Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

SKKN nâng cao kĩ năng giao tiếp bằng tiếng việt cho học sinh dân tộc thiểu số

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.81 KB, 23 trang )

Lời Ngỏ!
Kính thưa quý thầy cô!
Là một giáo viên trẻ mới bước vào giảng dạy thực tế ở trường Tiểu học. Vừa
làm quen với đối tượng học sinh, đối tượng học sinh không giống với những gì
mà mình đang được tiếp xúc được trang bị khi còn ngồi trên nghế nhà trường sư
phạm. Những kiến thức được trang bị trên trường sư phạm không giống như
những gì thực tế gặp trong quá trình giảng dạy
Khi mới bước ra trường tôi luôn quan niệm phải dạy làm sao trang bị cho các
em những kiến thức khoa học nhất để làm sao các em có thể thực hiện được
mục tiêu nghe, nói, đọc, viết để các em có thể tiếp thu nền văn hoá xã hội mà
quên mất phải trang bị cho các em các kĩ năng giao tiếp cơ bản.
Kính thưa quý thầy cô!
Trong một lần tiếp xúc với một vị phụ huynh có học sinh nhút nhát người phụ
huynh ấy tâm sự. Tôi xin được trách nguyên văn" Tôi không có ý kiến gì về
cách dạy của các thầy. Nhưng thầy ơi! Không biết ở trường các thầy dạy thế
nào nhưng khi về nhà tôi gọi các em ấy không chịu trả lời, các em chỉ cúi
mặt xuống mà đi hay có lúc em chỉ ừ, à chứ không biết trả lời. Nó làm cho
tôi rất buồn, nó muốn gì nó cũng không nói. Nếu có hỏi thầy giáo có dặn dò
về nhà gì không thì em cũng không trả lời nên tôi cũng không quan tâm
được đến việc học của cháu. Mong thầy cố gắng làm sao giúp cho các cháu
để các cháu mạnh dạn hơn ". Lời tâm sự của người phụ huynh ấy làm tôi suy
nghĩ rất nhiều, tôi thấy hoá ra trong thời gian qua mình chỉ lo dạy cho các em
kiến thức mà quên trang bị cho các em những kĩ năng giao tiếp cơ bản để các
em sử dụng

1 hàng ngày. Tôi cũng băn khoăn không biết là các em không biết hay là các em


ngại không dám và không đủ tự tin để giao tiếp hay là các em có vốn tiếng
Việt ít không đủ. Nên tôi đã cố gắng tìm cách khắc phục để các em có thể mạnh
dạn giao tiếp và biết giao tiếp trong các tình huống khác nhau và qua đó nâng


cao chất lượng học của học sinh. Vì kinh nghiệm giảng dạy còn hạn chế nên
trong quá trình nghiên cứu không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong
được sụ góp ý của quí thầy cô để lần sau nghiên cứu đạt hiệu quả cao hơn. Cũng
qua bài nghiên cứu này tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô chuyên môn của
nhà trường và toàn thể đồng nghiệp đã giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài này.
Xin chân thành cảm ơn!

PHẦN MỞ ĐẦU
I.LÍ DO LỤA CHON ĐỀ TÀI.
1.Những vấn đề chung:
Trong thời kì hiện nay, thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nhất là
khi đất nước ta bắt đầu thời kì hội nhập sâu rộng với thế giới. Đứng trước nhu
cầu hội nhập, xu thế toàn cầu hoá. Toàn Đảng toàn dân, toàn quân ta bắt đầu đổi
mới (phù hợp với tình hình Việt Nam). Đòi hỏi mỗi cá nhân, mỗi cấp, ngành
cần phải tự vận động, đổi mới mình để đáp ứng đầy đủ yêu cầu của xã hội. Giáo
dục Việt Nam cũng đang từng bước đổi mới và hoàn thiện mình để theo kịp sự
đổi mới của đất nước, sự phát triển của cộng đồng thế giới. Đặc biệt đến đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ X Đảng ta đã xác định “đổi mới Giáo dục phải đổi mới
toàn diện từ giáo dục Mầm non đến giáo dục Phổ thông và Đại học…”.Nội
dung đầu tiên được Bộ GD&ĐT thực hiện, đó là: đổi mới nội dung chương
trình, sách giáo khoa và phương pháp dạy học theo hướng tích cực từ

Tiểu học đến Trung học Phổ thông .v...v...Trong đó có dự án phát triển Giáo
viên tiểu học và Chuẩn nghề nghiệp đối với giáo viên tiểu học. Các chương
trình này ã tạo ra bước đột phá lớn cho hệ thống giáo dục Việt Nam nói chung
2 và Giáo dục tiểu học nói riêng. Kết hợp với sự quyết tâm đưa giáo dục Việt


Nam thoát khỏi tình trạng trì trệ, chạy theo thành tích bề nổi. Chúng ta có thể dễ
dàng nhận thấy chất lượng giáo dục của các bậc học đã chuyển biến tích cực,

được xã hội công nhận và toàn dân ủng hộ.
Thực hiện đổi mới giáo dục mỗi trường, mỗi địa phương có những định
hướng những cách, những biện pháp khác nhau để nâng cao chất lượng giáo
dục. Nâng cao chất lượng giáo dục trở thành một yêu cầu đặt ra và ưu tiên hàng
đầu của các trường làm sao để các em thực hiện được mục tiêu và yêu cầu của
cấp học và bậc học
Đổi mới Giáo dục phải đổi mới toàn diện từ giáo dục Mầm non đến giáo
dục Phổ thông và Đại học…Đây là một định hướng được được Đảng ta xác
định trong Đại hội X. Trong đó bậc học Tiểu học là bậc học nền tảng, chịu trách
nhiệm là cơ sở ban bầu cho các em học lên các bậc học cao hơn và cung cấp
cho các em những kiến thức cơ bản để các em có thể tiếp thu nền văn hoá xã
hội. Chính vì yêu cầu quan trọng như vậy cho nên bốn chữ "Chất lượng dạy
học" được các nhà truờng đặt lên cao nhất được xem là nhiệm vụ trọng tâm. Vì
vậy các nhà trường thường ưu tiên dạy cho các em kiến thức để các em làm sao
các em có thể đọc thông, viết thạo. So với các trường ở vùng thuận lợi thì các
trường ở các vùng khó khăn đây là một nhiệm vụ khá khó khăn. Đắk Ang là
một xã vào loại khó khăn nhất của huyện Ngọc Hồi. Dân số phần đông là đồng
bào dân tộc thiểu số đời sống khó khăn, không có điều kiện chăm l

đến việc học của các em. Trường Tiểu học Đắk Ang đóng chân trên địa phận xã
Đắk Ang có nhiệm vụ thực hiện công tác giáo dục ở bậc Tiểu học tại địa
phương.
Thực hiện yêu cầu đổi mới giáo dục, nâng cao chất lượng dạy và học.
Trong thời gian qua BGH nhà trường cùng với đội ngũ giáo viên đã có nhiều cố
gắng cùng với sự giúp đỡ của chính quyền điạ phương và chất lượng giáo dục
3 đang ngày càng nâng lên.


Điều này càng có ý nghĩa hơn với Đảng bộ nhân dân xã khi chính quyền
địa phương và nhà trường đang ra sức nỗ lực hết mình để đến năm 2010 hoàn

thành phổ cập giáo dục Tiểu học theo đúng độ tuổi.
Đây là một nhiệm vụ khó khăn nhưng cũng đầy ý nghĩa. Chính vì vậy đòi
hỏi một sự nỗ lực vượt bậc của chính quyền, nhân dân địa phương mà đặc biệt
nhất đấy là đội ngũ giáo viên Tiểu học những người trực tiếp giảng dạy và thực
hiện mục tiêu này. Chính vì những ý nghĩa đó mà rất nhiều giáo viên đã tập
trung giảng dạy, cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản của chương
trình mà quên mất việc hình thành cho các em những kĩ năng giao tiếp bằng
tiếng Việt bởi đối tượng học sinh chủ yếu là học sinh dân tộc vốn tiếng Việt của
các em còn rất hạn chế. Tiếng Việt chỉ là ngôn ngữ thứ hai của các em sau ngôn
ngữ mẹ đẻ. Thật sự, xét trên bề mặt nỗi thì nâng cao kĩ năng giao tiếp bằng
tiếng Việt cho học sinh dân tộc không có nhiều tác động đến việc nâng cao chất
lượng dạy và học của học sinh nhưng nhìn sâu xa về một khía cạnh khác tôi
nghĩ đây là một trong những yếu tố quan trọng góp phần vào việc nâng cao chất
lượng dạy và học môn tiếng Việt nói riêng và chất lượng giáo dục nói chung.
Bởi vì, để học các môn học khác thì bắt buộc phải sử dụng tiếng Việt. Mặt

khác giao tiếp là một nhu cầu không thể thiếu của con nguời. Trong giáo dục,
muốn học sinh nắm đuợc kiến thức thì buộc các em phải giao tiếp (giao tiếp với
thầy cô, giao tiếp với bạn bè...) để chiếm lĩnh tri thức và tiếp thu tri thức. Nhưng
để nâng cao khả năng giao tiếp bằng tiếng Việt cho học sinh dân tộc không phải
là một vấn đề đơn giản. Đây là một vấn dề khó khăn đòi hỏi sự kiên trì của giáo
viên và một sự tích cực trong học tập của học sinh. Tại lớp 2 E tôi đã áp dụng và
bước đầu mang lại hiệu quả, tôi xin nêu ra đây để được sự đóng góp ý kiến của
đồng nghiệp.
2.Đối tượng nghiên cứu:
4


Cụ thể học sinh lớp 2 E Cụm Thôn Đắk Giá II, Trường TH xã Đắk Ang,
huyện Ngọc Hồi

3.Nhiệm vụ nghiên cứu:
3.1.Nghiên cứu cơ sở lí luận của việc giao tiếp và ý nghĩa của việc giao tiếp
trong nhà trường. Từ đó dựa trên những cơ sở lí luận để đề ra những biện pháp
nhằm nâng cao kĩ năng giao tiếp bằng tiếng Việt cho học sinh dân tộc.
3.2 Phân tích thực trạng sử dụng Tiếng Việt trong học sinh dân tộc hiện nay Học sinh lớp 2E - Trường Tiểu học xã Đắk Ang. Tìm ra những ưu điểm và
những yếu điểm để từ đó đề ra những giải pháp khắc phục.
3.3 - Đề ra những biên pháp nhằm nâng cao khả năng bằng Tiếng Việt cho học
sinh dân tộc. Đồng thời, qua đó rút ra những kết luận và có những kết luận sư
phạm và đề xuất những kiến nghị.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình xây dựng sáng kiến kinh nghiệm này tôi đã sử dụng các

phương pháp nghiên cứu sau:
* Đọc một số Văn kiện, Nghị quyết BCHTW, Chỉ thị, Quyết định của Bộ Giáo
dục và Đào tạo; một số Văn bản hướng dẫn, Công văn chỉ đạo về đổi mới giáo
dục và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo,một
số tài liệu về đổi mới phương pháp giáo dục.
* Nghiên cứu các tài liệu bồi dưỡng giáo viên theo chương trình Sách Giáo
Khoa mới; Tạp chí Giáo dục& Nhà trường, Tạp chí Thế giới trong ta, báo Giáo
dục và Thời đại, tài liệu về một số biện pháp dạy Tiếng Việt cho học sinh dân
tộc
* Quan sát, đàm thoại, điều tra thông tin, nghiên cứu kết quả hoạt động, tổng
kết kinh nghiệm, dự giờ thăm lớp … .Cụ thể tôi đã sử dụng những phương pháp
sau:
5


- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp quan sát, trò chuyện để tìm ra thông tin.
- Phương pháp nghiên cứu chất lượng học tập của học sinh.

- Phương pháp thống kê toán học.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
5.Phạm vi nghiên cứu:
Sáng kiến kinh nghiệm được xây dựng trên cơ sở tìm hiểu thông qua các tài
liệu và sự hiểu biết của cá nhân, qua sự đúc rút kinh nghiệm trong quá trình
giảng dạy trên đối tượng học sinh dân tộc với vốn tiếng Việt còn nhiều hạn chế.
Vì vậy nội dung chỉ đề cập đến một số biện pháp nhằm nâng cao khả năng
sử dụng tiếng Việt cho học sinh dân tộc ở Lớp 2E Trường Tiểu Học xã Đắk

Ang - huyện Ngọc Hồi. Tập trung chủ yếu vào một số nội dung sau:
*Tầm quan trọng của giao tiếp trong học tập và trong cuộc sống
*Thực trạng sử dụng Tiếng việt trong giao tiếp hiện nay của học sinh lớp 2E
Trường Tiểu học Xã Đắk Ang
*Nguyên nhân của thực trạng này
*Một số giải pháp nâng cao khả năng sử dụng Tiếng việt trong giao tiếp cho
học sinh dân tộc.

PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN:
1.Giao tiếp là gì?
Có nhiều quan điểm,nhiều trường phái khác nhau. Mỗi trường phái đều có
những định nghĩa về giao tiếp. Đứng trên quan điểm khoa học chủ nghĩa ta có
thể định nghĩa về giao tiếp như sau:
6 Giao tiếp là việc trao đổi thông tin giữa con người và thường dẫn tới hành động.


a.Mục đích của giao tiếp là gì?
Mục đích của giao tiếp là truyền tải được những thông điệp. Đây là quá trình
liên quan đến cả người gửi và người nhận thông điệp nhằm thoả mãn nhu cầu
nào - nhu cầu trao đổi thông tin, nhu cầu chia sẻ tình cảm, nhu cầu tiếp xúc giải

trí, nhu cầu được khẳng định trước người khác…
Hình thức

Khẩu ngữ

Bút ngữ

Giải mã

NGHE

ĐỌC

Kí mã

NÓI

VIẾT

Hành vi

b. Đặc điểm của quá trình giao tiếp:
Gồm hai đối tượng: gởi và nhận
Có một thông điệp được chuyển tải
Có phương tiện chuyển tải thông điệp
Là quá trình trao đổi hai chiều
c.Các yếu tố tham gia vào quá trình giao tiếp:
Nội dung giao tiếp
Mục đích giao tiếp
Chủ thể giao tiếp

Hoàn cảnh giao tiếp
Kênh giao tiếp
Quan hệ giao tiếp
d.Chức năng của giao tiếp
Các Mác khẳng định sự thống nhất của tiếng nói, ý thức và giao tiếp: ý thức
cũng như cũng như tiếng nói xuất hiện từ sự cần thiết của giao tiếp.
Giao tiếp có một ý nghĩa hết sức lớn lao đối với đời sống con người. Nhu cầu
liên quan tới một số lượng lớn những nhu cầu cơ bản của con người. Bởi vì giao
7


tiếp là điều kiện cần thiết cho sự phát triển bình thường của con người với tư
cách là một thành viên của xã hội, một nhân cách. Với họ sinh Tiểu học đây là
một nhân cách đang hình thành và phát triển.
2.Vai trò của giao tiếp trong học tập:
Dựa vào sơ đồ trên ta có thể thấy

Giao tiếp

vai tư duy trò của giao tiếp trong
cuộc sống. Ngôn ngữ là công cụ của
tư duy và muốn quá trình tư duy Ngôn ngữ
diễn ra bình thường thì con người ngữngung
ữngữ
phải giao tiếp.

Tư duy

Có thể nói "không có giao tiếp thì qúa trình tư duy sẽ diễn ra không
bình thường"

*Đối với học sinh lớp 2E, Trường Tiểu học xã Đắk Ang thì vai trò của giao
tiếp lại càng quan trọng bởi đây là giai đoạn đầu của quá trình nhận thức, quá
trình tư duy vì vậy việc cung cấp cho các em những kiến thức khoa học đây sẽ
là nền tảng vững chắc để các em nhận thức những kiến thức cơ bản về tự nhiên,
xã hội, nền văn hoá của dân tộc và nhân loại. Mặt khác 100% học sinh lớp 2E là
học sinh dân tộc thiểu số, vốn tiếng Việt còn hạn chế. Qua đó làm nền tảng kiến
thức cho các em học lên các lớp học cao hơn và để các em có những kĩ năng cơ
bản để các em bước vào đời.
*Vai trò của giao tiếp trong học tập là vô cùng quan trọng,cụ thể: Học tập là một
quá trình trao đổi (nêu và nhận) thông tin "giáo viên = học sinh = giáo viên''
*Ngày nay đổi mới phương pháp giáo dục đang được triển khai và áp dụng
rộng khắp. Đổi mới phương pháp có nghĩa là nâng cao vai trò của người học,
người học (học sinh) là người chủ động chiếm lĩnh, tiếp thu tri thức, học

sinh phải hoạt động, phải trao đổi, giao tiếp với thầy cô, bạn bè, sách vở và với
8 các nguồn tài liệu khác để tiếp thu tri thức dưới sự siúp đỡ, hỗ trợ của giáo


viên. Giáo viên chỉ đóng vai trò hướng dẫn, giúp đỡ học sinh vì vậy ta có thể
thấy vai trò quan trọng của học sinh trong quá trình học tập. Học sinh phải trao
đổi giao tiếp với thầy cô, bạn bè, sách vở, và cả với các phương tiện khác để
tiếp thu trí thức. Ngày nay tri thức nhân loại không chỉ còn nằm trên sách vở mà
nó còn nằm trên sách báo, trong cuộc sống, trong các phương tiện thông tin như
vô tuyến, truyền hình.....Vì vậy đòi hỏi học sinh phải không ngừng giao tiếp:
Giao tiếp với thầy cô, giao tiếp với bạn bè, giao tiếp với các phương tiện nghe
nhìn, và cả tự giao tiếp với bản thân để chiếm lĩnh tri thức.
Tóm lại đối với học sinh, giao tiếp có vai trò vô cùng quan trọng trong việc
chiếm lĩnh tri thức, trong việc học tập của các em nhất là trong giai đoạn hiện
nay giai đoạn mà toàn ngành giáo dục đang ra sức đổi mới phương pháp,nâng
cao chất lượng giáo dục mà ở đó vai trò của người học ngày càng được khẳng

định.
II.CƠ SỞ THỰC TIỄN.
1.Vì sao phải nâng cao khả năng giao tiếp bằng Tiếng việt cho học sinh dân
tộc?
Có nhiều lí do để phải nâng cao khả năng giao tiếp bằng tiếng Việt cho học sinh
dân tộc. Nhưng ở đây, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này tôi xin phép được
nêu ra đây hai nguyên nhân cơ bản mà tôi cho là chủ yếu:
* Thứ nhất:
Nâng cao khả năng giao tiếp bằng tiếng Việt cho học sinh nhất là học sinh
dân tộc là một trong những yêu cầu cơ bản của việc đổi mới phương pháp

giáo dục, nâng cao chất lượng học tập. Với vai trò của học sinh trong quá trình
học được nâng lên là nhiệm vụ trung tâm. Đổi mới phương pháp giáo dục là
đổi mới phương pháp dạy và học trong đó vai trò của người học hiện nay là
phải chủ động tiếp thu tri thức và giáo viên chỉ đóng vai trò hướng dẫn, hỗ trợ.
9

Mặt khác các tài liệu phục vụ học tập hiện nay đều chỉ được phát hành bằng


ngôn ngữ phổ thông (tiếng Việt). Mà trong khi đó vốn tiếng Việt của các em
còn rất hạn chế bởi các em chỉ được tiếp xúc vốn tiếng Việt khi các em đi học
(5 – 6 tuổi), không chỉ vậy các em không thường xuyên sử dụng tiếng Việt khi
ở nhà và cũng như khi ở trường. Trong khi đó so với học sinh ở vùng thuận lợi
(học sinh người kinh) trước khi bước vào lớp 1 các em đã có những vốn kiến
thức đủ để các em có thể giao tiếp đơn giản, đủ để các em có nhận thức sơ giản
về tự nhiên, xã hội và thế giới xung quanh. Trái với học sinh người kinh học
sinh dân tộc nói chung và học sinh dân tộc ở xã Đắk Ang nói riêng thì vốn
tiếng Việt của các em rất hạn chế. Các em chỉ được tiếp xúc với tiếng Việt khi
các em bước vào mẫu giáo. Chỉ khi bước vào học mẫu giáo và bắt đầu học lớp

1 thì các em mới chính thức được tiếp xúc với tiếng Việt. Bên cạnh đó với các
em tiếng Việt chỉ là ngôn ngữ thứ hai mà các em sử dụng khi giao tiếp. Vì vậy
có thể khẳng định rằng vốn tiếng việt của các em học sinh dân tộc rất ít vì vậy
nên phải nâng cao khả năng giao tiếp bằng tiếng Việt cho các em.
* Thứ hai
-Tiếp theo là do những hạn chế của ngôn ngữ mẹ đẻ(cụ thể với đối tượng học
sinh lớp 2E – Trưưòng TH Đắk Ang là ngôn ngữ Xê Đăng).So với tiếng Việt thì
ngôn ngữ mẹ đẻ(ngôn ngữ Xê Đăng) có những hạn chế nhất định mà những hạn
chế này ảnh hưởng khá nhiều đến việc giao tiếp của các em, cụ thể:

*.Hạn chế về dấu thanh và âm vần: Ngôn ngữ mẹ đẻ có những hạn chế sau về
dấu thanh và âm vần
.Về âm: Về âm vần các em chủ yếu là sai trong khi viết.
*.Hạn chế về cách hành văn.
- So với tiếng Việt (phổ thông) thì ngôn ngữ mẹ đẻ (ngôn ngữ Xê Đăng) có
nhiều yếu kém và hạn chế về cách hành văn. Tiếng mẹ đẻ, ngôn ngữ mà các em
sử dụng và tiếp xúc đầu tiên có nhiều hạn chế về cách hành văn. Trong ngôn
10 ngữ mẹ đẻ mà các em sử dụng về văn phạm thì hầu như không có.


- Khi giáo viên hỏi thì các em chỉ trả lời"có - không". Hầu như các em không
biết trả lời theo văn phạm mà chỉ trả lời một cách ''cộc lốc''. Điều này là do ảnh
hưởng của ngôn ngữ mẹ đẻ và cũng là do vốn tiếng Việt các em còn hạn chế,
các em không có khả năng diễn đạt những gì mà mình suy nghĩ và muốn nói:
Trong ngôn ngữ mẹ đẻ:
VD: Eh = nó,mày: au = tôi
(Eh và au: là cách các em và cả những người lớn sử dụng khi nói chuyện kể cả
dùng xưng hô với người đang nói chuyện cùng mình. Hay khi xưng hô kể cả
với người già thì các em chỉ gọi thẳng tên mà không biết gọi cô, chú, bác, hay
ông). Đây là một trong những hạn chế ảnh hưởng rất nhiều đên quá trình sử

dụng tiếng Việt sau này.
2.Thực trạng sử dụng Tiếng việt trong giao tiếp hiện nay của học sinh.
*Có thể nói trong giao tiếp hiện nay nhất là trong giao tiếp bạn bè học sinh
không thường xuyên sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp mà các em chỉ chủ yếu
sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ. Với các em, Tiếng việt là ngôn ngữ thứ hai.

* + Trong giao tiếp với bạn bè.
Trong giao tiếp với bạn bè hiện nay nhất là trong giờ giải lao các em hầu như
không bao giờ sử dụng tiếng việt, cụ thể.
+. Trong giờ học trong lớp:
Trong lớp với yêu cầu là sử dụng Tiếng việt để học tập nhưng các em thường
các em thường xuyên sử dụng tiếng mẹ đẻ để
giao tiếp với bạn bè chẳng hạn kho hỏi mượn
cây bút,cây thướt,hay quyển sách các em đều
sử dụng tiếng mẹ đẻ để giao tiếp
+.Trong giờ ra chơi(giải lao):
11


Khác với trong giờ học.Trong giờ ra chơi các em chủ yếu sử dụng ngôn ngữ mẹ
đẻ để

giao tiếp. Khi ra chơi khi vui chơi với các bạn và khi tham gia các trò chơi các
em hầu như chỉ sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, chẳng hạn:
VD: Mut = vào
* Trong học tập.
+ Giao tiếp với thầy cô:
Trong lớp khi giao tiếp,làm việc với thầy cô các em thường không dám
và nếu dám thì các em cũng rất là nhút nhát khi giao tiếp với thầy cô. Mà giao
tiếp ở đây thường là giải quyết nghiệm vụ học tập.

Qua quan sát trên đối tượng học sinh tôi nhận thấy các em học sinh
thường rất sợ khi giao tiếp với thầy cô các em thường giao tiếp trong những tâm

trạng bị ép buộc không tự tin chủ động trong các tình huống giao tiếp. Có nhiều
em khi giáo viên gọi đứng dậy trả lời bài thì các em cứ cúi và gục đầu xuống
dưới gầm bàn không chịu lên bảng và khi giáo viên xuống tận nơi dắt tay thì có
em còn khóc không phải vì các em sợ giáo viên mà các em sợ đứng trước đám
đông.Có em nếu có đứng lên thì các em không biết phải thực hiện nhiệm vụ gì
hay phải làm gì.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG GIAO
TIẾP BẰNG TIẾNG VIỆT CHO HỌC LỚP 2E - TRƯỜNG TIỂU HỌC
ĐẮK ANG
Nâng cao khả năng giao tiếp cho học sinh dân tộc cho học sinh dân tộc là
nâng cao vốn tiếng việt và giúp các em mạnh dạn tự tin trong giao tiếp.
Có nhiều giảp pháp để nâng cao khả năng giao tiếp cho học sinh dân tộc cho
12

học sinh dân tộc nhưng trong phạm vi nghiên cúu của đề tài này tôi xin trình


bày những giải pháp mà tôi đã từng áp dụng và những biện pháp mà tôi cảm
thấy phù hợp với đối tượng học sinh:
1.Duy trì sĩ số, ổn định nề nếp học tập:
Trước hết muốn nâng cao khă năng giao tiếp tiếng việt cho học sinh dân
tộc thì phải làm sao cho các em phải ổn định được nề nếp lớp và duy trì được sĩ
số học sinh. Thật vậy muốn cho các em nâng cao khả năng giao tiếp bằng tiếng
Việt cho học sinh dân tộc thì các em phải đến lớp thường xuyên.
2. Đổi mới phương pháp học tập chú trọng dạy học theo quan điểm giao
tiếp:
Cũng như bộ sách giáo khoa cải cách giáo dục,bộ sách giáo khoa mới tổ

chức rèn luyện kĩ năng sử dụng tiếng Việt cho học sinh thông qua các

phân môn. Phân môn Tập đọc rèn cho học sinh kĩ năng đọc (đọc thành
tiếng, đọc thầm, đọc hiểu), nghe, nói. Phân môn Từ ngữ - Ngữ pháp, được
gọi với tên gọi mới là Luyện từ và câu, cung cấp cho học sinh những kiến
thức sơ giản về tiếng Việt bằng con đường quy nạp và rèn luyện kĩ năng
dùng từ đặt câu (nói, viết), kĩ năng đọc cho học sinh...Thông qua việc học
các phân môn của môn tiếng Việt sẽ dần dần giúp hình thành cho các em các
kĩ năng giao tiếp thông thường và cơ bản để các em mạnh dạn hơn trong giao
tiếp với bạn bè và thầy cô.
3. Tăng cường hoạt động nhóm:
*Đổi mới phương pháp học tập là một nhu cầu thiết yếu trong giai đoạn
hiện nay. Để nâng cao kĩ năng giao tiếp cho học sinh dân tộc thì một trong
những phương pháp mang lại hiệu quả là phương pháp hoạt động nhóm, khi
hoạt động nhóm với những yêu cầu cụ thể của nội dung mà giáo viên giao

13


nhiệm vụ thì buộc học sinh phải hợp tác với nhau để giải quyết nhiệm vụ, khi hợp
tác với nhau để giải quyết một hay nhiều nhiệm vụ cụ thể thì các em phải trao đổi,
giao tiếp, hợp tác với các bạn để làm
việc.
Ngoài ra khi hoạt động nhóm
còn rèn luyện cho các em kĩ năng
biết lắng nghe và biết trình bày ý
kiến của mình. Hoạt động nhóm có
thể là nhóm cặp (hai em ngồi cùng
bàn) hay là nhóm 3, nhóm 4


4 . Tăng cường trò chơi học tập.
Tăng cường trò chơi học tập không chi giúp làm nhẹ nhàng tiết học, nâng
cao khă năng tiếp thu bài của học sinh mà còn giúp nâng cao khả năng giao tiếp
bằng tiếng Việt cho học sinh. Có nhiều trò chơi để giáo viên lựa chọn để củng
cố kiến thức và nâng cao khả năng giao tiếp cho học sinh. Vì khi tham gia trò
chơi các em sẽ mạnh dạn hơn, các em tự tin hơn. Không còn run sợ khi giáo
viên gọi lên bảng trả lời bài khi đó các em sẽ tiếp thu bài tốt hơn. Ngoài ra còn
một số trò chơi còn giúp các em có kĩ năng giao tiếp như các em biết nói lịch
sự, biết nói lời đề nghị. Không chỉ có trò chơi học tập mà xen kẽ giữa các tiết
học hay trong 15 phút sinh hoạt đầu giò cũng có thể là trong giờ sinh hoạt lớp
giáo viên tổ chức cho các em hát, múa tập thể. Giáo viên gọi các em đứng dậy
hát cá nhân, tập thể kết hợp múa phụ hoạ.
Ví dụ:
Giáo viên có thể tổ chức cho học sinh chơi các trò chơi sau:
*.- Trò chơi "Văn minh,lịch sự'
14


Thể lệ trò chơi là học sinh chỉ làm theo khi nhận được lời mời hay lời đề
nghị từ giáo viên (quản trò). Không làm theo nếu như không nhận được lời mời
hay là một lời đề nghị lịch sự.
GV: Tôi bảo, tôi bảo!
HS: Bảo gì, bảo gì?
GV: Mời các bạn đứng dậy
HS: Học sinh đứng dậy
GV: Mời các bạn đưa hai tay lên

HS: Đưa hai tay lên
GV: Hạ một tay xuống
HS: Không hạ tay (Vì không phải là một lời mời hay đề nghị)

Giáo viên có thể cho HS chơi như vậy tiếp tục
*Ngoài ra giáo viên nên cho các em hát (ưu tiên hát cá nhân) vì như vậy các
em sẽ lên bảng hay đứng dậy trình bày qua đó các em sẽ mạnh dạn tự tin, giảm
bớt sự rụt rè nhút nhát khi lên bảng hay đứng dạy trả lời bài khi có sự yêu cầu
của giáo viên...sẽ tạo điều kiện cho các em tiếp thu bài hiệu quả hơn.
3. Tăng cường, nâng cao hơn nữa việc động viên, khuyến khích học sinh.
Khi học sinh thực hiện tốt và cũng không nên phê bình hay chỉ trích các em. Vì
như vậy các em sẽ tự tin vào bản thân mình. Đặc biệt là với những học sinh hay
rụt rè và nhút nhát thì càng nên động viên và khuyến khích .Để các em tự tin
hơn vào bảng thân mình và mạnh dạn, tự tin để các em giảm bớt sự rụt rè
và mạnh dạn lên bảng hay làm theo những yêu cầu của giáo viên.Giáo viên cần
chú ý khi các em làm sai thì không nên chê hay nói thẳng là em đã làm không
đung mà nên để cho các em được trình bày và nêu lên suy nghĩ của mình. Sau
đó giáo viên nhận xét nhẹ nhàng có tính chất động viên các em để lần sau tốt
15

hơn và nhờ một bạn khác giúp bạn hoàn thiện....


VD:

Em làm tốt lắm nhưng cần cố gắng để tốt hơn.
Em làm có ý đúng (hay gần đúng). Bạn nào có thể giúp bạn trả lời
đúng hơn nào.

4.Hướng dẫn cho các em những câu giao tiếp đơn giản mà các em
thường gặp.

Một thực tế hiện nay là các em không có kĩ năng nói dù là những câu đơn giản.
Nhiều phụ huynh phản ánh là các em về nhà khhong biết thưa gửi hay chào hỏi

xin phép. Nguyên nhân của điều này là do các em chưa biết chào hỏi như thế
nào và không thường xuyên sử dụng nên khi sử dụng các em tỏ ra ngần ngại và
sợ sệt. Vì vậy giáo viên phải hướng dẫn và kể cả là cho các em học thuộc lòng
(tập thử tại lớp) và yêu cầu các em về nhà thực hiện. Có thể là thường xuyên
hay lồng ghép trong các trò chơi hay trong các giờ ra chơi hay trong các giờ
sinh hoạt đầu giờ và sinh hoạt lớp....
Ví dụ:
* Chào hỏi khi đi học:
Cháu chào ông bà cháu đi học về
Con chào bố mẹ con đi học về
Em chào anh chị em đi học
Bố mẹ gọi thì phải dạ,vâng.Không được im lại
*Muốn đi đâu thì phải xin phép,chẳng hạn:
Xin phép bố mẹ con đi chơi với bạn
Xin phép bố mẹ con đi tới nhà bạn A con chơi
..........................................................................
Vì là giáo viên mới ra trường nên kinh nghiệm giảng dạy còn hạn chế. Nên tôi
chỉ xin phép được nêu một số biện pháp của bản thân đã được áp dụng và đã
16

mang lại hiệu qủa nhât định. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của quí thầy cô


và đồng nghiệp để chúng ta có thể cùng nhau thực hiên mục tiêu giáo dục đạt
kết quả ngày càng cao hơn.

*Kết quả học tập môn Tiếng Việt của lớp 2E học kì I – Năm học 2008 –
2009
(Kết quả này có một phần đóng góp quan trọng của việc nâng cao khả năng
giao tiếp bằng tiếng Việt cho học sinh dân tộc)

Môn

Giỏi
T.số
T.L%
0
0

Tiếng
Việt

T.số
T.L%
0
0
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT

Kiểm tra giữa kì I
Khá
Trung bình
T.s
T.L% T.số T.L%
3
18.5
3
18.75
Kiểm tra cuối học kì I
T.số
T.L% T.s T.L%
3

18.75
7
43.75

Yếu
T.số
T.L%
10
62.5
T.số
6

T.L%
37.5

1.Kết luận:
Đổi mới phương pháp giáo dục là một định hướng lớn của Đảng ta và của
nghành nhằm từng bước nâng cao chất lượng giáo dục để từng bước đưa nền
giáo dục nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển và đuổi kịp trình độ giáo dục
của khu vực và thế giới nhằm đáp ứng sự phát triển và yêu cầu ngày càng cao
của sự phát triển đất nước nhất là trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá
hiện nay.
Nâng cao khả năng giao tiếp bằng tiếng Việt cho học sinh dân tộc là một
trong những biện pháp để nâng cao chất lượng dạy và học. Tuy không trực tiếp
góp trực tiếp vào nâng cao kết quả học tập nhưng đây là một trong những biện
pháp nâng cao kết quả học tập môn tiếng Việt nói riêng và các môn học khác
nói chung.
2.Đề xuất, kiến nghị.
17



* Dạy học là một nhiệm vụ khó khăn và đòi hỏi nhiều về sự cố gắng của giáo
viên.Với vai trò hướng dẫn, điều khiển học sinh chiếm lĩnh tri thức nhất là trong
thời kì hiện nay.
*Như chúng ta đã biết không có một phương pháp giáo dục nào là phương
pháp vạn năng. Vì vậy đòi hỏi mỗi người giáo viên phải vận dụng linh hoạt, có
chọn lọc các phương pháp để phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của học sinh để
mang lại hiệu quả cao nhất.
*Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này tôi xin trình bày và nêu ra đây
những kiến nghị của riêng tôi. Vì kinh nghiệm còn hạn chế nên không tránh
khỏi thiếu sót rất mong được sự góp ý của quí thầy cô và đồng nghiệp.

Để nâng cao kết quả học tập môn tiếng Việt thì có nhiều biện pháp.Mỗi giáo
viên đều có những cách làm riêng phù hợp với điều kiện thực tế và đối tượng
học sinh của lớp mình. Nhưng việc đầu tiên và cấp thiết nhất là phải quy trì
được sĩ số, chuyên cần và nề nếp học tập vì chỉ có học sinh đi học đều thì mới
có thể nâng cao khả năng giao tiếp và nâng cao chất lượng dạy và học
Mỗi giáo viên phải thường xuyên và không ngừng nâng cao trình độ chuyên
môn theo tôi một trong những yếu tố quan trọng là khả năng diễn đạt và ttruyền
thụ cho học sinh. Vì thực tế kiến thức ở chương trình Tiểu học là những mảng
kiến thức không khó nhưng có nhiều giáo viên nhất là những giáo viên mới ra
trường như tôi không có những kĩ năng và biện pháp (kĩ năng truyền thụ) để
đưa kiến thức này đến học sinh, học sinh không hiểu được những ý đồ của giáo
viên dẫn đến các em không hiểu bài và nhàm chán không muốn học.
Ngoài ra bản thân mỗi giáo viên không ngừng tăng cường và học ngôn ngữ
địa phương. Vì có hiểu biết (đơn giản) về ngôn ngữ mẹ đẻ của các em thì giáo
viên sẽ dễ hiểu các em nói gì và thuận tiện trong chuyển từ giao tiếp bằng ngôn
ngữ mẹ đẻ sang giao tiếp bằng tiếng Việt.
18



Tài liệu tham khảo
1.Phương pháp dạy tiếng Việt cho học sinh dân tộc trường Tiểu học Lê A,
MôngkSlay, Đào Nam Sơn......Bộ GD&ĐT, Vụ giáo viên – 1999.
2.Nội dung,phương pháp và hình thức dạy học ở vùng dân tộc – MôngkSlay
(chủ biên – NXB ĐHQGHN, H 2001
Giáo trình tâm lí học xã hội - Trần Thị Minh Đức (chủ biên)
3.Sổ điểm lớp 2E - Trường Tiểu học Xã Đăk Ang

-------------------o0o-------------------

19


MỤC LỤC
1

Lời ngỏ


2

I-LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI :
2
1.Những vấn đề chung


5

2 . Đối tượng nghiên cứu


5

3 .Nhiệm vụ nghiên cứu:

5
5

4. Phương pháp nghiên cứu:


6

5. Phạm vi nghiên cứu

20

6


II.CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.Vì sao phải nâng cao khả năng giao tiếp bằng tiếng Việt

10 – 12

cho học sinh lớp 2E - Trường Tiểu học Đắk Ang?
2. Thực trạng sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp hiện nay

12 – 13


III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG GIAO
TIẾP BẰNG TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH LỚP 2E TRƯỜNG TIỂU HỌC XÃ ĐẮK ANG
1. Duy trì sĩ số, ổn định nề nếp học tập

14

2.Đổi mới phương pháp học tập chú trọng dạy học theo
quan điểm giao tiếp
3.Tăng cường hoạt động nhóm

14 – 15

4. Tăng cường trò chơi học tập

15 – 16

5. Tăng cường, nâng cao hơn nữa việc động viên, khuyến

16

khích học sinh
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
19

1. Kết luận

19 - 20

2. Đề xuất,kiến nghị


PHẦN NỘI DUNG
I NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN
7
1. Giao tiếp là gì?


8

21

a. Mục đích giao tiếp

7

b . Đặc điểm giao tiếp

7

c . Các yếu tố tham giao vào quá trình giao tiếp

7



8
d . Chức năng giao tiếp

8
8


2.Vai trò của giao tiếp trong học tập.


10

22


23



×