Tải bản đầy đủ (.pdf) (155 trang)

Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu hàng hóa tại biên giới theo quy định của pháp luật Việt Nam và các Điều ước quốc tế liên quan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (833 KB, 155 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT







HỨA THỊ HỒNG





BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ ĐỐI VỚI NHÃN
HIỆU HÀNG HOÁ TẠI BIÊN GIỚI THEO QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ CÁC ĐIỀU ƯỚC
QUỐC TẾ LIÊN QUAN






LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC








Hà Nội – 2012




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





HỨA THỊ HỒNG



BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ ĐỐI VỚI
NHÃN HIỆU HÀNG HOÁ TẠI BIÊN GIỚI THEO
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ CÁC
ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ LIÊN QUAN



Chuyên ngành : Luật Quốc tế
Mã số : 60 38 60



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Người hướng dẫn khoa học: TS. GVC NGUYỄN LAN NGUYÊN



Hà Nội – 2012


MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU
TRÍ TUỆ ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU HÀNG HOÁ TẠI BIÊN GIỚI

7
1.1 Khái niệm nhãn hiệu hàng hóa 7
1.2 Bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hóa tại biên giới 12
1.3
Đặc điểm của việc bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu
hàng hóa tại biên giới
18
1.4
Vai trò của việc bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng
hóa tại biên giới
22
1.5

Cơ sở pháp lý của việc bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu
hàng hóa tại biên giới
26
1.5.1 Điều ước quốc tế 26
1.5.2 Pháp luật quốc gia 28
Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH VỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ
TUỆ ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU HÀNG HOÁ TẠI BIÊN GIỚI THEO
PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM
30
2.1 Pháp luật quốc tế 30
2.1.1 Công ước Paris về bảo hộ quyền SHCN 30
2.1.2 Hiệp định TRIPs 32
2.1.3 Luật mẫu về bảo vệ quyền SHTT của WCO 37
2.1.4 Các điều ước quốc tế trong khuôn khổ ASEAN 42
2.1.4.1

Hiệp định khung ASEAN về hợp tác SHTT 42
2.1.4.2

Kế hoạch cộng đồng kinh tế ASEAN 43
2.1.4.3

Hiệp định đối tác kinh tế ASEAN – Nhật Bản 44
2.1.4.4

Hiệp định thương mại tự do ASEAN – Úc – Niu Zi Lân 45
2.1.5 Các điều ước quốc tế song phương 47
2.1.5.1

Hiệp định thương mại Việt – Mỹ 47

2.1.5.2

Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam – Nhật Bản 49
2.1.5.3

Hiệp định Việt Nam – Thụy Sỹ về bảo hộ SHTT và hợp tác
50


trong lĩnh vực SHTT
2.2 Pháp luật một số quốc gia điển hình trên thế giới 52
2.2.1 Pháp luật của Mỹ 53
2.2.2 Pháp luật của Nhật 56
2.2.3 Pháp luật của Hàn Quốc 61
2.2.4 Pháp luật của Trung Quốc 65
2.2.5. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 70
2.3.5.1

Về quy định pháp luật 70
2.3.5.2

Về thực tiễn áp dụng 73
2.3. Pháp luật Việt Nam 74
2.3.1 Phạm vi kiểm soát biên giới 74
2.3.2 Thẩm quyền của cơ quan Hải quan 75
2.3.3
Xử lý các hành vi xâm phạm quyền SHTT đối với nhãn hiệu
hàng hóa tại biên giới
78
2.3.4

Các quy trình nghiệp vụ của Hải quan về bảo vệ quyền SHTT
đối với nhãn hiệu hàng hóa tại biên giới
80
2.3.4.1

Quy trình tiếp nhận, xử lý đơn yêu cầu kiểm tra, giám sát và đơn
yêu cầu tạm dừng làm thủ tục Hải quan
80
2.3.4.2

Quy trình nghiệp vụ bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng
hoá tại biên giới của cơ quan Hải quan
83
Chương 3: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ
QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU HÀNG HOÁ
TẠI BIÊN GIỚI VIỆT NAM
89
3.1 Thực trạng áp dụng pháp luật tại Việt Nam 89
3.1.1 Xây dựng pháp luật 89
3.1.2
Đăng ký kiểm tra, giám sát hàng hóa XK, NK liên quan đến
SHTT đối với nhãn hiệu hàng hóa tại biên giới
91
3.1.3
Cơ quan Hải quan phối hợp với các cơ quan thực thi khác và chủ
thể quyền, hợp tác quốc tế về bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn
hiệu hàng hoá tại biên giới
92
3.1.4
Thực trạng xâm phạm quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hoá

tại biên giới và thực tiễn đấu tranh của cơ quan Hải quan
96
3.2. Những tồn tại và nguyên nhân 100


3.2.1. Các quy định pháp luật còn nhiều bất cập 100
3.2.2.
Kết quả bắt giữ và xử lý vi phạm chưa tương xứng với nguồn
lực và năng lực thực tế của cơ quan Hải quan
105
3.2.3.
Cơ chế phối hợp giữa cơ quan Hải quan và các cơ quan liên
quan chưa thường xuyên và sâu rộng, hiệu quả còn thấp
107
3.2.4.
Công tác phối hợp giữa cơ quan Hải quan với các chủ thể quyền
SHTT còn hạn chế, chưa thật sự thiết thực
108
3.2.5.
Nhận thức của xã hội về công tác bảo vệ quyền SHTT đối với
nhãn hiệu hàng hóa tại biên giới còn hạn chế
110
3.3. Dự báo tình hình xâm phạm quyền SHTT đối với nhãn hiệu
hàng hoá tại biên giới Việt Nam
111
3.4.
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền
SHTT đối với nhãn hiệu hàng hoá tại biên giới Việt Nam
116
3.4.1. Hoàn thiện khung pháp lý 116

3.4.2. Nâng cao năng lực thực thi của cơ quan Hải quan 122
3.4.3.
Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động đăng ký giám sát
Hải quan về SHTT
127
3.4.4.
Củng cố tổ chức bộ máy chuyên trách bảo vệ quyền SHTT tại cơ
quan Hải quan
129
3.4.5.
Tăng cường phối hợp với các cơ quan quản lý Nhà nước và cơ
quan thực thi
131
3.4.6. Hợp tác với chủ thể quyền trong công tác bảo vệ quyền SHTT
đối với nhãn hiệu hàng hoá
132
3.4.7. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nhận thức cộng đồng 134
3.4.8.
Tăng cường hợp tác quốc tế về bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn
hiệu hàng hóa tại biên giới quốc gia
136
KẾT LUẬN
138
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
141
PHỤ LỤC
147
Phụ lục 1: Bộ máy bảo vệ quyền SHTT của Hải quan Việt Nam 147
Phụ lục 2: Số lượng đơn đăng ký giám sát nhãn hiệu tại cơ quan Hải
quan (giai đoạn 2007 – 2011)

148
Phụ lục 3: Số liệu bắt giữ vi phạm quyền SHTT về nhãn hiệu của cơ
quan Hải quan (giai đoạn 2007 – 2011)
149


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ASEAN: Hiệp hội các nước Đông Nam Á
RMB: Nhân dân tệ
SHCN: Sở hữu công nghiệp
SHTT: Sở hữu trí tuệ
TRIPs: Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền Sở
hữu trí tuệ.
USD: Đô la Mỹ
WCO: Tổ chức Hải quan thế giới
WTO: Tổ chức Thương mại thế giới
XK, NK: Xuất khẩu, Nhập khẩu
XNK: Xuất nhập khẩu





1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, SHTT là một công cụ đắc lực để phát
triển kinh tế - xã hội của các quốc gia. Thực tế cho thấy, nhiều công ty, doanh
nghiệp đã rất thành công nhờ khai thác có hiệu quả quyền SHTT. Xu thế này đã

khẳng định tài sản trí tuệ và quyền sở hữu tài sản trí tuệ ngày càng trở nên quan
trọng. Thực tế này đã đặt ra yêu cầu phải gia tăng mối quan tâm tới vấn đề SHTT
cả trên phương diện lý luận lẫn thực tiễn cho mỗi quốc gia nếu muốn hội nhập
thành công.
Việt Nam đã ký kết nhiều điều ước quốc tế (song phương và đa phương) về
bảo vệ quyền SHTT. Hiện nay, chúng ta đã là thành viên của các Điều ước quốc
tế quan trọng như Công ước Paris về bảo hộ SHCN, Hiệp ước hợp tác sáng chế
(PCT), Công ước Benre về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật… đặc
biệt là Hiệp định TRIPs khi nước ta gia nhập WTO năm 2005 là những cơ sở
pháp lý quan trọng để Việt Nam thực hiện các nghĩa vụ của mình trong thương
mại quốc tế.
Là một trong những đối tượng quan trọng của quyền SHTT, nhãn hiệu hàng
hoá đóng một vai trò rất quan trọng đối với các hoạt động sản xuất, kinh doanh,
XK, NK của các doanh nghiệp. Thông qua nhãn hiệu hàng hoá, doanh nghiệp có
thể được người tiêu dùng biết đến và sử dụng các sản phẩm do mình sản xuất ra,
từ đó đáp ứng yêu cầu mở rộng thị trường hàng hoá ra khu vực và thế giới.
Trong hoạt động XNK hàng hoá, cơ quan Hải quan đóng một vai trò quan
trọng trong việc bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu tại biên giới. Với chức
năng là cơ quan “gác cửa nền kinh tế đất nước”, thực hiện nhiệm vụ kiểm tra,
giám sát, kiểm soát về Hải quan đối với hàng hoá XK, NK, phương tiện xuất
cảnh, nhập cảnh, quá cảnh Việt Nam. Trên phương diện khách quan và chủ
quan, Hải quan Việt Nam là cơ quan có đủ năng lực và điều kiện nhất để thực thi

2
có hiệu quả công tác bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hoá tại biên
giới. Tuy nhiên thực tế hiện nay, cơ quan Hải quan các cấp còn gặp nhiều vướng
mắc cần làm rõ cả về lý luận và thực tiễn.
Bảo vệ quyền SHTT tại biên giới do cơ quan Hải quan thực hiện đang là
vấn đề mới được triển khai thực hiện. Do đó, cần phải nghiên cứu một cách
chuyên sâu về lý luận khoa học đối với các vấn đề liên quan, giúp các nhà hoạch

định chính sách cũng như các nhà làm luật và các cơ quan thực thi có cơ sở triển
khai thực hiện có hiệu quả trên thực tế.
Việc xâm phạm các đối tượng quyền SHTT diễn ra phổ biến và nhiều nhất
là nhãn hiệu hàng hoá ở tất các các khâu trong dây chuyền cung ứng thương mại.
Do vậy, việc bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hoá đang là một vấn đề
cấp bách được cộng đồng các doanh nghiệp cũng như các cơ quan thực thi pháp
luật đặc biệt quan tâm. Đặc biệt là khi lưu lượng hàng hoá XNK ngày càng gia
tăng, đòi hỏi cơ quan Hải quan phải nỗ lực thực hiện đồng bộ các biện pháp
nhằm nâng cao hiệu quả công tác phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm.
Cơ quan Hải quan là cơ quan chủ quản được giao nhiệm vụ thực thi quyền
SHTT tại biên giới bước đầu đã đạt được một số kết quả nhất định. Tuy nhiên,
kết quả đạt được còn hạn chế, thực tiễn áp dụng còn nhiều vướng mắc chưa đáp
ứng được yêu cầu đặt ra. Do vậy, cần phải nghiên cứu, đánh giá một cách tổng
thể thực trạng bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hoá tại biên giới để có
giải pháp khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả công tác công tác này trên thực tế.
Xuất phát từ những vướng mắc, bất cập cả về mặt lý luận và thực tiễn nêu
trên, tác giả đã chọn đề tài “Bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hoá tại
biên giới theo quy định của pháp luật Việt Nam và các Điều ước quốc tế liên
quan” làm đề tài nghiên cứu luận văn cao học của mình.



3
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thời gian qua, mặc dù đã có nhưng rất ít bài viết, đề tài nghiên cứu
về các vấn đề liên quan đến bảo hộ và thực thi quyền SHCN trong lĩnh vực Hải
quan như đề tài “Hoàn thiện các giải pháp thực thi SHCN đối với hàng hoá XNK
ở Việt Nam của Vũ Ngọc Anh (2001), đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành Hải
quan năm 2001. Tuy nhiên, đề tài trên nghiên cứu theo quy định của Luật Hải
quan năm 2001 và các văn bản dưới luật về SHTT trước đây đã hết hiệu lực thi

hành. Nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn đề cập tại đề tài đã không còn phù
hợp với tình hình thực tiễn hiện nay. Một số bài viết liên quan được đăng tải rải
rác trên báo, tạp chí. Nhưng đối tượng nghiên cứu của đề tài, các bài viết trên là
toàn bộ các đối tượng của quyền SHCN, không đi sâu nghiên cứu một đối tượng
quyền SHTT nào cụ thể.
Mặc dù, hàng hoá XNK có vi phạm quyền SHTT chủ yếu là vi phạm đối
với nhãn hiệu. Nhưng hiện nay chưa có một công trình khoa học nào đi sâu
nghiên cứu một cách tổng thể vấn đề bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng
hoá tại biên giới quốc gia, từ đó đưa ra các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả
công tác phòng ngừa, đấu tranh và xử lý các vi phạm về SHTT đối với nhãn hiệu
hàng hoá tại biên giới. Vì vậy, đề tài ““Bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu
hàng hoá tại biên giới theo quy định của pháp luật Việt Nam và các Điều ước
quốc tế liên quan” là vấn đề tương đối mới mẻ và có nhiều khía cạnh để khai
thác.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ các quy định của pháp
luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu
hàng hoá tại biên giới; pháp luật và kinh nghiệm thực thi pháp luật của một số
quốc gia điển hình trên thế giới để từ đó rút ra một số bài học cho Việt Nam.

4
Đồng thời, Luận văn còn nghiên cứu sâu thực tiễn áp dụng pháp luật Việt Nam
thông qua hoạt động thực tiễn của cơ quan Hải quan để làm sáng tỏ các quy định
pháp luật Việt Nam.
Thông qua việc phân tích, luận giải và đánh giá về pháp luật và thực tiễn áp
dụng của Việt Nam, luận văn đã chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân của
những hạn chế trong việc áp dụng vào thực tế các quy định pháp luật Việt Nam.
Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao
hiệu quả thực thi pháp luật bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hoá tại

biên giới.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của Luận văn là vấn đề bảo vệ quyền SHTT
đối với nhãn hiệu hàng hoá tại biên giới quốc gia theo quy định của pháp luật
Việt Nam và pháp luật quốc tế, kinh nghiệm của một số quốc gia điển hình trên
thế giới. Hoạt động thực tiễn của Hải quan Việt Nam về bảo vệ quyền SHTT đối
với nhãn hiệu hàng hoá tại biên giới để có đánh giá một cách tổng thể, toàn diện
về vấn đề này.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các điều ước quốc tế điều chỉnh trực tiếp
vấn đề thực thi quyền SHTT tại biên giới, các tài liệu nghiên cứu, tài liệu nghiệp
vụ của WTO, WCO và các quy định pháp luật của Việt Nam, pháp luật và kinh
nghiệm của một số quốc gia điển hình trên thế giới liên quan đến việc bảo vệ
quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hoá tại biên giới của cơ quan Hải quan.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
Để hoàn thành luận văn, tác giả đã sưu tầm và sử dụng các thông tin từ
nhiều nguồn khác nhau tại kho dữ liệu của Tổng cục Hải quan, Cục Điều tra

5
chống buôn lậu - Tổng cục Hải quan, Cục SHTT, các bài báo, tạp chí liên quan
và các tài liệu thu thập qua mạng Internet.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về
phát triển kinh tế, cải cách hành chính và hiện đại hoá ngành Hải quan. Tác giả
đã dựa trên các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử. Các phương pháp chủ yếu được sử dụng để nghiên cứu là: phương
pháp phân tích tổng hợp, phương pháp lịch sử, kết hợp với các phương pháp đối
chiếu so sánh, thống kê, quy nạp để rút ra bản chất của các sự vật, hiện tượng

thuộc đối tượng nghiên cứu.
5. Đóng góp của luận văn
Về khoa học, Luận văn đã đi sâu phân tích, đánh giá các quy định của pháp
luật quốc tế và pháp luật Việt Nam liên quan đến công tác bảo vệ quyền SHTT
đối với nhãn hiệu hàng hoá tại biên giới, việc tuân thủ các điều ước quốc tế của
pháp luật Việt Nam. Thực trạng tình hình của Việt Nam về công tác này nhằm
làm rõ cơ sở khoa học, thực tiễn của việc hoàn thiện các quy định pháp lý và
nâng cao năng lực của Hải quan Việt Nam về bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn
hiệu tại biên giới.
Về thực tiễn, việc “bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hoá tại biên
giới theo quy định của pháp luật Việt Nam và các Điều ước quốc tế liên quan” là
công trình khoa học đầu tiên trong lĩnh vực này. Luận văn nghiên cứu một cách
toàn diện về các khía cạnh pháp lý của công tác bảo vệ quyền SHTT đối với
nhãn hiệu hàng hoá tại biên giới. Trên cơ sở kinh nghiệm thực thi pháp luật của
một số quốc gia điển hình trên thế giới, các văn bản pháp luật quốc tế và pháp
luật quốc gia liên quan cũng như thực tiễn công tác này tại Việt Nam, đề tài
nghiên cứu đã chỉ ra những hạn chế, bất cập của pháp luật và thực tế thực thi

6
pháp luật của Việt Nam, từ đó đề xuất các giải pháp khắc phục nhằm hoàn thiện
hệ thống pháp luật Việt Nam, nâng cao hiệu quả công tác này của Hải quan Việt
Nam trên thực tế.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục kèm
theo, Luận văn bao gồm 03 chương với cấu trúc như sau:
Chương 1: Lý luận chung về bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng
hoá tại biên giới.
Chương 2: Các quy định về bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng
hóa tại biên giới theo pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam.
Chương 3: Thực trạng áp dụng pháp luật về bảo vệ quyền SHTT đối với

nhãn hiệu hàng hoá tại biên giới Việt Nam.















7
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ ĐỐI VỚI
NHÃN HIỆU HÀNG HOÁ TẠI BIÊN GIỚI
1.1. Khái niệm nhãn hiệu hàng hóa
Nhãn hiệu hàng hoá đã có từ thời cổ đại, thậm chí từ lúc con người còn tự
cung cấp những gì họ cần cho bản thân nhiều hơn là mua chúng từ những người
thợ thủ công. Thời đó, có những thương gia sáng tạo đã biết bán hàng hoá ra bên
ngoài vùng sinh sống của họ và thậm chí có khi tới những vùng rất xa xôi. Cách
đây 3000 năm, những người thợ thủ công Ấn Độ đã từng chạm khắc chữ ký của
mình trên các tác phẩm nghệ thuật trước khi gửi hàng tới Iran. Các nhà sản xuất
Trung Quốc đã bán hàng hoá mang nhãn hiệu của mình tại Địa Trung Hải từ
2000 năm trước và cùng thời gian đó hàng ngàn nhãn hiệu đồ gốm La Mã khác
nhau đã được sử dụng, kể cả nhãn hiệu FORTIS mà sau này đã trở nên nổi tiếng

đến nỗi bị sao chép và làm giả. Nhờ việc kinh doanh phát đạt thời Trung cổ mà
việc sử dụng các dấu hiệu để phân biệt hàng hoá của các thương gia và các nhà
sản xuất đã khá phát triển. Tuy vậy, tầm quan trọng về mặt kinh tế của chúng
vẫn còn hạn chế. [29, tr.65]
Công nghiệp hoá và sự phát triển của hệ thống kinh tế thị trường cho phép
các nhà sản xuất và các thương gia cạnh tranh đưa đến người tiêu dùng sự lựa
chọn đa dạng cho hàng hoá cùng chủng loại. Thường nếu không có sự khác biệt
rõ ràng đối với người tiêu dùng, chúng thường chỉ khác nhau về chất lượng, giá
cả và các đặc tính khác. Rõ ràng người tiêu dùng cần được hướng dẫn, giúp họ
suy xét các lựa chọn và đi đến quyết định lựa chọn cho riêng mình trong số các
hàng hoá cạnh tranh. Do vậy, hàng hoá cần phải được đặt tên. Phương tiện để đặt
tên hàng hoá trên thị trường chính là nhãn hiệu hàng hoá.[29, tr.66]
Bằng việc giúp người tiêu dùng có quyết định lựa chọn giữa những hàng hoá
đa dạng được chào bán trên thị trường, nhãn hiệu hàng hoá khuyến khích chủ sở

8
hữu các nhãn hiệu duy trì và nâng cao chất lượng các sản phẩm bán ra dưới nhãn
hiệu đó, để đáp ứng sự mong đợi của người tiêu dùng và không ngừng nâng cao
uy tín của mình trên thị thường đối với các sản phẩm do mình sản xuất ra. Bởi
vậy, nhãn hiệu hàng hoá “thưởng công” cho những người sản xuất hàng hoá chất
lượng cao có nguồn thu nhập một cách ổn định và kết cục là nhãn hiệu hàng hoá
kích thích và thúc đẩy sự phát triển kinh tế. [29, tr.66]
Theo cách tiếp cận được lựa chọn tại Mục 1(1) của Luật Mẫu WIPO về nhãn
hiệu thì một nhãn hiệu hàng hoá là bất kỳ dấu hiệu nào có khả năng phân biệt
hàng hoá của doanh nghiệp này với hàng hoá của các đối thủ cạnh tranh [10].
Cho đến nay đã có khá nhiều các điều ước quốc tế song phương và đa
phương điều chỉnh các vấn đề liên quan đến nhãn hiệu. Trong số này, có thể kể
đến một số điều ước quốc tế có nhiều thành viên tham gia như Công ước Paris
1883 về bảo hộ SHCN, Hệ thống đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hóa Madrid,
Hiệp định TRIPs. Tuy nhiên Công ước Paris, Hệ thống Madrid chưa đưa ra được

khái niệm về nhãn hiệu. Riêng Hiệp định TRIPs đã có quy định về khái niệm
nhãn hiệu như sau:
“Bất kỳ một dấu hiệu hoặc tổ hợp các dấu hiệu nào, có khả năng phân biệt
hàng hoá hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hoá hoặc dịch vụ của các
doanh nghiệp khác đều có thể làm nhãn hiệu. Các dấu hiệu đó, đặc biệt là các
từ, kể cả tên riêng, các chữ cái, chữ số, các yếu tố hình học và tổ hợp các mầu
sắc cũng như tổ hợp bất kỳ của các dấu hiệu đó phải có khả năng được đăng ký
làm nhãn hiệu” [35, 15].
Châu Âu bao gồm nhiều các quốc gia khác nhau nên có sự khác nhau trong
luật về nhãn hiệu của các quốc gia thành viên. Do sự khác nhau này và sự ảnh
hưởng của nó đến thị trường chung Châu Âu nên cần thiết phải có sự điều chỉnh
hài hoà ở cấp độ cộng đồng. Định nghĩa về nhãn hiệu được quy định ở Điều 2
Chỉ thị 89/104 và Điều 4 Quy định 40/94 của Cộng đồng chung Châu Âu (EC)
như sau:

9
“Một nhãn hiệu cộng đồng có thể gồm bất kỳ dấu hiệu nào được trình bày
một cách rõ ràng và chi tiết (represented graphically), đặc biệt là các từ, bao
gồm tên riêng, các phác hoạ hình ảnh, chữ viết, chữ số, hình dáng của hàng hoá
hoặc của bao bì sản phẩm, với điều kiện là những dấu hiệu đó phải có khả năng
phân biệt hàng hoá hoặc dịch vụ của chủ thể kinh doanh này với hàng hoá, dịch
vụ của các chủ thể kinh doanh khác”.
Luật nhãn hiệu Hoa Kỳ được điều chỉnh bằng đạo luật Lanham. Khác với
Việt Nam và Châu Âu, Lanham Act định nghĩa riêng biệt hai loại nhãn hiệu:
nhãn hiệu hàng hoá và nhãn hiệu dịch vụ. Nhãn hiệu hàng hoá được giải thích
như sau:
“Thuật ngữ nhãn hiệu hàng hóa bao gồm bất kỳ từ, tên gọi, biểu tượng hay
hình vẽ hoặc sự kết hợp giữa chúng mà:
(1) được sử dụng bởi một người, hoặc
(2) được một người có ý định chân thành là sử dụng nó trong thương mại

và xin đăng ký theo quy định tại luật này để xác định và phân biệt hàng hoá của
người đó, bao gồm cả các hàng hóa đặc chủng, với hàng hoá được sản xuất
hoặc được bán bởi những người khác và chỉ ra nguồn gốc của hàng hoá thậm
chí cả khi không xác định được nguồn gốc đó.”[57].
Việt Nam là một thành viên của nhiều điều ước quốc tế về nhãn hiệu bao
gồm Công ước Pari về SHCN và Hệ thống đăng ký nhãn hiệu quốc tế (Thoả ước
Madrid và Nghị định thư Madrid), Hiệp định TRIPs. Trước khi có Luật SHTT,
quyền SHTT ở Việt Nam được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác
nhau như Bộ luật Dân sự, các Nghị định, Thông tư hướng dẫn, thậm chí bởi rất
nhiều các quyết định của Cục SHTT. Luật SHTT năm 2005 là một đạo luật
chuyên ngành đầu tiên của Việt Nam về SHTT trên cơ sở pháp điển hoá các quy
định của pháp luật về SHTT đã được ban hành trước đó. Luật SHTT 2005 của
Việt Nam không có điều khoản cụ thể nào về định nghĩa nhãn hiệu mà khái niệm

10
nhãn hiệu được quy định trong phần giải thích từ ngữ. Theo đó, “nhãn hiệu là
dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác
nhau” [13, 4]. Tuy nhiên, không phải bất kỳ dấu hiệu nào có khả năng phân biệt
cũng có thể trở thành nhãn hiệu vì điều kiện chung đối với nhãn hiệu được bảo
hộ được quy định tại Luật SHTT như sau:
“Nhãn hiệu được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:
1- Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình
ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một
hoặc nhiều mầu sắc;
2- Có khả năng phân biệt hàng hoá, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với
hàng hoá, dịch vụ của chủ thể khác.”[13, 72].
Nếu theo quy định tại Điều 4 Luật SHTT 2005, đã được sửa đổi bổ sung
năm 2009 thì được hiểu rằng dấu hiệu chỉ cần đáp ứng chức năng phân biệt là đủ
để được đăng ký nhãn hiệu, trong khi Luật SHTT Việt Nam chỉ chấp nhận các
dấu hiệu nhìn thấy được.

Như vậy, một nhãn hiệu có thể được bảo hộ nếu đáp ứng được hai điều
kiện. Thứ nhất, dấu hiệu phải “nhìn thấy được”. Quy định này hẹp hơn quy định
của TRIPs “bất kỳ dấu hiệu nào”. Điều này có nghĩa rằng, các dấu hiệu như âm
thanh, mùi vị… không thể được đăng ký là nhãn hiệu theo quy định của pháp
luật SHTT Việt Nam. Thứ hai, “khả năng phân biệt” là điều kiện bắt buộc của
nhãn hiệu. Đây cũng là chức năng chính của nhãn hiệu. Đặc điểm này là đặc
điểm chung của nhãn hiệu và do đó, nó giống với các điều ước quốc tế cũng như
luật về nhãn hiệu của các nước trên thế giới.
Nói tóm lại, “khả năng phân biệt” luôn luôn là đặc điểm cơ bản của nhãn
hiệu. Cả luật Việt Nam, luật Châu Âu và luật Hoa Kỳ đều không có điều khoản
định nghĩa nhãn hiệu. Khái niệm nhãn hiệu được hiểu qua các điều khoản khác,
chẳng hạn như quy định ở phần giải thích thuật ngữ (Việt Nam, Hoa Kỳ), hay

11
trong điều khoản quy định về “Các dấu hiệu là nhãn hiệu” (Châu Âu). Các điều
khoản này thường liệt kê các dấu hiệu thông thường có khả năng đăng ký nhãn
hiệu. Mặc dù các quy định còn có những điểm khác nhau, song chúng đều giống
nhau ở cách tiếp cận khái niệm theo chức năng phân biệt.
Nhãn hiệu có nhiều chức năng, trong đó chức năng cơ bản nhất là tính phân
biệt. Pháp luật của cả Việt Nam, Châu Âu và Hoa Kỳ phù hợp với pháp luật
quốc tế đều dựa trên chức năng tính phân biệt để đưa ra khái niệm nhãn hiệu.
Luật SHTT Việt Nam không có điều khoản riêng về khái niệm nhãn hiệu, nhưng
qua các điều khoản cụ thể có thể hiểu nhãn hiệu là dấu hiệu có thể nhìn thấy
được và có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với
hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác. Luật Châu Âu và luật Hoa Kỳ quy định mở
hơn đối với các dấu hiệu có thể làm nhãn hiệu. Đó là bất kỳ dấu hiệu nào có khả
năng phân biệt chứ không chỉ bó hẹp ở các dấu hiệu nhìn thấy được. Do đó, các
dấu hiệu không thông dụng (unusual) như mùi vị, âm thanh… cũng có khả năng
được đăng ký là nhãn hiệu.
Do đó, thay vì việc giải thích từ ngữ, Luật SHTT Việt Nam nên xây dựng

khái niệm nhãn hiệu để tránh các cách hiểu không thống nhất. Nếu theo quy định
tại Điều 4 Luật SHTT (giải thích từ ngữ) thì sẽ bị hiểu rằng dấu hiệu chỉ cần đáp
ứng chức năng phân biệt là đủ để được đăng ký nhãn hiệu, trong khi Luật SHTT
Việt Nam chỉ chấp nhận các dấu hiệu nhìn thấy được.
Hơn nữa, theo tác giả, Luật SHTT không nên chỉ quy định dấu hiệu nhìn
thấy được tức là qua thị giác mà nên quy định các dấu hiệu có khả năng phân
biệt được qua cả các giác quan khác như thính giác. Do đó, có thể xây dựng một
khái niệm về nhãn hiệu trong Luật SHTT Việt Nam như sau :
Bất kỳ dấu hiệu nào có khả năng phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các tổ
chức, cá nhân khác nhau cho cùng một loại sản phẩm hàng hoá hoặc hàng hoá
trên cùng thị trường liên quan.

12
1.2. Bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hóa tại biên giới
Hiện nay, trên thực tế còn một số cơ quan chức năng và các tổ chức, cá
nhân liên quan mặc dù đã và đang tham gia vào các hoạt động bảo hộ quyền
SHTT nhưng vẫn chưa phân biệt được thế nào là bảo vệ quyền SHTT và thế nào
là bảo hộ quyền SHTT. Ở đây chúng ta cần phân biệt giữa ba khái niệm: bảo vệ
quyền SHTT, bảo hộ quyền SHTT và thực thi quyền SHTT.
Bảo hộ quyền SHTT bao gồm ba nội dung: ban hành các quy định pháp
luật về SHTT (xây dựng pháp luật), cấp văn bằng bảo hộ hoặc giấy chứng nhận
đăng ký cho các chủ thể khác nhau khi đáp ứng các yêu cầu theo quy định (xác
lập quyền) và thực hiện các phương thức, biện pháp khác nhau để bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của các chủ thể quyền (bảo vệ quyền).
Thực thi quyền SHTT là việc triển khai thực hiện các quyền và lợi ích hợp
pháp của các chủ thể quyền SHTT trên thực tế thông qua các hoạt động bảo hộ
quyền.
Muốn nhận thức đúng và đầy đủ về hoạt động bảo vệ quyền SHTT đối với
nhãn hiệu hàng hoá tại biên giới, trước hết chúng ta phải hiểu thế nào là quyền
SHTT? Cho đến hiện nay, chưa có Điều ước quốc tế nào có định nghĩa cụ thể thế

nào là quyền SHTT.
Theo Luật SHTT của Việt Nam, quyền SHTT là quyền của tổ chức, cá
nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền
tác giả, quyền SHCN và quyền đối với giống cây trồng. [13]
Trong đó, quyền SHCN là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế,
kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên
thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu
và quyền chống cạnh tranh không làm mạnh.
Với các định nghĩa trên, nhãn hiệu hàng hoá là một trong những đối tượng
của quyền SHTT nói chung và một trong những đối tượng của quyền SHCN nói

13
riêng. Như vậy, quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hoá là quyền của tổ chức,
cá nhân đối với nhãn hiệu do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu.
Đối với tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu toàn diện đối với tài sản trí tuệ của
mình "nhãn hiệu hàng hoá", vừa là người sáng tạo ra đồng thời là người sở hữu
nó thì tổ chức, cá nhân đó có đầy đủ các quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt
đối với tài sản của mình. Theo quy định của Luật SHTT Việt Nam, chủ sở hữu
nhãn hiệu hàng hoá có các quyền tài sản sau đây:
- Sử dụng, cho phép người khác sử dụng nhãn hiệu của mình như: Gắn
nhãn hiệu được bảo hộ lên hàng hoá, bao bì hàng hoá, phương tiện kinh doanh,
phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch trong hoạt động kinh doanh; lưu thông,
chào bán, quảng cáo để bán, tàng trữ để bán hàng hoá mang nhãn hiệu được bảo
hộ; NK hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu được bảo hộ.
- Ngăn cấm người khác sử dụng nhãn hiệu của mình, trừ các trường hợp
sau đây:
+ Việc lưu thông, NK, khai thác công dụng của sản phẩm được đưa ra thị
trường, kể cả thị trường nước ngoài một cách hợp pháp, trừ sản phẩm không phải
do chính chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc người được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu
đưa ra thị trường nước ngoài.

+ Sử dụng nhãn hiệu trùng hoặc tương tự với chỉ dẫn địa lý được bảo hộ
nếu nhãn hiệu đó đã đạt được sử bảo hộ một cách trung thực trước ngày nộp đơn
đăng ký chỉ dẫn địa lý đó.
Theo quy định chung, nội dung của quyền SHTT bao gồm quyền nhân thân
và quyền tài sản đối với các đối tượng quyền SHTT. Tuy nhiên, đối với nhãn
hiệu hàng hoá Luật SHTT không có quy định về quyền nhân thân đối với tác giả
tạo ra nhãn hiệu mà không phải là chủ sở hữu nhãn hiệu, người tạo ra nhãn hiệu
trong trường hợp này là người được chủ sở hữu nhãn hiệu thuê để thiết kế, pháp
luật không quy định cho họ có quyền nhân thân nào đối với nhãn hiệu do mình

14
tạo ra, họ chỉ được hưởng quyền tài sản là nhận tiền thù lao thiết kế từ người chủ
sở hữu nhãn hiệu.
Về căn cứ phát sinh, xác lập quyền SHTT đối với nhãn hiệu, quyền SHTT
đối với nhãn hiệu được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký theo quy định của pháp luật
quốc gia nơi đăng ký, được pháp luật công nhận và bảo vệ khi nhãn hiệu đó
được cơ quan có thẩm quyền cấp văn bằng bảo hộ, đối với nhãn hiệu đã được
đăng ký quốc tế chỉ được bảo hộ tại quốc gia đó khi được cơ quan có thẩm
quyền tại quốc gia đó công nhận.
Quyền SHTT được bảo vệ bằng các biện pháp hành chính, dân sự và hình
sự. Trong đó, chủ thể quyền có thể tự bảo vệ hoặc bằng hoạt động của cơ quan
nhà nước thông qua việc khởi kiện tại Toà án, hoặc gửi đơn yêu cầu xử lý xâm
phạm quyền SHTT tới các cơ quan nhà nước có thẩm quyền như: Thanh tra
chuyên ngành, Cảnh sát kinh tế, Hải quan hoặc Quản lý thị trường. Hay nói một
cách khác, bảo vệ quyền SHTT là việc chủ thể quyền SHTT hoặc cơ quan có
thẩm quyền sử dụng các biện pháp cần thiết mà pháp luật cho phép để bảo đảm
quyền SHTT được thực thi trên thực tế.
Bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hoá được hiểu là Nhà nước và
chủ thể quyền SHTT của nhãn hiệu hàng hoá sử dụng các phương pháp pháp lý

để bảo vệ quyền sở hữu nhãn hiệu của mình, chống lại mọi sự xâm phạm để giữ
nguyên vẹn quyền sở hữu đối với nhãn hiệu đang được nhà nước bảo hộ.
Để hiểu rõ hơn thế nào là bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hóa
tại biên giới, chúng ta cần tìm hiểu khái niệm “biên giới” ở đây được hiểu như
thế nào?
Biên giới ở đây không phải là biên giới quốc gia theo quy định tại Điều 1
Luật Biên giới quốc gia năm 2003 “Biên giới quốc gia của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là đường và mặt thẳng đứng theo đường đó để xác định giới

15
hạn lãnh thổ đất liền, các đảo, các quần đảo trong đó có quần đảo Hoàng Sa và
quần đảo Trường Sa, vùng biển, lòng đất, vùng trời của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam” hay lãnh thổ Hải quan theo quy định tại khoản 14 Điều 4
Luật Hải quan 2005 “Lãnh thổ Hải quan gồm những khu vực trong lãnh thổ
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm
lục địa của Việt Nam, nơi Luật Hải quan được áp dụng”. Mà với đặc thù hoạt
động là thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát hàng hoá XK, NK, phương tiện và
hành khách xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh qua lại biên giới quốc gia. Các hoạt
động nghiệp vụ của cơ quan Hải quan được thực hiện giới hạn trong một không
gian địa lý nhất định trên lãnh thổ quốc gia gọi là phạm vi địa bàn hoạt động Hải
quan. Do vậy, công tác bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hoá tại biên
giới cũng bị chi phối bởi các giới hạn này vì nó xác định gianh giới các hoạt
động kiểm tra, giám sát và kiểm soát đối với hàng hoá XK, NK cũng như trách
nhiệm của cơ quan Hải quan về vấn đề này.
Địa bàn hoạt động Hải quan bao gồm các khu vực cửa khẩu đường bộ, ga
đường sắt liên vận quốc tế, cảng biển quốc tế, cảng sông quốc tế, cảng hàng
không dân dụng quốc tế, các địa điểm làm thủ tục Hải quan ngoài cửa khẩu, khu
chế xuất, kho ngoại quan, kho bảo thuế, khu vực ưu đãi Hải quan, bưu điện quốc
tế, các địa điểm kiểm tra hàng hoá xuất khẩu, NK trong lãnh thổ và trên vùng
biển thực hiện quyền chủ quyền của Việt Nam, trụ sở doanh nghiệp khi tiến hành

kiểm tra sau thông quan và các địa bàn hoạt động Hải quan khác theo quy định
của pháp luật. [11, 6]
Phạm vi địa bàn hoạt động Hải quan khác là khu vực có ranh giới xác định
tại những nơi có hoạt động XK, NK, xuất cảnh, nhập cảnh cần có hoạt động
kiểm tra, giám sát, kiểm soát của cơ quan Hải quan. Trong đó:
- Tại khu vực cửa khẩu đường bộ là các khu vực có ranh giới xác định tại
một cửa khẩu đường bộ trên tuyến biên giới được quy định tại Phụ lục kèm theo
Nghị định 107/2002/NĐ- CP của Chính phủ. Trong trường hợp cần thiết phải

16
điều chỉnh phạm vi cụ thể địa bàn hoạt động Hải quan tại từng khu vực cửa khẩu
đường bộ, Bộ Tài chính sẽ chủ trì xem xét, trình Thủ tướng quyết định.
- Tại cửa khẩu ga đường sắt liên vận quốc tế gồm: Khu vực nhà ga sử dụng
cho các chuyến tầu liên vận quốc tế đi, đến; nơi hành khách xuất cảnh, nhập
cảnh; sân ga, khu vực cho hàng hoá XK, NK, quá cảnh; bến bãi và các khu vực
sử dụng cho các chuyến tầu hoả liên vận quốc tế đi, đến và thực hiện các dịch vụ
vận chuyển hàng hoá được XK, NK; những khu vực có các chuyến tàu hoả liên
vận quốc tế chưa làm thủ tục Hải quan, đang chịu sự giám sát, kiểm soát của cơ
quan Hải quan mà di chuyển đến một địa điểm khác.
- Tại cửa khẩu cảng hàng không dân dụng quốc tế bao gồm: Khu cách ly
của hành khách xuất cảnh, nhập cảnh; Khu vực sân ga, nhà ga hàng không, nơi
đi, đến của hành khách xuất cảnh, nhập cảnh có mang theo hàng hoá, hành lý
được XK, NK phải làm thủ tục Hải quan;
- Tại cửa khẩu cảng biển, cảng sông quốc tế bao gồm: khu vực ngăn cách
tính từ đường ranh giới phía ngoài của vùng nước cảng có hàng hoá ra vào cảng
phải chịu sự giám sát Hải quan đến ranh giới các cổng cảng, cụ thể gồm các khu
bãi cầu cảng, vùng neo đậu, chuyển tải, vùng tránh bão, vùng nước của nhiều
cảng gần kề nhau và luồng quá cảnh; khu vực đón trả hoa tiêu vào đến cảng và
nơi quy định cho tàu, thuyền xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh neo đậu để chờ vào
cảng biển, cảng sông quốc tế, neo đậu để chuyển tải và các luồng lạch từ các khu

vực nói trên vào cảng biển, cảng sông quốc tế; Những khu vực khác do Thủ
tướng Chính phủ quyết định trên cơ sở đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
- Tại bưu điện quốc tế bao gồm: Khu vực thuộc bưu điện quốc tế; khu vực
thuộc bưu điện và bưu cục kiểm quan nơi nhận chuyển thư tín, bưu kiện, bưu
phẩm, các dịch vụ chuyển phát nhanh với nước ngoài theo Công ước của Liên
minh bưu chính quốc tế và các quy định về bưu chính của nhà nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.

17
- Tại các khu vực ngoài cửa khẩu có thực hiện quản lý Hải quan là những
khu vực có ranh giới xác định mà ở đó được làm thủ tục Hải quan, giám sát Hải
quan, kiểm tra thực tế hàng hoá, cụ thể gồm: Các khu công nghiệp, khu chế xuất,
doanh nghiệp chế xuất, khu kinh tế cửa khẩu, khu thương mại tự do, khu vực ưu
đãi Hải quan; khu vực cảng nội địa (ICD), cảng chuyên dùng, kho ngoại quan,
kho bảo thuế, kho bãi chuyên dùng chứa hàng hoá XK, NK, quá cảnh của các tổ
chức vận tải kinh doanh và giao nhận hàng hoá XK, NK, quá cảnh; cửa hàng
kinh doanh hàng miễn thuế trong nội địa để bán hàng miễn thuế cho hành khách
xuất cảnh, nhập cảnh; khu vực địa điểm kiểm tra hàng hoá XK, NK, hoặc địa
điểm trưng bày, giới thiệu hàng hoá tạm NK.
- Phạm vi cụ thể địa bàn hoạt động Hải quan khác là các khu vực trên biển,
trên sông, trên bộ khi có phương tiện vận tải neo, đậu, di chuyển để vận chuyển
hàng hoá được XK, NK, phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh;
hàng hoá, phương tiện vận tải chuyển tải, chuyển cửa khẩu, quá cảnh đang trong
quá trình làm thủ tục Hải quan và chịu sự kiểm tra, giám sát, kiểm soát của cơ
quan Hải quan.
Tại các khu vực thuộc phạm vi địa bàn hoạt động Hải quan, cơ quan Hải
quan chủ trì, chủ động thực hiện các biện pháp nghiệp vụ để kiểm tra, giám sát,
kiểm soát; sử dụng các phương tiện kỹ thuật được trang bị để phát hiện, ngăn
ngừa, truy đuổi, khám xét, điều tra, bắt giữ, xử lý các hành vi buôn lậu, vận
chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới và các hành vi khác vi phạm pháp luật

Hải quan.
Như vậy, bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hoá tại biên giới
được hiểu là hoạt động của cơ quan Hải quan và chủ thể quyền SHTT của nhãn
hiệu hàng hoá, sử dụng các biện pháp hành chính để bảo vệ quyền sở hữu hợp
pháp nhãn hiệu, chống lại mọi sự xâm phạm để giữ nguyên vẹn quyền sở hữu
đối với nhãn hiệu đang được nhà nước bảo hộ trong phạm vi địa bàn hoạt động
Hải quan.

18
Phạm vi và hiệu lực bảo vệ quyền SHTT đối với các nhãn hiệu hàng hoá đã
được đăng ký là khác nhau mà theo một số tài liệu nghiên cứu gọi là "tính lãnh
thổ tuyệt đối", do phụ thuộc vào ý chí chủ quan của chủ sở hữu quyền SHTT, họ
có đăng ký quốc tế về nhãn hiệu hay không? và ngay cả khi nhãn hiệu có đăng
ký quốc tế, thì xét về mặt địa lý, phạm vi bảo hộ quốc tế cũng rộng, hẹp khác
nhau. Vì "Một đơn đăng ký nhãn hiệu do công dân của một nước thành viên của
Liên minh nộp tại bất cứ nước nào trong liên minh cũng không thể bị từ chối
hoặc một đăng ký nhãn hiệu cũng không thể bị huỷ bỏ với lý do rằng việc nộp
đơn đăng ký hoặc gia hạn tại nước xuất xứ không có hiệu lực. Một nhãn hiệu đã
đăng ký hợp lệ tại một nước thành viên của Liên minh được coi là không phụ
thuộc vào các nhãn hiệu đăng ký tại các nước thành viên khác của Liên minh, kể
cả nước xuất xứ." [42, 6].
1.3. Đặc điểm của việc bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hóa
tại biên giới
Bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hóa nói chung là hoạt động của
nhiều cơ quan thực thi pháp luật như: cơ quan Công an, Hải quan, Quản lý thị
trường, Thanh tra chuyên ngành, Tòa án, Ủy ban nhân dân các cấp và chủ thể
quyền SHTT của nhãn hiệu. Hoạt động này được thực hiện không giới hạn trên
toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, được thực hiện bằng nhiều biện pháp như: biện pháp
hành chính, biện pháp hình sự và biện pháp dân sự, bao gồm cả biện pháp tự bảo
vệ của chủ thể quyền SHTT. Bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hóa có

sự tham gia trực tiếp của đông đảo các tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp, các
Hiệp hội ngành nghề và cộng đồng xã hội. Đối tượng của hoạt động bảo vệ
quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hóa là toàn bộ hàng hóa mang nhãn hiệu
đang được bảo hộ theo pháp luật Việt Nam không phân biệt nguồn gốc là hàng
hóa sản xuất trong nước hay hàng hóa được NK từ nước ngoài.

19
Khác với hoạt động bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hóa nói
chung, bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hóa tại biên giới có những
đặc điểm riêng mang tính đặc thù. Cụ thể là:
Một là, về mặt chủ thể, bảo vệ quyền SHTT tại biên giới do cơ quan Hải
quan và chủ thể quyền SHTT có hàng hóa mang nhãn hiệu đã đăng ký kiểm tra,
giám sát tại cơ quan Hải quan được XK, NK qua biên giới quốc gia thực hiện.
Cơ quan Hải quan các cấp là cơ quan duy nhất có thẩm quyền áp dụng các biện
pháp kiểm soát biên giới đối với hàng hóa XNK liên quan đến SHTT theo quy
định của Luật SHTT và Luật Hải quan, bao gồm: biện pháp kiểm tra, giám sát
để phát hiện hàng hoá có dấu hiệu xâm phạm quyền SHTT và biện pháp tạm
dừng làm thủ tục Hải quan đối với hàng hóa bị nghi ngờ xâm phạm quyền
SHTT. Tại biên giới, cơ quan Hải quan có quyền kiểm tra, giám sát và kiểm
soát một cách toàn diện các hoạt động XNK hàng hóa liên quan đến SHTT.
Các chủ thể quyền SHTT muốn bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu gắn
trên hàng hóa XNK thuộc sở hữu của mình phải đăng ký kiểm soát biên giới tại
cơ quan Hải quan, có quyền yêu cầu cơ quan Hải quan tạm dừng làm thủ tục
Hải quan đối với hàng hóa có nghi nghờ xâm phạm quyền SHTT đối với nhãn
hiệu.
Hai là, hoạt động bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hóa tại biên
giới do cơ quan Hải quan thực hiện bằng biện pháp duy nhất là biện pháp hành
chính. Theo quy định của pháp luật, cơ quan Hải quan có thẩm quyền áp dụng
các biện pháp nghiệp vụ trong quá trình thực hiện nhiệm vụ quản lý Nhà nước
về Hải quan như các biện pháp: kiểm tra, giám sát và kiểm soát Hải quan, tạm

dừng làm thủ tục Hải quan đối với hàng hóa XK, NK có nghi ngờ xâm phạm
quyền SHTT. Khi phát hiện vi phạm, cơ quan Hải quan có quyền áp dụng các
biện pháp ngăn chặn và xử phạt vi phạm hành chính theo các trình tự, thủ tục
quy định của pháp luật xử lý vi phạm hành chính.

×