Tải bản đầy đủ (.doc) (157 trang)

Yếu tố khẩu ngữ trong hương rừng cà mau của sơn nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 157 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN BÍCH NGỌC

YẾU TỐ KHẨU NGỮ TRONG
HƯƠNG RỪNG CÀ MAU CỦA SƠN NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Thái Nguyên - 2015


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN BÍCH NGỌC

YẾU TỐ KHẨU NGỮ
TRONG HƯƠNG RỪNG CÀ MAU CỦA SƠN NAM

Chuyên ngành: Ngôn ngữ Việt Nam
Mã số: 60.22.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Cao Cương

Thái Nguyên - 2015




LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập và nghiên cứu, tôi đã hoàn thành luận văn
Thạc sĩ ngôn ngữ với đề tài “Yếu tố khẩu ngữ trong Hương rừng Cà Mau của
Sơn Nam”.
Qua đây, tôi xin chân thành bày tỏ sự kính trọng và lòng biết ơn sâu
sắc tới thầy giáo, TS. Hoàng Cao Cương đã tâm huyết, chỉ bảo tôi trong suốt
quá trình thực hiện đề tài này và là người thầy đã truyền dạy cho tôi
những kiến thức và kinh nghiệm quý báu trong công tác giảng dạy sau này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn đến BGH, khoa sau Đại học, ban chủ nhiệm
khoa Ngữ Văn, cùng các thầy, cô trực tiếp giảng dạy bộ môn chuyên ngành
ngôn ngữ của Trường ĐHSP Thái Nguyên đã tạo điều kiên thuận lợi cho tôi
trong suốt quá
trình học tập và nghiên cứu.
Thái Nguyên, ngày 25 thánh 8 năm 2015
Tác giả luận văn

Nguyễn Bích Ngọc


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là do tôi viết. Mọi số liệu, tư liệu cũng
như kết quả nghiên cứu là của riêng tôi.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Thái Nguyên, ngày 25 tháng 8 năm 2015
Người cam đoan

Nguyễn Bích Ngọc



MỤC LỤC
Lời

cảm

ơn

.........................................................................................................i Lời cam
đoan .....................................................................................................ii Mục
lục

............................................................................................................iii

Danh mục các từ viết tắt ...................................................................................
iv MỞ ĐẦU .........................................................................................................
1
1. Lí do chọn đề tài ...........................................................................................
1
2. Lịch sử nghiên cứu ....................................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................
4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................
5
5. Phương pháp nghiên cứu ..............................................................................
6
6. Đóng góp của luận văn ................................................................................. 6
7. Bố cục luận văn ............................................................................................ 7
Chương 1. CƠ SỞ LÍ THUYẾT .................................................................... 8
1.1. Dẫn nhập....................................................................................................

8
1.2. Một số khái niệm ngôn ngữ học và nghiên cứu văn học .............................
8
1.2.1. Ngôn ngữ toàn dân..................................................................................
8
1.2.2. Tiếng địa phương ....................................................................................
9
1.2.3. Ngôn ngữ văn hóa. Ngôn ngữ văn học. Ngôn ngữ văn chương .............
10
1.2.4. Khẩu ngữ .............................................................................................. 15
1.2.5. Chủ đề .................................................................................................. 22
1.2.6. Chi tiết nghệ thuật .................................................................................


23
1.2.7. Hình tượng nhân vật .............................................................................
24
1.3. Nhà văn Sơn Nam và Hương rừng Cà Mau ............................................. 25
1.3.1. Nhà văn Sơn Nam ................................................................................. 25
1.3.2. Hương rừng Cà Mau............................................................................. 26
1.4. Tiểu kết.................................................................................................... 27
Chương 2. TÍNH KHẨU NGỮ THỂ HIỆN TRONG TỪ NGỮ ĐỊA PHƯƠNG


2.1. Dẫn nhập.................................................................................................. 30
2.2. Danh sách từ ngữ Nam Bộ trong HRCM ................................................. 31
Cơ sở dữ liệu ...................................................Error! Bookmark not defined.
2.2.1. Nhóm tương ứng ngữ âm với từ toàn dân..............................................
32
2.2.2. Nhóm không có tương ứng về ngữ âm với từ toàn dân..........................

39
2.3. Tiểu kết.................................................................................................... 45
Chương 3. TÍNH KHẨU NGỮ THỂ HIỆN TRONG CÁC LỚP TỪ VÀ TÊN GỌI
....................................................................................................... 46
3.1. Dẫn nhập.................................................................................................. 46
3.2. Danh từ .................................................................................................... 46
3.2.1. Danh từ chung: loài cây ........................................................................ 47
3.2.2. Danh từ chung: loài vật ......................................................................... 49
3.2.3. Danh từ riêng: tên đất, tên người ..........................................................
54
3.3. Đại từ....................................................................................................... 70
3.4. Tiểu từ cuối câu ....................................................................................... 75
3.5. Cấu trúc vị từ ........................................................................................... 79
3.6. Thành ngữ, quán ngữ ............................................................................... 85
3.6.1. Thành ngữ............................................................................................. 85
3.6.2. Quán ngữ .............................................................................................. 88
3.7. Tiểu kết.................................................................................................... 89
KẾT LUẬN ................................................................................................... 92
THƯ MỤC THAM KHẢO .......................................................................... 95
PHỤ LỤC .................................................................................................... 100


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1. HRCM:
2. TSXH:

HƯƠNG RỪNG CÀ MAU
TẦN SỐ XUẤT HIỆN

3. NAM BÔ:

4. TD:

NAM BỘ

TOÀN DÂN

5. CTĐD: CẤU TRÚC ĐỊNH DANH
6. YTĐT:

YẾU TỐ ĐỨNG TRƯỚC

7. ÝTĐS:

YẾU TỐ ĐỨNG SAU

8. TTCC:

TIỂU TỪ CUỐI CÂU

9. TTMĐ: TIỂU TỪ MỤC ĐÍCH
10. TTTC:

TIỂU TÌNH THÁI CUỐI

11. TNTN:

THÀNH NGỮ TỤC NGỮ




MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Để giao tiếp và sáng tạo, con người có thể dùng âm thanh hoặc chữ
viết, nhưng giao tiếp và sáng tạo bằng âm thanh vẫn là tự nhiên và phổ dụng
hơn, vì lịch sử giao tiếp bằng âm thanh đã có hàng triệu năm trong khi thói
quen dùng chữ viết mới bắt đầu từ dăm ngàn năm lại đây.
Những năm gần đây, đã có rất nhiều những công trình nghiên cứu về từ
khẩu ngữ và tác dụng của nó được dùng trong các tác phẩm văn chương
như các tác giả: Nguyễn Thị Thanh Nga (2000), Những từ ngữ mang sắc thái
khẩu ngữ trong tiếng Việt, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Nguyễn Thị Điệp (2009),
Dấu ấn văn hóa Nam Bộ trong truyện ngắn Sơn Nam, Luận văn Cao học, Đại
học Cần Thơ, Trần Thị Hạnh (2012), Sơn Nam trong tiến trình văn học Nam
Bộ,

www.yersin.edu.vn/Uploads/2013/03/Thong_Tin_KH_So_01_091.pdf,

Nguyễn Văn Nở, Nguyễn Thị Tuyết Hoa (2015), Cách vận dụng từ địa phương
trong truyện ngắn của Sơn Nam, http. nguvan. hnue. vn/nghiencuu/
tabid/100/newstab/468/default.aspx, Phạm Thị Thu Thủy (2011), Dấu ấn
Nam Bộ trong tập truyện ngắn "Mùa len trâu" của nhà văn Sơn Nam,
www.tonvinhvanhoadoc. vn, Nguyễn Nghiêm Phương (2009), Màu sắc Nam Bộ
trong ngôn ngữ truyện ký Sơn Nam, Luận văn Cao học, ĐHSP

Tp Hồ Chí

Minh, Lê Thị Thùy Trang (2003), Đặc điểm truyện ngắn Sơn Nam giai đoạn
1954-1975, Luận văn Cao học, ĐHSP Tp Hồ Chí Minh. Những tác giả trên đã
nói về tác dụng của khẩu ngữ, về nhà văn Sơn Nam một nhà văn đã mang
đậm chất Nam Bộ. Nối tiếp cách tiếp cận này, chúng tôi chọn đề tài để nghiên
cứu : Yếu tố khẩu ngữ trong Hương Rừng Cà Mau của Sơn Nam. Mong muốn

khắc sâu hơn nữa giá trị, tác dụng của khẩu ngữ được Sơn Nam sử dụng trong
sáng tác của mình, cụ thể, chúng tôi đi tìm hiểu về yếu tố khẩu ngữ, tác dụng
của nó mà tác giả sử dụng trong tập truyện Hương Rừng Cà Mau.


HRCM của Sơn Nam là tuyển tập truyện ngắn về những người nông dân
Nam Bộ sống cách nay năm sáu chục năm. Việc nghiên cứu hệ thống từ ngữ,
cách kết nối cú pháp và kết nối đoạn trong từng tác phẩm có thể giúp chúng
ta hiểu được những dụng công của tác giả trong việc tận dụng các yếu tố khẩu
ngữ cho xây dựng nhân vật và các hoàn cảnh điển hình. Xuất phát từ mong
muốn này, chúng tôi chọn đề tài “Yếu tố khẩu ngữ trong HRCM của Sơn
Nam”.
2. Lịch sử nghiên cứu
Mặc dù xuất hiện rất sớm trên văn đàn Miền Nam, nhưng trước
1975
Sơn Nam ít được giới học giả Sài Gòn nhắc tới. Có lẽ bên cạnh lí do về vấn đề
chính trị, còn có vấn đề về phong cách viết của ông, cái phong cách có phần
ngược với xu thế văn chương thời thượng hồi đó ở vùng tạm chiếm, dưới ách
Mỹ Ngụy.
Sơn Nam chỉ được chú ý và được đánh giá cao sau ngày đất nước được
giải phóng, khi trào lưu trở về nguồn đã trở thành một xu hướng mới của thời
đại. Chỉ khoảng sau 10 năm đất nước thống nhất, nhiều tác phẩm của ông đã
được tái bản, trong đó nổi tiếng nhất là HRCM.
Trong lời tựa cho HRCM tập 1, nhà thơ Viễn Phương coi Sơn Nam là
một cây bút xuất sắc và tiêu biểu cho văn chương Nam Bộ thế kỉ XX. Trong
Các tác gia văn học Việt Nam, viết năm 1992, các tác giả Nguyễn Đăng Mạnh,
Nguyễn Đình Chú, Nguyên An đã coi HRCM là tác phẩm tiêu biểu nhất, đặc
sắc nhất của Sơn Nam. Từ điển văn học bộ mới in năm 2004 cho tác phẩm này
là "đã đem lại cho nhiều thế hệ người đọc những xúc cảm thẩm mĩ bổ
ích, những gợi ý chân thành cao quý về đất nước và tình người" [27,1566].

Với Trần Hữu Tá, HRCM đã chứng tỏ được tác giả của nó là "một người cầm
bút có dáng vẻ và hương sắc riêng" [45,72].
Bàn về phong cách nghệ thuật của Sơn Nam trong HRCM, Từ điển văn
học, bộ mới, cho rằng: "Truyện ngắn của Sơn Nam có cốt cách, ý vị riêng …
Tác giả viết hết sức thoải mái, tự nhiên, như lời kể trong bữa nhậu bằng


ngôn


ngữ đời thường. Phương ngữ được dùng vừa phải, đúng chỗ. Con người
và vùng đất "nê địa" Cà Mau cứ thế hiện lên trên từng trang viết của ông,
cuốn hút, say người." [27, 1566]. Bước sang thế kỉ XXI, các nghiên cứu về Sơn
Nam tiếp tục đi theo hướng này nhưng dưới một tiếp cận mới: nghiên cứu
thi pháp. Phong cách Sơn Nam được các nhà nghiên cứu cụ thể và chi
tiết hóa qua những dụng công của ông trong sử dụng lời ăn tiếng nói hàng
ngày của người Nam Bộ. Các công trình nghiên cứu đều có khát vọng chung
là mong muốn cắt nghĩa cho thật khoa học cái gọi là "hương sắc riêng", cách
"viết như nói" của Sơn Nam.
Truyện ngắn Sơn Nam gồm "một thế giới nhân vật phong phú và đa
dạng", từ những người lao động chăm chỉ đến những kẻ quen sống dựa dẫm,
lười biếng; từ những người thật thà, chân chỉ đến những kẻ bịp bợm, sống
lang bạt kì hồ; từ những người còn nặng lòng với đất nước, quê hương đến
những kẻ rắp tâm làm tay sai cho ngoại bang... Ứng với mỗi một loại nhân vật
là một loại tính cách. Theo Lê Thị Thùy Trang, 2003, trong HRCM, các nhân
vật đều ít được mô tả ngoại hình. Thay vào đó là cách mô tả đặc biệt riêng
của Sơn Nam: thông qua lời nói, thái độ, hành động.. Nhưng cái làm nên ấn
tượng Sơn Nam nhất trong lòng người đọc là nghệ thuật sử dụng tiếng địa
phương Nam Bộ. "Đó là cách diễn đạt khéo léo mà không cầu kì, mộc mạc,
chân thành, giản dị, dễ hiểu mà không kém mượt mà, không làm mất đi tính

thẩm mĩ của văn học" [56, 113]. "Nhiều tác phẩm trong HRCM mang đậm
khẩu khí Nam Bộ. Ở những tác phẩm này gần như tác giả đã sao chụp nguyên
mẫu ngoài cuộc sống" [56, 116].
Nguyễn Văn Nở và Nguyễn Thị Tuyết Hoa, 2015, cho rằng, "Một trong
những yếu tố làm nên sức hấp dẫn trong truyện ngắn của Sơn Nam là cách
vận dụng ngôn ngữ của ông, đặc biệt là phương ngữ Nam Bộ. Lớp từ vựng
trong phương ngữ Nam Bộ được vận dụng để miêu tả trong truyện ngắn Sơn
Nam rất đa dạng.". Theo các tác giả này, " …một số lớp từ sau: lớp từ xưng
hô, lớp từ định danh một số động vật, thực vật, lớp từ chỉ đặc điểm địa hình,


hiện tượng


tự nhiên, lớp từ chỉ vật thể nhân tạo được dùng phổ biến trong cách nói
năng của người Nam Bộ. Bởi lẽ đây là lớp từ phản ánh trực tiếp đặc điểm
vùng đất, cuộc sống lao động sản xuất, nét sinh hoạt văn hóa cùng cách ứng xử
trong giao tiếp của người Nam Bộ" [39].
Theo Trần Thị Hạnh, "đặc biệt, Sơn Nam trong nghệ thuật sử dụng ngôn
ngữ bình dân đã có những bước tiến đáng ghi nhận" [21, 45]. và bà lí giải điều
đó như sau: "… vẫn là lời ăn tiếng nói của người dân Nam Bộ nhưng nó không
làm cho người đọc các vùng khác khó hiểu. Ông không sử dụng ngôn ngữ quá
cũ, mà thông qua giọng điệu, cách ví dụ vẫn thể hiện được cá tính Nam Bộ"
[21, 45].
Tóm lại, việc nghiên cứu Sơn Nam trong những năm đầu của thế kỉ đã
có chiều sâu: đi theo hướng thi pháp. Các tác giả nghiên cứu dần đi tới được
những đồng thuận khi đánh giá nghệ thuật văn chương của ông. Từ
phương diện xây dựng kết cấu và cốt truyện thì thật ra truyện ngắn Sơn Nam
không có những đóng góp thật đặc biệt. Tuy nhiên, cái đặc sắc trong các
truyện của ông lại nằm ở cách sử dụng sáng tạo vốn từ địa phương, cách đặt

tên nhân danh và địa danh độc đáo và lối kể chuyện đượm màu sắc dân gian.
Chính cái độc đáo này đã đưa Sơn Nam vào một vị trí thật đặc biệt của
trong tiến trình văn chương Nam Bộ. Gộp các yếu tố này cho dễ gọi trong
một danh từ chuyên môn chung hơn, ta có thể nói: đó là sự thành công từ
chất liệu khẩu ngữ trong từng sáng tác.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
- Xác định các yếu tố làm nên cái gọi là chất liệu khẩu ngữ trong HRCM
- Làm rõ đặc điểm phân bố của các yếu tố khẩu ngữ trong HRCM. Qua
đó thấy được mối liên hệ hữu cơ giữa các yếu tố ngôn ngữ bình dân và
ngôn ngữ bác học trong một tác phẩm văn chương.
- Tìm hiểu bước đầu tác dụng nghệ thuật của các yếu tố khẩu ngữ trong
HRCM.


3.2. Nhiệm vụ
- Xác định đặc điểm cấu trúc khẩu ngữ trong HRCM.
- Tìm hiểu tác dụng nghệ thuật của các yếu tố khẩu ngữ trong HRCM.
Tìm hiểu các mặt tích cực và hạn chế của yếu tố này trong sáng tạo
văn chương.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Một trong những yếu tố tạo nên giá trị nghệ thuật của một tác phẩm
văn học là chất liệu ngôn ngữ mà nhà văn sử dụng. Thông thường, chất liệu
này là ngôn ngữ chuẩn mực, ngôn ngữ văn chương, nơi hạn chế đến thấp
nhất cách sử dụng vốn từ địa phương và cách diễn đạt theo ngôn ngữ nói,
ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày. Tuy nhiên tiến trình văn học Việt Nam đã
từng được chứng kiến tình trạng có những tác giả dùng ngôn ngữ nói làm
phương tiện biểu đạt văn chương. Những tác giả này có người thành công
nhưng cũng có người chưa thật thành công. Chẳng hạn hiện tượng dùng

ngôn ngữ nói của Hồ Xuân Hương tạo nên dòng thơ Nôm tuyệt tác trong quá
khứ là một ví dụ thành công. Còn ở địa hạt văn xuôi thế kỉ XX người ta cũng đã
ghi nhận được hàng loạt các tác giả có nhiều tìm tòi trong sử dụng ngôn ngữ
bình dân như Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc, Nguyễn Văn Bổng, Sơn
Nam hoặc các trường hợp Nguyễn Quang Lập, Nguyễn Ngọc Tư sau này.
Để tìm hiểu bí quyết nào giúp nhà văn sử dụng ngôn ngữ nói trong sáng tác
lại gặt hái được thành công, trước hết cần tìm hiểu sự phân bố các yếu tố
khẩu ngữ có trong tác phẩm của họ và cách khai thác chúng cho mục đích
thẩm mĩ. Chúng tôi chọn các tập truyện ngắn của Sơn Nam cho việc tìm hiểu
bước đầu này.
Tên tuổi của nhà văn Sơn Nam gắn liền với tập truyện HRCM. Năm
1962 tập truyện được Nhà xuất bản Phù Sa xuất bản, chỉ gồm 18 truyện, Sau
đó nó được nhiều nhà xuất bản tái bản nhiều lần, cả trước lẫn sau giải phóng.
Đến
2001 Nhà xuất bản Trẻ nhân khi tái bản đã tập hợp những truyện ngắn khác


nữa


của ông và xuất bản thêm 2 tập mới. Ngoài 18 truyện trước đây, HRCM có
thêm 47 truyện ngắn nữa. 18 truyện cũ từ 1962 được đặt tên là HRCM,
Tập Một. Hai tập tiếp sau là HRCM, Tập Hai và Tập Ba.Tập 2: 26 truyện;Tập
Ba:21 truyện. Hiện nay dưới tiêu đề HRCM là một tổng tập truyện ngắn dày
dặn gồm
65 truyện, gấp hơn 3 lần số truyện xuất bản lần đầu. Trong công trình này cả
3 tập HRCM này là ngữ liệu cơ sở dùng cho phân tích các đặc điểm khẩu ngữ
mà nhà văn đã sử dụng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Chất khẩu ngữ của HRCM được bộc lộ qua:

a. Vốn từ ngữ địa phương
b. Cấu trúc cú pháp đặc trưng của ngôn ngữ nói theo phong cách Nam Bộ
Hai yếu tố này sẽ được phân tích trong công trình.
5. Phương
cứu

pháp

nghiên

Luận văn chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây::
5.1. Phương pháp thống kê: Những yếu tố khẩu ngữ tiêu biểu xuất hiện
trong HRCM được lên danh sách kèm với tần số xuất hiện (TSXH) của chúng.
Nhờ các phân tích thống kê có thể phát hiện ra dược mức độ sử dụng và hiệu
lực thông tin của chúng trong HRCM.
5.2. Phương pháp phân tích ngữ nghĩa: Các yếu tố khẩu ngữ được tập
hợp theo các dạng đơn vị khác nhau có trong hệ thống ngôn ngữ và xem
xét nội dung biểu đạt chính của chúng theo phương pháp phân tích ngữ nghĩa
ở từng ngữ cảnh có thể.
5.3. Phương pháp phân tích diễn ngôn: Đặt các yếu tố khẩu ngữ vào văn
bản và các hoàn cảnh cụ thể để xem xét tác dụng của các yếu tố này trong
liên kết văn bản và qua đó tìm hiểu các hiệu lực dụng ngôn của chúng.
6. Đóng góp của luận văn
6.1. Ý nghĩa lí luận


- Nhằm khẳng định vai trò tích cực của chất liệu khẩu ngữ trong truyện
ngắn Sơn Nam, nói riêng và truyện ngắn Việt Nam, nói chung.
Trong việc xác định phong cách một tác giả, bên cạnh việc quan tâm
đến các yếu tố nghệ thuật liên quan đến xây dựng nhân vật, tính cách nhân

vật và phác họa các hoàn cảnh xuất hiện nhân vật, người nghiên cứu cần có
cái nhìn chi tiết hơn nữa về chất liệu ngôn ngữ mà nhà văn ưa thích dùng
trong sáng tác.
6.2.Ý nghĩa thực tiễn
- Bước đầu tìm hiểu đặc điểm cấu trúc của cái gọi là chất liệu khẩu ngữ.
- Khẳng định vai trò ngôn ngữ cá nhân nhà văn trong sáng tác văn
chương.
- Giới thiệu thủ pháp phân tích ngôn ngữ cho xác định phong cách.
- Góp thêm tiếng nói khẳng định vị trí của Sơn Nam trong tiến trình
truyện ngắn Việt Nam hiện đại.
7. Bố cục luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận, luận văn gồm 3 chương chính:
Chương 1: Cơ sở lí thuyết
Chương 2: Vốn từ ngữ Nam Bộ trong HRCM
Chương 3: Những lớp từ ngữ đặc biệt


Chương 1
CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1.1. Dẫn nhập


Như là các khái niệm công cụ cho khảo sát hiện tượng khẩu ngữ trong
HRCM của Sơn Nam, chương này xin trình bày một số khái niệm ngôn ngữ học
và nghiên cứu văn học liên quan trực tiếp với đề tài. Đó là các khái niệm ngôn
ngữ học về loại hình ngôn ngữ chức năng với tư cách là các hệ thống con
trong hệ thống ngôn ngữ một tộc người và các khái niệm sơ giản về cấu trúc
nghệ thuật trong một tác phẩm văn học. Chương cũng dành phần còn lại cho
giới thiệu về Sơn Nam và tác phẩm HRCM.
1.2. Một số khái niệm ngôn ngữ học và nghiên cứu văn học

1.2.1. Ngôn ngữ toàn dân
Trong quá trình tộc người, khi hội đủ các điều kiện kinh tế - xã hội nhất
định thi tiếng nói tộc người bước sang giai đoạn phát triển trở thành
phương tiện giao tiếp chung cho cả một quốc gia. Đến lượt chúng, những
tiếng nói trong các vùng dân cư khác nhau trở thành phương ngữ (tiếng địa
phương) của quốc gia. Cái ngôn ngữ bao trùm lên, được dùng như phương
tiện giao tiếp chung giữa các địa phương chính là ngôn ngữ toàn dân của một
quốc gia.
Mặc dù có những khác biệt nhất định về giọng nói giữa các địa
phương, nhưng nòng cốt một ngôn ngữ toàn dân đã được hình thành trên cơ
sở vốn từ vựng chung. Đó là những từ ngữ được tất cả thành viên nói năng
trong một quốc gia hiểu và sử dụng một cách tự nhiên. Chúng được dùng theo
phong cách trung hòa. Đối lập với vốn từ này là các lớp từ được dùng hạn chế
như từ địa phương, từ nghề nghiệp, tiếng lóng , thuật ngữ… Vốn từ của
ngôn ngữ toàn dân được xây dựng trên lớp từ cơ bản và làm cơ sở thống
nhất ngôn ngữ và quốc gia. Nó cũng chính là nòng cốt của vốn được sử dụng
trong ngôn ngữ văn học, khi tiếng nói của một dân tộc dấn thêm một bước
nữa trong tiến trình phát triển của mình để thành một ngôn ngữ thống nhất và
được chuẩn hóa.


1.2.2. Tiếng địa phương
Đối lập với ngôn ngữ toàn dân là tiếng địa phương, thứ tiếng nói được
dùng hạn chế trong một vùng nhất định. Những khác biệt về ngữ âm, từ
vựng và ngữ pháp trong so sánh giữa các vùng miền cho phép tách chia các
tiếng địa phương trong cùng một ngôn ngữ. Sự khác biệt về ngữ pháp giữa
các tiếng địa phương thường ít được bộc lộ hoặc nếu có cũng không gây nên
những ấn tượng quá đặc biệt đối với người tiếp nhận. Ấn tượng nổi bật là
nằm ở các khác biệt về ngữ âm và từ vựng.
Giọng nói cùng những biểu hiện âm thanh khác lạ là đặc điểm dễ nhận

ra nhất khi giao tiếp với người ở địa phương khác. Đó chính là các biểu hiện
về mặt ngữ âm của một tiếng địa phương. Những đặc điểm ngữ âm khác biệt
này là biểu hiện bề mặt, còn các đặc điểm âm vị chung cho tất cả các tiếng
địa phương của cùng một ngôn ngữ thì được định vị ở cấu trúc sâu, ở tầng
nền cấu trúc một ngôn ngữ. Chính mối quan hệ này giữa hai tầng cấu trúc đã
cho phép những người nói các tiếng địa phương khác nhau vẫn hiểu nhau
được. Ở cấp độ từ vựng học, ngoài phần chung vốn từ trong ngôn ngữ toàn
dân, mỗi tiếng địa phương đều có những từ ngữ đặc trưng riêng của mình.
Đó là những thông tin quan trọng về địa lí, hoàn cảnh kinh tế, xã hội và nhất
là về phong tục và tập quán của một địa phương. Theo Dẫn luận ngôn ngữ
học, "Từ địa phương là những từ ngữ dùng hạn chế ở một hoặc vài địa
phương. Nói chung, từ địa phương là bộ phận từ vựng của ngôn ngữ nói
hằng ngày của bộ phận nào đó của dân tộc chứ không phải là từ vựng của
ngôn ngữ văn học. Khi dùng vào sách báo nghệ thuật, các từ địa phương
thường mang sắc thái tu từ: diển tả lại đặc điểm của địa phương, đặc điểm
của nhân vật” [20; 14]. Còn Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ thì đưa ra
một định nghĩa ngắn nhưng tổng quát hơn:“Từ địa phương không ở trong
ngôn ngữ văn học mà thuộc về tiếng nói của một vùng đất nhất định. Chúng
mang sắc thái địa phương. Người của địa phương này không hiểu từ của địa
phương khác”. [62; 399].


Về nguyên tắc, nói chung, ở những phong cách viết như hành chính
công vụ, chính luận báo chí hoặc khoa học kĩ thuật thì không thể sử dụng vốn
từ địa phương được. Tuy nhiên, trong sáng tác văn chương, đôi khi vốn từ địa
phương lại có tác dụng quan trọng. Nhờ vốn từ địa phương được sử dụng
một cách có chọn lọc, nhà văn có thể mô tả và bộc lộ cụ thể và sinh động hệ
thống các tính cách nhân vật và những môi trường sống khác nhau của họ.
Theo bản chất tín hiệu của từ ngữ, người ta phân vốn từ địa
phương thành hai loại: từ địa phương ngữ âm và từ địa phương từ vựng. Nếu

khác biệt giữa từ địa phương và từ toàn dân chỉ dừng trên bề mặt thì đó là
các từ địa phương ngữ âm. Ví dụ thiệt, lịnh, đờn, thiếm… trong tiếng Nam Bộ
tương đương với các từ toàn dân như thật, lệnh, đàn, thím …Những tương
đương này là có quy luật. Còn khi các từ địa phương không tìm thấy những
từ tương ứng về mặt ngữ âm trong tiếng toàn dân thì đó chính là các từ đặc
hữu của địa phương đó. Chúng là các từ địa phương từ vựng như: bần, măng
cụt, len trâu, càm ràm, mẻ ung, nhậu, lé đé…
Trong các trích dẫn sau:
- “Hồi đầu mùa, tao biểu giao trâu cho họ len đi miệt khác kiếm cỏ. Mà
mày ngăn cản. Bây giờ tới nước này rồi…”[HRCM.1.131].
- “Mày ăn trộm búa nữa hả? Ráng mà đỡ. Nè!” [HRCM.1.216].
-“Ghiền rồi hả mậy?”[HRCM.1.140].
Những từ địa phương Nam Bộ được in đậm. Trong số này, biểu, nè,
ghiền, mậy là những từ địa phương ngữ âm; còn miệt, ráng là từ địa phương
từ vựng.
Trong thực tế, từ địa phương ngữ âm luôn chiếm tỉ lệ áp đảo, còn từ từ
vựng thì thường có số lượng ít hơn rất nhiều. Những từ địa phương từ vựng
cung cấp nhiều thông tin về một vùng đất. Đó là các từ chỉ những sản vật đặc
hữu, lối tư duy và tính cách riêng của một vùng dân cư do điều kiện xã hộikinh tế trong tiến trình lịch sử cụ thể đưa lại.
1.2.3. Ngôn ngữ văn hóa. Ngôn ngữ văn học. Ngôn ngữ văn chương


Khi một nhà nước đã hình thành thì do áp lực hệ thống chữ viết mà các
thổ ngữ, phương ngữ dần quy tụ thống nhất vào ngôn ngữ toàn dân. Ngôn
ngữ này, đến lượt nó, do những đòi hỏi ngày càng gay gắt của kinh tế - xã
hội tất yếu bị chuẩn mực hóa. Đấy là một quá trình diễn ra lâu dài ở cả bình
diện cấu trúc lẫn bình diện chức năng. Về cấu trúc đó là sự thống nhất giữa
các thành viên trong cộng đồng nói năng về hình thức âm thanh của từ, về hệ
thống từ vựng và về hệ thống từ pháp và cú pháp. Còn về chức năng đó là
xuất hiện những quy định bắt buộc sử dụng ngôn ngữ đã chuẩn hóa cho

từng khu vực giao tiếp nhất định. Những khu vực giao tiếp quen thuộc trước
đây bằng ngôn ngữ viết sẽ được ngôn ngữ chuẩn hóa tiếp quản và mở rộng ra
tiếp theo yêu cầu của xã hội hiện đại.
Theo Trường phái ngôn ngữ học chức năng Praha, ngôn ngữ đã trải qua
quá trình chuẩn hóa như vậy được gọi là ngôn ngữ văn hóa. Thuật ngữ này
tương đương với thuật ngữ ngôn ngữ văn học ở nước ta quen dùng. "Ngôn
ngữ văn học là ngôn ngữ mẫu mực đã được chuẩn hóa, phục vụ cho tất cả
các lĩnh vực giao tiếp giữa người với người, và giữ vai trò to lớn trong việc
hình thành và phát triển tư duy, phát triển tâm lí, trí tuệ và toàn bộ hoạt
động tinh thần của con người, còn gọi là ngôn ngữ chuẩn, ngôn ngữ tiêu
chuẩn”[35,127].
Tuy nhiên, thuật ngữ ngôn ngữ văn học, mặt khác, lại trùng với khái
niệm "ngôn ngữ mang tính nghệ thuật được dùng trong văn học". Để
tránh nhầm lẫn, ở đây chung ta tạm gọi đó là ngôn ngữ văn chương.
Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên của văn học, như màu sắc đối với hội
họa, âm thanh đối với âm nhạc, hình khối đối với kiến trúc. Trong sự sáng tạo
của nhà văn, sự sáng tạo về ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng. Ngôn ngữ của
tác phẩm văn học chính là ngôn ngữ của đời sống, ngôn ngữ toàn dân đã
được nâng đến trình độ nghệ thuật. Trong văn chương, ngôn ngữ là một
trong những yếu tố quan trọng thể hiện cá tính sáng tạo, phong cách, tài năng
của nhà văn. Mỗi nhà văn lớn bao giờ cũng là những tấm gương sáng về


mặt hiểu biết về


×