Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

Ngữ nghĩa các từ chỉ hoạt động chuyển rời đối tượng trong tiếng việt và tiếng lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (944.85 KB, 105 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN



ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

PHETLATY INTHADALINE

NGỮ NGHĨA CÁC TỪ CHỈ HOẠT ĐỘNG CHUYỂN RỜI
ĐỐI TƯỢNG TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG LÀO

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2016


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN



ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

PHETLATY INTHADALINE

NGỮ NGHĨA CÁC TỪ CHỈ HOẠT ĐỘNG CHUYỂN RỜI
ĐỐI TƯỢNG TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG LÀO
Chuyên ngành: Ngôn ngữ Việt Nam
Mã số: 60 22 01 02



LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ NHUNG

THÁI NGUYÊN - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn Thạc sĩ “Ngữ nghĩa các từ chỉ hoạt động chuyển
rời đối tượng trong tiếng Việt và tiếng Lào” là kết quả nghiên cứu của riêng tôi,
không sao chép của ai. Các số liệu, kết quả trong luận văn là trung thực và chưa được
công bố trong các công trình khác. Nếu sai, tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm./.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2016
Tác giả luận văn

Phetlaty INTHADALINE

i


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, với lòng biết ơn sâu sắc, em xin gởi lời cảm ơn chân thành nhất tới
cô giáo - TS. Nguyễn Thị Nhung đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ em hoàn
thành tốt luận văn này.
Em xin trân trọng cảm ơn các thầy, cô giáo trong Ban giám hiệu, Khoa Sau đại
học, Khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã tạo mọi điều
kiện để em hoàn thành khóa học và thực hiện tốt luận văn tốt nghiệp.
Em xin chân thành các thầy, cô giáo - những người đã tận tình giảng dạy,

hướng dẫn em trong suốt quá trình học tập và giúp đỡ em hoàn thành tốt luận văn này.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn chân thành tới người thân, bạn bè và các bạn
học viên lớp Cao học Ngôn ngữ K22 đã luôn giúp đỡ, động viên, khích lệ tôi trong
suốt thời gian vừa qua.
Xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2016
Tác giả luận văn

Phetlaty INTHADALINE

ii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ......................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN.............................................................................................................. ii
DANH MỤC BẢNG................................................................................................... iv
DANH

MỤC

NHỮNG

TỪ

VIẾT

TẮT

......................................................................v

MỞ
.......................................................................................................................1

ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................................1
2.
Lịch
sử
vấn
............................................................................................................2

đề

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.............................................................................3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................................3
5. Phương pháp nghiên cứu ...........................................................................................4
6.
Đóng
góp
mới
của
.......................................................................................4

luận

văn

7. Cấu trúc của luận văn.................................................................................................5
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.......................................................6

1.1. Khái quát về từ và nghĩa của từ ..............................................................................6
1.1.1. Khái quát về từ.....................................................................................................6
1.1.2. Khái quát về nghĩa của từ ....................................................................................8
1.2. Khái quát về động từ trong tiếng Việt và tiếng Lào .............................................15
1.2.1. Đặc điểm của động từ trong tiếng Việt và tiếng Lào.........................................15
1.2.2. Sự phân loại động từ trong tiếng Việt và tiếng Lào ..........................................17
1.3. Khái quát về nhóm từ chỉ hoạt động chuyển rời đối tượng trong tiếng Việt và
tiếng Lào ......................................................................................................................20
1.4. Vấn đề nghiên cứu đối chiếu về từ vựng, ngữ nghĩa ............................................21
1.5. Đôi nét về văn hóa truyền thống trong ứng phó với khoảng cách tự nhiên của
Việt
Nam

..........................................................................................................24

Lào

1.5.1. Văn hóa ứng phó với khoảng cách của Việt Nam .............................................24
1.5.2. Văn hóa ứng phó với khoảng cách của Lào.......................................................25
1.6. Tiểu kết chương 1 .................................................................................................25
Chương 2. TỪ CHỈ HOẠT ĐỘNG CHUYỂN RỜI ĐỐI TƯỢNG TRONG
TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG LÀO XÉT VỀ SỐ LƯỢNG VÀ Ý NGHĨA ................26
iii


2.1. Từ chỉ hoạt động chuyển rời đối tượng trong tiếng Việt và tiếng Lào xét về
số lượng .......................................................................................................................26

iv



2.1.1. Khái quát về số lượng từ chỉ hoạt động chuyển rời đối tượng trong tiếng Việt
và tiếng Lào .................................................................................................................26
2.1.2. Những trường hợp khác biệt trong hệ thống từ chỉ hoạt động chuyển rời đối
tượng trong tiếng Việt và tiếng Lào.............................................................................28
2.2. Từ chỉ hoạt động chuyển rời đối tượng trong tiếng Việt và tiếng Lào xét về ý
nghĩa.......33
2.2.1. Khái quát về ý nghĩa của từ chỉ hoạt động chuyển rời đối tượng trong tiếng
Việt và tiếng Lào..........................................................................................................33
2.2.2. Về các nhóm nét nghĩa và các nét nghĩa của từ chỉ hoạt động chuyển rời đối
tượng trong tiếng Việt và tiếng Lào.............................................................................45
2.3. Tiểu kết chương 2 .................................................................................................56
Chương 3. TỪ ĐA NGHĨA CHỈ HOẠT ĐỘNG CHUYỂN RỜI ĐỐI TƯỢNG
TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG LÀO................................................................59
3.1. Từ đa nghĩa chỉ hoạt động chuyển rời đối tượng trong tiếng Việt và tiếng Lào xét
về số lượng ...................................................................................................................59
3.2. Từ đa nghĩa chỉ hoạt động chuyển rời đối tượng trong tiếng Việt và tiếng Lào xét
về quan hệ giữa các nghĩa ............................................................................................61
3.2.1. Các nét nghĩa tham gia vào việc tạo nghĩa chuyển, phương thức chuyển nghĩa ở
từ chỉ hoạt động chuyển rời đối tượng tiếng Việt........................................................61
3.2.2. Các nét nghĩa tham gia vào việc tạo nghĩa chuyển, phương thức chuyển nghĩa ở
từ chỉ hoạt động chuyển rời đối tượng tiếng Lào ........................................................78
3.2.3. Đối chiếu các nét nghĩa tham gia và o việc tạo nghĩa chuyển và phương
thức chuyển nghĩa ở từ chỉ hoạt động chuyển rời đối tượng trong tiếng Việt và
tiếng Lào .....................................................................................................................86
3.3. Tiểu kết chương 3 .................................................................................................88
KẾT LUẬN.................................................................................................................89
TÀI
LIỆU
THAM

.........................................................................................92

iv

KHẢO


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Các từ chỉ hoạt động chuyển rời đối tượng trong tiếng Việt và tiếng Lào 26
Bảng 2.2. Trường hợp một từ tiếng Lào tương ứng với một số từ tiếng Việt ........... 29
Bảng 2.3. Trường hợp từ tiếng Việt tương ứng với một số từ tiếng Lào ................. 30
Bảng 2.4. Trường hợp từ tiếng Việt tương ứng với cụm từ tiếng Lào ..................... 31
Bảng 2.5. Hệ thống các nét nghĩa của từ chỉ hoạt động chuyển rời đối tượng trong
tiếng Việt và tiếng Lào ...................................................................... 37
Bảng 2.6: Khả năng xuất hiện của mỗi nét nghĩa ở các từ chỉ hoạt động chuyển rời
đối tượng trong tiếng Việt và tiếng Lào ............................................... 46
Bảng 2.7: Thống kê các từ chỉ hoạt động chuyển rời đối tượng trong tiếng Việt và
tiếng Lào theo lượng nét nghĩa ........................................................... 53
Bảng 2.8: Thống kê các cặp đồng nghĩa giữa từ chỉ hoạt động chuyển rời đối tượng
trong tiếng Việt và từ chỉ hoạt động chuyển rời đối tượng trong tiếng Lào
.......... 54
Bảng 2.9: Thống kê các cặp đồng nghĩa giữa từ chỉ hoạt động chuyển rời đối
tượng trong tiếng Việt và cụm từ chỉ hoạt động chuyển rời đối tượng
trong tiếng Lào ................................................................................ 55
Bảng 2.10: Thống kê các cặp gần nghĩa giữa từ chỉ hoạt động chuyển rời đối
tượng trong tiếng Việt và từ chỉ hoạt động chuyển rời đối tượng trong
tiếng Lào ......................................................................................... 55
Bảng 2.11: Thống kê các cặp gần nghĩa giữa từ chỉ hoạt động chuyển rời đối tượng
trong tiếng Việt và cụm từ chỉ hoạt động chuyển rời đối tượng trong
tiếng Lào ......................................................................................... 56

Bảng 3.1: Sự phân bố từ đa nghĩa chỉ hoạt động chuyển rời đối tượng và lượng nghĩa
chuyển của chúng trong tiếng Việt và tiếng Lào ................................... 59
Bảng 3.2: Hệ thống hóa các nét nghĩa được dùng làm cơ sở chuyển nghĩa của từ đa
nghĩa chỉ hoạt động chuyển rời đối tượng tiếng Việt ............................ 74
Bảng 3.3: Thống kê các phương thức chuyển nghĩa ở từ đa nghĩa chỉ hoạt động
chuyển rời đối tượng tiếng Việt .......................................................... 77
Bảng 3.4: Hệ thống hóa các nét nghĩa được dùng làm cơ sở chuyển nghĩa của từ đa
nghĩa chỉ hoạt động chuyển rời đối tượng tiếng Lào ............................. 84
Bảng 3.5: Thống kê các phương thức chuyển nghĩa ở từ đa nghĩa chỉ hoạt động
chuyển rời đối tượng tiếng Lào........................................................... 85
Bảng 3.6: Đối chiếu một số đặc điểm ngữ nghĩa của các từ đa nghĩa chỉ hoạt động
chuyển rời đối tượng trong tiếng Việt và tiếng Lào............................... 87
iv


DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
B1

: Bổ ngữ thứ nhất

B2

: Bổ ngữ thứ hai

CHĐCRĐT

: Chỉ hoạt động chuyển đối tượng

CN


: Chủ ngữ

CRĐT

: Chuyển rời đối tượng

C-V

: Chủ - vị

Đạt

: Đại từ

DT

: Dành từ

ĐT

: Động từ

NP

: Ngữ pháp

PT

: Phó từ


ST

: Số từ

TT

: Tính từ

VN

: Vị ngữ

v


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp giữa con người với con người trong xã
hội. Ngôn ngữ là phương tiện biểu đạt văn hóa, và bản thân nó cũng là một biểu hiện
của văn hóa.
Mỗi đất nước thường chọn cho mình một ngôn ngữ quốc gia/ ngôn ngữ chính
thức để sử dụng trong các hoạt động chính trị, xã hội, văn hóa và để giao tiếp giữa
các cộng đồng dân tộc. Ngôn ngữ quốc gia của những đất nước gần nhau về khoảng
cách địa lí và có những mối quan hệ gắn bó với nhau trong lịch sử chắc chắn sẽ có
những mối quan hệ tương đồng nhất định. Việt Nam và Lào nằm trong trường hợp
này. Cùng ở khu vực Đông Nam Á, Việt Nam và Lào là hai nước làng giềng có
truyền thống hữu nghị, tình anh em gắn bó keo sơn bền chặt từ lâu đời. Trong lịch sử
đấu tranh cách mạng và giải phóng dân tộc, Việt Nam và Lào đã chia sẻ đắng cay,
ngọt bùi. Hai nước có những điểm tương đồng đồng thời cũng có những đặc thù về
văn hóa. Đặc trưng văn hóa này chắc chắn được thể hiện trong ngôn ngữ. Vì vậy,

nghiên cứu tiếng Việt trong quan hệ đối chiếu với tiếng Lào, có thể thu nhận được
những thông tin bổ ích về nền văn hóa của hai dân tộc. Riêng với nhà nghiên cứu
Lào, đây là việc có thể giúp hiểu rõ hơn một ngôn ngữ mới và theo đó là đôi nét về
một nền văn hóa mới.
1.2. Động từ là một từ loại quan trọng hàng đầu trong hệ thống từ loại của mỗi
ngôn ngữ. Về mặt ngữ pháp động từ có thể giữ chức vụ ngữ pháp chính trong câu. Về
ngữ nghĩa, động từ là tâm điểm của nghĩa miêu tả. Động từ chỉ hoạt động chuyển rời
đối tượng (HĐCRĐT) là một bộ phận nhỏ trong tiếng Việt. Tuy vậy, nhóm động từ
này lại tương đối phong phú về số lượng và đặc biệt tinh tế về ý nghĩa, có thể phản
ánh phần nào về lịch sử, văn hóa Việt Nam. Qua hiểu biết sơ bộ của chúng tôi, so với
nhóm nói trên, nhóm động từ tương ứng ở tiếng Lào có những điểm thống nhất và
khác biệt về số lượng và ý nghĩa. Tuy nhiên, những thống nhất và khác biệt giữa hai
nhóm động từ này cụ thể ra sao là một việc mà chưa công trình nghiên cứu nào đề cập
tới.
Vì những lí do trên mà chúng tôi chọn đề tài “Ngữ nghĩa các từ chỉ hoạt động
chuyển rời đối tượng trong tiếng Việt và tiếng Lào”.
1


2. Lịch sử vấn đề
Trong Việt ngữ học, hầu hết các công trình có nghiên cứu về từ pháp đều đề
cập tới động từ. Đó là những công trình như: Ngữ pháp tiếng Việt, tập I (Diệp Quang
Ban, Hoàng Văn Thung, 1991), Từ loại tiếng Việt hiện đại (Lê Biên, 1999), Ngữ
pháp tiếng Việt - Giáo trình đào tạo GV THCS hệ CĐSP (Diệp Quang Ban, Hoàng
Dân, 2000), Tiếng Việt hiện đại (Nguyễn Văn Thành, 2001), Ngữ pháp tiếng Việt
(Nguyễn Thị Nhung, 2014).
Cũng có công trình nghiên cứu tương đối toàn diện về động từ như: Động từ
trong tiếng Việt (Nguyễn Kim Thản,1977). Một số công trình khác lại đi sâu tìm hiểu
một phương diện nào đó của động từ như: Phân loại động từ tiếng Việt (I.S.Bystov,
1966), Nhóm động từ chỉ hướng tiếng Việt (Nguyễn Lai, 1976), Ngữ nghĩa và cấu

trúc của động từ (Vũ Thế Thạch nghiên cứu, 1984), Kết trị của động từ tiếng Việt
(Nguyễn Văn Lộc, 1995), Vị từ hoạt động và các tham tố của nó (Nguyễn Thị Quy,
1995). Nhìn chung, trong những công trình trên đây, vấn đề tiêu chí xác định và phân
loại động từ, đặc điểm ý nghĩa và khả năng kết hợp của động từ đã được nghiên cứu
tương đối kĩ.
Từ loại, trong đó có động từ tiếng Lào từng được đề cập tới trong một số
chuyên luận, đề cương bài giảng, sách giáo khoa và khóa luận tốt nghiệp. Đó là
chuyên luận Ngữ pháp Lào (Phoumy VONGVICHITH, 1967); các đề cương bài
giảng: Các từ loại trong tiếng Lào của tác giả Saysana CHANTHAOUDOM thuộc
khoa Ngữ văn, Trường Đại học Quốc gia năm 2000; Hệ thống ngôn ngữ Lào của tác
giả Bounlerth SENGSOULINE, khoa Ngữ văn, Trường Đại học Quốc gia năm 2002.
Cuốn sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7 do Bộ giáo dục Lào ban hành năm 2008 của
nhóm tác giả Methong SOUVANVIXAY, Khamhung SENMANY, Venphet
SYSOULATH, Somphai

VILAYSACK,

Meexay

SOUKCHALERN, Aonkeo

NUANENAVONG, Khamsone THONGMEEXAY, Bounlerth SENGSOULINE,
Duangta MANYVONG và khóa luận tốt nghiệp đại học: Động từ đồng nghĩa trong
tiếng Lào của nhóm tác giả Chansouly BUASAVANH, Keopanya INTHADALINE
và Soulixay XAYSOMBOUN đều đề cập đến động từ tiếng Lào.

2


Nghĩa của từ với các vấn đề về bản chất của nghĩa, các thành phần nghĩa, mối

quan hệ giữa các nghĩa trong từ nhiều nghĩa hay mối quan hệ giữa các từ về mặt ngữ
nghĩa (sự phân chia vốn từ theo tiêu chí ngữ nghĩa) cũng đã được nhiều nhà Việt ngữ
học quan tâm. Những người có đóng góp tiêu biểu về lĩnh vực này là Đỗ Hữu Châu
với Từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt (1981), Các bình diện của từ và từ tiếng Việt
(1986), Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng(1987) và Nguyễn Thiện Giáp với Từ và từ
vựng học tiếng Việt (2014). Ngoài ra là đóng góp của tác giả Lê Quang Thiêm với
Ngữ nghĩa học (2006), Nguyễn Thiện Giáp với Từ và từ vựng học tiếng Việt (2014),
Phan Thị Nguyệt Hoa với Từ đa nghĩa từ vựng trong tiếng Việt hiện đại (2012), Đỗ
Việt Hùng với Ngữ nghĩa học (từ bình diện hệ thống đến hoạt động)(2013), và một số
tác giả khác.
Riêng vấn đề đối chiếu các từ chỉ hoạt động chuyển rời đối tượng trong tiếng
Việt và tiếng Lào về phương diện ngữ nghĩa thì chưa được công trình nào đi sâu
nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Qua việc làm rõ những điểm tương đồng và khác biệt giữa hệ thống từ chỉ
HĐCRĐT trong tiếng Việt và tiếng Lào về các mặt số lượng và ngữ nghĩa, có thể
giúp nắm vững hơn về từ chỉ HĐCRĐT nói riêng, động từ tiếng Việt, tiếng Lào nói
chung và có thêm hiểu biết về lịch sử, văn hóa, tư duy của hai cộng đồng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xác định cơ sở lí luận cho việc nghiên cứu đề tài.
- Thống kê số lượng của từ chỉ HĐCRĐT trong tiếng Việt và tiếng Lào.
- Phân tích, đối chiếu cấu trúc nghĩa biểu niệm trong nghĩa chính của các từ
chỉ HĐCRĐT trong tiếng Việt và tiếng Lào.
- Đối chiếu cơ cấu nghĩa của từ đa nghĩa chỉ HĐCRĐT trong tiếng Việt và
tiếng Lào.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các từ chỉ hoạt động chuyển rời đối tượng
trong tiếng Việt và tiếng Lào.

3


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là các từ chỉ HĐCRĐT trong tiếng Việt và
tiếng Lào hiện đại xét ở mặt số lượng, ở cấu trúc nghĩa của từng từ và hệ thống nghĩa
của các từ đa nghĩa.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Dùng các thủ pháp phân loại, phân tích, tổng hợp để tìm hiểu các tài liệu đã đề
cập đến động từ trong tiếng Việt và tiếng Lào cùng các vấn đề khác có liên quan đến
đề tài nhằm có cơ sở cho việc viết lịch sử vấn đề và xây dựng nền tảng lí luận cho
việc nghiên cứu đề tài.
5.2. Phương pháp điều tra khảo sát
Sử dụng để tập hợp các từ chỉ HĐCRĐT trong tiếng Việt và tiếng Lào.
5.3. Phương pháp miêu tả
Với các thủ pháp:
- Thủ pháp thống kê toán học;
- Thủ pháp phân loại và hệ thống hóa;
- Thủ pháp phân tích nghĩa tố;
- Thủ pháp phân tích ngôn cảnh;
- Thủ pháp thay thế, lược bỏ.
Để giúp làm nổi rõ các đặc trưng về số lượng, cấu trúc nghĩa của từng từ và hệ
thống nghĩa của một số từ đa nghĩa.
5.4. Phương pháp so sánh đối chiếu
Nhằm tìm ra sự thống nhất và khác biệt giữa từ chỉ HĐCRĐT trong tiếng Việt
với bộ phận tương ứng trong tiếng Lào.
6. Đóng góp mới của luận văn
6.1. Về lí luận
Nghiên cứu, làm rõ những đặc trưng về số lượng, ngữ nghĩa của nhóm động

từ chỉ HĐCRĐT trong tiếng Việt và tiếng Lào; làm rõ sự thống nhất và khác biệt giữa
hai nhóm. Từ đó, góp phần chỉ ra những đặc trưng về lịch sử, văn hóa Việt Nam và
Lào, cùng tư duy của hai cộng đồng ngôn ngữ, cách dịch chuyển giữa hai ngôn ngữ.

4


6.2. Về thực tiễn
Công trình có thể trở thành tài liệu tham khảo cho những người làm từ điển
song ngữ Việt - Lào, những người làm công tác dịch thuật và những người muốn tìm
hiểu ngôn ngữ và văn hóa Việt - Lào.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận văn dự kiến
gồm 3 chương cụ thể là:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn.
Chương 2: Từ chỉ hoạt động chuyển rời đối tượng trong tiếng Việt và tiếng
Lào xét về số lượng và ý nghĩa.
Chương 3: Từ đa nghĩa chỉ hoạt động chuyển rời đối tượng trong tiếng Việt
và tiếng Lào.

5


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. Khái quát về từ và nghĩa của từ
1.1.1. Khái quát về từ
1.1.1.1. Khái niệm từ
Mặc dù hầu hết các nhà ngôn ngữ học đều thừa nhận từ là đơn vị cơ bản của

ngôn ngữ, nhưng nhận diện và định nghĩa từ thì không dễ. Bởi từ trong các ngôn ngữ
khác nhau có thể khác nhau về cách định hình, về chức năng và đặc điểm ý nghĩa.
Thậm chí trong một ngôn ngữ, cũng có những điểm không thống nhất giữa các bộ
phận từ.
Có rất nhiều định nghĩa về từ nói chung của mọi ngôn ngữ trên thế giới cũng
như về từ tiếng Việt, từ tiếng Lào. Ở đây, chúng tôi chỉ xin chọn ra những định nghĩa
mà chúng tôi cho rằng có tính tiêu biểu.
Định nghĩa có phổ quát về từ là: “Từ là đơn vị nhỏ nhất của ngôn ngữ, độc lập
về ý nghĩa và hình thức” [dẫn theo 17, tr.32].
Định nghĩa này giúp phân biệt từ với đơn vị nhỏ hơn nó - hình vị - ở tính độc
lập, và đơn vị lớn hơn nó là câu - ở chỗ chưa phải là đơn vị thông báo.
Về từ tiếng Việt, chúng tôi chọn định nghĩa của tác giả Đỗ Hữu Châu:
“Từ của tiếng Việt là một hoặc một số âm tiết cố định, bất biến, mang những
đặc trưng ngữ pháp nhất định, nằm trong những kiểu cấu tạo nhất định, tất cả ứng với
một kiểu ý nghĩa nhất định, lớn nhất trong tiếng Việt1 và nhỏ nhất để tạo câu” [24,
tr.69].
Định nghĩa này giúp chỉ rõ những gì thuộc về bản thân từ: một đơn vị có
phương diện hình thức (gồm các thành phần: ngữ âm, ngữ pháp, cấu tạo); phương
diện nội dung (ý nghĩa); có vị trí nhất định trong tiếng Việt và có chức năng tạo câu.
Từ tiếng Lào thì được định nghĩa là: “Từ là đơn vị nhỏ nhất của ngôn ngữ, độc
lập về ý nghĩa và hình thức” [43, tr.2].
6


1.1.1.2. Đặc điểm của từ
Theo các nhà nghiên cứu đi trước, từ nói chung có một số đặc điểm chính
như sau1:
- Về sự tồn tại: từ là đơn vị có sẵn trong ngôn ngữ; là đơn vị dùng chung, sở
hữu chung trong cùng một cộng đồng ngôn ngữ;
- Về cấu tạo: từ được tạo thành bởi một hoặc một số âm tiết cố định, bất biến;

- Về nội dung: từ có thể biểu thị ý nghĩa từ vựng, ý nghĩa ngữ pháp, ý nghĩa
tình thái; hay là dấu hiệu của những cảm xúc nào đó.
- Về chức năng: từ là đơn vị trực tiếp nhỏ nhất để tạo câu.
Ngoài những đặc điểm chung nêu trên, từ tiếng Việt và từ tiếng Lào còn có
đặc điểm là: không biến hình trong sử dụng.
1.1.1.3. Vấn đề phân loại từ
Từ có thể được phân loại dựa vào nhiều tiêu chí. Trong đó có hai tiêu chí quan
trọng là tiêu chí cấu tạo và tiêu chí ngữ pháp.
- Dựa vào tiêu chí cấu tạo, từ tiếng Việt được phân thành: từ đơn, từ láy, từ
ghép. Từ đơn là: “Từ do hình vị độc lập tạo thành” [42, tr.325].
Từ láy là: “Nói chung là những từ được cấu tạo bằng cách nhân đôi tiếng gốc
theo những quy tắc nhất định, sao cho quan hệ giữa các tiếng trong từ vừa điệp, vừa
đối, hài hòa với nhau về âm và về nghĩa, có giá trị biểu trưng hóa”. [42, tr.376]
Từ ghép là: “Từ gồm từ hai hình vị trở lên đều có khả năng tách ra để dùng
độc lập” [42, tr.359].
- Dựa vào tiêu chí ngữ pháp, từ tiếng Việt được chia thành hai nhóm lớn là
thực từ và hư từ. Thực từ và hư từ có một số điểm phân biệt nhau:
+ Thực từ là những từ có ý nghĩa từ vựng còn hư từ thì không.
+ Thực từ là những từ có khả năng làm trung tâm đoản ngữ còn hư từ thì không.
+ Thực từ là những từ có thể giữ chức vụ ngữ pháp chính trong câu (làm chủ
ngữ, vị ngữ) còn hư từ thì không.
Thực từ và hư từ lại tiếp tục được phân chia thành các từ loại. Động từ là một
từ loại nằm trong nhóm thực từ.
1

Thuật ngữ “tiếng Việt” được hiểu là hệ thống ngôn ngữ Việt Nam. (Chú thíc của Đỗ Hữu Châu)

7



1.1.2. Khái quát về nghĩa của từ
1.1.2.1. Khái niệm nghĩa của từ
Sự vật, hiện
tượng
khách quan

phản ánh vào
tư duy

ngôn ngữ
Khái
niệm

hóa

Ý nghĩa
của từ

Nghĩa của từ là khái niệm về sự vật, hiện tượng trong thực tế khách quan được
phản ánh vào trong tư duy, được ngôn ngữ hóa.
1.1.2.2. Các thành phần nghĩa của từ
a. Ý nghĩa biểu vật (nghĩa biểu vật)
Ý nghĩa biểu vật là liên hệ giữa từ với sự vật (hoặc hiện tượng, thuộc tính,
hành động...) mà nó chỉ ra. Bản thân sự vật, hiện tượng, thuộc tính, hành động..., đó
người ta gọi là biểu vật hay cái biểu vật.
Biểu vật có thể hiện thực hoặc phi hiện thực, hữu hình hoặc vô hình, có bản
chất vật chất hoặc phi vật chất.
Ví dụ: đất, trời, mưa, nắng, lạnh, ma, quỷ, thánh, thần, thiên đường...
b. Ý nghĩa biểu niệm (nghĩa biểu niệm)
Ý nghĩa biểu niệm là liên hệ giữa từ với ý (hoặc ý nghĩa, ý niệm). Các ý đó

người ta gọi là cái biểu niệm.
Nghĩa biểu niệm của từ chứa đựng những hiểu biết của con người về những
thuộc tính bản chất của sự vật, hiện tượng trong thực tế khách quan.
Ví dụ: Từ “bàn” (danh từ): (Đồ dùng), (Có mặt phẳng được đặt cách mặt nền
một khoảng đủ lớn bởi các chân), (Dùng để đặt đồ vật, sách vở, hoặc để viết)...
Đối với từ vựng ngữ nghĩa học, cái quan trọng là nghĩa biểu niệm. Trọng tâm
chú ý phân tích miêu tả của từ vựng - ngữ nghĩa học là nghĩa biểu niệm.
c. Ý nghĩa biểu thái (nghĩa biểu thái, nghĩa biểu cảm, nghĩa hàm chỉ)
Nghĩa biểu thái là mối liên hệ giữa từ với thái độ chủ quan, cảm xúc của
người nói.
Ví dụ: to, nhỏ, mạnh, yếu... (nhân tố đánh giá)/ ma quái, chém giết, tàn sát...
(nhân tố cảm xúc sợ hãi) đê tiện, hèn ha, lì lợm... (nhân tố bộc lộ sự khinh bỉ).
Các thành phần nghĩa nói trên hiện diện trong mỗi từ không phải bao giờ cũng
đồng đều và rõ ràng như nhau [25, tr.88-89].
8


d. Nét nghĩa
Đon vị giới hạn tối thiểu của bình diện nội dung; còn gọi là thành tố nghĩa,
dấu hiệu ngữ nghĩa khu biệt, chỉ số ngữ nghĩa, nghĩa ngữ vị, nét nghĩa. Nghĩa tố là
những sự phản ánh cơ sở các mặt và các thuộc tính khác nhau của các sự vật và hiện
tượng của thực tế được biểu hiện trong ngôn ngữ. Nghĩa tố là đơn vị có tính chất thao
tác của phương pháp phân tích thành tố nghĩa khi nghiên cứu trường ngữ nghĩa của
các từ và các biến thể từ vựng - ngữ nghĩa của từ , xác định sự giống và khác nhau
của chúng. Nghĩa tố thường được hiện thực hóa như là những thành tố của nghĩa cơ
bản (biến thể từ vựng- ngữ nghĩa) của từ. Trong nghĩa cơ bản của từ có thể có một
hoặc một số nghĩa tố nằm trong quan hệ có thứ bậc, có giá trị và vai trò khác nhau
[42, tr.148].
1.1.2.3. Hiện tượng nhiều nghĩa
a. Nhận xét chung

Ngôn ngữ có quy luật tiết kiệm vô cùng kì diệu: dùng cái hữu hạn để biểu hiện
cái vô hạn. Quy luật này thể hiện ở tất cả các mặt ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp. Ở
ngữ âm, với vài chục âm vị, bằng cách kết hợp khác nhau có thể tạo nên một số lượng
rất lớn các âm tiết. Trong ngữ pháp, với một số từ hữu hạn, có thể tạo ra các câu biểu
hiện toàn bộ thế giới tư tưởng phong phú và đa dạng của con người. Về mặt từ vựng,
quy luật tiết kiệm của ngôn ngữ thể hiện ở chỗ: cùng một hình thức ngữ âm có thể
diễn đạt nhiều nội dung khác nhau. Vì vậy, hiện tượng đa nghĩa được xem là một
trong những quy luật có tính phổ quát của các ngôn ngữ. Giở bất kì cuốn từ điển
tường giải nào của tiếng Việt, chúng ta cũng bắt gặp ngay hiện tượng đa nghĩa. Ví dụ,
trong Từ điển tiếng Việt phổ thông (A-C), từ bện có hai nghĩa: 1. Chập nhiều sợi lại
thành dây, rồi tết các dây đó thành sợi to hoặc thành đồ dùng. 2. Quấn và dính chặt
vào (rơm bện vào bánh xe); từ cây có ghi 5 nghĩa: 1. Thực vật có thân, lá rõ rệt hoặc
có hình thù giống những thực vật có thân, lá; 2. Từ dùng để chỉ từng đơn vị riêng lẻ
thuộc loại vật có hình thức như thân cây; 3. Gỗ (địa phương); 4. Từ dùng để chỉ
người thông thạo đặc biệt về một mặt nào đó trong sinh hoạt; 5. Cây số.
So với nhiều ngôn ngữ khác trên thế giới, hiện tượng đa nghĩa trong tiếng Việt
cũng có những đặc điểm riêng của mình.


Để biểu thị những sự vật, hiện tượng hoặc khái niệm mới ra đời, tiếng Việt có
thiên hướng cấu tạo các đơn vị từ vựng mới hơn là phát triển nghĩa của các đơn vị từ
vựng đã có từ trước. Theo Nguyễn Thiện Giáp thì số đơn vị có nhiều nghĩa, cũng như
số nghĩa trong những từ đa nghĩa của tiếng Việt đều thấp so với nhiều ngôn ngữ khác.
Trong khi đó, số lượng các đơn vị từ vựng mới tăng lên rất nhanh, đặc biệt là những
đơn vị hai âm tiết [17, tr,187, 188].
Hiện tượng đa nghĩa của tiếng Việt chủ yếu xảy ra ở các từ. Các tổ hợp từ
cũng có hiện tượng nhiều nghĩa, song tỉ lệ rất thấp. Hiện tượng đa nghĩa của tiếng
Việt có hai kiểu sau đây:
1) Hiện tượng đa nghĩa của các từ độc lập về nghĩa, hoạt động tự do.
2) Hiện tượng đa nghĩa của các từ độc lập về nghĩa, hoạt động hạn chế.

Các nghĩa của mỗi từ đa nghĩa có thể thuộc hai loại: nghĩa tự do và nghĩa hạn
chế2. Nghĩa tự do là nghĩa liên hệ trực tiếp với sự phản ánh các hiện tượng của thực tế
khách quan. Sự hoạt động của các nghĩa này không bị hạn chế vào các ngữ cố định,
mà có mối quan hệ rộng rãi và nhiều vẻ. Bởi vì rằng mối quan hệ của các từ có nghĩa
tự do với các từ khác không phải do quy luật nội tại của hệ thống từ vựng quy định
mà do bản thân những mối liên hệ có thật tồn tại giữa những sự vật hiện tượng khách
quan được các từ này biểu thị quy định. Chẳng hạn, bộ phận thân thể được gọi là cổ
có thể ngắn, dài, rám nắng,... nhưng nó không biết nghe, biết đi, biết suy nghĩ,... cho
nên từ cổ có thể kết hợp với dài, ngắn, rám nắng, mà không kết hợp với nghe, đi, suy
nghĩ,... Nghĩa hạn chế là nghĩa chỉ được thể hiện trong những kết hợp hạn chế. Các từ
trong kiểu tổ hợp này kết hợp với nhau không phải do nội dung lôgic của các từ mà
do quy luật nội tại của hệ thống từ vựng quy định. Ví dụ: Nghĩa của các từ dài,
chua... trong áo dài (một kiểu áo của phụ nữ), cà chua (một loại cà để ăn)... là các
nghĩa hạn chế, bởi vì chỉ trong các ngữ cố định trên, dài mới có nghĩa là một loại áo,
chua mới biểu thị một loại cà. Có lẽ đối với tiếng Việt, nghĩa hạn chế là hiện tượng
phổ biến hơn các ngôn ngữ khác. Mặc dù chưa kiểm tra được toàn bộ các từ trong từ
điển, song có thể cho rằng một khi tiếng Việt đã phát triển mạnh khả năng cấu tạo các

2

Về khái niệm “nghĩa tự do và nghĩa chế” xin xem V.V. Vinôgradov. Các kiểu nghĩa từ vựng cơ bản của từ,
trong “Những vấn đề ngôn ngữ học”, số 5, 1955.


ngữ thì các nghĩa hạn chế cũng sẽ tăng lên. Chính các nghĩa hạn chế góp phần tạo ra
tính cố định của các cụm từ.
Từ đơn nghĩa thì hoặc chỉ có nghĩa tự do (ví dụ bầu - người làm chủ hoặc đỡ
bầu một gánh hát, một đội thể thao trong xã hội cũ) hoặc chỉ có nghĩa hạn chế (ví dụ:
đai trong đất đai, lẽo trong lạnh lẽo).
Từ đa nghĩa có thể vừa có nghĩa tự do vừa có nghĩa hạn chế. Ví dụ: dài, theo

Từ điển tiếng Việt của Văn Tân có 3 nghĩa tự do: 1. Từ đầu nọ đến đầu kia có một
quãng; 2. Lâu mới hết; 3. Nhiều. Dài trong áo dài có nghĩa hạn chế; chua, theo Từ
điển tiếng Việt phổ thông (A - C) có 5 nghĩa tự do: 1. có vị như vị của chanh, dấm;
2.Có chứa nhiều chất axít (nói về đất); a. Có mùi của chất lên men như mùi của dấm;
4. Giọng the thé nghe khó chịu; 5. Khó khăn vất vả rất nhiều. Chua trong cà chua có
nghĩa hạn chế.
Trong các nghĩa của một từ đa nghĩa có một nghĩa là cơ bản còn các nghĩa
khác là nghĩa phái sinh. Nghĩa cơ bản thường phải là nghĩa tự do. Trường hợp từ có
một vài nghĩa tự do, thì có một nghĩa tự do là cơ bản, các nghĩa khác là nghĩa tự do
phái sinh. Trong các ví dụ trên, nghĩa thứ nhất là nghĩa cơ bản, các nghĩa còn lại là
nghĩa phái sinh.
b. Các kiểu nghĩa của đơn vị đa nghĩa
b.1. Nghĩa trực tiếp và nghĩa chuyển tiếp
Căn cứ vào sự khác nhau của những mối quan hệ với sự vật có thể chia ra
nghĩa trực tiếp (direct meaning) và nghĩa chuyển tiếp (transferred meaning). Nghĩa
trực tiếp là nghĩa phản ánh sự vật một cách trực tiếp không thông qua nghĩa nào
khác của từ này. Nghĩa chuyển tiếp là nghĩa phản ánh đối tượng gián tiếp thông qua
nghĩa khác. Hai kiểu nghĩa này cũng đối lập nhau ở chỗ có thể giải thích được hay
không giải thích được. Nghĩa chuyển tiếp bao giờ cũng có thể giải thích được qua
nghĩa trực tiếp, còn nghĩa trực tiếp không giải thích được.
b.2. Nghĩa đen và nghĩa bóng
Cách chia ra nghĩa đen và nghĩa bóng trong các từ điển tiếng Việt hiện có và
cả trong các tài liệu ngôn ngữ nước ngoài thực chất là dựa trên sự đối lập có tính
hình tượng hay không có tính hình tượng. Nghĩa đen là nghĩa vốn có của từ, không
có tính hình tượng. Ngược lại, nghĩa bóng có tính hình tượng. Thực chất, nghĩa


bóng cũng là một kiểu nghĩa chuyển tiếp: nghĩa bóng biểu thị sự vật gián tiếp thông
qua nghĩa đen. Tuy nhiên, không phải tất cả các nghĩa chuyển tiếp đều là nghĩa
bóng. Những nghĩa chuyển tiếp đã mất tính hình tượng tạo ra các nghĩa đen của từ

chứ không phải nghĩa bóng.
Mặt khác cần phân biệt nghĩa bóng của từ với những trường hợp dùng từ tạm
thời trong ngữ cảnh nào đó, có tính chất cá nhân. Người ta chỉ có thể coi là nghĩa của
từ khi nào nghĩa đó được xã hội thừa nhận và sử dụng.
b.3.Nghĩa thông thường và nghĩa thuật ngữ
Căn cứ vào sự khác nhau của mối quan hệ đối với nhận thức, có thể chia ra
nghĩa thông thường và nghĩa thuật ngữ. Nghĩa thông thường và nghĩa thuật ngữ phản
ánh trình độ nhận thức khác nhau đối với sự vật, hiện tượng. Nghĩa thông thường
phản ánh những đặc điểm bên ngoài của sự vật, đủ để phân biệt những đối tượng
cùng loại được khái quát trong nghĩa đó với những đối tượng khác. Nghĩa thuật ngữ
phản ánh những thuộc tính bản chất của sự vật, hiện tượng.
b.4. Nghĩa chính và nghĩa phụ, nghĩa tự do và nghĩa hạn chế
Căn cứ vào sự khác nhau của mối quan hệ đối với các từ khác trong ngôn ngữ,
người ta phân loại nghĩa của từ đa nghĩa thành nghĩa chính và nghĩa phụ, nghĩa từ do
và nghĩa hạn chế.
Nghĩa chính là nghĩa thường dùng nhất. Cơ sở của việc phân chia nghĩa chính
và nghĩa phụ là nguyên tắc thống kê. Thực tế, trong các từ điển, người ta không nêu
lên con số thống kê nào mà chỉ dựa vào ngữ cảm của người biên soạn từ điển.
Nghĩa tự do là nghĩa liên hệ trực tiếp với sự phản ánh các hiện tượng của thực
tế khách quan. Nghĩa hạn chế là nghĩa được thực hiện trong các thành ngữ. Các từ
trong các thành ngữ này kết hợp được với nhau không phải do nội dung logic của các
từ mà do quy luật nội tại của hệ thống từ vựng.
b.5. Nghĩa gốc và nghĩa phái sinh
Căn cứ vào sự hình thành và phát triển của các nghĩa, có thể chia ra nghĩa gốc
và nghĩa phái sinh. Ví dụ: Nghĩa gốc của từ thẻ là mảnh tre, gỗ,... dẹp và mỏng, dùng
để ghi nhận hoặc đánh dấu điều gì, chẳng hạn: vào đền xin thẻ. Các nghĩa khác của từ


thẻ là nghĩa phái sinh: thẻ trong “thẻ nhà báo” có nghĩa là giấy chứng nhận một tư
cách nào đó; thẻ trong “thẻ đỏ” có nghĩa là thẻ màu đỏ, trọng tài dùng để phạt đuổi ra

khỏi sân đối với cầu thủ bóng đá phạm lỗi.
c. Cấu trúc nghĩa của đơn vị đa nghĩa
Thực tế ngôn ngữ học ngày càng chứng tỏ rằng mặt nghĩa của các đơn vị từ
vựng không phải là sự tổng hợp giản đơn của các nghĩa khác nhau mà là một hệ
thống các yếu tố có liên hệ và quy định lẫn nhau. Xác định cấu trúc ngữ nghĩa của từ
cũng như của các đơn vị từ vựng khác cần phải một mặt tách ra các nghĩa khác nhau
của chúng, mặt khác, phải làm sáng tỏ những mối liên hệ và sự quy định lẫn nhau
giữa các nghĩa đó. Chúng tôi sẽ phân tích cấu trúc ngữ nghĩa của từ đầu để minh họa
vấn đề này.
Từ đầu có nghĩa là: (bộ phận chủ chốt của người hay loài vật), (ở trên hết hoặc
trước hết), (có chứa đựng bộ óc). Các nghĩa khác của từ đầu đã phát triển dựa theo
một thuộc tính nào đó ở nghĩa cơ bản. Dòng nghĩa phái sinh mạnh nhất đã phát triển
dựa vào biểu tượng về vị trí của đầu. Theo hướng này, ta thấy các nghĩa sau: 1. a) Vị
trí trên hết hoặc trước hết. Nghĩa này, thường kèm theo sắc thái “vị trí danh dự”, “vị
trí điều khiển, lãnh đạo”. Ngoài ra, chúng tôi thấy có các kết hợp như: đầu đạn, đầu
đanh, đầu mấu, đầu mắt. Có thể những kết hợp này biểu hiện một bước phát triển xa
hơn của nghĩa “vị trí trước hết, trên hết.” Chúng bao hàm vị trí có thể tác động đến
người ta trước nhất; 1. b) Vị trí tận cùng. Nghĩa này cũng năng động linh hoạt thể
hiện trong nhiều trường hợp: đầu nhà, đầu đường, đầu hè, đầu dây. Một vật có thể có
hai điểm tận cùng trái ngược nhau. Vì vậy, tiến thêm một bước trên con đường khái
quát hóa, trừu tượng hóa, đầu có thêm sắc thái “đằng”, “phía”.
Dòng nghĩa thứ hai phát triển dựa vào thuộc tính về chức năng điều khiển của
bộ óc. Do đó đã tạo ra nghĩa 2 là “trí tuệ, ý chí”.
Cuối cùng, đầu có thể phát triển thêm nghĩa “chỉ đơn vị”: một đầu trâu, cá kể
đầu rau kể mớ... Đây là nghĩa phái sinh thứ ba độc lập với hai dòng nghĩa trên. Kiểu
chuyển nghĩa này không hoàn toàn gần với thuộc tính riêng của nghĩa gốc mà nằm


trong một quy luật chung lớn hơn: danh từ chỉ sự vật chuyển thành từ chỉ đơn vị (một
ca nước, một thúng gạo, ...).

3

2

*

1a

1b

Nếu thể hiện bằng sơ đồ, trong đó, mũi tên hướng vào nghĩa phái sinh, ta thấy:
Các nghĩa phái sinh có thể quan hệ trực tiếp với các nghĩa gốc (1a, 2, 3), có thể
quan hệ gián tiếp với nghĩa gốc thông qua một nghĩa khác (1b). Tất cả các nghĩa liên
hệ lẫn nhau làm thành một hệ thống.
Đa nghĩa là kết quả của các quá trình chuyển nghĩa mà thực chất chuyển nghĩa
lại là “quá trình biểu tượng hóa của tín hiệu một quá trình vốn có nguồn gốc tâm lí
của nó trong đời sống xã hội và được ghi lại một cách tế nhị, độc đáo trong ngôn
ngữ”3. Cho nên, nếu so sánh kết cấu ngữ nghĩa của các từ tương ứng trong các ngôn
ngữ khác nhau, chúng ta sẽ phát hiện thấy những điều thú vị, bổ ích.
d. Các phương thức chuyển nghĩa
Để chuyển biến ý nghĩa, tạo từ nhiều nghĩa, tiếng Việt có thể dùng các phương
thức mở rộng nghĩa, thu hẹp nghĩa, ẩn dụ, hoán dụ.
- Mở rộng nghĩa: là một quá trình phát triển cái riêng đến cái chung, từ cái cụ
thể đến cái trừu tượng. Ý nghĩa được hình thành nhờ quá trình này gọi là nghĩa rộng.
Bản thân từ bắt đầu biểu thị khái niệm rộng trong khi đó không thay đổi nghĩa cơ sở
của mình.
- “Thu hẹp nghĩa: là quá trình ngược lại. Phạm vi nghĩa của các từ phát triển
từ cái chung đến cái riêng, từ cái trừu tượng đến cái cụ thể” [15, tr.225].
Việc mở rộng và thu hẹp nghĩa không nhất thiết làm cho nghĩa cũ mất đi mà
nhiều khi cả hai nghĩa cùng tồn tại tạo nên sự đa nghĩa của từ.

3

Xem Hoàng Tuệ: “Tín hiệu và biểu tượng”, tạp chí “Văn nghệ”, 1977, số 11, tr.7; Chung quanh một cái từ
nho nhỏ của tiếng Việt ta, “Tác phẩm mới”, 1973, số 4.


- “Ẩn dụ: là cách gọi tên một sự vật này bằng tên của một sự vật khác, giữa
chúng có mối quan hệ tương đồng” [42, tr. 19].
- “Hoán dụ: là hiện tượng chuyển hóa về tên gọi - tên của một đối tượng này
được dùng để gọi vật kia - dựa trên quy luật liên tưởng tiếp cận” [42, tr.122].
1.1.2.4. Trường từ vựng
Trường từ vựng là một tập hợp các đơn vị từ vựng căn cứ vào một nét đồng
nhất nào đó về ngữ nghĩa. Đái Xuân Ninh giải thích rõ là “Trường từ vựng là các đơn
vị từ của một hệ thống ngôn ngữ nào đó phủ kín lên khu vực khái niệm nhất định và
được cấu trúc hóa theo mối quan hệ về nghĩa tạo nên một trường từ vựng. Như vậy,
một đơn vị từ được coi như phủ kín một khu vực khái niệm nào đó và đến lượt nó, cái
khu vực này có thể được cấu trúc hóa thành một trường từ vựng với một tập hợp từ
khác. Ví dụ, cái khu vực mà từ “đỏ” phủ lên sẽ được cấu trúc hóa với những từ như
“hồng điều”, “tía”, “đỏ sẫm”, “đỏ son”. Nghĩa của một đơn vị từ như là một khu
vực khái niệm. Mỗi khu vực khái niệm gắn bó với một đơn vị từ là một khái niệm” [42,
tr.328].
1.2. Khái quát về động từ trong tiếng Việt và tiếng Lào
ĐT là một trong các từ loại cơ bản. Chúng có số lượng lớn sau DT. Bản chất
NP của ĐT cũng được đặc trưng bởi các phương diện: ngữ nghĩa, khả năng kết hợp
và chức vụ ngữ pháp.
1.2.1. Đặc điểm của động từ trong tiếng Việt và tiếng Lào
a) Về ý nghĩa ngữ pháp
ĐT thường là những từ có ý nghĩa chỉ tình thái, hoạt động, trạng thái của sự vật.
Các tình thái (bèn, toan, định, cần, nên) hoạt động (chạy, học, đan, vẽ ...) trạng
thái (ngủ, thức, nhớ, còn, hết) đều có quan hệ với chủ thể và diễn ra trong thời gian.

Như vậy, điểm chung nhất trong ý nghĩa của ĐT là tính quá trình. Chủ thể của những
quá trình này không phải chỉ là sự vật mà bao hàm cả các khái niệm được thực thể
hóa. Vậy nên, có thể cho rằng, ĐT là những từ chỉ các dạng vận động khác nhau của
mọi thực thể.
b) Về hình thức ngữ pháp
 Về khả năng kết hợp
- ĐT có thể kết hợp về phía trước với các PT như:


+ PT chỉ thời gian: đã, đang, sẽ, vừa, mới, ...
+ PT chỉ sự tiếp diễn: vẫn, cứ, còn, lại, cũng, ...
+ PT phủ định: không, chưa, chẳng, ...
+ PT chỉ mức độ: rất, hơi, vô cùng, cực kì, ...
Các thành tố phụ trước của ĐT không thể cùng xuất hiện và có vị trí ổn định,
dứt khoát như các thành tố phụ trước DT. Có những thành tố phụ có khả năng di động
từ phía trước sang phía sau trung tâm và ngược lại: ào ào chảy - chảy ào ào. Nhóm
PT chỉ mức độ có khả năng kết hợp hạn chế hơn các nhóm khác, thường chỉ kết hợp
với các ĐT trạng thái tâm lí, sinh lí, ĐT tình thái. Ví dụ:
a. Và hắn say thị lắm. (Nam Cao, NV11, tl, 152)
b. Cây xanh rất cần khí trời. (TV5, tl, 94)
- Khả năng kết hợp về phía sau của ĐT rất phong phú, đa dạng.
+ Xét về cấu tạo, phía sau của ĐT có thể là từ, cụm chính phụ, cụm đẳng lập
hay cụm C-V.
+ Xét về từ loại, sau ĐT có thể có các thành tố là thực từ hoặc hư từ.
Các thành tố phụ là thực từ phong phú hơn, thường do DT đảm nhiệm. Ví dụ:
viết thơ, đọc sách, đến trường, biếu bà, đi xe đạp. Ngoài ra là các từ loại khác như
ĐT, TT, ST, ĐaT: bẻ gãy, du đổ, học giỏi, nói khéo, nhớ nhiều, chia sáu, nghĩ thế.
Chúng có thể kết hợp trực tiếp (như trong nghỉ tết) hoặc gián tiếp (như trong
nghỉ vì ốm) với thành tố chính.
Các thành tố phụ thực từ có thể bổ sung các ý nghĩa chỉ đối tượng mục đích,

nguyên nhân, thời gian, địa điểm, phương tiện, cách thức, ...
Các thành tố phụ do hư từ (phó từ) đảm nhiệm có thể biểu thị những ý nghĩa
chỉ sự tiếp diễn, kết quả, sự hoàn thành, mức độ, hướng, định hướng: nghĩ mãi, ăn
nữa, rơi mất, tìm được, làm xong, đi rồi, mệt lắm, mắng cho, tranh lấy, ...
 Về chức vụ ngữ pháp
- Chức năng NP chính của ĐT là làm VN. ĐT có khả năng làm VN trực tiếp.
Đặc trưng này là tất yếu do ĐT mang ý nghĩa vận động, mà vận động là đặc trưng của
thực thể, gắn với chức năng VN.


×