất định nào đó và tạo ra lợi thế cạnh tranh trên thị trường của doanh nghiệp.
Qua đó, chúng ta có thể thấy được nhãn hiệu có bốn chức năng: (1) phân biệt
hàng hóa, dịch vụ của các cá nhân, tổ chức khác nhau, (2) đảm bảo chất lượng của
sản phẩm và dịch vụ, (3) chức năng quảng cáo/tiếp thị, (4) chức năng thúc đẩy hoạt


12

động sản xuất. Trong các chức năng này, chức năng quan trọng nhất chính là phân
biệt hàng hóa, dịch vụ của các cá nhân, tổ chức khác nhau. Theo đó, nhãn hiệu giúp
người tiêu dùng nhận ra sản phẩm, dịch vụ để phân biệt với các sản phẩm, dịch vụ
trùng hoặc tương tự từ các đơn vị sản xuất, cung cấp khác nhau. Khách hàng dùng
sẽ căn cứ vào nhãn hiệu để nhận biết sản phẩm, dịch vụ của một nhà sản xuất, nhà
cung cấp, làm cơ sở để so sánh chất lượng, giá thành các sản phẩm, dịch vụ cùng
loại được cung cấp bởi những nhà sản xuất, nhà cung cấp khác nhau. Từ đó, khách
dễ dàng ghi nhớ và đưa ra quyết định chọn lựa hoặc từ chối mua các sản phẩm, dịch
vụ từ các nhà sản xuất, nhà cung cấp. Thứ hai, nhãn hiệu cũng đảm nhận một số
chức năng khác như đảm bảo chất lượng của sản phẩm và dịch vụ. Nhãn hiệu được
xem như một phương tiện chỉ dẫn nguồn gốc thương mại một cách hiệu quả và
nhanh chóng. Nhãn hiệu được coi là biểu tượng thương mại của doanh nghiệp. Từ
những nhãn hiệu, người tiêu dùng biết được người sản xuất tạo nên sản phẩm, và
theo đó có thể đánh giá tổng quan chất lượng của sản phẩm/dịch vụ cung cấp. Thậm
chí, khi một nhãn hiệu trở nên có uy tín, người tiêu dùng chỉ cần chọn lựa sản phẩm
mang nhãn hiệu đó mà không quan tâm đến thông tin chi tiết về thành phần tạo nên
sản phẩm do họ hoàn toàn tin tưởng về chất lượng sản phẩm được cung cấp bởi nhà
sản xuất. Thứ ba, nhãn hiệu có chức năng quảng cáo/tiếp thị. Nhãn hiệu giúp doanh
nghiệp phân biệt và định vị sản phẩm của họ đối với sản phẩm của các đối thủ cạnh
tranh. Đây là một vai trò quan trọng trong chiến lược quảng cáo, tiếp thị và xây
dựng hình ảnh. Nhãn hiệu là một cách thức chỉ dẫn cô đọng về sản phẩm, là một sự
giới thiệu ngắn gọn về sản phẩm, nguồn gốc sản phẩm và chất lượng của sản phẩm

đó. Một khi nhãn hiệu được nhiều người tiêu dùng biết đến có nghĩa là thông tin về
sản phẩm đã đi sâu vào tâm trí người tiêu dùng, giúp họ dễ dàng nhận biết và nhớ
đến sản phẩm khi quyết định chọn mua cho nhu cầu của mình. Nhãn hiệu càng trở
nên quen thuộc với người tiêu dùng thì có nghĩa là doanh nghiệp đã thành công
trong hoạt động quảng cáo/tiếp thị sản phẩm của mình trên thị trường. Thứ tư, nhãn
hiệu có chức năng thúc đẩy hoạt động sản xuất. Việc phát triển nhãn hiệu sẽ tạo
động lực cho các nhà sản xuất, nhà cung cấp đầu tư vào việc duy trì hoặc nâng cao
chất lượng sản phẩm, dịch vụ nhằm đầu tư và phát triển nhãn hiệu thành một nhãn
hiệu có uy tín trên thị trường. Khi nhãn hiệu càng được người tiêu dùng biết đến, thì


13

nhà sản xuất/ cung cấp dịch vụ càng chú trọng, quan tâm đến chất lượng sản phẩm,
hạn chế các rủi ro có thể gây ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm, hình ảnh và uy
tín của doanh nghiệp. Đồng thời, nhãn hiệu cũng tạo vị thế cạnh tranh cho doanh
nghiệp, giúp doanh nghiệp dễ dàng nâng cao giá thành sản phẩm của mình trên thị
trường hoặc dễ dàng mở rộng mạng lưới kinh doanh. Như vậy, với những chức
năng trên, nhãn hiệu đóng vai trò rất quan trọng trong chiến lược tiếp thị và phát
triển kinh doanh của doanh nghiệp, góp phần xây dựng hình ảnh và uy tín của
doanh nghiệp trên thị trường, tạo niềm tin và gắn kết người tiêu dùng với sản phẩm
và doanh nghiệp.
Hiểu rõ hơn về khái niệm, chức năng của nhãn hiệu cũng như phân biệt được
nhãn hiệu và thương hiệu sẽ giúp cho chúng ta có được một cách đánh giá chính xác
và khách quan đối với những nội dung nghiên cứu sau đây trong khóa luận
1.1.1.2. Phân loại nhãn hiệu hàng hóa
Nếu dựa vào dấu hiệu được sử dụng để tạo thành nhãn hiệu, chúng ta có thể
thấy được nhãn hiệu có thể được tạo thành từ từ, ngữ, cụm từ, logo, hình ảnh hoặc
sự kết hợp các yếu tố này thể hiện dưới dạng đen trắng hoặc màu sắc, hình ảnh ba
chiều, mùi, âm thanh. Hiện nay theo quy định của Pháp luật Việt Nam thì dấu hiệu

dùng làm nhãn hiệu phải là những “dấu hiệu có thể nhìn thấy được” (khoản 1, Điều
72, LSHTT năm 2005, được sửa đổi bổ sung năm 2009). Tuy nhiên, với sự phát
triển mạnh mẽ của công nghệ và các phương tiện truyền thống hiện nay, luật pháp
nhiều nước cũng đã chấp nhận bảo hộ nhãn hiệu là các đối tượng mới, bao gồm các
dấu hiệu âm thanh, clip hình ảnh động, hình biến đổi theo góc nhìn (hologram),
thậm chí cả mùi, vị và cảm giác. Với việc Việt Nam trở thành thành viên của Tổ
chức thương mại thế giới, số lượng nhãn hiệu xin đăng ký tại Việt Nam của người
Việt Nam và nước ngoài ngày càng tăng, có thể trong tương lai, hành lang pháp lý
của Việt Nam cũng sẽ cần có những điều chỉnh thích hợp nhằm hài hóa hóa và rút
ngắn sự cách biệt với pháp luật cũng như quy định của quốc tế đối với cách công
nhận một nhãn hiệu.
Nếu dựa vào chủ sở hữu quyền, nhãn hiệu có thể được phân thành bốn loại:
nhãn hiệu thông thường, nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận, nhãn hiệu liên kết.


14

Nhãn hiệu thông thường là những nhãn hiệu được đăng ký và thuộc quyền sở
hữu của những cá nhân, pháp nhân đáp ứng đủ điều kiện của pháp luật: “1. Tổ chức,
cá nhân có quyền đăng ký nhãn hiệu dùng cho hàng hoá do mình sản xuất hoặc dịch
vụ do mình cung cấp.” và “2. Tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động thương mại hợp
pháp có quyền đăng ký nhãn hiệu cho sản phẩm mà mình đưa ra thị trường nhưng
do người khác sản xuất với điều kiện người sản xuất không sử dụng nhãn hiệu đó
cho sản phẩm và không phản đối việc đăng ký đó” (Trích Khoản 1, 2 - Điều 87,
LSHTT năm 2005, được sửa đổi bổ sung năm 2009).
Nhãn hiệu tập thể là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các
thành viên của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hoá, dịch vụ của tổ
chức, cá nhân không phải là thành viên của tổ chức đó. Khoản 3 – Điều 87, LSHTT
năm 2005, được sửa đổi bổ sung năm 2009 có quy định “Tổ chức tập thể được
thành lập hợp pháp có quyền đăng ký nhãn hiệu tập thể để các thành viên của mình

sử dụng theo quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể; đối với dấu hiệu chỉ nguồn gốc địa
lý của hàng hoá, dịch vụ, tổ chức có quyền đăng ký là tổ chức tập thể của các tổ
chức, cá nhân tiến hành sản xuất, kinh doanh tại địa phương đó”.
Nhãn hiệu chứng nhận là nhãn hiệu mà chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép tổ
chức, cá nhân khác sử dụng trên hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân đó để
chứng nhận các đặc tính về xuất xứ, nguyên liệu, vật liệu, cách thức sản xuất hàng
hoá, cách thức cung cấp dịch vụ, chất lượng, độ chính xác, độ an toàn hoặc các đặc
tính khác của hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu. Tổ chức “có chức năng kiểm soát,
chứng nhận chất lượng, đặc tính, nguồn gốc hoặc tiêu chí khác liên quan đến hàng
hoá, dịch vụ có quyền đăng ký nhãn hiệu chứng nhận với điều kiện không tiến hành
sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ đó” (Trích Khoản 4 - Điều 87, LSHTT năm
2005, được sửa đổi bổ sung năm 2009).
Nhãn hiệu liên kết là các nhãn hiệu do cùng một chủ thể đăng ký, trùng hoặc
tương tự nhau dùng cho sản phẩm, dịch vụ cùng loại hoặc tương tự nhau hoặc có
liên quan với nhau.
Tùy vào từng tình huống phân tích trong khóa luận mà cách sử dụng tên gọi
cũng như phân loại nhãn hiệu tương ứng sẽ được áp dụng.


15

1.1.2. Khái quát về quyền sở hữu trí tuệ
Trước khi đi vào tìm hiều khái niệm về quyền sở hữu trí tuệ, chúng ta cần tìm
hiểu thế nào là tài sản trí tuệ. Tài sản trí tuệ có thể được hiểu là các sản phẩm do trí
tuệ con người sáng tạo ra thông qua các hoạt động tư duy, sáng tạo trong các lĩnh
vực công nghiệp, khoa học, văn học và nghệ thuật. Tài sản trí tuệ bao gồm: các tác
phẩm văn học nghệ thuật, khoa học; các chương trình biểu diễn của các nghệ sỹ, các
bản ghi âm và các chương trình phát sóng; các sáng chế; các kiểu dáng công nghiệp;
các bí mật kinh doanh; các nhãn hiệu; chỉ dẫn địa lý; tên thương mại; giống cây
trồng mới; thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, v.v... Tài sản trí tuệ là một loại tài

sản vô hình, không thể được xác định bằng các đặc điểm vật chất của chính nó
nhưng lại có giá trị lớn vì có khả năng sinh ra lợi nhuận. Hiện nay tài sản trí tuệ
đang dần trở thành một loại tài sản có giá trị cao trong toàn bộ giá trị doanh nghiệp.
Khi các doanh nghiệp hoạt động trong sức ép canh tranh của nền kinh tế thị trường,
tài sản trí tuệ đóng vai trò như là thước đo hiệu quả kinh doanh, sức cạnh tranh và
khả năng phát triển của doanh nghiệp. Bằng việc xây dựng, phát triển và sở hữu các
tài sản trí tuệ, uy tín và vị thế của doanh nghiệp được củng cố và mở rộng; khả năng
cạnh tranh, thị phần và doanh thu của doanh nghiệp được nâng cao.
Quyền sở hữu trí tuệ là các quyền đối với những sản phẩm sáng tạo nói trên.
Trong cuốn cẩm nang về sở hữu trí tuệ, WIPO có nhận định về quyền tài sản trí tuệ
được cấp cho người sản xuất hàng hóa hoặc cung cấp hàng hóa và dịch vụ. Quyền
sở hữu trí tuệ là một loại quyền có thời hạn và không được áp dụng cho các vật thể
có tính chất vật lý và dù có thể có chứa sự sáng tạo nhưng không phải là sự sáng tạo
trí tuệ (Điểm 1.2, WIPO 2004, tr.3). Cụ thể, WIPO phân loại quyền sở hữu trí tuệ
thành quyền Sở hữu công nghiệp và bản quyền. Quyền Sở hữu trí tuệ được xác lập
và bảo hộ cho một hoặc nhiều cá nhân, tổ chức bởi cơ quan nhà nước có thẩm
quyền khi nhãn hiệu đó đáp ứng tiêu chuẩn bảo hộ theo quy định của pháp luật.
LSHTT năm 2005, được sửa đổi bổ sung năm 2009 có quy định: “Quyền sở hữu trí
tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và
quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với
giống cây trồng” (Điểm 1, điều 4, LSHTT 2005, được sửa đổi bổ sung năm 2009).
Theo quy định tại Điều 115, BLDS 2015, quyền sở hữu trí tuệ là một trong những


×