Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Phân tích đánh giá các quy định pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.7 KB, 12 trang )

MỤC LỤC
BẢNG TỪ VIẾT TẮT..........................................................................................................
MỞ BÀI.............................................................................................................................. 1
NỘI DUNG......................................................................................................................... 1
I. Khái quát về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự..............................................................1
1. Khái niệm................................................................................................................. 1
2. Đặc điểm.................................................................................................................. 1
3. Ý nghĩa..................................................................................................................... 1
II. Khái quát về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm.....2
1. Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở tòa án cấp sơ thẩm............................................2
2. Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở tòa án cấp phúc thẩm.........................................5
III. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật trong về đình chỉ giải quyết vụ án dân
sự trong những năm gần đây và một số kiến nghị để hoàn thiện pháp luật......................7
1. Thực tiễn áp dụng.....................................................................................................7
2. Một số kiến nghị.......................................................................................................8
KẾT LUẬN........................................................................................................................ 9
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................10


BẢNG TỪ VIẾT TẮT

VADS:

Vụ án dân sự

HĐXX:

Hội đồng xét xử

BLTTDS 2015:


Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015


MỞ BÀI
Thực tế cho thấy quy định về đình chỉ là những quy định có vị trí quan trọng trong
việc giải quyết vụ án dân sự. Bởi lẽ đình chỉ được xem như một phương thức xử lý đặc
biệt của Toà án trong quá trình giải quyết vụ án dân sự. Tuy nhiên, việc áp dụng những
quy định về đình chỉ trong quá trình giải quyết vụ án dân sự trong thời qua còn gặp nhiều
vướng mắc, bất cập cần tháo gỡ. Vì vậy, em xin phép được chọn đề: “Phân tích đánh giá
các quy định pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở
tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm.”
NỘI DUNG
I. Khái quát về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
1. Khái niệm
Trong quá trình chuẩn bị xét xử, nếu có căn cứ do pháp luật quy định đề ngừng giải
quyết VADS thì tòa án sẽ quyết định ngừng giải quyết VADS – Quyết định đình chỉ giải
quyết VADS. Như vậy, Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là việc tòa án ngừng việc giải
quyết vụ án dân sự khi có những căn cứ do pháp luật quy định.
2. Đặc điểm
Thứ nhất, đình chỉ giải quyết VADS là một quyết định kết thúc việc giải quyết vụ án.
Đây là điểm khác biệt cơ bản với tạm đình chỉ giải quyết VADS, bởi vì nó có ý nghĩa kết
thúc cả về mặt thủ tục lẫn giải quyết nội dung vụ án. Khi vụ án bị đình chỉ giải quyết, các
hoạt động tố tụng sẽ không được khôi phục lại, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác.
Thứ hai, đình chỉ giải quyết VADS phải dựa trên những căn cứ mà pháp luật đã quy
định. Để đảm bảo việc giải quyết vụ án một cách khách quan, đúng đắn và bảo đảm quyền
lợi, lợi ích của đương sự, Tòa án không thể ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án một
cách tùy tiện hay chỉ dựa trên những lý do cá nhân.
Thứ ba, chỉ Tòa án mới có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết VADS. Việc
đình chỉ giải quyết VADS có thể được tiến hành ở cấp sợ thẩm, phúc thẩm hay ở thủ tục

giám đốc thẩm, tái thẩm. Trước khi mở phiên tòa, thẩm quyền này thuộc về Thẩm phán
được phân công giải quyết vụ án. Tại phiên tòa, HĐXX có quyền đình chỉ giải quyết
VADS.
Thứ tư, hậu quả của đình chỉ giái quyết VADS là mọi hoạt động tố tụng đều phải được
ngừng lại. Khi ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án thì Tòa án không tiến hành thêm bất
cứ hoạt động nào để giải quyết VADS.

1


3. Ý nghĩa
Việc đình chỉ giải quyết VADS có ý nghĩa khắc phục những sai lầm có thể xảy ra
trong quá trình giải quyết vụ án, đảm bảo vụ án được xử lý khách quan chính xác. Trong
nhiều trường hợp sau khi đã thụ lý vụ án Tòa án mới phát hiện vụ án không thỏa mãn các
điều kiện thụ lý theo quy định pháp luật. Hơn nữa, việc đình chỉ giải quyết VADS cũng
tiết kiệm thời gian, công sức, chi phí cho cả đương sự và Nhà nước. Khi Tòa án ra quyết
định đình chỉ giải quyết vụ án một cách đúng đắn sẽ làm quá trình giải quyết vụ án nhanh
gọn, không phải kéo dài thời gian giải quyết thậm chí không phải mở phiên tòa xét xử.
Nhờ đó, gánh nặng về số vụ việc cần giải quyết được giảm tải, Tòa án có điều kiện tập
trung giải quyết các vụ án quan trọng hơn để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xét
xử.
II. Khái quát về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở tòa án cấp sơ thẩm và phúc
thẩm
1. Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở tòa án cấp sơ thẩm
1.1. Căn cứ pháp lý
Theo quy định tại Điều 217 BLTTDS năm 2015, các căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án
được quy định như sau:
- Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền và nghĩa vụ của họ không được
thừa kế (điểm a khoản 1)
Nguyên đơn hoặc bị đơn chết mà quyền và nghĩa vụ của họ không được thừa kế được

hiểu là các quyền, nghĩa vụ này là quyền, nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của đương sự
đã chết đó và không được phép chuyển giao cho người thừa kế. Do tính chất nhân thân
nên khi nguyên đơn hoặc bị đơn chết, quyền, nghĩa vụ của họ đương nhiên chấm dứt. Do
đó, Tòa án phải đình chỉ giải quyết vụ án vì đối tượng xét xử không còn nữa. Chằng hạn,
nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn, yêu cầu cấp dưỡng, yêu cầu Tòa án buộc một bên
phải chấm dứt hành vi vi phạn quyền nhân thân như quyền cá nhân đối với hình ảnh, danh
dự, uy tín,… mà một trong các bên đương sự chết thì Tòa án phải ra quyết đinh đình chỉ
vụ án.
Tuy nhiên, đối với vụ việc có nhiều quan hệ pháp luật, trong đó vừa có quan hệ nhân
thân, vừa có quan hệ tài sản cần giải quyết (ly hôn, chia tài sản vợ chồng đồng thời giải
quyết yêu cầu của chủ nợ đối với vợ chồng…) thì việc một trong các đương sự chết cũng
không làm chấm dứt việc giải quyết vụ việc. Trong những trường hợp này Tòa án chỉ đình
chỉ giải quyết yêu cầu về quan hệ nhân thân chứ không thể đình chỉ việc giải quyết vụ án.
Do vậy, đây là một vấn đề cần được Tòa án nhân dân tối cao lưu tâm khi hướng dẫn áp
dụng pháp luật.
- Cơ quan, tổ chức đã bị giải thể, phá sản mà không có cơ quan, tổ chức, cá nhân nào
kế thừa quyển, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức đó (điểm b khoản 1)
2


Khác với trường hợp tạm đình chỉ giải quyết vụ án được quy định tại Khoản 1 Điều
214 BLTTDS là trường hợp chuyển đổi hình thức hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, giải thể.
Trong trường hợp này các cơ quan, tổ chức đang tham gia tố tụng với tư cách là nguyên
đơn, bị đơn chấm dứt hoạt động trên thực tế (do bị giải thể hoặc bị tuyên bố phá sản).
Trong quá trình giải quyết vụ án mà một trong các bên đương sự là cơ quan, tổ chức
bị Tòa án tuyên bố giải thể hoặc bị tuyên bố phá sản thì sẽ làm chấm dứt tư cách pháp lý,
chấm dứt mọi hoạt động trên thực tế và chấm dứt quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức
đó. Do vậy, nếu không có cá nhân, cơ quan, tổ chức kề thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng
của các cơ quan, tổ chức này để tiếp tục quá trình tố tụng thì Tòa án sẽ đình chỉ giải quyết
vụ án.

Người khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện hoặc nguyên đơn đã được triệu tập
hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt, trừ trường hợp họ đề nghị xét xử vắng mặt hoặc
vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan (điểm c khoản 1)
Sự kiện người khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện dẫn tới đối tượng cần được giải
quyết trong vụ án không còn tồn tại, việc giải quyết vụ án của Tòa án vì thế cũng bị chấm
dứt. Quy định này của BLTTDS 2015 đã khắc phục hạn chế tại điểm c khoản 1 Điều 192
BLTTDS 2004, sửa đổi 2011 khi đưa ra điều kiện “người khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu
khởi kiện” thay vì chỉ cần điều kiện “người khởi kiện rút đơn khởi kiện” như trước đây.
Tuy nhiên, quy định này chỉ áp dụng với những vụ án có yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn mà không có yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan. Đối với những VADS mà người khởi kiển rút yêu cầu nhưng đương sự
khác vẫn giữ nguyên yêu cầu của mình thì Tòa án không ra quyết định đình chỉ giải quyết
đới với yêu cầu của đương sự đã rút. Có nghĩa là, Tóa án chỉ đình chỉ giải quyết một phần
của vụ án chứ không phải là đình chỉ giải quyết toàn bộ vụ án. Việc đình chỉ giải quyết vụ
án trong trường hợp vụ án có nhiều yêu cầu tố tụng chỉ được thực hiện nếu tất cả các
đương sự đều rút yêu cầu của mình làm cho đối tượng của VADS cần giải quyết không
còn tồn tại.
Nguyên đơn đã được triệu tập lần hai mà vẫn vắng mặt dù không có đề nghị xét xử
vằng mặt hoặc không thuộc trường hợp vắng mặt do sự kiện bất khả kháng, trở ngại
khách quan thì việc vắng mặt này là không có lí do chính đáng. Trong trường hợp này,
việc nguyên đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không lí
do chính đáng dẫn tới suy đoán là họ đã từ bỏ việc khởi kiện của mình, đối tượng của vụ
án cần giải quyết tại Tòa án không còn tồn tại, do vậy, việc giải quyết vụ án của Tòa án
cần được chấm dứt.
Đã có quyết định của Tòa án mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã là
một bên đương sự trong vụ án mà việc giải quyết vụ án có liên quan đến nghĩa vụ, tài
sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đó (điểm d khoản 1)
3



Theo Khoản 2 Điều 71 Luật Phá sản 2014: “Trường hợp Tòa án nhân dân ra quyết
định mở thủ tục phá sản, Tòa án nhân dân, Trọng tài, cơ quan thi hành án dân sự đã ra
quyết định tạm đình chỉ theo quy định tại Điều 41 của Luật này phải ra quyết định đình
chỉ và chuyển hồ sơ vụ việc cho Tòa án nhân dân đang tiến hành thủ tục phá sản để giải
quyết”. Như vậy, trong quá trình giải quyết VADS nếu một trong các bên đương sự trong
vụ án là doanh nghiệp, hợp tác xã đã có quyết định mở thủ tục phá sản thì các quyền,
nghĩa vụ của đương sự sẽ được giải quyết thông qua thủ tục phá sản. Vì vậy, Tòa án đang
giải quyết vụ án sẽ phải đình chỉ giải quyết vụ án đồng thời phải chuyển hồ sơ cho Tòa án
đang mở thủ tục phá sản để giải quyết.
Nguyên đơn không nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản và chi phí tố tụng khác
theo quy định của Bộ luật này (điểm đ khoản 1)
Trường hợp bị đơn có yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu
cầu độc lập không nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản và chi phí tố tụng khác theo
quy định của Bộ luật này thì Tòa án đình chỉ việc giải quyết yêu cầu phản tố của bị đơn,
yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Đây là căn cứ đình chỉ giải quyết VADS mới được bổ sung nhằm đáp ứng nhu cầu của
thực tiễn và nâng cao trách nhiệm của đương sự đối với yêu cầu của mình. Theo Điều 164
BLTTDS 2015, người yêu cầu định giá tài sản phải nộp tiền tạm ứng chi phí đánh giá tài
sản nên nếu người yêu cầu định giá tài sản mà không nộp tiền tạm ứng chí phí định giá tài
sản thì vụ án không thể giải quyết được nên quy định này là hợp lý.
Đương sự có yêu cầu áp dụng thời hiệu trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án,
quyết định giải quyết vụ án và thời hiệu khởi kiện đã hết (điểm e khoản 1)
Quy định này phù hợp với khoản 2 Điều 149 BLDS 2015 quy định về thời hiệu và
Điều 184 BLTTDS 2015 quy định về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết
việc dân sự. Đây là những căn cứ phát sinh trước khi Tòa án thụ lý vụ án nhưng vì thời
hiệu khởi kiện có thể được bắt đầu lại nên Tòa án vẫn thụ lý vụ án. Sau khi đương sự đã
cung cấp đầy đủ chứng cứ mà không chứng minh được là còn thời hiệu khởi kiện thì Tóa
án sẽ ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là hợp lý. Cách quy định này sẽ bảo
đảm quyền tiếp cận công lý của công dân tốt hơn.
Các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 192 của Bộ luật này mà Tòa án đã thụ lý

(điểm g khoản 1)
Đây là những căn cứ phát sinh trước khi Tòa án thụ lý vụ án nhưng vì một nguyên
nhân nào đó vụ án vẫn được Tòa án thụ lý, sau đó Tòa án mới phát hiện ra căn cứ này.
Các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm 2015 là các trường hợp trả
lại đơn khởi kiện tức là không đủ điều kiện để Tòa án thụ lý nhưng Tòa án đã thụ lý vụ án
là không đúng. Vì vậy, để khắc phục sai lầm của mình trong việc xem xét đơn khởi kiện
thì việc Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án trong trường hợp này là hợp lý.
4


Bên cạnh đó, điểm tiến bộ quan trọng của BLTTDS năm 2015 là đã dự liệu căn cứ
đình chỉ giải quyết VADS đối với vụ án có yêu cầu phản tổ của bị đơn, yêu cầu độc lập
của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Mặt khác, căn cứ đình chỉ giải quyết VADS
trong trường hợp này cũng đảm bảo tương thích với Điều 227 và 245 BLTTDS năm 2015.
- Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
Đó là các trường hợp làm căn cứ cho Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết VADS
mà trong BLTTDS chưa quy định nhưng đã được quy đinh trong các văn bản quy phạm
pháp luật khác hoặc sau khi BLTTDS có hiêu lực thi hành mới được quy đinh trong các
văn bản quy phạm pháp luật được ban hành sau đó hoặc trong các điều ước quốc tế mà
Việt Nam là thành viên.
1.2. Thẩm quyền, thủ tục đình chỉ giải quyết VADS
Theo Điều 219 BLTTDS 2015 thì trước khi mở phiên tòa xét xử sơ thẩm Thẩm phán
được phân công giải quyết VADS có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ. Tại phiên tòa sơ
thẩm, thẩm quyền quyết định đình chỉ giải quyết VADS thuộc về HĐXX sau khi đã thảo
luận thông qua tại phòng nghị án.
Quyết định tạm đình chỉ giải quyết VADS phải được lập thành văn bản. Trong thời
hạn 3 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định đình chỉ, Tòa án phải gửi quyết định đó cho
đương sự, Việc kiểm sát cùng cấp.
1.3. Hậu quả pháp lý
Khi quyết định đình chỉ giải quyết VADS có hiệu lực pháp luật thì hoạt động tố tụng

chấm dứt (Khoản 1 Điều 218). Tiền ứng tạm án phí mà đương sự nộp xác định theo quy
đinh tại khoản 2,3 Điều 218 BLTTDS 2015. Quyết định đình chỉ giải quyết VADS có thể
bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
2. Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở tòa án cấp phúc thẩm
Đình chỉ ở cấp phúc thẩm có hai trường hợp là đình chỉ giải quyết VADS ở phúc thẩm
và đình chỉ xét xử phúc thẩm.
2.1. Cơ sở pháp lý
Vấn đề đình chỉ xét xử phúc thẩm được quy định tại Điều 289 BLTTDS 2015, các căn
cứ này xuất hiện và tồn tại ở giai đoạn sơ thẩm. Đáng ra Tòa án cấp sơ thẩm phải phát
hiện ra các căn cứ đó và quyết định đình chỉ giải quyết VADS nhưng VADS vẫn được giải
quyết. Khi xét VADS theo thủ tục phúc thẩm Tòa án đã phát hiện ra các căn cứ này nên đã
đình chỉ giải quyết VADS. BLTTDS 2015 đã bổ sung quy định xác định rõ tính chất quyết
định đình chỉ xét xử phúc thẩm khác quyết định đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp
sơ thẩm nên nó có hiệu lực pháp luật ngay không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục
phúc thẩm.
5


Vấn đề đình chỉ giải quyết vụ án dân sự được quy định tại Điều 311 BLTTDS 2015,
về cơ bản điều luật này giữ nguyên quy định về quyền hủy bàn án sơ thẩm và đình chỉ
giải quyết vụ án trong BLTTDS 2004. Theo đó, HĐXX phúc thẩm hủy bản sơ thẩm và
đình chỉ giải quyết vụ án nếu trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm, vụ
án thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 217 BLTTDS. Đây là trường hợp
Tòa án cấp sơ thẩm khi giải quyết vụ án đã không phát hiện ra vụ án có một trong các căn
cứ này nên phải đình chỉ giải quyết vụ án và hủy bản án sơ thẩm. Ngoài ra, để bao quát
hết các trường hợp đình chỉ giải quyết vụ án và hủy bản án sơ thẩm thì Điều 311 BLTTDS
2015 còn quy định HĐXX phúc thẩm đình chỉ giải quyết vụ án và hủy bản án sơ thẩm khi
nguyên đơn rút đơn khởi kiện và được bị đơn đồng ý theo quy định tại điểm b khoản 1
Điều 299 BLTTDS năm 2015.
2.2. Thẩm quyền, thủ tục

Đình chỉ xét xử phúc thẩm là quyết định của Tòa án làm chấm dứt hoạt động giải
quyết VADS theo thủ tục phúc thẩm, đồng thời làm phát sinh hiệu lực pháp luật của bản
án, quyết định sơ thẩm, theo đó những quyền và nghĩa vụ trong bản án, quyết định sơ
thẩm của các đương sự phải được tôn trọng và thi hành. Tính chất của đình chỉ xét xử
phúc thẩm không làm chấm dứt các quyền và nghĩa vụ về nội dung mà chỉ chấm dứt thủ
tục tố tụng phúc thẩm. Việc ban hành quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án được
thực hiện theo nguyên tắc mọi quyết định trước khi Tòa án cấp phúc thẩm đưa quyết định
đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm, thì do Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa quyết
định, sau khi Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm do
HĐXX quyết định.
Tại cấp phúc thẩm, đình chỉ giải quyết vụ án chỉ được quy định thực hiện trong phiên
tòa. Vì vậy, thẩm quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án thuộc về HĐXX phúc
thẩm. Quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án dân sự phải lập thành
văn bản.
2.3. Hậu quả pháp lý
Với trường hợp Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án theo Điều 311 BLTTDS sau khi rút
đơn khởi kiện, nguyên đơn vẫn có quyền khởi kiện lại vụ án theo thủ tục do Bộ luật này
quy định nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn. Các đương sự phải chịu án phí sơ thẩm theo
quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và phải chịu một nửa án phí phúc thẩm theo quy định
pháp luật. Các trường hợp giải quyết vụ án trong thủ tục phúc thẩm xuất hiện có nghĩa là
bản án , quyết định sơ thẩm không có cơ sơ. Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
tại thủ tục phúc thẩm đồng nghĩa với việc hủy bản án quyết định sơ thẩm và chấm dứt tố
tụng. Khi Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải
quyết vụ án theo quy định tại Điều 311 BLTTDS thì căn cứ vào quyết định của Tòa án cấp
6


sơ thẩm về án phí trong bản án sơ thẩm bị hủy, Tòa án cấp phúc thẩm quyết định đương
sự nào phải chịu án phí và mức án phí sơ thẩm. Đối với trường hợp này các đương sự còn
phải chịu một nửa án phí phúc thẩm.

III. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật trong về đình chỉ giải quyết vụ
án dân sự trong những năm gần đây và một số kiến nghị để hoàn thiện pháp luật.
1. Thực tiễn áp dụng
Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của BLTTDS về đình chỉ giải quyết
VADS tại các Tòa án cho thấy một số những vướng măc, bất cập sau:
Về vận dụng căn cứ nguyên đơn, bị đơn chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được
thừa kế (điểm a khoản 1 Điều 217). Chằng hạn, A kiện B đòi căn nhà B đang ở, sai khi
Tòa án thụ lý vụ án B chết mà không có người thừa kế. Trong trường hợp này, nhiều Tòa
án theo vận dụng cách hiểu là nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà không có
người thừa kế tham gia tố tụng nên đã căn cứ vào điểm a Khoản 1 Điều 217 BLTTDS để
ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Việc Tòa án ra quyết định trong trường hợp nêu
trên là không đúng, bởi căn cứ “nguyên đơn, bị đơn chết mà quyền và nghĩa vụ của họ
không được thừa kế” phải được hiểu theo hướng là các quan hệ nhân thân. Theo đó, các
quyền, nghĩa vụ này là quyền, nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của đương sự đã chết đó và
không được phép chuyển giao cho người thừa kế. Do vậy, quy định này chỉ được áp dụng
trong trường hợp quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn không được thừa kế.
Về căn cứ nguyên đơn đã được triệu tập đến lầ thứ hai mà vẫn vắng mặt (điểm c
Khoản 1 Điều 217). Theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 217 thì Tòa án sẽ đình chỉ
giải quyết vụ án khi nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng
mặt. Tuy nhiên, các quy định của BLTTDS lai chưa quy định về phương án xử lý trong
trường hợp nguyên đơn vắng mặt trong vụ án có nhiều nguyên đơn, mà mỗi nguyên đơn
lại có yêu cầu độc lập với bị đơn hoặc trong vụ án có yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu
độc lập của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Nếu chỉ vì một nguyênđơn đã được
triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt mà Tòa án ra quyết định đình chỉ giải
quyết vụ án sẽ ảnh hưởng đến việc bảo vệ quyền lợi của các nguyên đơn khác và không
đảm bảo sự bình đẳng giữa các đương sự.
Về vấn đề chịu án phí sơ thẩm theo quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm trong trường
hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm
(điểm b Khoản 1 Điều 299). Những quy định hiện hành về trường hợp cụ thể này cho thấy
nhiều sự bất cập, vì bản án sơ thẩm trong trường hợp này không còn tồn tại. Nếu tuyên xử

như quy định hiện nay dẫn đến hệ lụy đương sự bị Tòa án cấp sơ thẩm xử thua kiện phải
chịu một khoản tiền án phí rất lớn. Tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn rút đơn khởi kiện,
bị đơn đồng ý, Tòa án cấp phúc thẩm hủy án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án, đối
7


tượng tranh chấp không còn nhưng đương sự vẫn phải thi hành một khoản tiền án phí rất
lớn và sự bất cập ở đây là thi hành án phí cho nội dung gì ? trong khi đó Khoản 1 Điều
147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định về nghĩa vụ chịu án phí sơ thẩm: “Đương
sự phải chịu án phí sơ thẩm nếu yêu cầu của họ không được Tòa án chấp nhận, trừ trường
hợp được miễn hoặc không phải chịu án phí sơ thẩm” và khoản 1 Điều 27 Pháp lệnh án
phí, lệ phí Tòa án quy định: “Đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu
của họ không được Tòa án chấp nhận”.
Ví dụ: Bà A khởi kiện ông B để đòi số tiền nợ 800 triệu đồng phát sinh trong quá trình
hùn hạp làm ăn, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử buộc ông B trả cho bà A số tiền nợ 800 triệu
đồng và buộc ông B phải chịu án phí sơ thẩm là 36.000.000 đồng. Ông B kháng cáo vì
cho rằng đây không phải tiền nợ mà tiền hùn hạp làm ăn, nay làm ăn thua lỗ thì đôi bên
cùng phải gánh chịu thiệt hại ông không có nghĩa vụ phải trả lại số tiền trên cho bà A. Tại
phiên tòa phúc thẩm qua động viên, hòa giải bà A rút đơn kiện được ông B đồng ý, Hội
đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ việc giải quyết vụ
án. Trong trường hợp này ông B vẫn phải chịu án phí sơ thẩm là 36.000.000 đồng và ½ án
phí phúc thẩm là 100.000 nghìn đồng. Bản án sơ thẩm đã bị hủy, vụ án phúc phẩm đã
được đình chỉ. Vụ án tạm thời được khép lại (nguyên đơn có quyền khởi kiện lại vụ án
nếu thời hiệu khởi kiện còn). Nhưng hệ quả pháp lý không dừng lại, ông B phải thi hành
án cho nội dung gì mà phải chịu án phí sơ thẩm 36.000.000 đồng ?
2. Một số kiến nghị
Thực tiễn áp dụng quy định điểm a khoản 1 Điều 217 đã gặp phải những vướng mắc
đã nêu trên. Để khắc phục thì cần bổ sung quy định hướng dẫn việc xử lý trong trường
hợp tranh chấp về tài sản nhưng nguyên đơn chết mà không có người thừa kế như sau:
Đối với vụ án tranh chấp về tài sản mà nguyên đơn chết nhưng không có người thừa kế

tài sản thì Tòa án không đình chỉ mà vẫn tiến hành giải quyết vụ án. Nếu Tòa án quyết
định tài sản thuộc sở hữu của nguyên đơn thì tài sản này sẽ thuộc về Nhà nước.
BLTTDS năm 2015 không quy định về thời hạn ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ
án dân sự khi xuất hiện căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án dân sự dẫn đến hậu quả khi áp
dụng trong thực tiễn, một số Tòa án ra chậm quyết định, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự. Vì vậy, nghị quyết hướng dẫn thi hành BLTTDS năm 2015
cần thiết phải quy định thời hạn ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dấn sự khi xuất
hiện căn cứ đình chỉ.
Quy định tại điểm b Khoản 1 Điều 299 BLTTDS vẫn có những mâu thuẫn cần được
cân nhắc giải quyết. Trên thực tế, vụ án đã được nguyên đơn rút yêu cầu khởi kiện được
bị đơn đồng ý. Tòa án cấp phúc thẩm đã ra quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải
quyết vụ án. Được hiểu bản án sơ thẩm không còn tồn tại thì không có lý do gì lại phải thi
hành án phí theo quyết định của bản án sơ thẩm. Vì vậy, quy định hiện hành nêu trên có
8


thể thay thế bằng quy định: “Tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn rút yêu cầu khởi kiện
thì phải mất toàn bộ số tiền tạm ứng án phí đã nộp” sẽ phù hợp hơn so với quy định hiện
nay.
KẾT LUẬN
Chế định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự theo là một chế định quan trọng được quy
định trong BLTTDS, các quy định của pháp luật về vấn đề đình chỉ tố tụng dân sự tại Toà
án cấp sơ thẩm, phúc thẩm là khá toàn diện. Tuy vậy nhưng các quy định vẫn còn những
điểm chưa thống nhất, chưa hợp lý và còn dàn trải khiến việc áp dụng pháp luật cũng như
tìm hiểu, nắm bắt các quy định của pháp luật gặp nhiều khó khăn. Do đó cần có những
quy định bổ sung nhằm khắc phục và hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự về vấn đề này.

9



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bình luận Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 – Chủ biên: TS Bùi Thị Huyền,
NXB Lao động, Hà Nội, 2016;
2. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng dân sự, Nxb. CAND, Hà
Nội, 2011;
3. Học viện tư pháp, Giáo trình luật tố tụng dân sự, Nxb. CAND, Hà Nội, 2007;
4. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
5. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011);
6. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
7. Luật Phá sản năm 2014;
8. Nguyễn Triều Dương, “Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự”, Tạp chí luật học,
Đặc san về BLTTDS, 2005;
9. Vương Thanh Thúy, “Một số vấn đề về thủ tục phúc thẩm dân sự”, Tạp chí luật
học, Đặc san góp ý dự thảo BLTTDS, 2004;
10. Vấn đề tạm đình chỉ và đình chỉ việc giải quyết vụ án dân sự : khoá luận tốt
nghiệp / Lê Thị Ngời ; TS. Trần Anh Tuấn hướng dẫn, Hà Nội, 2012;
11. Tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự : khoá luận tốt nghiệp /
Hoàng Thị Phương Liên ; ThS. Nguyễn Thị Thu Hà hướng dẫn, Hà Nội, 2010;
12.
13.
14.

10



×