Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

cải cách hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.46 KB, 19 trang )

Chuyên đề 8
CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
Câu 1: Phân tích xu hướng cải cách HCNN theo mô hình quản lý công mới:
Xu hướng cải cách hành chính ở các nước phát triển
Ngày nay, cải cách hành chính nhà nước là một lĩnh vực được hầu hết các nước trên
thế giới quan tâm. Nhiều quốc gia coi cải cách hành chính là một yếu tố hết sức quan trọng
để thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội, đồng thời thông qua cải cách hành chính nhằm
nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước; tăng khả năng phát triển kinh tế -xã
hội.
Có thể nhận thấy một trong những xu hướng chung của cải cách hành chính trên thế
giới hiện nay là hướng tới làm thế nào xây dựng một chính phủ gọn nhẹ hơn để có thể vận
động một cách nhanh nhạy hơn và hiệu quả hơn nhằm tăng năng lực cạnh tranh của nhà
nước trong bối cảnh toàn cầu hoá. Xu hướng này ở các nước phát triển thường được thể
hiện qua các thuật ngữ `Tái tạo lại chính phủ“(Mỹ), ``Mô hình quản lý mới“ (CHLB Đức),
``Hành chính công định hướng hiệu quả“ (Thụy Sĩ),... Cuộc cải cách này không chỉ mang
ý nghĩa của một cuộc thay đổi nội bộ mà còn phản ánh một xu hướng mới trong hoạt động
của nhà nước: nền hành chính không chỉ làm chức năng ``cai trị“ mà chuyển dần sang
chức năng ``phục vụ“, cung cấp các dịch vụ công cho xã hội.
Mục tiêu tổng quát trong cải cách hành chính của tất cả các nước trên thế giới là
hướng tới việc xây dựng một bộ máy hành chính gọn nhẹ hơn, hoạt động hiệu lực và hiệu
quả hơn, hướng tới phục vụ tốt hơn các nhu cầu và lợi ích hợp pháp của mỗi công dân và
cả xã hội. Xu hướng chủ đạo của các cuộc cải cách này là chuyển đổi nền hành chính công
truyền thống, được xây dựng trên nền tảng những nguyên tắc tổ chức cơ bản của mô hình
„bộ máy thư lại“ của Max Weber sang xây dựng mô hình „quản lý công mới“. Đây là xu
hướng mới xuất hiện vào cuối những năm 70- đầu những năm 80 của thế kỷ XX ở các
nước phát triển. Nội dung của xu hướng cải cách này là đưa tinh thần doanh nghiệp và các
yếu tố của thị trường vào hoạt động của nhà nước, vận dụng các nguyên tắc và phương
pháp quản lý doanh nghiệp vào tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, đặc biệt vào
quản lý cơ quan hành chính nhằm nâng cao tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả của hoạt
động hành chính.
Có thể nhận thấy những giải pháp chủ yếu ở các nước phát triển khi tiến hành các


hoạt động cải cách hành chính như sau:
- Tăng cường tư nhân hoá: Quá trình tư nhân hóa là giải pháp mạnh mẽ nhất được
áp dụng trong cải cách hành chính ở các nước phát triển. Các nhà nước theo đuổi mô hình
Quản lý công mới luôn tìm cách giảm bớt số lượng và quy mô của các dịch vụ vốn trước
đây do nhà nước tự mình cung cấp và chuyển giao lại cho khu vực tư nhân đảm nhiệm.
Quá trình tái cơ cấu khu vực công bằng cách chuyển giao cho tư nhân và huy động các
nguồn lực của tư nhân tham gia cùng với nhà nước cung cấp dịch vụ công làm giảm gánh
nặng chi ngân sách của nhà nước, giảm nợ công, đồng thời giúp bộ máy nhà nước tái cơ
cấu để trở nên gọn nhẹ hơn, vận động nhanh nhạy hơn, đáp ứng các đòi hỏi của quá trình
toàn cầu hóa. Nhưng việc đẩy mạnh tư nhân hoá không đồng nghĩa với việc giảm trách
2


nhiệm của Nhà nước trong việc cung cấp dịch vụ cho công dân và xã hội. Thay cho việc
trực tiếp đứng ra cung cấp các hàng hoá và dịch vụ công thiết yếu („chèo thuyền“), Nhà
nước chỉ cần đứng ra điều tiết, đảm bảo sự có mặt của các hàng hoá và dịch vụ công đó,
việc trực tiếp cung ứng được giao cho các chủ thể khác („lái thuyền“).
- Hướng tới kiểm soát kết quả: Với mục đích tăng cường hiệu quả của hoạt động
hành chính nhà nước, thay cho việc kiểm soát nghiêm ngặt các yếu tố đầu vào và quy
trình, thủ tục như trong mô hình truyền thống, trong mô hình Quản lý công mới người ta
hướng tới việc kiểm soát đầu ra, đánh giá các hoạt động theo kết quả thu được. Điều này
giúp cho các cơ quan hành chính nhà nước và cán bộ, công chức có thể phát huy tính sáng
tạo trong quá trình thực thi công vụ, cải tiến quy trình, thủ tục cho phù hợ với đặc điểm
của mỗi công việc và theo hoàn cảnh cụ thể để mang lại hiệu quả hoạt động cao nhất.
- Điều chỉnh mối quan hệ giữa trung ương và địa phương: Về nguyên tắc, đó là quá
trình hợp lý hoá mức độ phân cấp giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa
phương và giữa các cấp chính quyền địa phương với nhau. Xu hướng chung trong lĩnh vực
cải cách này là đẩy mạnh quá trình phân quyền cho địa phương để tăng tính chủ động,
sáng tạo cho địa phương. Nhiều nước đã áp dụng nguyên tắc „tự quản địa phương“ cho
phép các địa phương tự quyết định các vấn đề liên quan tới công việc của địa phương

mình và chỉ khi nào cấp dưới không thể hoàn thành được nhiệm vụ thì cấp trên mới tiến
hành can thiệp.
- Phi quy chế hoá: Trong quá trình chuyển từ việc giám sát đầu vào và sự tuân thủ
quy trình sang việc giám sát đầu ra, đánh giá hoạt động thông qua kết quả hoạt động, tính
chủ động của cơ quan nhà nước và người công chức được nâng lên. Xu hướng này dẫn tới
việc cần phải loại bỏ đi các quy định vốn cứng nhắc, phức tạp trong các quy trình xử lý
công việc, tạo thêm không gian cho người công chức thể hiện năng lực giải quyết vấn đề
của mình.
- Cấu trúc tổ chức của bộ máy hành chính cũng được đổi mới theo hướng „phẳng“
hơn, thay cho bộ máy quan liêu đồ sộ, hình tháp trước đây. Một trong những giải pháp để
thực hiện hướng đi này là việc hình thành các nhóm chuyên gia kiểu dự án để giải quyết
các vấn đề và tăng cường thông tin theo chiều ngang.
- Cải cách chế độ công vụ, công chức: Trong lĩnh vực nhân sự, các cơ quan nhà
nước đưa các yếu tố của mô hình „quản lý nguồn nhân lực“ từ lâu đã là một động lực quan
trọng trong khu vực tư nhân vào khu vực nhà nước thay thế cho mô hình „quản trị nhân sự
truyền thống“. Quá trình thay đổi này khiến cho đội ngũ công chức hoạt động tích cực hơn
và mang lại hiệu quả hoạt động cao hơn. Đồng thời, việc giao lưu nhân sự giữa khu vực
công và khu vực tư trở nên dễ dàng hơn và nhờ đó những ý tưởng quản lý theo kiểu doanh
nghiệp được vận dụng vào khu vực nhà nước cũng ngày càng nhiều hơn.
- Cải cách tài chính công: Ở nhiều nước theo mô hình quản lý mới, thay cho việc
cấp phát ngân sách hàng năm trên căn cứ vào biên chế, người ta đã tiến hành cấp phát
ngân sách theo chương trình, dự án cụ thể (trừ những chi tiêu tất yếu và ổn định) nhằm
tăng cường hiệu quả, tiết kiệm tiền thuế do nhân dân đóng góp. Việc cấp phát ngân sách
được kiểm tra rất chặt chẽ, đảm bảo những quy tắc tài chính và coi trọng tính hiệu quả.
- Hiện đại hoá nền hành chính: Việc ứng dụng các thành tựu khoa học-công nghệ
3


hiện đại vào các hoạt động hành chính góp phần quan trọng làm giảm số lượng nhân sự và
nâng cao năng suất lao động trong các cơ quan nhà nước. Ngoài ra, việc ứng dụng khoa

học - công nghệ còn làm thay đổi cách thức làm việc, ứng xử của đội ngũ cán bộ, công
chức theo hướng chuyên nghiệp.
Vận dụng các kinh nghiệm cải cách hành chính nhà nước của các nước phát
triển vào cải cách hành chính ở Việt Nam
Cải cách hành chính nhà nước liên quan tới nhiều yếu tố mang tính nội tại của từng
quốc gia trong mỗi giai đoạn, do đó không có một nền hành chính khuôn mẫu cho tất cả
các nước. Cải cách hành chính nhà nước phải bắt nguồn từ thực tiễn của mỗi quốc gia, phụ
thuộc vào chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế- xã hội và cả những yếu tố khác như
truyền thống, văn hoá, lịch sử,… của quốc gia đó. Tuy nhiên, những kinh nghiệm của các
nước khác đều là những bài học quan trọng, có thể tham khảo và vận dụng một cách thích
hợp.
Mô hình “quản lý công mới” xuất hiện trong môi trường các nước phát triển phản
ánh một cách rõ nét những gì cần phải làm ở các nước này. Tuy nhiên, việc ứng dụng mô
hình này vào các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng vẫn còn là vấn đề
phải tranh luận không chỉ trong giới học thuật, mà cả giữa các nhà nghiên cứu hành chính
thực tiễn.
Các nước phát triển với truyền thống hành chính lâu đời, với hệ thống luật pháp đã
tương đối ổn định và đầy đủ, trình độ phát triển kinh tế-xã hội và tương ứng với nó là ý
thức dân chủ, ý thức pháp luật của đại bộ phận dân cư cũng như đội ngũ cán bộ, công chức
đã đạt tới mức độ tương đối cao khiến cho các giải pháp cải cách hành chính nhà nước
được áp dụng sẽ khác với ở các nước đang phát triển.
Trong điều kiện hiện nay của Việt Nam, cải cách hành chính là một quá trình thay
đổi có chủ định nhằm hoàn thiện các bộ phận của nền hành chính để nâng cao năng lực,
hiệu lực và hiệu quả hoạt động của hành chính công trong quản lý nhà nước và phục vụ
nhân dân, góp phần thực hiện thành công công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đảng và Nhà nước ta đã xác định: Cải cách hành chính phải xuất phát từ điều kiện cụ thể
của Việt Nam, có tham khảo kinh nghiệm của các nước. Việc nghiên cứu, vận dụng những
bài học kinh nghiệm từ các cuộc cải cách ở các nước sẽ góp phần quan trọng tạo nên thành
công của công cuộc cải cách hành chính ở nước ta hiện nay.
3. CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM

3.1. Sự cần thiết phải cải cách hành chính ở Việt Nam
Cải cách hành chính ở nước ta hiện nay diễn ra trong khuôn khổ của cải cách nhà
nước theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, là tiền đề quan trọng để
thực hiện thành công quá trình đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng. Những nguyên nhân
chủ yếu dẫn tới việc đẩy mạnh cải cách hành chính ở nước ta hiện nay là:
- Quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường
định hướng XHCN
Cải cách hành chính hướng tới việc nâng cao khả năng hoạt động của bộ máy hành
chính để giúp cho quá trình quản lý xã hội của Nhà nước được tốt hơn, trước hết là quản lý
4


nền kinh tế, định hướng cho nền kinh tế phát triển theo đúng định hướng của Nhà nước.
Mỗi nền kinh tế cần phải được quản lý theo cách thức riêng. Quản lý nhà nước đối với
kinh tế là để cho nền kinh tế phát triển ổn định, theo đúng định hướng, khắc phục và giảm
thiểu những nhược điểm của cơ chế thị trường.
Sự phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, công
cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời kỳ mới đòi hỏi Nhà nước, mà trực tiếp là
nền hành chính phải hoàn thiện thể chế và nâng cao hiệu lực pháp lý theo cơ chế mới để
đảm bảo cho đất nước phát triển nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đặc biệt phải điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan hành chính trong việc thực
hiện chức năng quản lí nhà nước.
- Những bất cập còn tồn tại của nền hành chính
Nền hành chính nhà nước ở nước ta trong quá trình đổi mới vẫn còn tồn tại nhiều
biểu hiện tiêu cực, chưa đáp ứng được những yêu cầu của cơ chế quản lý mới cũng nhu
cầu của nhân dân trong điều kiện mới, hiệu lực, hiệu quả quản lý chưa cao, thể hiện trên
các mặt:
+ Chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của bộ máy hành chính trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa được xác định thật rõ và phù hợp; sự phân
công, phân cấp giữa các ngành và các cấp chưa thật rành mạch;

+ Hệ thống thể chế hành chính chưa đồng bộ, còn chồng chéo và thiếu thống nhất;
thủ tục hành chính trên nhiều lĩnh vực còn rườm rà, phức tạp; trật tự, kỷ cương chưa
nghiêm;
+ Tổ chức bộ máy còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc; phương thức quản lý hành chính
vừa tập trung quan liêu lại vừa phân tán, chưa thông suốt; chưa có những cơ chế, chính
sách tài chính thích hợp với hoạt động của các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, tổ
chức làm dịch vụ công;
+ Đội ngũ cán bộ, công chức còn nhiều điểm yếu về phẩm chất, tinh thần trách
nhiệm, năng lực chuyên môn, kỹ năng hành chính; phong cách làm việc chậm đổi mới; tệ
quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu nhân dân còn diễn ra trong một bộ phận cán bộ, công
chức;
+ Bộ máy hành chính ở các địa phương và cơ sở chưa thực sự gắn bó với dân,
không nắm chắc được những vấn đề nổi cộm trên địa bàn, lúng túng, bị động khi xử lý các
tình huống phức tạp.
+ Chế độ quản lí tài chính không phù hợp với cơ chế thị trường. Việc sử dụng và
quản lí nguồn tài chính công chưa chặt chẽ, lãng phí và kém hiệu quả.
- Quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế
Toàn cầu hoá là một quá trình khách quan có ảnh hưởng sâu rộng đến tất cả các
quốc gia. Quá trình này khiến cho các quốc gia trên toàn thế giới trở nên gần nhau hơn,
quan hệ với nhau chặt chẽ hơn và sự thẩm thấu, phụ thuộc vào nhau cũng nhiều hơn. Các
quốc gia đang đứng trước nhiều cơ hội nhưng cũng phải đối mặt với nhiều thách thức mới
ở tầm quốc tế.
5


Hội nhập quốc tế là một đòi hỏi đối với các quốc gia để có thể tận dụng được cơ hội,
đồng thời hạn chế những thách thức trong toàn cầu hoá để có thể phát triển. Bộ máy hành
chính của các quốc gia phải vận động nhanh nhạy hơn để tăng cường khả năng cạnh tranh
của quốc gia trong quá trình hội nhập và phân công lao động mang tính toàn cầu. Điều đó
đòi hỏi thể chế hành chính và đội ngũ cán bộ phải thích ứng với pháp luật và thông lệ quốc

tế, đồng thời giữ vững độc lập, tự chủ, bảo vệ lợi ích quốc gia.
- Sự phát triển của khoa học-công nghệ
Những ảnh hưởng của cách mạng kỹ thuật – công nghệ có ảnh hưởng tới mọi mặt
của đời sống xã hôi, trong đó có hoạt động quản lý. Những biến đổi này đặt ra trước nền
hành chính truyền thống những thách thức mới. Điều đó đòi hỏi phải cải cách nền hành
chính, sắp xếp lại bộ máy, đổi mới phương pháp quản lí nhân sự để theo kịp những tiến bộ
chung của thế giới.
- Đòi hỏi của công dân và xã hội đối với Nhà nước ngày càng cao
Công cuộc đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu, nâng cao mức sống và nhận thức
của người dân. Trong bối cảnh đó, đòi hỏi của người dân đối với các hoạt động của nhà
nước ngày càng cao hơn. Nhân dân đòi hỏi và mong muốn được thực hiện quyền làm chủ
hợp pháp một cách đầy đủ, được yên ổn sinh sống, làm ăn trong môi trường an ninh, trật
tự và dân chủ, không bị phiền hà, sách nhiễu, được đảm bảo cung cấp các dịch vụ công
một cách đầy đủ và có chất lượng. Điều đó đòi hỏi nhà nước phải phát huy dân chủ, thu
hút sự tham gia của người dân vào quản lí nhà nước và phải công khai, minh bạch trong
các hoạt động của mình.
3.2. Quá trình cải cách hành chính nhà nước ở Việt Nam
Cải cách hành chính để hướng tới xây dựng một nền hành chính hoạt động có hiệu
lực và hiệu quả là mong muốn của bất kỳ nhà nước nào, do đó, cải cách hành chính xuất
hiện và tồn tại cùng với sự xuất hiện và tồn tại của nhà nước. Kể từ khi Đảng và Nhà nước
ta tiến hành công cuộc đổi mới, có thể chia cải cách hành chính nhà nước thành 4 giai
đoạn chủ yếu sau:
- Giai đoạn 1986-1995: Đây là giai đoạn xây dựng nền tảng cho cải cách hành
chính. Hoạt động cải cách hành chính mặc dù vẫn được quan tâm nhưng vẫn nằm trong
khuôn khổ của những cải cách nhà nước nói chung để phục vụ cho quá trình bắt đầu
chuyển dịch nền kinh tế.
- Giai đoạn 1995-2001: Cùng với Hội nghị trung ương 8 (Khóa VII) năm 1995, cải
cách hành chính được xác định là trọng tâm của hoạt động cải cách nhà nước. Vai trò của
cải cách hành chính đã được khẳng định và những hoạt động cải cách hành chính ngày
càng đi vào chiều sâu, tác động mạnh mẽ đến đời sống xã hội, trở thành động lực thúc đẩy

tiến trình đổi mới.
- Giai đoạn 2001-2010: Để cụ thể hoá định hướng CCHC của Đảng và Nhà nước,
ngày 17 tháng 9 năm 2001, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định 136/2001/QĐ-TTg ban
hành Chương trình tổng thể CCHC giai đoạn 2001-2010 xác lập khung pháp lý cơ bản cho
các hoạt động CCHC của mọi cấp, mọi ngành trong giai đoạn 2001-2010. Bên cạnh mục
tiêu chung là: “Xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên
6


nghiệp, hiện đại hoá, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.
Đến năm 2010, hệ thống hành chính về cơ bản được cải cách phù hợp với yêu cầu quản lý
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, Chương trình tổng thể cũng đã xác
định 9 mục tiêu cụ thể, 5 nội dung cải cách hành chính (cải cách thể chế hành chính nhà
nước, cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức;
cải cách tài chính công và hiện đại hóa nền hành chính), 7 chương trình hành động và 5
giải pháp thực hiện, đồng thời xác định rõ trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương các
cấp trong tổ chức triển khai thực hiện. Việc thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành
chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 đã mang lại những kết quả to lớn, nâng cao chất
lượng hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước trên cả 5 nội dung. Tuy nhiên, bên cạnh
những thành công đạt được, nền hành chính vẫn còn bộc lộ nhiều nhược điểm, chưa đáp
ứng các yêu cầu của tiến trình đổi mới đang đi vào chiều sâu. Vì vậy, tiếp tục đẩy mạnh cải
cách hành chính trong giai đoạn sắp tới vẫn là yêu cầu cấp thiết.
- Giai đoạn từ 2011 đến nay: trên cơ sở đánh giá khách quan và nghiêm túc những
thành tựu đạt được và những bất cập còn tồn tại trong quá trình thực hiện cải cách hành
chính giai đoạn 2001-2010, Chính phủ đã ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành
chính nhà nước giai đoạn 2011-2020, xác định khung pháp lý cho chiến lược cải cách hành
chính trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
- Mục tiêu của cải cách hành chính ở Việt Nam giai đoạn 2011-2020

Ngay từ những năm đầu của đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã xác định cải cách tổ
chức và hoạt động của nhà nước là nhằm xây dựng một nhà nước Xã hội chủ nghĩa vững
mạnh phục vụ cho công cuộc đổi mới. Với định hướng đó, cải cách hành chính nhà nước
là để tăng cường chất lượng hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước, là công cụ sắc
bén để thực hiện đổi mới.
Tiếp tục thực hiện các mục tiêu chung đặt ra đối với công cuộc cải cách nền hành
chính nhà nước, trong giai đoạn 2011-2020, ba nhiệm vụ trọng tâmcủa cải cách hành chính
được Chính phủ xác định là cải cách thể chế hành chính nhà nước, xây dựng đội ngũ cán
bộ, công chức hành chính và nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công. Những mục tiêu
cụ thể được xác định trong giai đoạn 2011-2020 bao gồm:
- Xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn
lực cho phát triểnđất nước.
- Tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thoáng, thuận lợi, minh bạch nhằm
giảm thiểu chi phí về thời gian và kinh phí của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế trong việc tuân thủ thủ tục hành chính.
- Xây dựng hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương tới cơ sở thông
suốt, trong sạch, vững mạnh, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, tăng tính dân chủ và pháp quyền
trong hoạt động điều hành của Chính phủ và của các cơ quan hành chính nhà nước.
- Bảo đảm thực hiện trên thực tếquyền dân chủ của nhân dân, bảo vệ quyền con
7


người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, của đất nước.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực và trình
độ, đáp ứng yêu cầu phục vụnhân dân và sự phát triển của đất nước.
3.3. Chương trình cải cách hành chính nhà nước ở Việt Nam (2011 - 2020)
Đánh giá thực tiễn cải cách hành chính nhà nước những năm qua, trong giai đoạn
2011-2020 Chính phủ xác định những nội dung cơ bản của cải cách hành chính sẽ tập
trung vào 6 nội dung chủ yếu là:

3.3.1. Cải cách thể chế hành chính nhà nước
Cải cách thể chế hành chính nhà nước nhằm tạo ra hệ thống hành lang pháp lý cho
hoạt động hành chính nhà nước đầy đủ, chính xác, rõ ràng. Những nhiệm vụ chủ yếu của
cải cách thể chế hành chính nhà nước bao gồm:
- Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật trên cơ sở Hiến pháp năm 1992 được sửa
đổi, bổ sung;
- Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật, trước hết là quy
trình xây dựng, ban hành luật, pháp lệnh, nghị định, quyết định, thông tư và văn bản quy
phạm pháp luật của chính quyền địa phương nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính
đồng bộ, cụ thể và khả thi của các văn bản quy phạm pháp luật;
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế, cơ chế, chính sách, trước hết là
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sự công bằng trong phân
phối thành quả của đổi mới, của phát triển kinh tế - xã hội;
- Hoàn thiện thể chế về sở hữu, trong đó khẳng định rõ sự tồn tại khách quan, lâu dài
của các hình thức sở hữu, trước hết là sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân,
bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ sở hữu khác nhau trong nền kinh tế;
sửa đổi đồng bộ thể chế hiện hành về sở hữu đất đai, phân định rõ quyền sở hữu đất và
quyền sử dụng đất, bảo đảm quyền của người sử dụng đất;
- Tiếp tục đổi mới thể chế về doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là xác định rõ vai
trò quản lý của Nhà nước với vai trò chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước; tách chức năng
chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước với chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp
nhà nước; hoàn thiện thể chế về tổ chức và kinh doanh vốn nhà nước;
- Sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về xã hội hóa theo hướng quy định rõ
trách nhiệm của Nhà nước trong việc chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân;
khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia cung ứng các dịch vụ trong môi trường cạnh
tranh bình đẳng, lành mạnh;
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế về tổ chức và hoạt động của các
cơ quan hành chính nhà nước; sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp
luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các
cấp;

- Xây dựng, hoàn thiện quy định của pháp luật về mối quan hệ giữa Nhà nước và
nhân dân, trọng tâm là bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, lấy ý kiến của
8


nhân dân trước khi quyết định các chủ trương, chính sách quan trọng và về quyền giám sát
của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước.
3.3.2. Cải cách thủ tục hành chính
Cải cách thủ tục hành chính nhằm giải quyết mối quan hệ giữa các cơ quan nhà
nước với nhau và cơ quan nhà nước với công dân và tổ chức trong xã hội theo hướng đơn
giản, gọn nhẹ và công khai, minh bạch. Những nhiệm vụ cụ thể đặt ra trong cải cách thủ
tục hành chính giai đoạn 2011-2020 bao gồm:
- Cắt giảm và nâng cao chất lượng thủ tục hành chính trong tất cả các lĩnh vực quản
lý nhà nước, nhất là thủ tục hành chính liên quan tới người dân, doanh nghiệp;
- Trong giai đoạn 2011 - 2015, thực hiện cải cách thủ tục hành chính để tiếp tục cải
thiện môi trường kinh doanh, giải phóng mọi nguồn lực của xã hội và nâng cao năng lực
cạnh tranh quốc gia, bảo đảm điều kiện cho nền kinh tế của đất nước phát triển nhanh, bền
vững. Một số lĩnh vực trọng tâm cần tập trung là: Đầu tư; đất đai; xây dựng; sở hữu nhà ở;
thuế; hải quan; xuất khẩu, nhập khẩu; y tế; giáo dục; lao động; bảo hiểm; khoa học, công
nghệ và một số lĩnh vực khác do Thủ tướng Chính phủ quyết định theo yêu cầu cải cách
trong từng giai đoạn;
- Cải cách thủ tục hành chính giữa các cơ quan hành chính nhà nước, các ngành, các
cấp và trong nội bộ từng cơ quan hành chính nhà nước;
- Kiểm soát chặt chẽ việc ban hành mới các thủ tục hành chính theo quy định của
pháp luật;
- Công khai, minh bạch tất cả các thủ tục hành chính bằng các hình thức thiết thực
và thích hợp; thực hiện thống nhất cách tính chi phí mà cá nhân, tổ chức phải bỏ ra khi giải
quyết thủ tục hành chính tại cơ quan hành chính nhà nước; duy trì và cập nhật cơ sở dữ
liệu quốc gia về thủ tục hành chính;
- Đặt yêu cầu cải cách thủ tục hành chính ngay trong quá trình xây dựng thể chế,

tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tăng cường đối thoại giữa Nhà nước với doanh nghiệp
và nhân dân; mở rộng dân chủ, phát huy vai trò của các tổ chức và chuyên gia tư vấn độc
lập trong việc xây dựng thể chế, chuẩn mực quốc gia về thủ tục hành chính; giảm mạnh
các thủ tục hành chính hiện hành; công khai các chuẩn mực, các quy định hành chính để
nhân dân giám sát việc thực hiện;
- Tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức về các quy định hành
chính để hỗ trợ việc nâng cao chất lượng các quy định hành chính và giám sát việc thực
hiện thủ tục hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước các cấp.
3.3.3 Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước
Lĩnh vực cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước hướng tới xây dựng một bộ
máy hành chính đơn giản, gọn nhẹ, vận hành thông suốt từ trung ương tới cơ sở với chức
năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan hành chính nhà nước và các cấp hành chính không chồng
chéo, trùng lắp. Những nhiệm vụ cụ thể đặt ra trong lĩnh vực này bao gồm:
- Tiến hành tổng rà soát về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và
biên chế hiện có của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân
9


dân các cấp, các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, các cơ
quan, tổ chức khác thuộc bộ máy hành chính nhà nước ở trung ương và địa để trên cơ sở
đó điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức, sắp xếp lại các cơ quan, đơn vị
nhằm khắc phục tình trạng chồng chéo, bỏ trống hoặc trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn; chuyển giao những công việc mà cơ quan hành chính nhà nước không nên làm
hoặc làm hiệu quả thấp cho xã hội, các tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ đảm nhận;
- Tổng kết, đánh giá mô hình tổ chức và chất lượng hoạt động của chính quyền địa
phương nhằm xác lập mô hình tổ chức phù hợp, bảo đảm phân định đúng chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn, sát thực tế, hiệu lực, hiệu quả; xây dựng mô hình chính quyền đô thị
và chính quyền nông thôn phù hợp.
- Hoàn thiện cơ chế phân cấp, bảo đảm quản lý thống nhất về tài nguyên, khoáng
sản quốc gia; quy hoạch và có định hướng phát triển; tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh

tra; đồng thời, đề cao vai trò chủ động, tinh thần trách nhiệm, nâng cao năng lực của từng
cấp, từng ngành;
- Tiếp tục đổi mới phương thức làm việc của cơ quan hành chính nhà nước; thực
hiện thống nhất và nâng cao chất lượng thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông tập
trung tại bộ phận tiếp nhận, trả kết quả thuộc Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân cấp huyện; bảo đảm sự hài lòng của cá nhân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ
quan hành chính nhà nước đạt mức trên 80% vào năm 2020;
- Cải cách và triển khai trên diện rộng cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các
đơn vị sự nghiệp dịch vụ công; chất lượng dịch vụ công từng bước được nâng cao, nhất là
trong các lĩnh vực giáo dục, y tế; bảo đảm sự hài lòng của cá nhân đối với dịch vụ do đơn
vị sựnghiệp công cung cấp trong các lĩnh vực giáo dục, y tế đạt mức trên 80% vào năm
2020.
3.3.4. Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
Chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức hành chính là yếu tố cơ bản, quyết định
tới hiệu lực và hiệu quả hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước nói riêng và cả bộ
máy hành chính nhà nước nói riêng. Do đó, đây là một trong những nội dung được chú
trọng nhất trong tiến trình cải cách hành chính ở nước ta. Những nhiệm vụ chủ yếu đặt ra
trong giai đoạn 2011-2020 trong lĩnh vực này bao gồm:
- Phấn đấu đến năm 2020, đội ngũ cán bộ,công chức, viên chức có số lượng, cơ cấu
hợp lý, đủ trình độ và năng lực thi hành công vụ, phục vụ nhân dân và phục vụ sự nghiệp
phát triển của đất nước;
- Xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức tốt, có
bản lĩnh chính trị, có năng lực, có tính chuyên nghiệp cao, tận tụy phục vụ nhân dân thông
qua các hình thức đào tạo, bồi dưỡng phù hợp, có hiệu quả;
- Hoàn thiện hệ thống các quy định pháp luật về chức danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ
của cán bộ,công chức, viên chức, kể cả cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý;
- Xây dựng cơ cấu cán bộ, công chức, viên chức hợp lý gắn với vị trí việc làm;
- Hoàn thiện quy định của pháp luật về tuyển dụng, bố trí, phân công nhiệm vụ phù
10



hợp với trình độ, năng lực, sở trường của công chức, viên chức trúng tuyển; thực hiện chế
độ thi nâng ngạch theo nguyên tắc cạnh tranh; thi tuyển cạnh tranh để bổ nhiệm vào các vị
trí lãnh đạo, quản lý từ cấp vụ trưởng và tương đương (ở trung ương), giám đốc sở và
tương đương (ở địa phương) trở xuống;
- Hoàn thiện quy định của pháp luật về đánh giá cán bộ, công chức, viên chức trên
cơ sở kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao; thực hiện cơ chế loại bỏ, bãi miễn những
người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy tín với nhân dân; quy định rõ
nhiệm vụ,quyền hạn của cán bộ, công chức, viên chức tương ứng với trách nhiệm và có
chếtài nghiêm đối với hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm kỷ luật, vi phạm đạo đức công
vụ của cán bộ, công chức, viên chức;
- Đổi mới nội dung và chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên
chức; thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng theo các hình thức: Hướng dẫn tập sự trong thời
gian tập sự; bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch công chức, viên chức; đào tạo, bồi dưỡng
theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý; bồi dưỡng bắt buộc kiến thức, kỹ năng tối thiểu
trước khi bổ nhiệm và bồi dưỡng hàng năm;
- Tập trung nguồn lực ưu tiên cho cải cách chính sách tiền lương, chế độ bảo hiểm
xã hội và ưu đãi người có công;đến năm 2020, tiền lương của cán bộ, công chức, viên
chức được cải cách cơ bản, bảo đảm được cuộc sống của cán bộ, công chức, viên chức và
gia đình ở mức trung bình khá trong xã hội.
- Nâng cao trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương hành chính và đạo đức công vụ của cán
bộ, công chức, viên chức.
3.3.5. Cải cách tài chính công
Cải cách tài chính công trong tổng thể cải cách hành chính có ý nghĩa quan trọng.
Thực tiễn cho thấy các giải pháp ở các lĩnh vực khác chi có thể được thực hiện tốt nếu gắn
liền với một cơ chế tài chính minh bạch và hiệu quả. Những nhiệm vụ chính đặt ra đối với
cải cách tài chính công giai đoạn 2011-2020 bao gồm:
- Động viên hợp lý, phân phối và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển
kinh tế - xã hội; tiếp tục hoàn thiện chính sách và hệ thống thuế, các chính sách về thu
nhập, tiền lương, tiền công; thực hiện cân đối ngân sách tích cực, bảo đảm tỷ lệ tích lũy

hợp lý cho đầu tư phát triển; dành nguồn lực cho con người, nhất là cải cách chính sách
tiền lương và an sinh xã hội; phấn đấu giảm dần bội chi ngân sách;
- Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước, nhất
là các tập đoàn kinh tế và các tổng công ty; quản lý chặt chẽ việc vay và trả nợ nước ngoài;
giữ mức nợ Chính phủ, nợ quốc gia và nợ công trong giới hạn an toàn;
- Đổi mới căn bản cơ chế sử dụng kinh phí nhà nước và cơ chế xây dựng, triển khai
các nhiệm vụ khoa học, công nghệ theo hướng lấy mục tiêu và hiệu quả ứng dụng là tiêu
chuẩn hàng đầu; chuyển các đơn vị sự nghiệp khoa học, công nghệ sang cơ chế tự chủ, tự
chịu trách nhiệm; phát triển các doanh nghiệp khoa học, công nghệ, các quỹ đổi mới công
nghệ và quỹ đầu tư mạo hiểm; xây dựng đồng bộ chính sách đào tạo, thu hút, trọng dụng,
đãi ngộ xứng đáng nhân tài khoa học và công nghệ;
- Đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách cho cơ quan hành chính nhà nước, tiến tới xóa
11


bỏ chế độ cấp kinh phí theo số lượng biên chế, thay thế bằng cơ chế cấp ngân sách dựa
trên kết quả và chất lượng hoạt động, hướng vào kiểm soát đầu ra, chất lượng chi tiêu theo
mục tiêu, nhiệm vụ của các cơ quan hành chính nhà nước;
- Nhà nước tăng đầu tư, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa, huy động toàn xã hội chăm
lo phát triển giáo dục, đào tạo, y tế, dân số - kế hoạch hóa gia đình, thể dục, thể thao, đồng
thời đổi mới cơ chế hoạt động, nhất là cơ chế tài chính của các đơn vị sự nghiệp dịch vụ
công; từng bước thực hiện chính sách điều chỉnh giá dịch vụ sự nghiệp công phù hợp; chú
trọng đổi mới cơ chế tài chính của các cơ sở giáo dục, đào tạo, y tế công lập theo hướng tự
chủ,công khai, minh bạch. Chuẩn hóa chất lượng dịch vụ giáo dục, đào tạo, y tế; nâng cao
chất lượng các cơ sở giáo dục, đào tạo, khám chữa bệnh, từng bước tiếp cận với tiêu chuẩn
khu vực và quốc tế. Đổi mới và hoàn thiện đồng bộ các chính sách bảo hiểm y tế, khám,
chữa bệnh; có lộ trình thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân.
3.3.6. Hiện đại hóa hành chính
Hiện đại hóa hành chính là xu hướng không thể phủ nhận trong bối cảnh cách mạng
khoa học-công nghệ phát triển mạnh mẽ hiện nay. Việc ứng dụng các thành tựu khoa họccông nghệ vào hoạt động hành chính nhà nước không chỉ làm tăng năng suất lao động mà

còn góp phần quan trọng làm thay đổi phương thức làm việc của cán bộ, công chức, hướng
tới một môi trường hành chính hiện đại. Những nhiệm vụ chủ yếu của hiện đại hóa hành
chính trong giai đoạn tới thể hiện trên các mặt:
- Hoàn thiện và đẩy mạnh hoạt động của Mạng thông tin điện tử hành chính của
Chính phủ trên Internet. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong
hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước để đến năm 2020: 90% các văn bản, tài liệu
chính thức trao đổi giữa các cơ quan hành chính nhà nước được thực hiện dưới dạng điện
tử; cán bộ, công chức, viên chức thường xuyên sử dụng hệ thống thư điện tử trong công
việc; bảo đảm dữ liệu điện tử phục vụ hầu hết các hoạt động trong các cơ quan; hầu hết
các giao dịch của các cơ quan hành chính nhà nước được thực hiện trên môi trường điện
tử, mọi lúc, mọi nơi, dựa trên các ứng dụng truyền thông đa phương tiện; hầu hết các dịch
vụ công được cung cấp trực tuyến trên Mạng thông tin điện tử hành chính của Chính phủ ở
mức độ 3 và 4, đáp ứng nhu cầu thực tế, phục vụ người dân và doanh nghiệp mọi lúc, mọi
nơi, dựa trên nhiều phương tiện khác nhau;
- Ứng dụng công nghệ thông tin -truyền thông trong quy trình xử lý công việc của
từng cơ quan hành chính nhà nước, giữa các cơ quan hành chính nhà nước với nhau và
trong giao dịch với tổ chức, cá nhân, đặc biệt là trong hoạt động dịch vụ hành chính công,
dịch vụ công của đơn vị sự nghiệp công;
- Công bố danh mục các dịch vụ hành chính công trên mạng thông tin điện tử hành
chính của Chính phủ trên Internet. Xây dựng và sử dụng thống nhất biểu mẫu điện tử trong
giao dịch giữa cơ quan hành chính nhà nước, tổ chức và cá nhân, đáp ứng yêu cầu đơn
giản và cải cách thủ tục hành chính;
- Thực hiện có hiệu quả hệ thống quản lý chất lượng trong các cơ quan hành chính
nhà nước;
- Thực hiện Quyết định số1441/QĐ-TTg ngày 06 tháng 10 năm 2008 của Thủ tướng
12


Chính phủ về việc phê duyệt Kế hoạch đầu tư trụ sở cấp xã, phường bảo đảm yêu cầu cải
cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước;

- Xây dựng trụ sở cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương hiện đại, tập trung ở
những nơi có điều kiện.
Kết luận
Cải cách hành chính nhà nước là một vấn đề lớn, có khả năng động chạm tới lợi ích
của nhiều người, nhất là cán bộ công chức lãnh đạo. Do đó, việc thay đổi nhận thức và
mong muốn của những người trực tiếp bị ảnh hưởng bởi cải cách hành chính nhà nước là
rất khó. Nhiều cán bộ công chức không thực sự mong muốn tiến hành hoạt động cải cách
do lợi ích của sự thay đổi thì khó nhận biết trong khi đó những quyền lợi bị xâm hại dễ
dàng nhận thấy. Công tác tư tưởng cho cán bộ, công chức, nhất là người đứng đầu cơ quan,
đơn vị chưa được thực hiện tốt nên chưa tạo ra chuyển biến cần thiết về nhận thức và tinh
thần trách nhiệm của những người làm cải cách hành chính.
Cải cách hành chính là khâu đột phá, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nhưng công
tác chỉ đạo thực hiện trong thời gian qua chưa ngang tầm, chưa kiên quyết và thiếu đồng
bộ. Công tác chỉ đạo, điều hành chưa được tiến hành nghiêm túc, thường xuyên. Một số
chủ trương đúng đã được các Hội nghị của Đảng khẳng định, có quyết định và giải pháp
cụ thể của Chính phủ nhưng chưa được chỉ đạo sát sao thực hiện nên kết quả thấp so với
yêu cầu đặt ra, điển hình như phân cấp, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, tách các tổ
chức sự nghiệp ra khỏi cơ quan hành chính.
Chưa tạo ra được sự đồng bộ, gắn kết giữa cải cách hành chính với công tác chỉnh
đốn, xây dựng Đảng, với các cuộc cải cách về kinh tế, lập pháp, tư pháp.
Việc đầu tư về nhân lực, trí lực, nguồn lực cho cải cách hành chính còn chưa thỏa
đáng. Kinh phí để triển khai thực hiện các đề án, nhiệm vụ cải cách hành chính chưa được
hướng dẫn thống nhất, còn lúng túng trong bố trí kinh phí thực hiện các nhiệm vụ cải cách
hành chính ở cả Bộ, ngành Trung ương và địa phương.
So với mục tiêu, yêu cầu đang đặt ra của tiến trình hội nhập vào Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO), vào kinh tế khu vực và toàn cầu thì chúng ta còn phải cải cách mạnh
mẽ nhiều hơn nữa nền hành chính nhà nước mới có thể nâng cao được sức cạnh tranh của
nền kinh tế, nhanh chóng thoát khỏi nguy cơ tụt hậu so với trình độ phát triển chung của
khu vực và thế giới, để tạo đà phấn đấu trước năm 2020 nước ta về cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại.

Câu 2: Đánh giá khả năng vận dụng các yếu tố của mô hình quản lý công mới ở
các nước đang phát triển nói chung và ở Việt nam nói riêng.
Trong điều kiện kính tế - xã hội phát triển nhanh chóng như ngày nay, khi nền hành chính
nhà nước có sự phát triển theo xu hướng tiến bộ tích cực (chuyển từ hành chính cai trị
sang hành chính phục vụ): trong khoa học hành chính đã xuất hiện thuật ngữ “hành chính
phát triển”. Từ đó, thuật ngữ “hành chính truyền thống” cũng được quan tâm, nghiên cứu
trong
mối
tương
quan
với
“Hành
chính
phát
triển”
Hành chính truyền thống được hiểu là cách thức tổ chức và hoạt đôngj của các cơ quan
nhà nước thuộc các kiểu nhà nước trong lịch sử, cũng như các cơ quan, tổ chức khác, trên
13


cơ sở những nguyên tắc, quy tắc nhất định (bao gồm cả nguyên tắc chính trị-xã hội và
nguyên tắc tổ chức - kỹ thuật) do nhà nước hoặc các chủ thể đặt ra mà bản chất chủ yếu
thiên về tính “cai trị”, phương thức hoạt động dựa trên cơ sở thi hành các quy định một
cách “cứng nhắc”, lấy tổ chức thứ bậc chặt chẽ, trình tự, thủ tục và việc thực hiện nghiêm
ngặt các thủ tục đó làm biện pháp tối ưu mà ít quan tâm đến kết quả hoạt động của nhà
nước, của các cơ quan, tổ chức hay của công chức nhà nước.
Hành chính phát triển (Quản lý công mới) thường được sử dụng khi nói đến “Mô hình
hành chính công theo các tiêu chí hiện đại, chủ động, năng động, nhạy bén, thích nghi cao
nhằm đáp ứng các yêu cầu quản lý và dịch vụ tối đa trong các điều kiện kinh tế thị truờng
phát triển mạnh mẽ và những quan hệ quốc tế ngày càng phụ thuộc chặt chẽ lẫn nhau”

Chuyển đổi từ Hành chính công truyền thống sang Quản lý công (Hành chính phát triển) là
xu hướng phổ biến trên thế giới, đặc biệt là những nước kinh tế thi trường phát triển. Vì
sao lại vậy ? Nguyên nhân là: Thứ nhất: Về quy mô của Chính phủ, nhiều quốc gia cho
rằng bộ máy của Chính phủ quá lớn, chi phí cho việc duy trì bộ máy đó ngày càng tăng
trong khi đó hiêu quả hoạt động của nó ngày càng giảm đi. Do đó cần phải xem xét lại quy
mô và vai trò của Chính phủ. Theo quan điểm mới, vai trò của Chính phủ chuyển từ “chèo
thuyền” sang “lái thuyền”. Nhà nước không nên ôm đồm làm hết mọi dịch vụ mà nên dân
chủ hoá gắn liền với phân quyền, xã hội hoá nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả quản
lý của Nhà nước. Thứ hai, chất lượng dịch vụ công chất lượng thấp, loại hình kém đa
dạng, phong phú giá cả lại cao hơn khu vực tư . Mặt khác, về bối cảnh và xu hướng thời
đại tác động đến mô hình hành chính công truyền thống dẫn đến sự xuất hiện mô hình
hành chính phát triển. Đó là: Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ đòi hỏi sự
đièu chỉnh kinh tế và phát triển nền hành chính; sự phát triển nền kinh tế thị trường và toàn
cầu hoá kinh tế điều chỉnh các mối quan hệ quốc tế và do đó ảnh hưởng đến nền hành
chính công của mỗi nước trong quá trình hội nhập. Xu hướng dân chủ hoá đời sống xã hội
do trình độ dân trí được nâng cao; tình thế chung buộc Nhà nước phải một mặt xã hội hoá,
tư nhân hoá, chấp nhận sự tham gia của công chúng vào công việc quản lý nhà nước, đồng
thời phải can thiệp ngày càng sâu vào các quá trình kinh tế- xã hội và cải tiến mô hình nền
hành chính công và nâng cao chất lượng dịch vụ đối với người dân - những “khách hàng”
của
nền
hành
chính..
Như vậy về bản chất, hành chính truyền thống và hành chính phát triển đều là đối tượng
nghiên cứu của khoa học hành chính công được xây dựng bởi một hệ thống các khái
niệm,hệ thống lý thuyết hành chính công với nhiều cách tiếp cận khác nhau . Sự khác nhau
cơ bản ở đây là “mô hình”, mỗi “mô hình” có những thế mạnh và phù hợp với điều kiện
kinh tế - xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định của các quốc gia. Đi sâu vào
nghiên cứu hai “mô hình” dựa trên một số tiêu thức chúng ta nhận thấy những điểm khác
nhau


bản
sau
đây:
So sánh tiêu thức mục tiêu: hành chính công truyền thống; bảo đảm đúng chu trình, đúng
quy tắc, thủ tục hành chính (đầu vào). Đánh giá việc quản lý hành chính thông qua xem
xét mức độ thực thi các quy tắc, thủ tục hành chính. Trong khi đó, mục tiêu của hành chính
phát triển là: Bảo đảm kết qua tốt nhất, hiệu quả cao nhất (đầu ra); dùng các tiêu chí cụ thể
để
đánh
giá
kết
quả
quản

hành
chính.
Đối với công chức của hành chính công truyền thống: trách nhiệm của người công chức;
nhà quản lý là giám sát việc thực hiện và giải quyết công việc theo quy chế thủ tục. Những
14


quy định, điều kiện để công chức thực thi công vụ theo một hệ thống thứ bậc rất chặt chẽ,
cứng nhắc theo quy định. Thời gian làm việc của công chức được quy định chặt chẽ, có
thời gian công (làm việc ở cơ quan) và thời gian tư (thời gian không làm việc ở cơ quan).
Công chức mang tính trung lập, không tham gia chính trị, thực hiện một cách trung lập các
chính sách do các nhà chính trị đề ra. Trong khi đó, đối với công chức của hành chính phát
triển: Trách nhiệm của người công chức, nhà quản lý chủ yếu là bảo đảm thực hiện mục
đích, đạt kết quả tốt, hiệu quả cao. Những quy định, điều kiện để công chức thực thi nhiệm
vụ có hình thức linh hoạt, mềm dẻo hơn. Thời gian làm việc linh hoạt hơn, có thể họ làm

việc trong một thời gian nhất định, có thể làm chính thức hoặc hợp đồng (có một phần thời
gian làm công vụ tại nhà). Công chức cam kết về mặt chính trị cao hơn trong các hoạt
động của mình, các hoạt động hành chính mang tính chính trị nhiều hơn.
Đối với Chính phủ của hành chính công truyền thống: Mọi công vụ được Chính phủ thực
thi, giải quyết theo pháp luật quy định. Chức năng của Chính phủ nặng về hành chính xã
hội, trực tiếp tham gia các công việc công ích xã hội. Chức năng của Chính phủ thuần tuý
mang tính hành chính không trực tiếp liên hệ đến thị trường. Trong khi đó, đối với Chính
phủ của hành chính phát triển: Các công vụ mang tính chính trị nhiều hơn, ảnh hưởng của
chính trị ngày càng lớn trong hành chính. Chức năng tham gia trực tiếp các dịch vụ công
cộng ngày càng giảm bớt mà thông qua việc xã hội hoá các dịch vụ đó để quản lý xã hội,
nhưng vẫn có sự quản lý của Nhà nước. Chức năng của Chính phủ đối mặt với những
thách thức của thi trường. Nền hành chính phát triển của các nước đều phải quan tâm và
gánh vác nghĩa vụ chung đối với những vấn đề của loài người như nghèo đói, dịch bệnh,
môi truờng, ma tuý, tội phạm….Nói tóm lại, Quản lý công mới (Hành chính phát triển) có
cách tiếp cận mới đối với hành chính công truyền thống. Sự xuất hiện của mô hình này đã
làm cho cách thức hoạt động của khu vực công có nhiều thay đổi đáng kể. Với các đặc tính
của mô hình mới: hiệu quả hoạt động quản lý, phi quy chế hoá, phân quyền, áp dụng một
số yếu tố của cơ ché thi trường, gắn bó với chính trị, tư nhân hoá một phần hoạt đọng của
Nhà nước, vận dụng nhiều phương pháp quản lý doanh nghiệp, xu hướng quốc tế hoá ; mô
hình hành chính phát triển xuất hiện nhằm khắc phục những yếu kém không phù hợp của
mô hình hành chính truyền thống . Nền kinh tế Việt Nam đang vận hành theo cơ chế thị
trường và ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu. Chức năng của Chính
phủ chắc chắn sẽ phải đối mặt với những thách thức của thị trường trong nước và thị
trường thế giới. Vận dụng những nhân tố hợp lý của mô hình Quản lý công mới (Hành
chính phát triển) để xây dựng một mô hình mang tính đặc sắc Việt Nam, đẩy mạnh cải
cách hành chính theo kịp cải cách kinh tế đang là câu hỏi đặt ra đối với các nhà lãnh đạo,
quản lý và các nhà khoa học hành chính ./.
Câu 3: Tại sao CCHCNN ở nước ta được đảng và nhà nước xác định là trọng tâm
của cải cáh nhà nước theo xu hướng pháp quyền XHCN.
Ngày nay, cải cách hành chính là vấn đề mang tính toàn cầu. Cả các nước đang phát triển

và các nước phát triển đều xem cải cách hành chính như một động lực mạnh mẽ để thúc
đẩy tăng trường kinh tế, phát triển dân chủ và các mặt khác của đời sống xã hội.
Ở Việt Nam, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước được bắt đầu từ năm 1986, tính đến
nay đã gần 20 năm. Trong khoảng thời gian đó, đồng thời với việc đổi mới về kinh tế thì
cải cách hành chính cũng được tiến hành. Cuộc cải cách hành chính được thực hiện từng
15


bước thận trọng và đã thu được nhiều kết quả rất đáng khích lệ. Cải cách hành chính đang
thể hiện rõ vai trò quan trọng của mình trong việc đẩy nhanh sự phát triển đất nước. Ở Việt
Nam đang còn rất nhiều vấn đề kinh tế - xã hội đã tồn tại từ lâu và mới nảy sinh cần phải
được giải quyết tích cực và có hiệu quả. Bên cạnh đó, bối cảnh toàn cầu hoá đang đặt ra
trước Việt Nam những thách thức và cơ hội mới đòi hỏi phải có những cố gắng cao độ.
Điều đó cũng có nghĩa là quá trình cải cách hành chính ở Việt Nam còn rất nhiều vấn đề
đặt ra cần được tiếp tục giải quyết. Cái khó trong cải cách hành chính Ở Việt Nam là phải
tiến hành một cuộc cải cách hành chính có tính chất cách mạng từ quản lý lập trung quan
liêu, bao cấp sang quản lý trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng dân chủ
Tư tưởng nhà nước pháp quyền đã hình thành sớm trong lịch sử tư tưởng chính trị- pháp lý
của nhân loại, ngày càng được bổ sung với những nội dung mới. Nhưng nội dung căn bản
của lý thuyết" nhà nước pháp quyền" là sự đề cao pháp luật trong mối tương quan với nhà
nước, pháp luật như là công cụ để hạn chế quyền lực nhà nước.
Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi, bổ
sung năm 2001 ghi nhận quan điểm xây dựng nhà nước pháp quyền. Điều 2 ghi nhận:
"Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân , vì nhân dân".
2. Quan niệm về nhà nước pháp quyền
Về nhà nước pháp quyền cũng có vô số những quan niệm khác nhau, được nhìn nhận từ
nhiều khía cạnh khác nhau. Do đó không thể có một định nghĩa ngắn gọn về nhà nước
pháp quyền, mà cần cần phải xem xét nhà nước pháp quyền từ nhiều khía cạnh, phương
diện khác nhau.

- Nhà nước pháp quyền trước hết là nhà nước hợp hiến, hợp pháp; nhà nước quản lý xã hội
bằng pháp luật, trong đó các đạo luật chiếm ưu thế trong hệ thống pháp luật;
Pháp luật của nhà nước pháp quyền là pháp luật chứa đựng tính nhân văn, nhân đạo, pháp
luật vì con người, vì số đông trong xã hội, pháp luật phải thể hiện được ý chí cộng đồng
dân tộc, quốc gia, không phải ý chí của một nhóm người, một cá nhân hay một tập đoàn
nào đó.
- Nhà nước, các cơ quan của nhà nước phải đặt mình dưới pháp luật, lệ thuộc vào pháp
luật. Trong mối quan hệ giữa nhà nước với pháp luật thì "tính trội " thuộc về pháp luật, ở
khía cạnh này pháp luật như là công cụ, phương tiện để hạn chế quyền lực nhà nước, hạn
chế công quyền.
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước trong đó các quyền tự do của công dân phải ngày càng
được mở rộng, được bảo đảm, bảo vệ bằng cơ chế pháp luật, bằng các tiền đề, điều kiện về
kinh tế- xã hội, bằng tổ chức nhà nước. Như vậy, pháp luật là công cụ phương tiện ghi
nhận, bảo vệ các quyền công dân.
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước mà trong đó thiết lập mối quan hệ trách nhiệm qua lại
giữa công dân với nhà nước và nhà nước với công dân. Công dân có trách nhiệm với nhà
nước và nhà nước có trách nhiệm với công dân.
Nhà nước pháp quyền Việt Nam phải là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân.
16


Nhà nước pháp quyền Việt Nam được xây dựng trên cơ sở quan điểm quyền lực nhà nước
là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Nhà nước pháp quyền Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam- đảng
của giai cấp công nhân Việt Nam và của cả dân tộc. Đây là những vấn đề mang tính
nguyên tắc có tính chính trị- xã hội định hướng cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền
Việt Nam trên thực tế.
Tóm lại: Nhà nước pháp quyền là nhà nước hợp hiến, hợp pháp, mọi hoạt động của nhà

nước hợp hiến, hợp pháp, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước
của dân, do dân, vì dân. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước
pháp quyền dân chủ.
3. Nhà nước pháp quyền với việc cải cách hành chính ở Việt Nam
Lịch sử đã chỉ ra rằng bất kỳ một cuộc cải cách nào cũng đều có mục tiêu, mục đích xã hội
của nó. Mục tiêu cải cách hành chính ở Việt Nam hiện nay là: xây dựng một nền hành
chính trong sạch, vững mạnh, tiết kiệm, chuyên nghiệp, phục vụ nhân dân ngày một tốt
hơn.
Cải cách hành chính ở Việt nam được tiến hành nhiều năm nay với những bước đi- lộ trình
khác nhau từ thấp tới cao. Bắt đầu là việc cải cách một bước thủ tục hành chính trong việc
giải quyết các công việc của cá nhân, tổ chức, đến cải cách một bước nền hành chính nhà
nước với ba nội dung là: cải cách thể chế hành chính; cải cách bộ máy hành chính nhà
nước; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Ngày nay cải cách hành chính đã chuyển sang
một bước mới với bốn nội dung: cải cách thể chế hành chính; cải cách bộ máy hành chính
nhà nước; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức; cải cách tài chính công.
Trong những năm qua cải cách hành chính ở Việt Nam đã làm được những gì để góp phần
xây dựng nhà nước pháp quyền đó là:
- Về bộ máy hành chính đã giảm dần các đầu mối quản lý, số lượng các cơ quan quản
lý nhà nước đã giảm xuống đáng kể, thủ tuc hành chính được cải cách theo hướng "một
cửa", mẫu hóa các văn bản hành chính, giấy tờ, công khai các thủ tục hành chính. Chính
việc cải cách thủ tục hành chính này đã góp phần hạn chế sự sách nhiễu, phiến hà, tham
những của các công chức hành chính trong khi giải quyết các công việc của công dân. Đây
là điểm căn bản nhất của cải cách hành chính góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền.
Một vấn đề đang được quan tâm trong cải cách hành chính ở Việt Nam là vấn đề phân cấp
trong quản lý nhà nước. Phân cấp thực chất là việc chuyển dần các công việc, nguồn lực
do chính quyền trung ương nắm giữ cho chính quyền địa phương các cấp một cách lâu dài,
ổn định bằng các văn bản luật, dưới luật, nhằm mở rộng dân chủ, phát huy tính chủ động
sáng tạo của chính quyền địa phương.
Ngày nay một số địa phương đã áp dụng tiêu chuẩn ISO để đánh gía, kiểm soát thường
xuyên hoạt động của các cơ quan hành chính trong việc giải quyết các công việc của cá

nhân, tổ chức. Trong số các tiêu chí đánh giá về cơ quan hành chính có các tiêu chí đáng
lưu ý gắn với nhà nước pháp quyền: tính hợp pháp của nội dung các quyết định; tính đúng
đắn về thời hạn theo quy định của pháp luật của các quyết định; tính đúng đắn về thủ tục
17


giải quyết các công việc. Thực tiễn việc áp dung các tiêu chuẩn ISO vào hoạt động hành
chính đã mang lại những kết quả đáng kể: việc giải quyết các công việc của dân đơn giản,
nhanh gọn, đúng pháp luật, đúng thời hạn, đúng thủ tục.
Tóm lại việc cải cách hành chính ở Việt Nam trong những năm qua và trong tương lai đi
theo hướng làm cho bộ máy hành chính hoàn bị hơn, hoạt động có hiệu quả hơn, phục vụ
nhân dân ngày một đúng pháp luật, tốt hơn và tiết kiệm nhất, dần từng bước chuyển nền
hành chính từ cơ quan cai quản thành các cơ quan phục vụ dân, làm các dịch vụ hành
chính đối với dân, công dân là khách hàng của nền hành chính, là người đánh gía khách
quan nhất về mọi hoạt động của bộ máy nhà nước, bộ máy hành chính.
Tất cả những mục tiêu đó của cải cách hành chính cũng là nhằm góp phần xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với bản chất của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Câu 4: Công cuộc cải cách hành chính nhà nước ở nước ta hiện nay đang gặp phải
thách thức nào? cần làm gì để khắc phục.
Những thách thức, phương hướng, triển vọng của cải cách hành chính trong thời gian tới
Trong công cuộc mở cửa hội nhập phát triển đất nước. Với bối cảnh phức tạp, sự
đan xen giữa cái cũ và cái mới, sự phát triển của kinh tế thị trường và mở cửa
hội nhập kinh tế quốc tế vì vậy cần làm tốt công tác cải cách hành chính, tạo một bộ má
y quản lý vững chắc, tạo niềm tin của nhân dân vào nhà nước, là một yếu tố rất quan trọng
để thúc đẩy sự phát triển của đất nước.
Sau khi thực hiện công cuộc cải cách hành chính, nền hành chính nước ta ngày càn
g hoạt động có hiệu quả hơn, công việc của dân được giải quyết nhanh chóng, đơn giản và
đúng pháp luật. Mối quan hệ
giữa
nhà nước

và công dân đã
đượccải thiện một bướcđang kể, đội ngũ cán bộ, công chức ngày càng vững mạnh cả về nă
ng lực, trình độ và đạo đức công vụ, ngân sách nhà nước
được sử dụng đúng mục
đích và hiệu quả hơn.
Tóm lại việc cải cách hành chính ở Việt Nam trong những năm qua và trong tương lai đi t
heo hướng làm cho bộ máy hành chính hoàn thiện hơn, hoạt động có hiệu quả hơn, phục v
ụ nhân dân ngày một đúng pháp luật, tốt hơn và tiết kiệm nhất, dần từng bước chuyển nền
hành chính từ cơ quan cai quản thành các cơ quan phục vụ dân, làm các dịch vụ hành chín
h đối với dân, công dân là khách hàng của nền hành chính, là người đánh gía khách quan n
hất về mọi hoạt động của bộ máy nhà nước, bộ máy hành chính.

18


Các thể chế quản lý cán bộ công chức tuy có nhiều sửa đổi, bổ sung song vẫn chưa có sự
đổi mới cơ bản, mạnh mẻ mang tính cải cách, từ việc tuyển dụng, sử dụng, bổ nhiệm, bãi
miễn, đến dào tạo bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật, chính sách đãi ngộ (tiền lương
, tiền thưởng ), đánh giá cán bộ, công chức....Đáng chú ý hơn là việc triển khai thực hiện
một số thể chế, chính sách mới trong quản lý cán bộ, công chức vừa chậm, vừa không đảm
bảo chất lượng, yêu cầu màcó phầnmang tính hình thức( chẳng hạn chế
độ thi tuyển, tiêu chuẩn bằng cấp, học vị....)
Công tác kiểm tra, thanh tra công vụ và xử lý cán bộ, công chức có vi phạm pháp luật tiế
n hành chưa nghiêm, chua thuờng xuyên, thiếu khách quan, công bằng dẫn đến ké
m hiệu quả, ít tính giáo dục, răn đe, làm gương...Do vậy đạo đức công vụ, trách nhiệm cô
ng chức chậm được nâng cao
Việc cải cách tài chính công còn chậm, cho kết quả chưa rõ, chưa cụ thể.Cơ chế quản lý n
gân sách, tài sản công còn nhiều yếu kém, bất hợp lý, chưa khuyến khích tính chủ động và
tự chịu trách nhiệm của các đơn vị cá nhân thụ hưởng ngân sách. Đang còn nhiều kẽ hở ch
o tình trạng lãng phí, tham nhũng phổ biến, tràn lan, chậm được khắc phục.

Chưa có sự chuyển biến thay đổi cơ bản về lề lối làm việc của cơ quan hành chính, trong
phong cách công vụ của cán bộ, công chức
vẫn manh nặng dấu ấn của cơ
chế
cũ. Tình trạng hội họp nhiều, giấy tờ hành chính gia tăng, phương thức làm việc tập thể, ch
ờ sự đồng thuận của nhiều người, nhiều cơ quan....vẫn chậm được khắc
phục. Khẳ năng sử dụng công nghệ
thông tin trong quản lý hành chính nhà nước vẫn còn hạn chế làm cho năng suất lao động
và hiệu quả công việc chưa cao.
NHỮNG THÁCH THỨC, PHƯƠNG HƯỚNG, TRIỂN VỌNG CỦA CẢI CÁCH HÀ
NH CHÍNH TRONG THỜI GIAN TỚI
Công cuộc
cải cách hành chính nhà
những thách thức sau:

nước trong thời gian tới đứng trước

Một là, sự chuyển đổi về chất sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, sự vậ
n hành nền kinh tế theo các quy luật của thị trường sẽ tác động sâu sắc và đặt ra yêu cầu ph
ải đổi mới mạnh mẽ vai trò, chức năng của Nhà nước nói chung và của nền hành chính nhà
nước nói riêng, đòi hỏi phải chuyển sang nền hành chính “phục vụ”, xóa bỏ triệt để cơ chế
“xin – cho”,
phải khắc phục sự can thiệp thực tiếp và tùy tiện vào hoạt động của doanh nghiệp, p
hải tôn trọng và tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp trong mọi hoạt độn
g kinh tế xã hội, phải thực sự thúc đẩy sự phát triển nhanh, mạnh, bền vững của nền kinh tế đất nước,
phải đối sử bình đẳng với các thành phần kinh tế khác nhau, tạo ra “sân chơi”, “luật chơi” p
hù hợp với quy luật của thị trường và thực hiện tốt vai trò của người “trọng tài” khách quan
công bằng trong kiểm tra, kiểm soát việc chấp hành pháp luật, chính sách của Nhà nước đối
với các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế - xã hội.


19


Hai là, Hội nhập quốc tế và khu vực vừa là thời cơ, thuận lợi, vừa đặt ra thách thức mới đố
i với nền hành chính nhà nước. Trong điều kiện kinh tế mở, có tính toàn cầu, đòi hỏi phải n
hanh chóng tạo lập đồng bộ thể chế kinh tế, thể chế hành chính phù hợp với thông lệ chung
của thế giới; phải đổi mới tổ chức bộ máy và nâng cao trình độ, năng lực, trách nhiệm của đ
ội ngũ cán bộ, công chức để có thể hòa
nhập vào cộng đồng quốc tế, cộng đồng khu vực, trong khi
Việt Nam đang ở khoảng cách khá xa so với thế giới.
Ba là, Quá trình đẩy mạnh dân chủ hóa đời sống xã hội, các yêu cầu về phát huy dân chủ c
ơ
sở, thu hút mạnh mẽ
sự tham gia
của người dân vào quản
lý Nhà
nước, về bảo đảm tính công khai, minh bạch trong thể chế, chính sách, thủ tục hành chính c
ũng như trong thực thi công vụ đòi hỏi bắt buộc các coq quan Nhà nuớc và các cán bộ công
chức trong bộ máy hành chính nhà nước phải thích ứng về nội dung và phương thức
hoạt động.
Bốn là, Các tiến bộ khoa học, công nghệ, yêu cầu hiện đại hóa nền hành chính, xây dựng ch
ính phủ điện tử có tác động mạnh mẽ trực tiếp tới tổ chức, hoạt động của các cơ quan trong
hệ thống hành chính, tới việc xây dựng đội ngũ cán bộ công chức cả về trình độ, năng lực,
ý thức, trách nhiệm và tác phong, phương pháp công tác
Năm là, Ảnh hưởng của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp trước đây, sức ỳ của nền hành c
hính cũ đang được in đậm trong nếp nghĩ, cách làm của đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ
máy đang còn là trở ngại, thách thức lớn đối với công cuộc cải cách hành chính nhà nước hi
ện nay, ma nến như không có một quyết tâm cũng như các giải pháp mạnh có tính cách mạn
g thì sẽ dẫn đến tình trạng “bình mới rượu cũ” trong nội dung và phương thức hoạt động củ
a bộ máy hành chính nhà nước.


20



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×