2
MụC LụC
Trang
Mở ĐầU
Chơng
MT S VN Lí LUN V THC TIN
1
V BIN I C CU X HI - GIAI CP
3
THNH PH VNG TU, TNH B RA VNG TU HIN NAY
Mt s vn lý lun v bin i c cu xó hi - giai cp
Thc trng, nguyờn nhõn bin i c cu xó hi - giai cp
11
11
thnh ph Vng Tu, tnh B Ra - Vng Tu hin nay
Chơng XU HNG V GII PHP CH YU HON
34
1.1.
1.2.
THIN C CU X HI - GIAI CP THNH
PH VNG TU, TNH B RA - VNG TU
48
2.1.
HIN NAY
nh hng phỏt trin kinh t - xó hi v xu hng bin i
48
2.2.
c cu xó hi - giai cp thnh ph Vng Tu hin nay
Gii phỏp ch yu hon thin c cu xó hi - giai cp
thnh ph Vng Tu, tnh B Ra - Vng Tu hin nay
KếT LUậN
DANH MụC TàI LIệU THAM KHảO
PHụ Lục
65
83
84
88
3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau 25 năm thực hiện đường lối đổi mới, xã hội ở Việt Nam đã diễn ra
một quá trình biến đổi to lớn trên tất cả các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã
hội cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... Sự biến đổi về kinh tế (kết cấu
kinh tế) đã dẫn đến sự biến đổi về cơ cấu xã hội, nhất là cơ cấu xã hội - giai
cấp. Sự biến đổi của cơ cấu xã hội - giai cấp trên đất nước ta thời gian vừa
qua đặt ra nhiều vấn đề về chính trị, xã hội cần nghiên cứu và giải quyết, đó là
những thách thức của sự mất cân đối về cơ cấu giai cấp, cơ cấu ngành nghề,
cơ cấu nguồn nhân lực…sự phân hóa giữa thành thị và nông thôn, giữa người
giàu và người nghèo, giữa các giai tầng trong xã hội, vấn đề giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa trong xây dựng và phát huy cơ cấu xã hội - giai cấp
của thời kỳ quá độ; xây dựng và củng cố khối liên minh giai cấp giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, tạo nền tảng củng cố
khối đại đoàn kết toàn dân tộc; v.v…
Thành phố Vũng Tàu thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu là một thành phố
biển, du lịch và dịch vụ dầu khí, nằm trong tam giác phát triển kinh tế khu
vực miền Đông Nam Bộ. Trong hơn hai thập kỷ vừa qua, với những điều
kiện thuận lợi về tự nhiên đã tạo điều kiện cho thành phố Vũng Tàu phát
triển năng động, cơ cấu kinh tế về công nghiệp và dịch vụ tăng mạnh, theo
đó cơ cấu xã hội - giai cấp cũng có những biến đổi. Biến đổi cơ cấu xã hội
- giai cấp ở thành phố Vũng Tàu vừa tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát
triển kinh tế - xã hội của thành phố, đồng thời nó cũng làm xuất hiện những
vấn đề xã hội cần tháo gỡ.
Nắm vững hiện trạng và dự báo xu hướng biến đổi về cơ cấu xã hội giai cấp có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với lãnh đạo, chính quyền thành
phố, để trên cơ sở đó có những giải pháp phát triển kinh tế bền vững, củng cố
4
nền tảng chính trị - xã hội của chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ, trong
quá trình đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng thành phố giàu
mạnh. Để sự biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp diễn ra có kế hoạch, chủ động,
giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển đòi hỏi Đảng
bộ thành phố Vũng Tàu phải điều chỉnh sự biến đổi cơ cấu xã hội theo hướng
nào? Với mong muốn góp phần nhỏ vào công tác lãnh đạo, quản lý biến đổi
cơ cấu xã hội - giai cấp, học viên lựa chọn chủ đề “Biến đổi cơ cấu xã hội giai cấp ở thành phố Vũng Tàu hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ, chuyên
ngành chủ nghĩa xã hội khoa học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những thập kỷ vừa qua, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu,
bài luận khoa học về cơ cấu xã hội - giai cấp, biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp
ở nước ta. Một số công trình nghiên cứu, bài luận khoa học trong số đó: Thực
trạng và xu thế phát triển cơ cấu xã hội nước ta trong giai đoạn hiện nay,
PGS.TS. Đỗ Nguyên Phương (chủ biên), Đề tài cấp nhà nước KX-07-05, Hà
Nội 1995; Một số vấn đề xã hội học trong xây dựng quân đội, xây dựng nền
quốc phòng toàn dân”, PGS.TS. Phạm Xuân Hảo, Nxb Quân đội nhân dân,
Hà Nội 2005; Biến động cơ cấu xã hội - giai cấp và vấn đề giáo dục chính trị
cho thanh niên ở nước ta”, TS Phùng Văn Thiết, Nxb Quân đội nhân dân, Hà
nội 2006; “Đặc điểm giai cấp và đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay”. Đề
tài cấp cơ sở, Viện Khoa học xã hội và nhân văn quân sự (2006); Một số vấn
đề về biến đổi cơ cấu xã hội Việt Nam hiện nay, GS. TS. Tạ Ngọc Tấn (chủ
biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2010; Biến đổi xã hội ở Việt Nam qua
hơn 20 năm đổi mới, GS.TS. Hoàng Chí Bảo; Một số vấn đề cơ bản về sự biến
đổi cơ cấu xã hội ở Việt Nam giai đoạn 2001-2010”, TS Đỗ Thiên Kính, Đề
tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội 2011; Về quá trình vận động và biến đổi cơ cấu
xã hội tầng lớp trí thức Việt Nam, Nguyễn Duy Quý, Tạp chí Xã hội học số
5
3/1989; Biến đổi cơ cấu xã hội và tác động của nó đến nông dân, nông
thôn hiện nay, của Nam Sơn, Tạp chí cộng sản số 20 năm.2009; Mấy nét sơ
bộ về sự biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp ở nước ta khi chuyển sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, của Phạm Xuân Nam, Tạp
chí Xã hội học số 4/ 2001; Xu hướng vận động, phát triển và một số giải
pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam đáp ứng yêu cầu hiện nay, của
Phạm Việt Dũng, Tạp chí Cộng sản, 22.8.2011; Suy nghĩ về thực trạng
cơ cấu xã hội - giai cấp và phân tầng xã hội ở nước ta hiện nay”, TS
Phạm Xuân Hảo, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 1/2001; Cơ cấu giai
cấp, phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo ở nước ta hiện nay - thực
trạng và giải pháp, PGS.TS Phạm Xuân Hảo, Tạp chí Quốc phòng toàn
dân, số 4/2005; Biến đổi xã hội ở nông thôn nước ta hiện nay và củng cố
quốc phòng, bảo vệ tổ quốc, PGS.TS. Phạm Xuân Hảo, Tạp chí Khoa
học quân sự, số 12/2006; Giai cấp công nhân Việt Nam trong quá trình
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, PGS.TS. Phạm Xuân Hảo,
Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị, số 3 (85) 2004; Nhận thức về kết cấu
giai cấp ở nước ta hiện nay”, PGS.TS. Phạm Xuân Hảo, Tạp chí Giáo dục
lý luận chính trị, số 1 (101) 2007; ...
Đề tài cấp nhà nước KX-07-05 (1995): “Thực trạng và xu thế phát triển
cơ cấu xã hội nước ta trong giai đoạn hiện nay", GS.TS. Đỗ Nguyên
Phương (Chủ biên) đã làm rõ một số nội dung về lý luận, thực trạng và xu
thế biến động cơ cấu xã hội giai cấp, lao động, nghề nghiệp, dân cư, dân tộc
ở nước ta. Đồng thời, chỉ ra mối quan hệ và việc hình thành con người Việt
Nam trong qúa trình đổi mới.
Đề tài: “Một số vấn đề cơ bản về sự biến đổi cơ cấu xã hội ở Việt Nam
giai đoạn 2001-2010”, TS. Đỗ Thiên Kính, đã đánh giá thực trạng nổi bật của
phân tầng xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn 2001-2010; dự báo xu hướng
6
biến đổi cơ bản; đề ra các quan điểm và giải pháp chính sách chủ yếu cho một
số vấn đề về sự biến đổi cơ cấu xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo.
Đề tài cấp cơ sở, Viện Khoa học xã hội và nhân văn quân sự (2006):
“Đặc điểm giai cấp và đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay” đã làm rõ tính
tất yếu, tính quyết liệt trong đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay và phương
hướng xây dựng giai cấp công nhân tiên tiến, là giai cấp chủ yếu để xây dựng
xã hội mới. Đồng thời, chú trọng xây dựng giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức, để xây dựng, củng cố, phát huy liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức trong thời kỳ quá độ.
Sách: “Một số vấn đề về biến đổi cơ cấu xã hội Việt Nam hiện nay” GS,
TS. Tạ Ngọc Tấn (chủ biên), tập hợp những bài viết về cơ cấu xã hội và cơ
cấu xã hội - giai cấp của nhiều tác giả. Các tác giả đã chỉ ra tính tất yếu khách
quan phải nghiên cứu biến đổi cơ cấu xã hội; phân tích, đánh giá toàn diện và
sâu sắc về những biến đổi cơ cấu xã hội của nước ta qua hơn 20 năm đổi mới;
đưa ra một số dự báo, kiến nghị về chính sách nhằm phát huy cao nhất những
ảnh hưởng tích cực, hạn chế thấp nhất những tác động tiêu cực của sự biến
đổi cơ cấu xã hội trong thời kỳ tới.
Sách: “Biến động cơ cấu xã hội - giai cấp và vấn đề giáo dục chính trị cho
thanh niên ở nước ta”, của TS. Phùng văn Thiết, là công trình khoa học nghiên
cứu làm rõ tính tất yếu của sự biến động cơ cấu xã hội - giai cấp và ảnh hưởng
của sự biến động ấy đến vấn đề giáo dục chính trị cho thanh niên ở nước ta. Tác
giả đã nghiên cứu những biến động của cơ cấu xã hội – giai cấp và những ảnh
hưởng của nó, chỉ ra khá rõ ràng nội dung và đặc điểm cơ bản và những nhân tố
tác động, xu hướng biến động cơ cấu xã hội – giai cấp ở nước ta hiện nay
Sách: “Một số vấn đề xã hội học trong xây dựng quân đội, xây dựng nền
quốc phòng toàn dân”, của Phạm Xuân Hảo đã làm rõ một số vấn đề về lý
luận và thực tiễn tác động biến đổi của xã hội tới xây dựng quân đội, xây dựng
7
nền quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân và những phương hướng giải
pháp dưới góc độ xã hội học để xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam.
Bài viết: “Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về xã hội và biến đổi cơ
cấu xã hội” của tác giả Lại Quốc Khánh đã chỉ ra các bài học kinh nghiệm của
Đảng trong quá trình lãnh đạo cách mạng và một số quan điểm của Đảng ta về
xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện nay. Từ đó tác giả phân tích
tác động những đường lối, quan điểm đó tới cơ cấu xã hội – giai cấp ở nước ta
trong những năm đổi mới
Bài viết: “Mấy nét sơ bộ về sự biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp ở nước
ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” của
Phạm Xuân Nam, đã sử dụng cơ sở lý luận, phương pháp luận nghiên cứu sự
biến đổi cơ cấu xã hội giai cấp ở nước ta trong phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là học thuyết hình thái kinh tế xã hội của
C. Mác; phác họa từ cơ cấu xã hội - giai cấp “thuần nhất” chuyển sang cơ cấu
đa dạng, đồng thời đưa ra một vài dự báo về triển vọng trong tương lai.
Bài viết: “Xu hướng vận động, phát triển và một số giải pháp xây dựng
giai cấp công nhân Việt Nam đáp ứng yêu cầu hiện nay ” của Phạm Việt
Dũng, đã đưa ra những xu hướng vận động cơ bản của giai cấp công nhân
Việt Nam và những giải pháp nhằm xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Bài viết: “Biến đổi cơ cấu xã hội và tác động của nó đến nông dân,
nông thôn hiện nay” của Nam Sơn, đã đề cập đến xu hướng biến đổi cơ cấu
xã hội của giai cấp nông dân hiện nay và những tác động của biến đổi cơ
cấu xã hội ở khu vực nông thôn; đưa ra các xu hướng giảm tương đối và
tuyệt đối nông dân, dân cư quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, của công cuộc đổi mới. Đồng thời chỉ ra những mặt tích cực và tiêu
cực cần giải quyết trong giai đoạn tới.
8
Bài viết: “Sự biến đổi cơ cấu xã hội Trung Quốc thời kỳ mở cửa, hội
nhập – Kinh nghiệm và bài học” của Nhật Lệ đã phân tích những chính sách
kinh tế tác động đến các giai tầng ở Trung Quốc trong hiện tại và tương lai và
dự báo một số những xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp. Tác giả đã
đưa ra 6 bài học kinh nghiệm trong giải quyết vấn đề cơ cấu xã hội.
Bài viết: “Thực trạng và xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội – nghề
nghiệp” của tác giả Nguyễn Thị Minh Hòa. Tác giả đã phân tích thực trạng và
xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội nghề nghiệp theo thành phần kinh tế, nhóm
ngành kinh tế và ngành kinh tế theo khu vực thành thị, nông thôn, nghề nghiệp.
Tác giả đã phân tích và chỉ ra xu hướng tích cực trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế, nhất là cơ cấu xã hội nghề nghiệp trong những năm tiếp theo.
Đối với các bài viết của tác giả Phạm Xuân Hảo cũng đã trình bày khá rõ
về cơ cấu xã hội, cơ cấu xã hội - giai cấp, biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp và
sự chuyển dịch tính chất xã hội của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân ở
nước ta hiện nay. Đồng thời cũng chỉ rõ sự phân hóa trong các giai cấp và
tầng lớp xã hội và tác động của nó đến củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Các bài viết đã đưa ra cách tiếp cận trong nghiên
cứu về cơ cấu xã hội - giai cấp.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu, bài báo khoa học của các tác giả
đã công bố đề cập toàn diện, ở khía cạnh này, khía cạnh khác về những biến
đổi cơ cấu xã hội, cơ cấu xã hội - giai cấp ở nước ta hiện nay và tác động của
nó đến các lĩnh vực của đời sống xã hội; khẳng định sự biến động của cơ cấu
xã hội có tác động lớn làm thay đổi các nhân tố, lĩnh vực của đời sống xã hội.
Các công trình nghiên cứu, bài báo khoa học về cơ cấu xã hội - giai cấp, biến
đổi cơ cấu xã hội giai cấp đã công bố là những tài liệu quý, tác giả luận văn sẽ
kế thừa, vận dụng trong nghiên cứu biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp ở thành
phố Vũng Tàu tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu hiện nay.
9
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ một số vấn đề về lý luận và thực tiễn biến đổi cơ cấu xã
hội - giai cấp ở thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu; dự báo
xu hướng biến đổi và đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng cơ cấu
xã hội - giai cấp hợp lý, bảo đảm cho sự phát triển bền vững của thành
phố Vũng Tàu.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ một số vấn đề lý luận biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp.
Đánh giá thực trạng, nguyên nhân biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp ở
thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu hiện nay.
Dự báo xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp ở thành phố Vũng
Tàu, tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu hiện nay.
Đề xuất một số giải pháp chủ yếu hoàn thiện cơ cấu xã hội - giai cấp ở
thành phố Vũng Tàu hiện nay.
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp ở
thành phố Vũng Tàu hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu
Về không gian, địa bàn: Biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp ở thành phố
Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu.
Về thời gian: từ năm 2001 đến năm 2011.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận, thực tiễn
Lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về giai cấp, cơ cấu xã hội - giai cấp, xây dựng cơ
cấu xã hội - giai cấp thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội .
10
Kết quả nghiên cứu về cơ cấu xã hội, cơ cấu xã hội - giai cấp của nước ta
những thập kỷ gần đây.
Thực tiễn biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp ở nước ta, ở tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu thời kỳ đổi mới (2001-2011).
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của khoa học xã hội và nhân
văn; phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa xã hội khoa học.
Phương pháp chủ yếu: phân tích - tổng hợp; lịch sử - lôgíc; phân tích tài
liệu, số liệu thống kê.
5. Ý nghĩa của luận văn
Góp phần bổ sung, hoàn thiện lý thuyết về phương pháp nghiên cứu chuyên
ngành chủ nghĩa xã hội khoa học, làm rõ một phần biến đổi cơ cấu xã hội - giai
cấp ở thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp thêm cơ sở khoa học thực
tiễn giúp cho công tác lãnh đạo của Thành ủy thành phố Vũng Tàu xây dựng và
hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội của thành phố, hoàn thiện cơ
cấu xã hội - giai cấp để đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Kết quả nghiên cứu luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu,
giảng dạy những vấn đề có liên quan đến cơ cấu xã hội - giai cấp ở các trường đại
học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề trong tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn được kết cấu gồm: Mở đầu, 2 chương với 4 tiết, kết luận, danh
mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
11
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ BIẾN ĐỔI CƠ
CẤU XÃ HỘI - GIAI CẤP Ở THÀNH PHỐ VŨNG TÀU,
TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU HIỆN NAY
1.1. Một số vấn đề lý luận về biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp
1.1.1. Cơ cấu xã hội, cơ cấu xã hội – giai cấp
Cơ cấu xã hội
Để hiểu rõ cơ cấu xã hội - giai cấp, trước hết cần làm rõ quan niệm về cơ
cấu xã hội.
Cơ cấu xã hội là một khái niệm, thuật ngữ của một số ngành khoa học:
triết học, chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học, xã hội học… Tùy theo đối
tượng, góc độ nghiên cứu mà các khoa học có quan niệm về cơ cấu xã hội
khác nhau và tập trung nghiên cứu một phân hệ, hay một loại hình, lát cắt đặc
trưng của cơ cấu xã hội.
Mặc dù xuất phát từ cách tiếp cận khác nhau và đưa ra các ý kiến khác
nhau, nhưng về cơ bản, các quan niệm đều chỉ ra rằng: cơ cấu xã hội là mô
hình các mối quan hệ mang tính chức năng - cấu trúc giữa các thành phần cơ
bản trong một hệ thống xã hội; những thành phần cơ bản trong một hệ thống
xã hội và mối liên hệ, quan hệ giữa chúng tạo cơ sở, điều kiện cho sự vận
động, phát triển của hệ thống xã hội trong mỗi thời kỳ lịch sử cụ thể: “Cơ cấu
xã hội là cách thức tổ chức của một hệ thống xã hội nhất định; là sự thống
nhất tương đối bền vững của các nhóm xã hội, tạo nên tính ổn định và phát
triển của hệ thống xã hội” [14, tr.112-113].
Tuy còn có những ý khác nhau trong nội dung quan niệm về cơ cấu xã
hội, song trong phân tích cơ cấu xã hội, thường phân tích và làm rõ: các yếu
tố cấu thành hệ thống xã hội (trả lời câu hỏi: hệ thống xã hội được cấu thành
bởi các yếu tố nào?); vị trí, vai trò, vị thế của các yếu tố cơ bản cấu thành hệ
thống xã hội (vị trí, chức năng của mỗi yếu tố); mối liên hệ giữa các yếu tố
cấu thành hệ thống xã hội; tính quy luật của các mối liên hệ giữa các yếu tố
12
tạo nên tính chỉnh thể của hệ thống xã hội. Như thế, hạt nhân trong quan
niệm, phân tích cơ cấu xã hội là các yếu tố cấu thành hệ thống xã hội và mối
liên hệ giữa chúng. Đó là hai mặt của cơ cấu xã hội.
Hiện nay còn có những tên gọi, cách tiếp cận khác nhau về yếu tố cấu
thành hệ thống xã hội: thành phần xã hội, thành tố xã hội, nhóm xã hội, tập
đoàn xã hội,… Xã hội học hướng chủ yếu vào các nhóm xã hội; triết học; Chủ
nghĩa xã hội khoa học hướng chủ yếu vào các tập đoàn xã hội, các giai cấp và
tầng lớp xã hội; chính trị học hướng chủ yếu vào các thành phần xã hội. Các
khoa học xã hội ở một số nước phương Tây hướng chủ yếu vào nghiên cứu
các nhóm xã hội, với tính cách là yếu tố cấu thành hệ thống xã hội. Các khoa
học xã hội mác xít hướng chủ yếu vào nghiên cứu các tập đoàn xã hội, thành
phần xã hội (giai cấp, tầng lớp xã hội, đoàn thể chính trị - xã hội) với tính
cách là yếu tố cấu thành hệ thống xã hội.
Dù còn có cách tiếp cận, định danh các yếu tố cấu thành hệ thống xã hội
khác nhau, song nhìn chung, cơ cấu xã hội gồm các yếu tố (phân hệ, loại
hình) cơ bản: cơ cấu xã hội - giai cấp; cơ cấu xã hội - lãnh thổ; cơ cấu xã hội dân số (nhân khẩu); cơ cấu xã hội - tộc người; cơ cấu xã hội - tôn giáo.
Trong các yếu tố (phân hệ, loại hình) cơ bản, cơ cấu xã hội - giai cấp giữ
vị trí, vai trò then chốt, phản ánh tính chất chính trị - xã hội của hệ thống xã hội
và quy định các phân hệ cơ cấu khác. Phân tích cơ cấu xã hội - giai cấp là “chìa
khóa” để tìm hiểu bản chất chính trị - xã hội của hệ thống xã hội và hiểu rõ các
phân hệ cơ cấu xã hội khác. Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, lịch sử xã hội
loài người cho thấy, sự phân hóa xã hội diễn ra sớm nhất, nhưng phân chia xã
hội thành giai cấp là sự phân chia lớn nhất, chủ yếu nhất, sâu sắc nhất. “Chúng
ta phải luôn luôn cần phải thấy rõ rằng, sự phân chia xã hội thành giai cấp như
thế trong quá trình lịch sử là sự kiện căn bản” [25,tr.81]. Vấn đề giai cấp, cơ
cấu xã hội - giai cấp chi phối mọi lĩnh vực của dời sống xã hội, mọi hoạt động
xã hội, mọi thành viên xã hội. Mỗi con người, dù ở vị trí xã hội nào cũng bị chi
phối bởi quan điểm của một giai cấp nhất định.
13
Cơ cấu xã hội – giai cấp
Cơ cấu xã hội - giai cấp là một yếu tố, một phân hệ, một loại hình của cơ
cấu xã hội. Đã và đang có các quan niệm về cơ cấu xã hội - giai cấp.
Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học: “Cơ cấu xã hội - giai cấp là hệ
thống các giai cấp và tầng lớp xã hội tồn tại khách quan, hoạt động hợp pháp
trong một chế độ xã hội nhất định, chủ yếu là thông qua những mối quan hệ
về sở hữu tư liệu sản xuất, về quản lý, về phân phối, về địa vị chính trị - xã
hội giữa các giai cấp và tầng lớp đó” [20, tr.280].
Theo T.S Phùng Văn Thiết, dưới góc độ chủ nghĩa duy vật lịch sử: Cơ cấu
xã hội - giai cấp là một loại hình cơ bản của cơ cấu xã hội với tư cách một chỉnh
thể bao gồm các giai tầng xã hội khác nhau được gắn kết với nhau bởi những
mối quan hệ qua lại tất yếu (những mối quan hệ phản ánh tập trung tính chất,
trình độ phát triển của các quan hệ kinh tế - xã hội giữa chúng) [36, tr, 9].
Từ điển Bách khoa Việt Nam: “Cơ cấu xã hội giai cấp, khái niệm sử
dụng để chỉ các giai cấp và tầng lớp xã hội tồn tại trong một xã hội nhất định;
vị trí của các giai cấp và tầng lớp xã hội; vai trò của chúng và mối liên hệ giữa
chúng với nhau trong xã hội đó. Cơ cấu xã hội giai cấp xuất hiện cùng với
giai cấp, do sự phát triển của phân công lao động xã hội và chế độ tư hữu về
tư liệu sản xuất”, “Cơ cấu xã hội - giai cấp giữ vai trò quan trọng trong phát
triển xã hội” [38, tr.640].
Tuy còn có ý kiến khác nhau, song về cơ bản, quan niệm về cơ cấu xã
hội - giai cấp có những nội dung cơ bản: Một là, khái niệm để chỉ các giai cấp
và tầng lớp xã hội tồn tại trong một xã hội nhất định; hai là, vị trí, vai trò của
các giai cấp, tầng lớp xã hội trong một xã hội; ba là, mối liên hệ giữa các giai
cấp, tầng lớp xã hội trong một xã hội. Từ đó, có thể quan niệm: Cơ cấu xã hội
- giai cấp là khái niệm để chỉ các giai cấp và tầng lớp xã hội tồn tại trong
một xã hội nhất định; vị trí, vai trò của các giai cấp, tầng lớp xã hội và mối
liên hệ giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội trong một xã hội, những mối quan
hệ về sở hữu tư liệu sản xuất, về quản lý, về phân phối, về địa vị chính trị, địa
vị xã hội giữa các giai cấp và tầng lớp đó.
14
Ba nội dung cơ bản trong quan niệm về cơ cấu xã hội - giai cấp: giai cấp
và tầng lớp xã hội; vị trí, vai trò của các giai cấp và tầng lớp xã hội; mối liên
hệ giữa các giai cấp và tầng lớp xã hội. Khi phân tích cơ cấu xã hội - giai cấp
của một xã hội cụ thể phải làm rõ 3 nội dung: Một là, định danh các giai cấp,
tầng lớp xã hội và số lượng của từng giai cấp và tầng lớp xã hội trong xã hội;
Hai là, vị trí, vai trò, vị thế của từng giai cấp, tầng lớp xã hội và chỉ rõ giai
cấp nào giữ vai trò chủ đạo trong xã hội; Ba là, hình thức, tính chất mối liên
hệ giữa các giai tầng xã hội và hạt nhân của mối liên hệ đó, làm nền tảng cho
sự kết dính giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội.
Khái niệm cơ bản trong nghiên cứu cơ cấu xã hội - giai cấp là các giai cấp và
tầng xã hội. Về định nghĩa giai cấp, phải đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa
Mác - Lênin. Giai cấp là những tập đoàn người khác nhau về quan hệ đối với tư
liệu sản xuất, vai trò tổ chức lao động xã hội trong tổ chức quản lý sản xuất, khác
nhau về thu nhập, về địa vị trong chế độ kinh tế - xã hội nhất định. Tầng lớp xã hội
là một tập hợp người có địa vị kinh tế, xã hội và có những lợi ích như nhau.
Các giai cấp, tầng lớp xã hội cơ bản trong xã hội hiện nay: giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức.
Giai cấp công nhân là giai cấp hình thành và phát triển cùng với quá
trình phát triển của nền công nghiệp ngày càng gắn với hiện đại, với lực
lượng sản xuất có tính chất xã hội ngày càng cao; là lực lượng sản xuất cơ
bản tiên tiến, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, chủ
yếu là sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; là lực
lượng lãnh đạo và tổ chức tiến trình lịch sử từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội. Ở các nước tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là những
người không có hoặc về cơ bản không có tư liệu sản xuất phải làm thuê cho
giai cấp tư sản và bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư; ở các nước xã
hội chủ nghĩa, họ là những người cùng nhân dân lao động làm chủ tư liệu
sản xuất chủ yếu và cùng nhau hợp tác lao động vì lợi ích chung của toàn
xã hội trong đó có lợi ích chính đáng của bản thân họ.
15
Giai cấp nông dân là giai cấp của những người lao động sản xuất vật
chất trong nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp,… trực tiếp sử dụng (canh
tác) một tư liệu sản xuất cơ bản và đặc thù, gắn với thiên nhiên là đất, rừng,
biển để sản xuất ra nông sản. Theo sự phân tích khoa học của Lênin, nông dân
có “bản chất hai mặt”: là những người lao động và là những người tư hữu
nhỏ. Giai cấp nông dân vốn có cơ cấu không thuần nhất, không có sự cố kết
chặt chẽ cả về kinh tế lẫn tư tưởng và tổ chức. Họ không có hệ tư tưởng riêng,
mà tư tưởng của họ phụ thuộc vào hệ tư tưởng của giai cấp thống trị xã hội
đồng thời, là lực lượng sản xuất và lực lượng chính trị - xã hội đông đảo nhất
trong những nước nông nghiệp.
Trí thức là một “tầng lớp xã hội đặc biệt”, gồm những người lao động trí
óc phức tạp và sáng tạo, có trình độ học vấn đủ để am hiểu và hoạt động
chuyên sâu trong lĩnh vực lao động của mình. Trí thức có phương thức lao
động đặc thù, chủ yếu là lao động trí tuệ cá nhân. Do vậy, họ phải thường
xuyên thể hiện và nâng cao khả năng tư duy khoa học độc lập. Trí thức trực
tiếp hoạt động chủ yếu trong các lĩnh vực nghiên cứu, giảng dạy, ứng dụng
các khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội và nhân văn, văn
học nghệ thuật, lãnh đạo và quản lý. Sản phẩm lao động trực tiếp nhất của trí
thức là những giá trị lý luận, lý thuyết khoa học; những giá trị tinh thần.
Những giá trị đó tuy không quyết định nhất đối với tồn tại xã hội, song lại tác
động quyết định đến năng suất lao động, chất lượng sản xuất, tốc độ tăng
trưởng và phát triển của xã hội trên cả đời sống vật chất lẫn đời sống tinh
thần. Ngày nay khoa học và công nghệ ngày càng trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp của xã hội nên vai trò của trí thức ngày càng quan trọng. Trí
thức không có hệ tư tưởng riêng, chủ yếu vì không có phương thức sản xuất
riêng và địa vị kinh tế xã hội độc lập. Vai trò và tư tưởng của họ đều phụ
thuộc vào giai cấp thống trị xã hội [20].
Cùng với ba giai tầng xã hội cơ bản, trong xã hội, trong mỗi hệ thống xã
hội cụ thể còn có những tầng lớp xã hội, nhóm xã hội khác như: tầng lớp
16
doanh nhân, tầng lớp tiểu tư sản, nhóm xã hội lưu manh, v.v… Đồng thời,
trong mỗi giai cấp và tầng lớp xã hội còn có sự phân chia thành nhiều loại,
với thứ bậc địa vị xã hội khác nhau. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản,
C.Mác, Ph.Ăngghen đã viết: “Trong những thời đại lịch sử trước, hầu khắp
mọi nơi, chúng ta đều thấy xã hội hoàn toàn chia thành từng nấc thang địa
vị xã hội. Ở La Mã thời cổ đại, chúng ta thấy có quý tộc, hiệp sĩ, bình dân,
nô lệ; thời trung cổ thì có lãnh chúa phong kiến, chư hầu, thợ cả, thợ bạn,
nông nô và hơn nữa, hầu như trong mỗi giai cấp ấy, lại có những thứ bậc
đặc biệt nữa” [28, tr.597].
Hiện nay, để xác định các giai tầng trong xã hội, thường căn cứ vào thành
phần kinh tế. Nghĩa là, căn cứ vào hình thức sở hữu tư liệu sản xuất và phân
công lao động xã hội, trong đó hình thức sở hữu tư liệu sản xuất là chính. Xác
định thành phần xã hội trong mỗi giai cấp, tầng lớp xã hội, thường lấy tiêu chí
nghề nghiệp để định danh. Ví dụ: giai cấp công nhân có: công nhân công
nghiệp, công nhân dịch vụ… giai cấp nông dân có: nông dân nông nghiệp,
nông dân ngư nghiệp, nông dân diêm nghiệp… Như thế để thấy rằng, cơ cấu xã
hội - giai cấp đa dạng, phức tạp, khó định danh, khó nhận diện và đo lường.
Như thế, trong nghiên cứu về cơ cấu xã hội - giai cấp của một hệ thống
xã hội, vấn đề quan trọng đầu tiên là định danh (đặt tên) cho các tầng lớp xã
hội, đối với các thành phần xã hội trong các giai cấp và tầng lớp xã hội.
Cùng với việc định danh là xác định các dấu hiệu, tiêu chí, chỉ báo để đo
lường các giai cấp, tầng lớp xã hội.
1.1.2. Biến đổi cơ cấu xã hội – giai cấp
1.1.2.1. Quan niệm, nội dung, tính chất biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp
Quan niệm, nội dung biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp
Biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp phản ánh trạng thái của biến đổi xã
hội; khái niệm dùng để chỉ quá trình thay đổi về kết cấu và tính chất quan
hệ xã hội giữa các giai cấp và tầng lớp trong một hệ thống xã hội, ở
những thời điểm xác định.
17
Biến đổi xã hội, thuật ngữ dùng để chỉ những thay đổi về mặt xã hội của
một nhóm xã hội, một cộng đồng hoặc toàn bộ xã hội; sự thay đổi về xã hội so
với trước, khác trước; quá trình thay đổi kết cấu xã hội, tính chất quan hệ xã hội.
Biến đổi xã hội và biến động xã hội, tiến bộ xã hội, cách mạng xã hội có
điểm chung và riêng. Điểm chung, biến đổi xã hội, biến động xã hội, tiến bộ
xã hội, cách mạng xã hội - hệ khái niệm phản ánh sự vận động của xã hội với
tính chất, đặc điểm, tình trạng và quy mô khác nhau. Điểm riêng: Biến động
xã hội - sự vận động xã hội ở trạng thái thường xuyên, không ở trạng thái
tĩnh; Biến cố xã hội - những sự kiện xã hội xảy ra trong đời sống xã hội, có
thể làm thay đổi xã hội, có thể không làm thay đổi xã hội như: một cuộc biểu
tình, một cuộc đình công,…; Tiến bộ xã hội - sự vận động của xã hội theo
chiều hướng được xã hội mong đợi, nhiều người tán thành, thường là kết quả
của hoạt động xã hội có ý thức; Cách mạng xã hội - sự vận động của xã hội
mang tính chất căn bản, làm thay đổi trật tự xã hội, chế độ xã hội và những
thể chế xã hội, đưa xã hội từ trạng thái này sang trạng thái khác về chất.
Biến đổi xã hội là những thay đổi xã hội ảnh hưởng tới nhiều người,
nhiều nhóm xã hội; nếu chỉ tác động tới một số ít người, không được xác định
là biến đổi xã hội. Biến đổi xã hội là hiện tượng xã hội phổ biến, song ở mỗi
thời điểm khác nhau, quy mô, tính chất biến đổi xã hội khác nhau (biến đổi vĩ
mô, vi mô). Trong một hệ thống xã hội và giữa các hệ thống xã hội có sự khác
nhau về quy mô, tính chất và hậu quả của biến đổi xã hội. Về dạng thức, có
biến đổi xã hội có kế hoạch và biến đổi xã hội không kế hoạch. Hệ lụy xã hội
của biến đổi xã hội đa dạng, phức tạp, khó nhận diện và đo lường, phản ánh
chủ yếu thông qua tính chất các quan hệ xã hội, sự ổn định và phát triển xã
hội theo mục tiêu của giai cấp cầm quyền xác định. Tóm lại, sự xáo trộn, thay
đổi trong cấu trúc xã hội và tính chất quan hệ xã hội là hai đặc trưng, đồng
thời là hai dấu hiệu cơ bản để nhận biết biến đổi xã hội.
Nội dung biến đổi xã hội chủ yếu: Biến đổi cơ cấu xã hội, phân tầng xã hội,
phân hóa xã hội và biến đổi chuẩn mực, lối sống xã hội. Như thế, biến đổi cơ cấu
18
xã hội - giai cấp là một nội dung của biến đổi xã hội, cụ thể hơn đó là biến đổi cơ
cấu xã hội, quá trình thay đổi về kết cấu và tính chất quan hệ xã hội giữa các giai
cấp và tầng lớp trong một hệ thống xã hội, ở những thời điểm xác định.
Biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp trên những nội dung chủ yếu: Một là,
biến đổi về số lượng, về quy mô của từng giai cấp, tầng lớp xã hội trong xã
hội; hai là, biến đổi về vị trí, vai trò của các giai cấp, tầng lớp xã hội trong hệ
thống xã hội; ba là, biến đổi về mối liên hệ giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội
trong hệ thống xã hội.
Biến đổi về số lượng, về quy mô của từng giai cấp, tầng lớp xã hội là sự
thay đổi so với khác trước về số lượng của từng giai cấp, tầng lớp xã hội,
cũng như sự thay đổi so với khác trước về số lượng của các thành phần (các
bộ phận) trong các giai cấp và tầng lớp xã hội; sự thay đổi so với khác trước
về quy mô tổ chức của từng giai cấp, tầng lớp xã hội. Nghiên cứu biến đổi về
số lượng, về quy mô của từng giai cấp, tầng lớp xã hội phải trả lời cho được
câu hỏi: trong quãng thời gian vừa qua (5 năm, 10 năm,…) các giai cấp, tầng
lớp xã hội nhiều lên, ít đi hoặc giữ nguyên về số lượng; quy mô tổ chức của
từng giai cấp, tầng lớp xã hội phát triển, mở rộng hay suy giảm, thu hẹp.
Biến đổi về vị trí, vai trò của các giai cấp, tầng lớp xã hội là sự thay đổi
so với trước về vị trí, vai trò của từng giai cấp, tầng lớp xã hội trong phát triển
kinh tế - xã hội của hệ thống xã hội; trong mối quan hệ với sự ổn định và phát
triển của hệ thống xã hội; đồng thời làm rõ vị trí, vai trò của giai cấp giữ vai
trò lãnh đạo, chủ đạo trong xã hội. Nghiên cứu biến đổi về vị trí, vai trò của
các giai cấp, tầng lớp xã hội phải trả lời cho được câu hỏi: trong quãng thời
gian vừa qua (5 năm, 10 năm,…) vị trí, vai trò của các giai cấp, tầng lớp xã
hội trong phát triển kinh tế - xã hội, ổn định và phát triển của hệ thống xã hội
tăng lên, suy giảm hay giữ nguyên; vị trí, vai trò của giai cấp giữ vai trò lãnh
đạo, chủ đạo trong xã hội tăng lên, suy giảm hay giữ nguyên.
Biến đổi về mối liên hệ giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội trong hệ thống xã
hội là sự thay đổi so với trước về tính chất, quy mô của mối liên hệ giữa các giai
19
cấp, tầng lớp xã hội. Nghiên cứu biến đổi về mối liên hệ giữa các giai cấp, tầng
lớp xã hội phải trả lời cho được câu hỏi: trong quãng thời gian vừa qua (5 năm,
10 năm,…) tính chất, quy mô của mối liên hệ giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội
tăng lên, suy giảm hay giữ nguyên; liên minh giữa các giai tầng xã hội cơ bản
trong hệ thống xã hội tăng lên, suy giảm hay giữ nguyên; khối đoàn kết giữa các
giai tầng xã hội cơ bản trong hệ thống xã hội tăng lên, suy giảm hay giữ nguyên.
Từ sự phân tích trên, nghiên cứu (đo lường) biến đổi cơ cấu xã hội - giai
cấp trên các nội dung (tiêu chí, dấu hiệu) chủ yếu: Thứ nhất, nghiên cứu biến
đổi về số lượng, về quy mô của từng giai cấp, tầng lớp xã hội và các thành
phần (các bộ phận) trong các giai cấp và tầng lớp xã hội. Thứ hai, nghiên cứu
biến đổi vị trí, vai trò của các giai cấp, tầng lớp xã hội trong phát triển kinh tế
- xã hội, ổn định và phát triển của hệ thống xã hội; làm rõ vị trí, vai trò của
giai cấp giữ vai trò lãnh đạo, chủ đạo trong xã hội. Thứ ba, nghiên cứu biến
đổi tính chất, quy mô của mối liên hệ giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội; liên
minh giữa các giai tầng xã hội cơ bản trong hệ thống xã hội; đoàn kết giữa các
giai tầng xã hội cơ bản trong hệ thống xã hội.
Nghiên cứu về biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp phải chỉ rõ mức độ: tăng
lên (phát triển), suy giảm hay giữ nguyên (không phát triển) của các giai cấp
và tầng lớp xã hội, cùng với vị trí, vai trò và mối liện hệ của nó. Những đánh
giá đó được xem xét trong một khoảng thời gian 5 năm, 10 năm, 20 năm,....
Nghĩa là, phải tiến hành so sánh giữa trước và sau (so sánh lịch đại), đồng
thời kết hợp so sánh đồng đại (so sánh giữa các giai cấp và tầng lớp xã hội ở
cùng một thời điểm, trước và sau) để tìm xu hướng biến đổi của từng giai cấp
và tầng lớp xã hội nói riêng, biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp nói chung. Để
phản ánh được sự biến đổi đó phải tổng hợp, phân tích số liệu thống kê, điều
tra khảo sát thực tiễn khoa học, công phu.
Khái niệm cơ cấu xã hội, cơ cấu xã hội - giai cấp gắn bó chặt chẽ với khái
niệm hệ thống xã hội. Lý luận và thực tiễn chỉ rõ rằng, cơ cấu xã hội, cơ cấu xã hội giai cấp luôn luôn là cơ cấu xã hội, cơ cấu xã hội - giai cấp của một hệ thống xã hội
20
xác định, không có cơ cấu xã hội, cơ cấu xã hội - giai cấp chung chung, trừu tượng.
Do đó, nghiên cứu biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp là nghiên cứu biến đổi cấu trúc
xã hội của một hệ thống xã hội xác định: biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp ở Việt
Nam; biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; biến đổi cơ cấu
xã hội - giai cấp của thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, v.v…
Từ đó cho thấy, nghiên cứu biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp phải được đặt
trong thời gian và không gian cụ thể. Ví dụ: nghiên cứu biến đổi cơ cấu xã hội giai cấp trên đất nước Việt Nam từ khi thực hành công cuộc đổi mới (năm 1986)
đến năm 2011; nghiên cứu biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp của thành phố Vũng
Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, giai đoạn 2000 - 2010. Tính thời gian và không
gian là hệ quy chiếu, trục ngang - trục dọc của biểu đồ phản ánh sự biến đổi cơ
cấu xã hội - giai cấp của một hệ thống xã hội.
Tính chất, hệ lụy xã hội của biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp
Biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp mang tính giai cấp, tính lịch sử, tính
quốc gia và tính quốc tế.
Cơ cấu xã hội - giai cấp bao giờ cũng là cơ cấu xã hội - giai cấp hệ thống
xã hội cụ thể. Mà ở các hệ thống xã hội, sự phát triển của nó luôn luôn bị chi
phối bởi lập trường, quan điểm của giai cấp giữ vị trí, vai trò thống trị xã hội.
Do đó, sự biến đổi của cơ cấu xã hội - giai cấp luôn mang tính giai cấp. Ở hình
thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, cơ cấu xã hội - giai cấp và sự biến động
của nó bị chi phối bởi lý luận, quan điểm, đường hướng của giai cấp tư sản. Ở
các nước đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cơ cấu xã hội - giai
cấp và sự biến động của nó bị chi phối bởi lý luận, quan điểm, đường lối của
giai cấp vô sản, thông qua sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp mang tính lịch sử. Trong tiến trình
lịch sử, nhân loại đã trải qua các hình thái kinh tế - xã hội: nô lệ, phong
kiến, tư bản, xã hội chủ nghĩa. Và tương ứng với mỗi hình thái kinh tế - xã
hội là một kết cấu xã hội - giai cấp đặc trưng, điển hình, vừa có tính kế thừa,
vừa có tính phát triển.
21
Biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp mang tính quốc gia và tính quốc tế.
Nghĩa là, nó vừa có tính riêng của từng quốc gia, vừa có tính chung của các
quốc gia, mang tính quốc tế. Nó phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội và quá trình hội nhập quốc tế của mỗi quốc gia, dân tộc.
Biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp vừa là sự phản ánh, vừa tác động đến sự
ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời tiềm ẩn nguy cơ xung đột xã hội.
Cơ cấu xã hội - giai cấp luôn luôn song hành với điều kiện kinh tế - xã
hội nhất định. Biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp phản ánh sự phát triển kinh tế
- xã hội của một quốc gia, một địa phương. Nó là một dấu hiệu, một tiêu chí
đánh giá sự phát triển kinh tế - xã hội của các hệ thống xã hội.
Biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp về thực chất là biến đổi số lượng, chất
lượng, quy mô tổ chức lực lượng xã hội cơ bản, lực lượng lao động cơ bản trong
xã hội; là biến đổi vị trí, vị thế, vai trò của các lực lượng xã hội cơ bản, lực lượng
lao động cơ bản trong xã hội; là biến đổi tính chất liên hệ giữa các lực lượng xã
hội cơ bản, lực lượng lao động cơ bản trong xã hội. Nếu những biến đổi đó thuận
chiều với sự phát triển xã hội, điều hòa lợi ích giữa các lực lượng xã hội cơ bản,
lực lượng lao động cơ bản trong xã hội thì hệ thống xã hội đó ổn định, phát triển
đúng định hướng của giai cấp thống trị, lãnh đạo xã hội và ngược lại.
Từ đó cho ta thấy, để kinh tế - xã hội phát triển phải quản lý cho được sự
biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp. V.I. Lênin đã chỉ ra “Kết cấu xã hội và chính
quyền có nhiều biến đổi, nếu không tìm hiểu các biến đổi này thì không thể
tiến một bước trong bất kỳ lĩnh vực xã hội nào. Vấn đề tiền đồ phụ thuộc vào
sự tìm hiểu của các biến đổi ấy” [24, tr.221].
1.1.2.2. Yếu tố tác động, chi phối biến đổi cơ cấu xã hội – giai cấp
Thể chế kinh tế, cơ cấu kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hình thức
sở hữu và phân công lao động xã hội tác động, chi phối biến đổi cơ cấu kinh
tế chi phối biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp.
Thể chế kinh tế, chế độ phân chia quyền hạn và trách nhiệm giữa nhà
nước và doanh nghiệp, trung ương và địa phương, xử lý lợi ích giữa họ; bao
22
gồm thể chế quản lý các mặt: kế hoạch, tài chính, vật tư, lao động…Thể chế
kinh tế là tổng hòa các chế độ quản lý kinh tế, phản ánh quan hệ sản xuất ở
khía cạnh lợi ích kinh tế. Thể chế kinh tế phát huy tác dụng thông qua các thể
chế khác, chủ yếu là thể chế chính trị; nghĩa là thông qua sự quy định của hệ
thống pháp luật. Sự tác động của thể chế kinh tế đến biến đổi cơ cấu xã hội giai cấp là vấn đề lợi ích kinh tế. Lợi ích kinh tế tạo động lực của sự chuyển
dịch giai cấp xã hội, sự tăng lên hay giảm đi của từng giai cấp, tầng lớp xã hội.
Trong đề tựa tái bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Ph. Ăngghen viết:
“Tư tưởng cơ bản và chủ đạo của “Tuyên ngôn” là: trong mỗi thời đại lịch sử,
sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội, cơ cấu này tất yếu phải do kinh tế mà ra; cả
hai cái đó cấu thành cơ sở lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy”
[29, tr.11]. Theo đó, cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã hội làm thành nền tảng lịch
sử chính trị và lịch sử tư tưởng của mỗi thời đại; và, cơ cấu xã hội, trong đó
có cơ cấu xã hội - giai cấp bị quy định bởi cơ cấu kinh tế. Cơ cấu kinh tế là
tính thứ nhất, cơ cấu xã hội là tính thứ hai. Thực tiễn ở nước ta cho thấy,
trong thời kỳ thực hành cơ chế tập trung, bao cấp, với hai thành phần kinh tế
cơ bản: quốc doanh và tập thể, trong xã hội có hai giai cấp cơ bản: công
nhân, nông dân và tầng lớp trí thức; từ khi thực hiện cơ chế kinh tế nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trên đất nước ta xuất hiện nhiều thành
phần kinh tế, theo đó cơ cấu xã hội - giai cấp đa dạng, đa diện, với nhiều giai
cấp, tầng lớp, nhóm xã hội.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là nhân tố có ý nghĩa
quyết định trực tiếp tác động đến biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp ở nước ta.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay là
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nền kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Quá trình ấy trước hết là một quá trình kinh tế, mà quy luật
kinh tế hàng đầu và cơ bản nhất là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính
chất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Việc đẩy nhanh công nghiệp
23
hóa, hiện đại hóa đồng nghĩa với nó là sự thúc đẩy nhanh những biến đổi
trong cơ cấu kinh tế, đặc biệt là cơ cấu thành phần kinh tế. Thông qua việc
làm biến đổi cơ cấu thành phần kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa trở
thành nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với việc đẩy nhanh các xu hướng biến
đổi của cơ cấu xã hội - giai cấp ở nước ta hiện nay theo các chiều hướng khác
nhau. Sau những năm tiến hành đổi mới, nước ta cơ bản thoát ra khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội và bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự phát triển
mạnh mẽ của cách mạng khoa học và công nghệ đã tạo ra sự biến đổi nhanh
chóng và sâu sắc của cơ cấu kinh tế và phân công lao động xã hội, trở thành
những đòn bẩy, những sức kích thích chủ yếu và trực tiếp cho quá trình biến
đổi cơ cấu xã hội - giai cấp ở nước ta.
Hình thức sở hữu, phân công lao động xã hội cùng là yếu tố tác động, chi
phối biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp ở nước ta. Từ một nền kinh tế chỉ duy trì
hai hình thức sở hữu cơ bản là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể; với hai
thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, đến nay trên đất nước ta đã
duy trì đồng thời nhiều hình thức sở hữu, hình thành nhiều thành phần kinh tế
với những hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng, đan xen hỗn hợp.
Mỗi thành phần kinh tế đều có vai trò quan trọng riêng của nó trong phát triển
kinh tế, ổn định xã hội, củng cố quốc phòng và an ninh, góp phần tích cực
thực hiện mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Trong đó, thành phần kinh tế nhà nước luôn giữ vị trí, vai trò chủ đạo, là lực
lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng, điều tiết vĩ
mô nền kinh tế. Thành phần kinh tế tập thể đang phát triển với các hình thức
đa dạng, và từng bước khẳng định vị trí, vị thế, vai trò của mình trong nền
kinh tế nhiều thành phần. Thành phần kinh tế tư nhân (kinh tế cá thể, kinh tế
tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân) trong những năm đổi mới vừa qua đã phát
triển mạnh và có nhiều đóng góp cho sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước,
đặc biệt trong việc khai thác tài nguyên và giải quyết việc làm cho những
24
người lao động từ lao động giản đơn đến lao động có tay nghề cao. Thành
phần kinh tế tư bản nhà nước dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh
tế nhà nước với kinh tế tư nhân trong nước và ngoài nước có vị trí, vai trò rất
quan trọng trong thực hiện chiến lược kinh tế vĩ mô, nắm giữ và phát triển
một số ngành kinh tế then chốt, thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập kinh tế thế giới trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế.
Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài không chỉ đem lại công ăn, việc
làm cho người lao động, nó còn góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Với sự đa dạng của các thành phần kinh tế, đa dạng các hình thức sở hữu
tất yếu xuất hiện sự da dạng các lợi ích; các lợi ích này đan cài nhau, nó nằm
trong nhau, vừa là nhân vừa là quả của nhau. Lợi ích của mỗi thành phần kinh
tế không thể tách rời với lợi ích của nền kinh tế. Trong lợi ích của mỗi thành
phần kinh tế có lợi ích của mỗi cá thể trong thành phần kinh tế đó. Lợi ích của
bản thân mỗi cá thể của các thành phần kinh tế và lợi ích của mỗi thành phần
kinh tế luôn được chủ sở hữu của nó đặt lên trước hết. Trong phân tích kết cấu xã
hội không thể không nghiên cứu các vấn đề xã hội nảy sinh giữa các giai tầng xã
hội mà căn nguyên của nó là từ lợi ích của mỗi thành phần kinh tế, và gốc rễ sâu
xa của nó chính từ hình thức sở hữu. Đa sở hữu là tất yếu trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, đa sở hữu làm cho cơ cấu xã hội - giai cấp biến đổi.
Chế độ chính trị, quan điểm của giai cấp cầm quyền và chính sách nhà
nước giữ vai trò quan trọng quyết định trực tiếp đến biến đổi cơ cấu xã hội giai cấp.
Chính trị, toàn bộ những hoạt động có liên quan đến quan hệ giai cấp,
dân tộc, các tầng lớp xã hội, nòng cốt của nó là vấn đề chính quyền, sử dụng
quyền lực nhà nước đối với toàn xã hội. Chế độ chính trị, đường lối của giai
cấp cầm quyền, chính sách của nhà nước quyết định đến biến đổi cơ cấu xã
hội - giai cấp, trực tiếp nhất là chủ trương, kế hoạch, chính sách phát triển
kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn.
25
Lịch sử xã hội loài người cho thấy, các giai cấp cầm quyền, thông qua
chính đảng và nhà nước của mình để xác định hướng phát triển kinh tế - xã
hội, đồng thời cũng hoạch định kế hoạch phát triển các giai cấp, tầng lớp xã
hội làm thành kết cấu xã hội, cơ sở và nền tảng xã hội cho chế độ xã hội dự
định xây dựng. Không có giai cấp cầm quyền nào lại không có chính sách
phát triển giai cấp, tầng lớp xã hội đặc trưng, nền tảng cho chế độ xã hội mà
giai cấp đó lãnh đạo xây dựng. Đây là một nội dung của cuộc đấu tranh giai
cấp, đấu tranh dân tộc.
Biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp thuộc phạm trù chính trị - xã hội, phản
ánh một quá trình xã hội cơ bản nhất của con người trong một xã hội có đối
kháng giai cấp. Theo đó, những biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp ở nước ta
hiện nay, phụ thuộc một cách quyết định vào vai trò của các chủ thể, đặc biệt
là sẽ chịu tác động to lớn bởi đường lối, chính sách kinh tế - xã hội của Đảng
và Nhà nước ta. Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta sẽ can thiệp
vào quá trình, các quan hệ kinh tế theo những chiều hướng và mức độ khác
nhau, qua đó tác động đến những biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp. Nếu thực
hiện tốt các chức năng “định hướng sự phát triển; trực tiếp đầu tư vào một số
lĩnh vực để dẫn dắt nỗ lực phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa; thiết
lập khuôn khổ luật pháp, có hệ thống chính sách nhất quán để tạo môi trường
ổn định và thuận lợi cho giới kinh doanh làm ăn phát đạt; khắc phục hạn chế,
mặt tiêu cực của cơ chế thị trường; phân phối và phân phối lại thu nhập quốc
dân, quản lý tài sản công và kiểm kê, kiểm soát toàn bộ hoạt động kinh tế, xã
hội” [8, tr.203] như Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã đề ra, thì đường lối,
chính sách của Đảng, Nhà nước không những sẽ trực tiếp tạo dựng một nền
tảng kinh tế vững chắc để đẩy nhanh những biến đổi tích cực trong cơ cấu xã
hội - giai cấp ở nước ta hiện nay, mà còn gián tiếp tạo dựng được một cơ sở
ổn định để khẳng định tính chất không thể đảo ngược của những biến đổi ấy
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn đất nước ta cũng đã cho thấy, khi Đảng, Nhà nước ta chủ
trương thực hành cơ chế tập trung, bao cấp, với hai thành phần kinh tế, trong
26
xã hội có hai giai cấp và một tầng lớp xã hội cơ bản; khi Đảng, Nhà nước ta
chủ trương thực hành kinh tế thị trường, với nhiều thành phần kinh tế, trong
xã hội xuất hiện nhiều giai tầng, nhóm xã hội.
Biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp thực chất là biến đổi của những tập
đoàn người và có liên quan đến toàn bộ đến đời sống cộng đồng của con
người, nên cần phải được trực tiếp tác động bởi một loại công cụ, phương
tiện tương ứng, đó là hệ thống chính sách xã hội. Chính sách xã hội là
chính sách đối với con người, luôn được thực hiện bởi con người và nhằm
phục vụ lợi ích của những tập đoàn người xác định. Chính vì vậy, tính chất
khoa học và nhân văn của chính sách xã hội không thể tách rời phương
hướng chính trị - giai cấp của nó.
Lịch sử mô hình xã hội chủ nghĩa đã đổ vỡ trước đây đã minh chứng
điều đó. Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự đổ vỡ ở Liên Xô và Đông
Âu trên lĩnh vực cơ cấu xã hội - giai cấp thì chính những bất cập trong đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trước tình trạng biến đổi và biến dạng
cơ cấu xã hội - giai cấp là thủ phạm gây nên sự đổ vỡ đó. Lúc đầu, sự áp đặt
một hệ thống kinh tế cứng nhắc nhằm bảo đảm an toàn cho chế độ xã hội chủ
nghĩa theo quan điểm nhấn mạnh vai trò hàng đầu của chính trị đã dẫn đến
một xã hội trì trệ, thiếu sức sống. Sau đó, lại là một xã hội hỗn loạn đến mức
không thể kiểm soát và định hướng nổi, với tư cách là hệ quả trực tiếp của
việc từ bỏ những nguyên tắc xã hội chủ nghĩa trong việc hoạch định chính
sách kinh tế của quá trình cải tổ. Đây là lối đi chúng ta đã tránh được trong
quá trình đổi mới vừa qua.
Đặc điểm văn hóa, xã hội của đất nước tác động, chi phối đến sự biến
đổi cơ cấu xã hội - giai cấp ở nước ta.
Văn hóa là hoạt động sáng tạo ra các giá trị của một dân tộc, một cộng
đồng người; biểu hiện cụ thể ở các luật lệ, quy định, phong tục, tập quán,…và
hệ quả của quá trình văn hóa hóa xã hội: thói quen trong sản xuất và sinh hoạt,
tâm lý xã hội, tâm lý cộng đồng, tâm lý tộc người,... tạo nên những nét riêng,