Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam và ý nghĩa của nó đối với đời sống xã hội ở nước ta hiện nay tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (392.97 KB, 25 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ TÌNH

TRIẾT LÝ NHÂN SINH TRONG TỤC NGỮ, CA DAO VIỆT NAM
VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG XÃ HỘI Ở NƢỚC TA
HIỆN NAY
Chuyên ngành: Chủ nghĩa duy vật biện chứng & chủ nghĩa duy vật lịch sử

Mã số:

9 22 90 02

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học : GS.TS. HỒ SĨ QUÝ

HA NOI - 2018


Công trình đƣợc hoàn thành tại
Học viện Khoa học xã hội

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học : GS.TS. Hồ Sĩ Quý

Phản biện 1: GS.TS. Nguyễn Văn Huyên
Phản biện 2: GS.TS. Lê Hồng Lý
Phản biện 3: PGS.TS. Nguyễn Anh Tuấn

Luận án đƣợc bảo vệ trƣớc hội đồng chấm luận án cấp Học viện họp tại Học viện khoa học xã hội



Vào hồi ngày tháng năm

Có thể tìm hiểu luận án tại Thư viện Quốc gia và Thư viện Học viện khoa học xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tục ngữ, ca dao là một bộ phận đồng thời là chỉ báo tin cậy phản ánh sự phát
triển của đời sống tinh thần của người Việt Nam từ trong lịch sử xa xưa. Bằng nghệ
thuật ngôn từ trau chuốt, sâu sắc nhưng dung dị, mộc mạc, quen thuộc với người nông
dân, ca dao, tục ngữ, và triết lý nhân sinh chứa đựng trong đó đã thực sự là vũ khí tinh
thần sắc bén, là những chỉ dẫn thế giới quan và nhân sinh quan sáng suốt, định hướng
cho con người sống, lao động, sáng tạo và yêu thương… trong suốt chiều dài lịch sử
dân tộc. Ngày nay, triết lý nhân sinh trong ca dao tục ngữ vẫn là hành trang đắt giá của
xã hội hiện đại.
Nói đến triết lý nhân sinh ở Việt Nam, trước tiên, người ta không thể không tìm
kiếm trong văn học dân gian Việt Nam, trong kho tàng tục ngữ, ca dao Việt Nam. Dĩ
nhiên, triết học là tri thức hệ thống, bác học về thế giới quan và phương pháp luận, còn
tục ngữ, ca dao lại là tri thức dân gian (Folk Knowledge) - tri thức của sự phản ánh cái
cụ thể, cái thuộc về những kinh nghiệm, lẽ phải thông thường. Quần chúng nhân dân,
bằng kinh nghiệm và trí khôn của nhiều thế hệ là tác giả của loại hình tri thức này. Sức
mạnh của triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao là ở đó.
Như nhiều tài liệu đã khẳng định, tục ngữ, ca dao Việt Nam, trên khắp các vùng
miền, ở tất cả các lĩnh vực, đều chứa đựng trong nó hệ thống phong phú các triết lý
nhân sinh sâu sắc. Mấy nghìn năm dân tộc Việt Nam tồn tại và phát triển, cũng là mấy
nghìn năm triết lý nhân sinh luôn nối tiếp nhau xuất hiện và thực hiện chức năng định
hướng của mình trong tục ngữ, ca dao. Kinh nghiệm sống, lao động và đấu tranh, các
giá trị làm người, các bản sắc đặc trưng về lối sống và ứng xử… không ngừng được
đúc kết và cất giữ trong ca dao, tục ngữ, kể cả trong xã hội hiện đại.

Vấn đề là ở chỗ, hiện hay việc xác định hệ thống triết lý nhân sinh trong kho tàng
tục ngữ, ca dao Việt Nam trên thực tế chưa được tìm hiểu một cách hệ thống. Đại đa số
các tác giả tuy đánh giá cao giá trị của các triết lý nhân sinh, chỉ ra sự tồn tại của một số
triết lý nhân sinh cụ thể trong kho tàng tục ngữ, ca dao và phân tích nội dung của chúng,
nhưng lại chưa tiến hành hệ thống hóa, phân loại, và đánh giá ý nghĩa nhiều tầng, đa diện
của tục ngữ, ca dao đối với các xã hội ở từng giai đoạn lịch sử và trong toàn bộ đời sống
xã hội nói chung. Việc xem xét cũng chủ yếu tiến hành trong khuôn khổ những nghiên
cứu văn học, văn hóa học… hầu như rất ít được nghiên cứu từ góc độ triết học.
Đối với việc nghiên cứu từ góc độ triết học, những vấn đề cần phải giải đáp là:
Những nội dung cơ bản của triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam gồm
những gì? Làm thế nào để phân loại, xác định và nhận diện hợp lý các triết lý nhân
sinh phong phú, đa dạng trong đời sống xã hội Việt Nam ở các thời kỳ lịch sử khác
nhau? Ý nghĩa định hướng của triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao đối với đời sống
xã hội hiện nay thể hiện như thế nào? Cần phải làm gì và làm như thế nào để giữ gìn
và phát huy những nội dung của triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam vào
giáo dục con người trong bối cảnh hiện nay?
1


Nghiên cứu triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam, do vậy có ý nghĩa
không nhỏ trong việc khẳng định những giá trị quý báu của văn hóa dân tộc. Trên cơ
sở đó, việc làm rõ, đánh giá những giá trị của triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao
Việt Nam, sẽ góp phần làm tăng cường sức sống của đời sống tinh thần xã hội, củng
cố niềm tin, lý tưởng sống cho mỗi người Việt Nam hiện nay dưới tác động của toàn
cầu hóa.
Vì những lý do đó, tác giả đã chọn: “Triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt
Nam và ý nghĩa của nó đối với đời sống xã hội ở nước ta hiện nay” để làm đề tài luận
án tiến sĩ triết học này.
2.1. Mục đích
- Nghiên cứu, xác định những nội dung cơ bản của triết lý nhân sinh trong tục

ngữ, ca dao Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá giá trị và ý nghĩa của những triết lý nhân sinh đó đối với đời
sống xã hội ở nước ta hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
Phù hợp với mục đích nghiên cứu nói trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài gồm:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan và xác định khung lý thuyết để
nghiên cứu đến đề tài.
- Nghiên cứu, xác định triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam.
- Phân tích nội dung cơ bản của các loại triết lý nhân sinh chủ yếu trong kho tàng
tục ngữ, ca dao Việt Nam.
- Đánh giá ý nghĩa với những giá trị và hạn chế của triết lý nhân sinh trong tục
ngữ, ca dao Việt Nam đối với đời sống xã hội Việt Nam hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt
Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án giới hạn nghiên cứu những ca dao, tục ngữ đã được tuyển chọn trong
kho tàng tục ngữ, ca dao các tỉnh Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ. Chủ yếu là trong các tác
phẩm về tục ngữ, ca dao đã xuất bản.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
- Cơ sở lý luận của luận án là Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy
vật lịch sử: Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về con người và đời
sống con người, về tồn tại xã hội và ý thức xã hội…
Cùng với cơ sở lý luận cơ bản đó, luận án còn chú ý khai thác và sử dụng những
giá trị lý luận của các công trình nghiên cứu ngoài triết học về chủ đề đời sống con
người được phản ánh trong tục ngữ, ca dao.
2



4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp logic - lịch sử, quy nạp - diễn dịch, tổng hợp phân tích, so sánh - đối chiếu, thống kê,…
Luận án chú trọng sử dụng các tài liệu triết học và triết lý, về đời sống tinh thần
và vật chất của xã hội và con người, về văn hóa và con người. Trong chừng mực có
liên quan, luận án có sử dụng các tài liệu văn học, văn hóa học có liên quan đến chủ đề,
các báo cáo chuyên môn của các tổ chức văn hóa - xã hội của Đảng và Nhà nước, đặc
biệt các báo cáo của các Hội văn học - nghệ thuật, các trường Đại học khu vực phía
bắc… có liên quan đến đề tài.
5. Đóng góp mới của luận án
Luận án đã xác định được những nội dung cơ bản của triết lý nhân sinh trong tục
ngữ, ca dao Việt Nam. Bước đầu phân loại các loại triết lý nhân sinh theo đặc thù của
đời sống người Việt thể hiện trong kho tàng ca dao, tục ngữ Việt Nam.
Luận án đã cố gắng chỉ ra những nét độc đáo, góp phần khẳng định giá trị của
triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam.
Luận án đã phân tích làm rõ ý nghĩa của các triết lý nhân sinh trong việc xây
dựng nhân sinh quan lành mạnh của con người Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận án đã góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận như nội dung cơ bản, phân
loại, ý nghĩa định hướng… của triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam.
Luận án đã chỉ ra ý nghĩa của triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam
đối với việc xây dựng nhân sinh quan của con người hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và
giảng dạy về triết học, triết lý, chủ nghĩa duy vật lịch sử, văn học dân gian, văn hóa
học về ca dao, tục ngữ Việt Nam, đặc biệt về triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao
Việt Nam.
7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận án
được bố cục làm 4 chương với 12 tiết.
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Các công trình nghiên cứu về triết lý và triết lý nhân sinh
1.1.1. Các công trình nghiên cứu triết lý trong sự phân biệt với triết học
Công trình sớm nhất phân biệt triết học và triết lý là của Trần Đức Thảo với tên
gọi “Triết lý đã đi đến đâu”, Nxb Minh Tân, Paris, 1950; và một số bài nghiên cứu
khác của Trần Văn Giàu. Các thế hệ sau đã làm rõ hơn vấn đề qua các công trình như:
Phạm Xuân Nam (chủ biên) “Triết lý phát triển ở Việt Nam – Mấy vấn đề cốt yếu”,
3


Nxb Khoa học xã hội, 2003; Nguyễn Văn Huyên với “Triết lý phát triển – từ Mác –
Lênin đến Hồ Chí Minh”, Nxb chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000; Hồ Sĩ Quý với bài
viết “Một số suy nghĩ về triết học và triết lý” Tạp chí Triết học số 3/1998… Đây là
những tư liệu tham khảo rất bổ ích cho tác giả luận án khi phân biệt Triết học và triết

1.1.2. Các công trình nghiên cứu về con người và đời sống con người
Trong luận án, hầu hết các công trình nghiên cứu có giá trị về con người và đời
sống con người đã được tổng quan và đánh giá. Trong đó, đáng chú ý là: Phạm Minh
Hạc (chủ biên) “Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”,
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996; Nguyễn Trọng Chuẩn, Phạm Văn Đức và Hồ
Sỹ Quý (đồng chủ biên) “Tìm hiểu giá trị văn hóa truyền thống trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001. Những ấn phẩm
này đã nêu rõ những nét cơ bản về giá trị và giá trị truyền thống, về quan hệ giữa
truyền thống với sự phát triển, trong đó nhấn mạnh vị thế của văn hóa nội sinh trong
hội nhập, khai thác những yếu tố tích cực của truyền thống cho sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước; Trần Văn Giàu với “Con người Việt Nam, một số vấn đề

cần nghiên cứu” trên Tạp chí “Nghiên cứu con người”, số 2 năm 2002 là một bài báo
rất sâu sắc về giá trị con người của người Việt Nam trong lịch sử và hiện nay; Hồ Sĩ
Quý với “Con người và phát triển con người”, Giáo trình Khoa Triết học, Trường Đại
học Khoa học xã hội và nhân văn, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 2007. Nguyễn Văn
Dân với “Con người và văn hóa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập”, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội, 2011… là những công trình có ý nghĩa mà tác giả luận án đã
khai thác được nhiều gợi ý khi bàn đến các vấn đề triết lý nhân sinh.
1.2. Các công trình nghiên cứu có liên quan đến triết lý trong tục ngữ, ca
dao Việt Nam
1.2.1. Các công trình nghiên cứu về giá trị ca dao tục ngữ nói chung
Trong luận án, các các công trình nghiên cứu có giá trị được tổng quan và phân
tích là:
Nguyễn Văn Ngọc với công trình sưu tập ca dao, tục ngữ được đánh giá là công
phu nhất, có nội dung rất phong phú là bộ sách “Tục ngữ phong dao”, Nxb. Đại Nam,
xuất bản năm 2003 (xuất bản lần đầu năm 1928). Vũ Ngọc Phan với “Tục ngữ, ca dao,
dân ca Việt Nam”, Nxb. Khoa học xã hội, 2010. “Tục ngữ Việt Nam” của nhóm tác
giả Chu Xuân Diên, Lương Văn Đang, Phương Tri, Nxb. Khoa học xã hội xuất bản
1975. Nguyễn Xuân Lạc với “Văn học dân gian Việt Nam trong nhà trường”, Nxb.
Giáo dục, Hà Nội 1998. Thao Nguyễn với công trình “Ca dao Việt Nam - Viên ngọc
quý trong kho tàng văn học dân gian”, Nxb Văn hóa – thông tin, Hà Nội, 2005. Vũ Thị
Thu Hương với “Ca dao Việt Nam - Những lời bình” Nxb. Văn hóa – thông tin, Hà
Nội, 2000.
Trong những công trình này, các tác giả đã dày công sưu tập ca dao, tục ngữ các
vùng miền, tiến hành hệ thống hóa và phân loại các loại hình ca dao tục ngữ. Một số
4


công trình đã phân tích sâu nội dung và giá trị của các loại hình ca dao tục ngữ điển
hình.
Những công trình này chủ yếu bàn luận vấn đề trên phương diện văn học. Tuy

vậy, đó cũng là những gợi ý để luận án tìm hiểu vấn đề triết lý và triết học trong tục
ngữ ca dao Việt Nam.
1.2.3. Các công trình nghiên cứu về triết lý và triết lý nhân sinh trong ca dao,
tục ngữ Việt Nam
Nguyễn Nghĩa Dân với “Đạo làm người trong tục ngữ ca dao Việt Nam” Nxb.
Thanh niên, Hà Nội, 2000, bàn đến khía cạnh triết học của tục ngữ, ca dao. Không
nhiều tác phẩm trực tiếp bàn đến khía cạnh triết lý của vấn đề: Lê Huy Thực với bài
“Tiêu chí kiểm định đạo đức trong tục ngữ, thơ ca dân gian Việt Nam”, tạp chí Triết
học số 9/2005; Vũ Hùng với “Tìm hiểu những yếu tố triết học (hay triết lý dân gian)
trong tục ngữ Việt Nam”, Tạp chí Triết học số 1/2007. Song Phan với “Cảm nhận triết
lý tục ngữ, ca dao” đăng trên báo Người Hà Nội, ngày 27/10/2005; và công trình khoa
học cấp Bộ của Bùi Văn Dũng (Đại học Vinh) “Tìm hiểu tư tưởng triết học về con
người trong thành ngữ, tục ngữ Việt Nam”. Đề tài khoa học trọng điểm, bảo vệ
2009…
Đây là ít ỏi các công trình trực tiếp bàn đến triết lý và triết lý nhân sinh trong ca
dao, tục ngữ Việt Nam. Tuy nhiên vì không phải là mục đích chính của sự nghiên cứu
nên những công trình này cũng mới chỉ là những phác thảo rất sơ lược về yếu tố triết
học hay triết lý trong ca dao, tục ngữ Việt Nam.
1.3. Những kết quả đƣợc kế thừa từ các công trình đã công bố và những vấn
đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu
Thứ nhất, trong quan hệ với đề tài luận án, những tác phẩm nói trên, đều là
những công trình có giá trị về mặt lý luận cũng như thực tiễn về ca dao tục ngữ, về đạo
đức, về giáo dục đạo đức, truyền thống, giá trị truyền thống, giáo dục đạo đức truyền
thống cho con người Việt Nam nói chung và cho thế hệ trẻ hiện nay nói riêng.
Thứ hai, những công trình đó có giá trị không nhỏ đối với luận án này, dẫu vậy,
vẫn còn ít nhiều mang tính chất chung chung; một số có đi vào những lĩnh vực cụ thể
thì lại không đề cập đến triết lý nhân sinh. Do vậy, ở đề tài này, tác giả luận án được
kế thừa chủ yếu là những phác thảo chung, những gợi ý… Việc đi sâu phân tích triết lý
nhân sinh trong ca dao, tục ngữ và nêu lên ý nghĩa của những triết lý ấy đối với đạo
đức, lối sống… trong đời sống xã hội ở nước ta hiện nay, vẫn căn bản là còn lĩnh vực

trống, đòi hỏi phải khám phá nhiều hơn và sâu hơn.
Thứ ba, các công trình nghiên cứu về văn hóa dân gian nói chung, tục ngữ ca dao
nói riêng cũng đã có những thành tựu đáng kể trong việc phân loại tục ngữ ca dao. Nhưng
thực sự lại chưa có một công trình nào nghiên cứu và phân loại các nội dung cơ bản của
triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam. Ý nghĩa của nó về phương diện triết lý,
do vậy, cũng rất mờ nhạt trong các công trình. Các công trình đi trước không đặt ra cho
mình việc xác định và hệ thống hóa các triết lý nhân sinh trong ca dao tục ngữ.
5


Những công trình nghiên cứu của các các giả đi trước đã giúp tác giả luận án
những gợi ý quan trọng và có ý nghĩa về cơ sở văn hóa - xã hội của loại hình tục ngữ
ca dao, tính kinh nghiệm, địa phương của những khái quát của loại hình tri thức này,
đời sống con người với những định hướng kinh nghiệm mà từ đó có thể khái thác
những chỉ dẫn về thế giới quan và nhân sinh quan. Tuy nhiên những gọi ý như vậy rất
tản mạn, mờ nhạt và khá xa triết học.
Những thiếu hụt vừa nêu cũng chính là nhiệm vụ mà luận án đặt ra cho mình để
nghiên cứu, bổ sung, làm rõ.
Kết luận chƣơng 1
Nghiên cứu ca dao, tục ngữ Việt Nam là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu,
nhiều tác giả quan tâm. Hàng loạt các nghiên cứu về các nội dung chi tiết của ca dao
tục ngữ đã được các thế hệ nối tiếp nhau công bố. Có khá nhiều các tác phẩm nghiên
cứu về tục ngữ, ca dao đã đạt tới trình độ những công trình có giá trị, nhiều công trình
ở dạng quy mô lớn. Tuy nhiên, do mục tiêu, nhiệm vụ của các công trình cụ thể chưa
đặt ra hoặc ít bàn đến các vấn đề về triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam,
nên cho đến nay, nội dung này vẫn là chủ đề chưa được khám phá ở mức cần thiết.
Chƣơng 2
TRIẾT LÝ NHÂN SINH TRONG TỤC NGỮ CA DAO VIỆT NAM:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
2.1. Quan niệm về triết lý nhân sinh

2.1.1. Triết học và triết lý: phân biệt triết lý với triết học
2.1.1.1. Triết học
Có nhiều quan niệm khác nhau về triết học. Tựu trung, các định nghĩa hợp lý về
triết học đều thể hiện rằng, triết học nghiên cứu toàn bộ vũ trụ và con người (hay thế
giới, con người, xã hội và tư duy) trong hệ thống chỉnh thể toàn vẹn vốn có của nó và
của tư duy triết học. Triết học giải thích tất cả các quan hệ trong và ngoài chỉnh thể đó
bằng các nguyên nhân tất yếu, chỉ ra những quy luật phổ biến nhất chi phối, quy định
sự vận động của các sự vật và hiện tượng trong vũ trụ, trong xã hội loài người, trong
con người và trong tư duy. Những tri thức đó được triết học khái quát thành các chỉ
dẫn có tính hệ thống về thế giới quan và nhân sinh quan.
2.1.1.2. Triết lý
Ở nước ta có nhiều quan niệm khác nhau về triết lý, các quan niệm đó có những
điểm thống nhất là:
Thứ nhất, triết lý khác triết học. Triết học nghiên cứu những vấn đề chung nhất,
phổ biến nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Triết lý
không nghiên cứu những vấn đề chung nhất của thế giới như triết học, mà chỉ đề cập
tới từng mặt, từng lĩnh vực hẹp của đời sống xã hội, chủ yếu là vấn đề nhân sinh.
Thứ hai, từ những nguyên lý triết học cụ thể nhất định, người ta có thể rút ra
những triết lý về phương diện nào đó của cuộc sống.

6


Thứ ba, triết lý chủ yếu hướng con người về những vấn đề nhân sinh, có ý nghĩa
làm phương châm cho đối nhân, xử thế, cho hành vi của con người trong đời sống
hàng ngày.
Thứ tư, triết lý có thể được nảy sinh trên cơ sở hoạt động thực tiễn của con người.
Nghĩa là từ hoạt động thực tiễn hàng ngày, con người có thể rút ra những triết lý sống,
triết lý hành động cho bản thân và cộng đồng.
Thứ năm, có nhiều loại triết lý khác nhau, như triết lý phát triển, triết lý nhân sinh,

triết lý kinh doanh,.v.v..
2.1.1.3. Phân biệt triết học với triết lý
Luận án chỉ ra mối liên hệ giữa triết học và triết lý như sau:
- Triết học là một hệ thống tri thức, có thể là một bộ môn khoa học (có thời kỳ
còn được xem là khoa học của mọi khoa học), triết lý không phải là hệ thống chặt chẽ,
hay bộ môn khoa học. Như vậy, triết lý hẹp hơn triết học.
- Từ triết học người ta có thể rút ra những triết lý, cách ứng xử, phương châm
sống và hành động của những cá nhân và cộng đồng nào đó. Từ triết lý, chưa thấy hệ
thống lý luận triết học nào được xây dựng.
- Trong đời sống tinh thần xã hội, có hiện tượng là khi chưa có một nền triết học
thành văn hoàn chỉnh, nhưng đã có triết lý. Như vậy, triết lý có thể có trước triết học.
- Triết lý có thể được rút ra từ triết học. Nhưng phần lớn triết lý nảy sinh từ đời
sống thường ngày, từ ý nghĩa trong một số áng văn thơ, công trình kiến trúc, điêu khắc,
hội hoạ; từ một số lễ hội, y học, võ thuật, truyền thuyết, cổ tích, thần thoại,… Triết lý
còn được thể hiện qua những hành động, đó chính là triết lý hành động. Lại có cả triết
lý im lặng, triết lý vô ngôn của nhà Phật.
2.1.2. Nhân sinh, nhân sinh quan và triết lý nhân sinh
2.1.2.1. Quan niệm về nhân sinh

Nhân sinh (với tính cách là khái niệm dùng để chỉ một lĩnh vực thuộc đối tượng
của nhận thức được phản ánh ở các trình độ khác nhau - từ ý thức thông thường, triết
lý dân gian đến tôn giáo, tư tưởng triết học hay triết học…) là quan niệm về giá trị của
đời sống con người, về ý nghĩa của cuộc đời, về mục đích của cuộc sống, về giá trị làm
người của mỗi cá nhân, về giá trị xã hội của mỗi con người, về vị thế của con người
trong xã hội và trong thế giới…
2.1.2.2. Nhân sinh quan
Nói đến nhân sinh quan là nói tới quan điểm, quan niệm sống với hệ thống giá
trị cá nhân và xã hội định hướng hành vi và hoạt động của con người. Quan điểm sống,
quan niệm sống và hệ giá trị (nhân sinh quan) quy định cách sống, lối sống và hành vi
và phẩm chất của hành vi, quy định việc xác định ý nghĩa của cuộc sống và ý nghĩa

của sự làm người...
2.1.2.3. Khái niệm triết lý nhân sinh.
Triết lý nhân sinh là những chiêm nghiệm, chỉ dẫn, khái quát ở tầm thế giới
quan và nhân sinh quan về giá trị của đời sống con người – con người trong hoạt động
7


thường ngày, trong đời sống xã hội, trong quan hệ với tự nhiên và với vũ trụ. Triết lý
nhân sinh trong mọi loại hình tri thức thường được biểu hiện trước hết dưới dạng các
quan niệm và thái độ sống, cách sống và cách ứng xử của con người đối với thế giới
xung quanh. Triết lý nhân sinh được hình thành trước hết từ những kinh nghiệm sống
kết hợp với các tri thức văn hóa – xã hội được tiếp nhận từ bên ngoài, kể cả từ triết học
hay tôn giáo.
Hình thức phổ biến của triết lý nhân sinh là những chiêm nghiệm thường ngày
của mỗi cá nhân về mục đích, ý nghĩa, giá trị của cuộc sống.
Hầu hết các triết lý nhân sinh đều hướng con người tới một cuộc sống tốt đẹp
hơn, một xã hội tiến bộ hơn không chỉ cho mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng mà còn cho cả
nhân loại.
2.2. Triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam: cơ sở hình thành và
đặc điểm
2.2.1. Quan niệm về tục ngữ và ca dao: một số vấn đề lý luận
2.2.1.1. Quan niệm về tục ngữ
Tục ngữ là sự đúc kết kinh nghiệm dân gian dưới dạng quy tắc, nguyên tắc, quy
luật về mọi mặt của đời sống con người. Với hình thức ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, có
nhịp điệu, có hình ảnh nên thể loại văn học dân gian này có sức mạnh đặc biệt.
Tục ngữ phản ánh những điều kiện và phương thức lao động của người dân,
những kinh nghiệm sống và lao động, sáng tạo, phản ánh những đặc điểm của đời sống
dân tộc. Những kinh nghiệm được nảy sinh trong quá trình đấu tranh, cải tạo và chinh
phục thiên nhiên được đúc kết trong tục ngữ, trở thành những chỉ dẫn thế giới quan và
nhân sinh quan, định hướng cho cuộc sống của nhiều thế hệ.

2.2.1.2. Phân biệt tục ngữ và thành ngữ.
Tục ngữ thường là là một mệnh đề hoàn chỉnh, diễn đạt trọn vẹn một ý; còn
thành ngữ chỉ là một cụm từ, một bộ phận của mệnh đề, diễn đạt một quy tắc, một
quan hệ tất nhiên, một định hướng nhận thức và hành động. Tục ngữ thiên về đúc rút
kinh nghiệm sống. Thành ngữ lại nặng về khái quát, ẩn dụ bằng nghệ thuật tu từ để
định hướng con người. Thành ngữ và tục ngữ được dùng trong lời ăn tiếng nói hằng
ngày của nhân dân. Không dễ phân biệt thành ngữ với tục ngữ. Hầu hết thành ngữ và
tục ngữ đều do nhân dân sáng tác, tuy nhiên cũng có một số ít câu rút ra từ các thi
phẩm nổi tiếng, hoặc từ ca dao, dân ca.
2.2.1.3. Quan niệm về ca dao
Ca dao là những câu thơ có thể hát thành những làn điệu. Đôi khi là lời những
đoạn dân ca đã thoát ra khỏi đời sống âm nhạc của nó. Ca dao để lại dấu ấn rõ rệt nhất
trong văn học và trong đời sống. Phần lớn nội dung ca dao thể hiện tình yêu - tình yêu
nam nữ, yêu gia đình, yêu quê hương đất nước và diễn tả các mối quan hệ trong đời
sống xã hội...
2.2.1.4. Phân biệt ca dao với dân ca
Ca dao vốn là một thuật ngữ Hán – Việt. Thời trước người ta còn gọi ca dao là
8


phong dao vì có những bài ca dao phản ánh phong tục của mỗi địa phương, mỗi thời
đại. Tuy nhiên, theo chúng tôi ca dao có từ hai đến tám chữ đều có thể ngâm được
nguyên câu. Còn dùng một bài ca dao để hát thì nó sẽ biến thành dân ca, vì hát yêu cầu
phải có khúc điệu và như vậy phải có thêm tiếng đệm. Tác giả Vũ ngọc Phan lấy ví dụ:
Một đàn cò trắng (thời) tung bay
Bên nam (thời) bên nữ ta cùng hát lên1
Vậy thì ca dao là một loại thơ dân gian có thể được ngâm như các loại thơ khác
và có thể xây dựng thành các làn điệu dân ca.
Còn dân ca là câu hát đã thành khúc điệu. Dân ca là những câu hát có nhạc điệu
nhất định, nó ngả về nhạc điệu ở mặt hình thức, nên ca hát người ta cung gọi là thanh

nhạc, nó là nhạc do ngừi ta đưa ra thành tiếng ở cổ họng” cũng như những tiếng thoát
ra ở các nhạc cụ gọi là khí nhạc.
2.2.2. Cơ sở hình thành triết lý nhân sinh trong tục ngữ ca dao Việt Nam
2.2.2.1. Khu vực Bắc Bộ
Đồng bằng Bắc Bộ hiện nay là một vùng chiếm vị trí quan trọng trong sự phát
triển cả về kinh tế, văn hóa và quân sự của Việt Nam. Sau hàng triệu năm hình thành
và hàng nghìn năm khám phá cuả người Việt, vùng đồng bằng Bắc Bộ được kiến tạo
dần dần hình thành cho đến ngày nay. Cư dân đồng bằng Bắc Bộ là cư dân sống bằng
nghề lúa nước, làm nông nghiệp một cách thuần túy, nhưng các nghề thủ công nghiệp,
chạy chợ cũng đóng vai trò kinh tế quan trọng. Sự gắn bó giữa con người với con
người trong cộng đồng làng quê không chỉ là quan hệ sở hữu trên đất làng, đình làng,
chùa làng... những nơi diễn ra sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng chung mà còn là sự gắn
bó về chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực xã hội.
2.2.2.2. Khu vực Bắc Trung bộ
Cộng đồng cư dân Bắc Trung Bộ có những nét văn hóa riêng, mang đặc thù vùng.
Trong lịch sử dân tộc, những giá trị Bắc Trung Bộ có ý nghĩa to lớn. Điều đó được
phản ánh trong tục ngữ ca dao, đặc biệt trong các triết lý dân gian.
2.2.3. Đặc điểm và vai trò của triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam
2.2.3.1. Đặc điểm của triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam
Thứ nhất, ca dao tục ngữ chính là những sáng tạo của người dân, một loại hình
nghệ thuật mang tính tập thể mà tác giả là những người lao động. Triết lý nhân sinh
trong ca dao, tục ngữ, do vậy đa dạng, phong phú, phản ánh hầu hết các mặt của đời
sống xã hội.
Thứ hai, ca dao tục ngữ là một loại hình nghệ thuật vừa sâu sắc vừa dân dã. Triết
lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ, do vậy có sức thu hút và thích hợp với mọi tầng lớp
nhân dân.
Thứ ba, ca dao tục ngữ là một loại hình nghệ thuật mang tính truyền miệng. Triết
lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ, do vậy lưu truyền rộng rãi, xuyên thời gian và
không gian.
1


Vũ Ngọc Phan (2010), Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam, Nxb. Thời đại. Hà Nội, tr.43

9


2.2.3.2. Vai trò của triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao đối với đời sống con
người
Trong đời sống hàng ngày của người dân, những kinh nghiệm trong lao động sản
xuất, những tri thức đúc kết từ văn hóa bên ngoài, được sử dụng trong những tình
huống sống - đơn giản và phức tạp, gay cấn và bình thường… được thể hiện qua tục
ngữ, ca dao, được cô đọng trong các triết lý lại là vũ khí tinh thần sắc bén, là kim chỉ
nam định hướng hoạt động, là ngọn lửa hy vọng dẫn dắt các thế hệ người. Chính
những triết lý này đã đồng hóa nhiều tư tưởng ngoại lai, là cơ sở tiếp thu có chọn lọc
các giá trị văn hóa – văn minh bên ngoài, biến thành thế giới quan, nhân sinh quan chỉ
đạo, định hướng cuộc sống và phương thức ứng xử của người dân lao động.
Không hệ thống đến mức trở thành học thuyết, nhưng triết lý nhân sinh trong tục
ngữ ca dao lại có sức sống mãnh liệt trường tồn cùng với dân tộc. Ngày nay, những
quan niệm, tư tưởng đó không hề cản trở chúng ta trong hội nhâp, trái lại lại là cơ sở,
điều kiện, là hành tranh giúp chúng ta hội nhập và hội nhập thành công với các nền
văn hoá khác.
Kết luận chƣơng 2
Tục ngữ, ca dao là một hình thức của nghệ thuật ngôn từ tồn tại bằng phương
thức truyền miệng. Nó từ tồn tại xã hội mà ra, phản ánh tồn tại xã hội, dẫn dắt con
người sống, sáng tạo trong tồn tại xã hội.
Tri thức của tục ngữ, ca dao là tri thức dân gian được rút ra trên cơ sở quan sát và
miêu tả cái cụ thể, đó là những tri thức kinh nghiệm, những “lẽ phải thông thường”.
Tục ngữ, ca dao là một trong những thể loại của Văn học dân gian nên tác giả là tập
thể, là quần chúng nhân dân. Tục ngữ, ca dao Việt Nam chứa đựng trong nó triết lý
nhân sinh, thứ triết lý có sức mạnh đặc biệt trong việc phát hiện ra bản chất và tính quy

luật của các sự vật và hiện tượng tự nhiên, xã hội và đời sống con người.
Chƣơng 3
NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TRIẾT LÝ NHÂN SINH
TRONG TỤC NGỮ, CA DAO VIỆT NAM
3.1. Triết lý về nguồn gốc, bản chất, về vị thế con ngƣời
3.1.1. Triết lý về nguồn gốc của con người
Từ xa xưa, khi trình độ tư duy khái quát của con người chưa cao, khả năng nhìn
nhận vấn đề chưa bao quát, vậy mà người Việt đã có sự nhìn nhận, đánh giá rất sâu
sắc về con người. Người ta là hoa đất 2 là tư tưởng thể hiện một triết lý sâu sắc - Con
người không phải là thực thể tách khỏi hoàn toàn giới tự nhiên mà bản thân con người
là một phần của giới tự nhiên, là một thực thể phát triển cao của tự nhiên, luôn gắn kết
với tự nhiên. Quan niệm người ta sinh ra từ đất rất gần gũi với quan niệm của các nhà
triết học Hylạp cổ đại, khi họ cho thế giới, con người do nước, lửa, không khí hay
Apeirôn sinh ra. Cũng có thể thấy điểm giống nhau giữa triết lý dân gian Việt Nam với

2

Nguyễn Lân (2003): Từ điển Thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội, tr.403

10


các quan điểm triết học phương Đông. Nhưng ở đây, dĩ nhiên không có căn cứ để nói
quan niệm nào bị ảnh hưởng, chi phối.
Chúng tôi quan tâm đến sự gần gũi, bắt gặp của tư tưởng, quan niệm của ông cha
ta với quan niệm của triết học nhân loại cùng thời. Và quan niệm của người Việt xưa
đã rất gần, đã đạt được tầm mà tri thức nhân loại thời bấy giờ đạt được.
3.1.2. Triết lý về bản chất con người
Tục ngữ, ca dao Việt Nam khi xem xét nguồn gốc và bản chất con người có thể
có sự giao thoa tư tưởng ở chỗ cho rằng, bản chất con người là sự kết hợp giữa tư chất

sẵn có với sự giáo dục; nhưng bên cạnh đó triết lý dân gian cũng lại chú trọng đến tư
chất di truyền. Nhiều câu tục ngữ khẳng định bản tính con người do thiên định – tiền
định.
Hơn thế nữa, người Việt đã thấy được tính di truyền đó không phải là yếu tố duy
nhất làm nên bản tính con nguời. Yếu tố giáo dục cũng đã được khẳng định. Con
người sinh ra trong môi trường tốt, nhận được sự giáo dục ngay từ nhỏ thì nhân cách
của con người sẽ phát triẻn tốt. Mối quan hệ đầu tiên mà con người tiếp xúc đó là quan
hệ gia đình, mà từ đó, nhân cách sẽ dần dần hình thành và phát triển. Truyền thống gia
đình được lĩnh hội qua cách giáo dục của cha mẹ:
- Cha hiền con thảo3
- Phúc đức tại mẫu4
3.2. Triết lý về quan hệ con ngƣời với tự nhiên
Trong quá trình sống của mình, con người trước hết phải dựa vào tự nhiên, phải
thừa huởng từ tự nhiên, luôn cố gắng tìm cho mình cái ăn, cái mặc, chỗ ở, và luôn luôn
đấu tranh với tự nhiên để vươn lên với mức sống cao hơn. Với phương thức canh tác
chủ yếu là trồng trọt, người Việt hiểu được rằng đất đai là vô cùng quan trọng. Cũng
giống như quan niệm của nhiều dân tộc khác, ở buổi đầu của nhân loại, người Việt
cũng thần thánh hóa tự nhiên. Mỗi lĩnh vực của tự nhiên đều được gán cho các vị thần,
đều được khoác cho các sức mạnh siêu nhiên. Trong tín ngưỡng dân gian người Việt
có thần Sông, thần Núi, thần Mưa, thần Biển… Hiểu được giá trị của tự nhiên, người
Việt biết quý trọng tự nhiên. Đối với người Việt, rừng là vàng, biển là bạc;
- Tấc đất tấc vàng5
- Ai ơi đừng bỏ ruộng hoang
Bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu6
Người Việt coi trọng tự nhiên, thấy được tầm quan trọng của tự nhiên, nhưng
không quá sợ hãi tự nhiên, không khuất phục tự nhiên. Trời có lúc là một lực lượng
đầy quyền năng, đầy sức mạnh, khiến cho con người phải “trông trời, trông đất, trông
mây”. Hữu sự, người Việt xưa (và cả nay) đều “lạy trời”. Thậm chí là thần thánh hóa
3
4


5
6

Nguyễn Lân (2003): Từ điển Thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội, tr.86
Nguyễn Lân (2003): Từ điển Thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội, tr..458
Nguyễn Lân (2003): Từ điển Thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội, tr.508
Nhóm tri thức Việt (2012), Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam. Nxb.văn hóa, Hà Nội, tr.74

11


trời: “Trời ơi” là khẩu ngữ cảm thán hàng đâu khi bất trắc. Con người tin rằng không
được làm điều gì trái với đạo trời, để “trời đánh”, “trời đày”, …
Nhận thức được là một phần của giới tự nhiên, người Việt xem hết sức coi trọng
tìm hiểu tự nhiên. Tìm hiểu để có hiểu biết, để nhận thức đúng, để nắm được quy luật
vận động của tự nhiên, từ đó có điều chỉnh các hoạt động sản xuất, hoạt động sống của
mình sao cho phù hợp với cái quy luật của tự nhiên để tồn tại và phát triển. Suốt quá
trình dựng nước lâu đời, người Việt luôn phải đấu tranh với thiên tai, trong đó hiện
tượng bão, lũ là các thiên tai đe dọa thường xuyên, năm nào cũng có.
3.3. Triết lý về quan hệ con ngƣời với con ngƣời
3.3.1. Triết lý về sự làm người
Người Việt Nam vốn ưa hoà đồng, muốn sống thiện với tất cả mọi người. Cách
ứng xử mang tính mềm dẻo là minh chứng qho thái độ sống đó. Người Việt tin rằng
chín bỏ làm mười7 , biết tha thứ… là điều tốt. Thái độ thiếu kiềm chế chắc chắn là điều
không hay, nên tránh - giận mất khôn, lo mất ngon8. Quan niệm “giận mất khôn”,
“giận người dưng thêm phiền” đã thể hiện một tư duy đúng đắn, nhận thức một cách
hợp lý về ứng xử trong mối quan hệ giữa người với người của cộng đồng Việt Nam.
Quan niệm này còn có ý nghĩa nhất định trong bối cảnh hội nhập quốc tế để đạt được
sự hòa hợp, hợp tác. Quan niệm này thể hiện một sự hiểu biết sâu sắc về quy luật của

đời sống cộng đồng trên thế giới.
Tuy có nhiều điểm chung, nhưng các sự vật hiện tượng trong thế giới, bên cạnh
cái chung còn có cái đơn nhất. Cái đơn nhất tồn tại khách quan gắn liền với sự vật hiện
tượng và nó ít nhiều làm nên sự khác biệt, sự phong phú của thế giới. Và chúng ta phải
chấp nhận sự khác biệt đó, tôn trọng những giá trị khác biệt. Đây chính là nguyên tắc
của các mối quan hệ quốc gia.
Trong ca dao của người dân tộc Tày cũng có những câu rất sâu sắc khi nói về đối
nhân xử thế của con người. Bản chất người dân tộc Tày sống ngay thẳng và thật thà.
Chính vì vậy, người Tày không thích những lời nói và cách sống giả dối, hai lòng.
Giáo dục con cháu phải sống chân chính, họ dạy con cháu rằng: Dú chính bấu lao
ngày páy, cần đây bấu lao phít xá (Đứng thẳng không sợ lệch bóng/Người tốt không
sợ sai lầm) hay câu: Dú đây kin bấu lẹo, cột quẹo kin bấu đo (Ở ngay ăn không hết,
cong queo ăn không đủ).
Tục ngữ, ca dao có những lối giáo dục chân thực, hóm hỉnh tạo nên đời sống vật
chất và tinh thần phong phú. Trong đời sống hàng ngày, câu ca dao, tục ngữ vẫn được
ông bà, cha mẹ truyền tụng khuyên răn con cháu. Loại hình văn hóa truyền miệng này
như một nguồn nhựa sống để nuôi dưỡng tâm hồn cho thế hệ hôm nay và mai sau.
3.3.2. Triết lý đối nhân xử thế
7
7

Nguyễn Lân (2003): Từ điển Thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội, tr.106
Nguyễn Lân (2003): Từ điển Thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội, tr.237

12


3.3.2.1. Triết lý về công lao sinh thành của cha mẹ
Vấn đề ân nghĩa, về công lao của cha mẹ với con cái, về tình cảm của con cái đối
với cha mẹ đã được nhiều tác giả văn học dân gian nói đến tạo thành những triết lý đạo

đức làm xúc động người đọc. Nghiên cứu ca dao, tục ngữ Việt Nam chúng ta thấy có
rất nhiều những tác phẩm khẳng định một cách khái quát về công lao to lớn của cha
mẹ đối với con cái. Chẳng hạn:
- Ơn cha ba năm lai láng
Nghĩa mẹ chín tháng cưu mang 9
- Lên non mới biết non cao
Nuôi con mới biết công lao mẫu từ 10
Thấu hiểu công lao trời biển của cha mẹ, những người con luôn ghi lòng tạc dạ
và thể hiện lòng biết ơn, thương nhớ và khắc sâu công đức cha mẹ. Những câu ca dao,
tục ngữ ấy có sức cảm hóa, làm xúc động tác giả rất mạnh chính là vì trong đó chứa
đựng những tư tưởng mang tính triết lý sâu sắc. Hay:
- Chiều chiều chim vịt kêu chiều
Bâng khuâng nhớ mẹ chín chiều ruột đau 11
- Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương 12
3.3.2.2. Triết lý về vai trò của người thầy
Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống tôn sư trọng đạo. Trong bất kỳ thời đại
nào, người thầy cũng được cả xã hội coi trọng, tôn vinh. Trong kho tàng tục ngữ, ca
dao Việt Nam có rất nhiều câu mang tính triết lý, khẳng định vị trí, vai trò quan trọng
của người thầy. Người Việt ai cũng biết đến những câu tục ngữ:
- Không thầy đố mày làm nên 13
- Có thờ thầy mới làm được thầy14
Sự quý mến, trân trọng, tôn vinh những người thầy của dân tộc Việt Nam có lẽ là
một trong những nét đặc thù phản ánh quan điểm cộng đồng tin tưởng ở giáo dục.
3.3.2.3. Triết lý về tình nghĩa vợ chồng
Đốn cây ai nỡ đứt chồi
Đạo chồng nghĩa vợ giận rồi lại thương15
Câu ca dao có tính triết lý sâu sắc về tình cảm vợ chồng của cha ông ta thời xưa,
khẳng định quan hệ vợ chồng chân chính và đúng với nghĩa của người dân Việt Nam,
dù có trải qua hờn dỗi, thăng trầm thì yếu tố chủ đạo vẫn là tình yêu thương sâu sắc.

Phải có một tình cảm sâu đậm như vậy thì các cặp vợ chồng mới cùng nhau chia sẻ
9

Nguyễn Lân (2003): Từ điển Thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội, tr.450
Nguyễn Lân (2003): Từ điển Thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội, tr.312
11
Nguyễn Lân (2003): Từ điển Thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội, tr.104
12
Nguyễn Lân (2003): Từ điển Thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội, tr.392
10

13

Nhóm tri thức Việt (2012), Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam. Nxb.văn hóa, Hà Nội, tr.41

Vũ Dung - Vũ Thuý Anh- Vũ Quang Hào (2000), Từ điển Thành ngữ và Tục Ngữ Việt Nam, Nxb. Văn Hoá, Hà Nội,
tr.322
15
Nhóm tri thức Việt (2012), Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam. Nxb.văn hóa, Hà Nội, tr.171
14

13


gian khổ, vất vả và tìm thấy niềm vui trong lao động, trong cuộc sống hàng ngày. Ai
đó trong quan hệ vợ chồng mà không có tình yêu thương chân thành, sâu nặng thì đấy
chính là hiện thân của bất hạnh, bi kịch.
Trong ca dao, tục ngữ Việt Nam, tình cảm vợ chồng được thể hiện trên 3 nội
dung lớn: Tình cảm người vợ dành cho người chồng, tình cảm người chồng dành cho
vợ và sự đồng cam cộng khỏ trong đời sống vợ chồng.

3.3.2.4. Triết lý về tình cảm anh chị em
Khi bàn luận đến tình cảm của những người anh em ruột thịt, tác giả ca dao, tục
ngữ đã làm nên những triết lý đạo đức rất sâu sắc. Qua sự mô tả, phản ánh của các tác
giả dân gian chúng ta đều thấy rõ tình yêu thương, cưu mang, đùm bọc nhau. Tình cảm
đạo đức ấy được biểu hiện một cách cụ thể, sinh động, chứ không phải là chỉ tồn tại ở
dạng trừu tượng hoặc diễn đạt bằng những lời khẳng định suông.
Anh em như thể chân tay
Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần16
Đã diễn tả tình yêu thương giữa anh chị em với nhau biểu hiện bằng hành động
và công việc cụ thể: người này vận hạn được người kia giúp đỡ.
3.3.2.5. Triết lý về tình nghĩa bạn bè
Con người ta sống trong xã hội với phức hợp mối quan hệ. Theo triết lý của các
tác giả dân gian thì quan hệ bạn bè là một trong số đó và mang tính tất yếu không thể
thiếu được, nó được ví như: Ngựa chạy có bầy, chim bay có bạn. Con người sống
trong xã hội không thể không có quan hệ bằng hữu bởi trong nhiều công việc và trong
hoạt động xã hội mỗi cá nhân cần có sự hỗ trợ, hợp tác của bạn bè. Quan hệ hợp tác
bạn bè có ý nghĩa quan trọng và đem lại hiệu quả tích cực như vậy trong hoạt động của
con người, vì thế nhiều tác giả ca dao Việt Nam đã diễn đạt triết lý mang tính giáo dục
về đạo đức bạn bè:
- Bạn bè là nghĩa tương tri
Sao cho sau trước một bề mới nên17
3.4. Triết lý về đạo đức, nhân cách và ý nghĩa cuộc sống
3.4.1. Triết lý về đạo đức, nhân cách
Trong tục ngữ ca dao Việt Nam, triết lý về đạo đức, nhân cách được xuất hiện
với tần suất khá nhiều và thái độ tích cực thể hiện rất rõ.
Về vai trò của các giá trị tinh thần, tục ngữ ca dao răn dạy, con người ham sống
nhưng không nên sống bằng mọi giá. Cuộc sống thì phải có vật chất, nhưng cuộc sống
cần có cả những cái cao hơn vật chất, đó là tinh thần, là tình thương và danh dự
- Có xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con18

Trong mối quan hệ giữa con người với xã hội, người Việt còn thể hiện một tấm
lòng tương thân tương ái, tất cả vì tập thể. Quan điểm duy vật cho rằng mọi sự vật hiện
16

Nguyễn Lân (2003): Từ điển Thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội, tr.13
Nhóm tri thức Việt (2012), Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam. Nxb.văn hóa, Hà Nội, tr.85
18
Nhóm tri thức Việt (2012), Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam. Nxb.văn hóa, Hà Nội, tr.135
17

14


tượng đều tồn tại khách quan, độc lập và không hề phụ thuộc vào ý muốn chủ quan
của bất cứ con người nào. Do vậy, qua thành ngữ, tục ngữ phần nào thể hiện được lý
tưởng, quan niệm sống của người Việt. Trong điều kiện khó khăn, con người luôn gắn
bó giúp đỡ lẫn nhau: “Chị ngã” thì “em nâng”, chăm lo cho người khác trong điều kiện
có thể. Giúp đỡ người khác là điều kiện để mỗi cá nhân khác có thể cùng tồn tại. Tư
tưởng tương thân, tương ái không chỉ dừng lại ở mối quan hệ trong gia đình, nội tộc
mà đã phát triển nên thành tình thương yêu trong toàn dân tộc. Đó là một dân tộc
thương yêu giúp đỡ nhau, thúc đẩy nhau cùng tiến lên trong quá trình phát triển
3.4.2. Triết lý về ý nghĩa cuộc sống
Trên thế gian này con người là thứ quý giá nhất. Con người có thể làm ra mọi thứ.
Sức lao động của con người là vô hạn và cũng là cái để con người thực hiện những
ước mơ, là phương tiện tồn tại cùng với thời gian. Dân gian ví con người còn quý hơn
cả vàng bạc, của cải; điều đó làm tôn giá trị con người lên mức đỉnh cao.
Chính bởi cha ông ta rất quý trọng cuộc sông nên cũng đề cập đến cái chết – quy
luật tất yếu của tự nhiên một cách sâu sắc. Có thể nói quan niệm về cái chết là một
trong những tư tưởng tiến bộ, mang tính nhân văn sâu sắc trong quan niệm về con
người. Họ cho rằng mọi sự vật, hiện tượng kể cả con người đều có quá trình sinh ra,

tồn tại và mất đi, vì thế đời người ai cũng phải chết thế nhưng chết lúc nào và chết như
thế nào cho có ý nghĩa và đáng tự hào.
Người đời khác nữa là hoa
Sớm còn tối mất, nở ra lại tàn19
Chính bởi giữa sự sống và cái chết quá đỗi mong manh nên cha ông ta khuyên
con cháu sống sao cho có ích để đến khi chết đi khôi phải hổ thẹn với mình và những
người xung quanh: Chết trong còn hơn sống đục. Đây là bài học mang tính triết lý sâu
sắc về lẽ sống đã được người xưa đúc kết lại và đã được nhân dân lao động đề cao, trở
thành cội nguồn cho tinh thần yêu nước, cho những phong trào đấu tranh chống giặc
ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc.
3.5. Những nét độc đáo của triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt
Nam
3.5.1. Thừa nhận thực tế đời sống đầy mâu thuẫn
Với tính cách là những sáng tác dân gian, là những phản ánh thường ngày, đơn lẻ
về đời sống con người, tục ngữ, ca dao không có trách nhiệm phải nhìn nhận sự vật,
hiện tượng trong sự toàn diện, phổ quát, logic… đặc biệt với các mối quan hệ xã hội
phức tạp như dân tộc, tổ quốc, nhân loại... Người ta sẽ bắt gặp rất nhiều những câu tục
ngữ, ca dao đối lập nhau hoàn toàn, nhưng lại đúng trong từng hoàn cảnh cụ thể. Điều
này có thể kể đến qua những câu ca dao, tục ngữ điển hình như:
Với dân tộc Việt Nam, “tôn sư trọng đạo” là một trong những giá trị đạo đức tốt
đẹp, là truyền thống quý báu được toàn thể nhân dân Việt Nam tôn trọng, giữ gìn. Vậy
19

Nguyễn Lân (2003): Từ điển Thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội, tr.400

15


nên, dân gian mới có những câu như: “Không thầy đố mày làm nên” hay “Muốn sang
thì bắc cầu kiều/ Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy”. Tuy nhiên, một mặt đề cao vai

trò của người thầy, nhưng mặt khác có đôi lúc người Việt lại khẳng định: “học thầy
không tày học bạn”. Thực ra câu tục ngữ trên không có hàm ý hạ thấp giá trị của
người thầy, mà nó chỉ đề cao vai trò của bạn bè. Tất nhiên là các câu tục ngữ trên đều
đúng, nhưng đúng trong hoàn cảnh, điều kiện của nó, đúng về một phương diện, khía
cạnh nhất định. Ở trường, ở lớp, thậm chí cả trong cuộc đời, thì thầy cô là người dạy
dỗ, chỉ bảo cho học trò những điều hay lẽ phải… Câu tục ngữ cảnh báo rằng sẽ thất bại
nếu ai đó có thái độ thiếu cầu thị trong học hỏi ở người thày. Nhưng đó mới chỉ là một
phần, một mặt của cuộc sống mà con người cần tiếp nhận. Ngoài giờ học, trong những
hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống, không phải lúc nào cũng có thày bên cạnh, không
phải mọi chuyện đều có thể tham vấn người thầy. Trong những trường hợp đó thì bạn
bè - những người gần gũi với mình sẽ là những người khó có thể thay thế. Những kinh
nghiệm của bạn bè sẽ được trao đổi cho nhau vào những lúc vui chơi hay chính những
câu chuyện hàng ngày.
3.5.2. Phạm vi ứng dụng rộng, bao quát
Tất cả những kinh nghiệm, những phán xét của cha ông ta trong ca dao, tục ngữ
không phải một ngày mà có, mà phải sau một thời gian nhất định, qua rất nhiều trường
hợp cụ thể mới có thể ổn định thành một phương châm sống, một dịnh hướng hành vi,
định hướng sống.
Có những câu ca dao, tục ngữ chỉ có ý nghĩa ở một địa phương. Nhưng lại có
những câu trở thành những câu giáo huấn, thành phương châm sống của người đời –
đúng và có giá trị với nhiều hoàn cảnh đa dạng khác nhau.
3.5.3. Trình độ khái quát cao
Tục ngữ, ca dao Việt Nam mặc dù xuất phát từ thực tiễn đời sống hàng ngày, chỉ
dựa vào quan sát thực tiễn cuộc sống, dựa vào những hiện tượng riêng lẻ nhưng lại có
một mức độ khái quát rất cao. Bởi lẽ, một hiện tượng cụ thể trong đời sống luôn luôn
chứa đựng trong nó nhiều ý nghĩa mà con người có thể liên tưởng, suy diễn, hoặc gợi
mở, thậm chí ám chỉ.
Kết luận chƣơng 3
Cùng với sự tiếp thu và Việt hóa những tri thức văn hóa, văn minh từ bên ngoài,
người Việt vốn có và đã sáng tạo ra những quan niệm, cách tiếp cận độc đáo của mình

về đời sống. Tục ngữ, ca dao là hình thức như vậy. Đặc biệt trong đó, là sự tồn tại đa
dạng và sâu sắc của những triết lý dân gian.
Nghiên cứu kho tàng tục ngữ, ca dao Việt Nam chúng ta rút ra được những triết
lý nhân sinh sâu sắc của người Việt thông qua những câu ca dao, tục ngữ ngắn gọn, dễ
cảm và hàm chứa nhiều cảm xúc. Đó chính là những kinh nghiệm đúc kết của cha ông
ta từ ngàn đời về con người, về ý nghĩa cuộc đời con người, về cách ứng xử của con
người với tự nhiên và cách ứng xử giữa con người với nhau trong xã hội.

16


Chƣơng 4
Ý NGHĨA CỦA TRIẾT LÝ NHÂN SINH TRONG TỤC NGỮ, CA DAO
VIỆT NAM ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG XÃ HỘI HIỆN NAY
4.1. Thực tiễn đời sống xã hội Việt Nam hiện nay: những vấn đề đặt ra
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá làm biến đổi mạnh mẽ cơ cấu kinh tế xã hội: Tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ tăng nhanh so với nông nghiệp và sản xuất thủ
công; dân số đô thị, nguồn lao động công nghiệp tăng so với nông thôn và nông nghiệp.
Điều đó làm biến đổi sâu sắc đời sống xã hội và cùng với nó là biến đổi sâu sắc về lối
sống. Trong điều kiện xã hội thông tin, quá trình đa dạng hoá, đa phương hoá liên kết
và hợp tác quốc tế đã tạo điều kiện cho các giá trị và các lối sống của nhiều dân tộc
khắp hành tinh tác động tới lối sống từng cá nhân, gia đình và xã hội Việt Nam. Lối
sống công nghiệp, phong cách quan hệ có phần sòng phẳng, thiết thực, thậm chí thực
dụng… đã xuất hiện. Tâm lý tự chủ lập thân, lập nghiệp trong điều kiện kinh tế thị
trường tạo ra lối sống tự do theo pháp luật tự lo toan, làm giàu; lối tư duy táo bạo,
khám phá, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm để nhanh chóng vươn lên trong cuộc sống. Đó
là lối sống năng động, lấy hiệu quả làm tiêu chí và chuẩn mực.
Điều đáng lưu ý là lối giao tiếp truyền thống của người Việt Nam được chuyển
hoá nhanh chóng. Trong một thời gian dài, người Việt Nam hầu như chỉ đóng khung
quan hệ của mình trong quốc gia và các nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa. Giờ
đây, trong toàn cầu hoá, người Việt Nam xem môi trường hoạt động sống của mình là

cả toàn cầu với tất cả các hệ thống kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, khoa học... khác
nhau. Giao tiếp không chỉ giới hạn trong hoạt động đối nhân xử thế, mà là mọi lĩnh
vực hoạt động phổ biến của con người, nhằm thoả mãn các nhu cầu kinh tế, chính trị,
xã hôi, văn hoá kể cả các quan hệ tình cảm, ý chí... Cả thế giới là một môi trường giao
lưu, trao đổi, hợp tác, lao động, học tập.
Qua phân tích thực trạng đạo đức lối sống ở xã hội ta hiện nay chúng ta thấy:
Vấn đề giáo dục giá trị truyền thống cho các tầng lớp trong xã hội trở nên quan trọng
hơn bao giờ hết. Và những triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam có ý
nghĩa vô cùng quan trọng trong việc định hướng hành vi con người, để cơn lốc của
kinh tế thị trường không làm băng hoại đi những gì là tinh hoa cốt cách của con người
Việt Nam.
4.2. Ý nghĩa định hƣớng của triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao đối với
đời sống xã hội hiện nay
4.2.1. Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam góp phần thúc đẩy tư
duy lành mạnh, định hướng hành động hợp lẽ phải
4.2.1.1. Xây dựng và phát triển tư duy lành mạnh
Từ yêu cầu của thực tiễn sản xuất cùng với trình độ nhận thức, trình độ trừu
tượng hóa và khái quát hóa đã đạt đến mức tương đối phát triển, đặc biệt là quá trình
lâu dài tích lũy kinh nghiệm từ việc quan sát các sự vật, hiện tượng đã giúp cha ông ta
trả lời được một số vấn đề đặt ra trong thực tiễn lao động sản xuất và sinh sống để
17


phục vụ cho cuộc sống của chính mình. Nhờ những hiểu biết đó mà cha ông ta đã
tránh được những thiên tai, những tác hại do tự nhiên gây ra. Điều đáng chú ý là sự
quan sát ấy mang dấu ấn của yếu tố duy vật, chẳng hạn người xưa đã căn cứ vào sự
quan sát những phản ứng của sinh vật đối với sự thay đổi thời tiết để xem thời tiết chứ
không tìm nguyên nhân của thời tiết ở ý chí của thần linh.
Những hiểu biết như vậy tuy còn thô sơ và mới ở trình độ của những tri giác cảm
tính nhưng trong đó đã chứa đựng nhiều yếu tố hiện thực. Những hiểu biết này đã có

tác động tích cực đến việc đẩy mạnh quá trình cải biến tự nhiên của con người. Vì chỉ
có nắm được thực chất của sự vật dưới những biểu hiện cụ thể của chúng con người
mới có thể tác động vào chúng, mới có thể đặt ra và hoàn thành những công việc ngày
càng phức tạp hơn, khó khăn hơn.
Tư duy lành mạnh, triết lý có yếu tố duy vật về tự nhiên được thể hiện khá rõ
trong triết lý trong ca dao tục ngữ Việt Nam.
4.2.1.2. Góp phần thúc đẩy hoạt động của con người hợp lẽ phải
Nghiên cứu kho tàng ca dao, tục ngữ Việt Nam, tác giả luận án còn thấy có nhiều
triết lý sâu sắc mang giá trị đạo đức chỉ dẫn về cách thức sửa chữa sai lầm trong nhận
thức, mà thế hệ ngày nay hoàn toàn có thể học tập, vận dụng.
Thông qua ca dao, tục ngữ cha ông ta còn muốn nhắn nhủ con cháu không được
có sự chủ quan, tự mãn, thiếu đạo đức, dương dương tự đắc, ngộ nhận về khả năng của
mình để tránh những hậu quả trong tư duy cũng như trong thực tiễn. Cha ông ta nói
Nhân vô thập toàn – đây là một câu triết luận hết sức sâu sắc. Con người là một thực
thể xã hội không phải đã hoàn chỉnh, có đầy đủ các phẩm chất, trái lại còn có mặt
khiếm khuyết, thiếu hụt. Thông qua câu triết luận này, cha ông ta có ý nhắc nhở con
cháu phải thấy thấy được rằng không ai là hoàn hảo, mỗi cá nhân đều bị giới hạn bởi
năng lực, trình độ nên phải có sự đúng mức trong mọi hoạt động.
Trong xã hội hiện đại ai đó nếu không tự thấy được trình độ hiểu biết của mình
còn hạn chế, còn nhiều khoảng trống, từ đó thiếu sự chú ý, thiếu thận trọng, rồi đi vào
tiếp cận, để bàn những vấn đề mang tính vĩ mô thì sẽ không nhận được sự nhất trí của
công chúng.
Do vậy, ý của cha ông ta là nếu không nhận thức đúng được khả năng và trình độ
hạn chế của mình, con người ta có thể sẽ hành động sai lầm hoặc sẽ hành động với
mục đích quá xa so với thực lực của họ. Mong rằng trong mỗi chúng ta, đặc biệt là các
cá nhân đã vô tình hoặc tự giác làm những việc tổn hại, tổn thất ít nhiều về đạo đức
nên biết dừng lại khi chưa quá muộn. Con người cần khẳng định giữ gìn chứ không
đánh mất hết phẩm chất của mình trong tư duy biện chứng.
4.2.2. Triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam góp phần giáo dục
quan niệm sống tốt đẹp và lối sống nhân văn

4.2.2.1. Trong mối quan hệ với tự nhiên
Có thể thấy, thông qua ca dao tục ngữ, cha ông ta gửi gắm những triết lý nhân
sinh về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong một nền kinh tế nông nghiệp
18


còn nghèo. Đồng thời, cha ông ta cũng gửi gắm những lời nhắn nhủ của mình tới thế
hệ con cháu mai sau trong cách ứng xử với tự nhiên đó là phải biết tôn trọng tự nhiên,
từ đó xây dựng một lối ứng xử phù hợp với tự nhiên.
Việc nắm vững những quy luật của tự nhiên không những giúp con người có
được năng suất cao hơn trong lao động, sản xuất mà còn tạo cho con người có được sự
tự do trước tự nhiên. Con người có thể làm chủ cuộc sống của mình chứ không phụ
thuộc vào tính quy luật của thần thánh.
4.2.2.2. Trong cách ứng xử của con người với xã hội
- Thứ nhất, tình yêu đôi lứa chân thành, trong sáng, bình dị nhưng cũng hết sức
thiết tha, mãnh liệt được thể hiện trong chính cuộc sống lao động hàng ngày. Tình yêu
trong ca dao, tục ngữ thật đẹp, giản dị và thanh cao, đặc biệt đẹp hơn cả khi tình yêu
ấy được thể hiện trong chính cuộc sống lao động hàng ngày. Những sắc thái tình yêu
trong ca dao, tục ngữ muôn phần phong phú và ấn tượng, thông qua những cung bậc
cảm xúc ấy, cha ông ta đã gửi gắm một triết lý nhân sinh sâu sắc về mối quan hệ giữa
con người với con người, một mối quan hệ vô cùng đặc biệt làm nên điều kỳ diệu của
cuộc sống.
- Thứ hai, Ứng xử trong gia đình người Việt được dựa trên nền tảng tình cảm hết
sức vững chắc, tốt đẹp, đó là quan hệ vợ chồng thủy chung son sắt. Từ đó đã hình
thành nên triết lý nhân sinh trong quan hệ vợ chồng ân tình, thủy chung, nhường nhịn,
chia sẻ.
- Thứ ba, Xuất phát từ quan điểm gắn bó giữa những thành viên trong gia đình,
đó là mối quan hệ trên dưới tôn kính, cha con chí hiếu. Con cháu phải lễ phép ông bà,
cha mẹ, ngược lại bố mẹ, ông bà cũng phải tôn trọng con cháu. Trong gia đình Việt
Nam, người cha không chỉ là người sinh thành ra chúng ta, mà còn là người thầy đầu

tiên, là người bạn tâm giao của chúng ta. Bởi vậy, hiếu nghĩa với cha, mẹ là lối sống
và cách ứng xử của người Việt biểu hiện nét văn hóa dân tộc sâu sắc, đậm đà của một
đất nước nghìn năm văn hiến. Cách ứng xử ấy xuất phát từ đặc trưng trọng hòa hiếu,
thuận hòa trọng cuộc sống cộng đồng của người ViệtTrong gia đình người Việt Nam
cha mẹ có vai trò và trạch nhiệm là chăm lo, vun đắp cho con cái hướng tới sự bình
yên của gia đình., con cái phải luôn hiếu thảo với ông bà cha mẹ, ngược lại ông bà cha
mẹ phải tu thân tích đức để phúc cho con cháu mai sau. Những bài học này được phản
ánh sâu sắc và truyền từ đời này qua đời khác. Nó được phản ánh theo nhiều mặt,
nhiều khía cạnh, nói lên sự sâu sắc trong lối sống, lối nghĩ của người dân Việt Nam.
- Thứ tư, Trong quan hệ anh em cần phải thuận hòa: Khôn ngoan đá đáp người
ngoài/ Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau20 là lời dạy xưa của ông cha ta đối với anh
chị em trong gia đình. Có gì dễ gắn kết người ta hơn là quan hệ anh em sinh cùng cha
mẹ? Đó chính là quan hệ ruột thịt, đương nhiên sự cố kết là chặt chẽ vô cùng. Tư
tưởng này cũng thể hiện một tinh thần rất coi trọng tình cảm của người Việt.
20

Nguyễn Lân (2003): Từ điển Thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội, tr.280

19


- Thứ năm, Ngoài mối quan hệ trong gia đình: cha mẹ, vợ chồng, anh em thì quan
hệ bạn bè tình nghĩa cũng được cha ông ta coi trọng.Bạn bè là chỗ dựa cho chúng ta, là
tri kỷ của chúng ta, lúc hoạn nạn mới biết đâu là bạn, đâu là bè. Bên cạnh đó, tình cảm
thầy trò là thứ tình cảm gắn bó, gần gũi một cách tự nhiên mà vô cùng thiêng liêng,
cao cả làm nên truyền thống tốt đẹp của dân tộc “tôn sư trọng đạo”. Truyền thống ấy
như mạch ngầm chảy mãi từ thế hệ này đến thế hê khác, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt thời
gian từ xưa đến nay và mãi về sau.
- Thứ sáu, Khi đề cao vai trò gắn kết của gia đình, người Việt cũng chú ý coi
trọng mối quan hệ gắn bó cộng đồng, đó là mối quan hệ gắn bó ruột thịt, tương thân

tương ái trong cộng đồng quốc gia, dân tộc: Cha ông ta nhắn gửi tới con cháu sống
phải biết yêu thương, chia sẻ giúp đỡ nhau trên tinh thần “người trong một nước phải
thương nhau cùng”.
4.2.2.3. Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam góp phần giáo dục ý
thức dân tộc và tình cảm cộng đồng
Ca dao, tục ngữ Việt Nam là kết quả lao động, sáng tạo, chứa đựng những triết lý
sâu sắc được đúc rút từ thực tiễn cuộc sống lao động của cha ông ta, cho đến nay đã
trở thành một kho tàng lý luận phong phú, phản ánh rõ nét thế giới quan và nhân sinh
quan của nhân dân ta trong buổi đầu dựng nước và giữ nước. Không những thế, trong
ca dao, tục ngữ, những tư tưởng, truyền thống tốt đẹp của dân tộc được thể hiện một
cách sâu sắc, có vai trò to lớn trong sự hình thành và phát triển nhân cách của con
người Việt Nam hiện đại, đặc biệt là thế hệ thanh niên Việt Nam
4.2.3. Về hạn chế của triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam
4.2.3.1. Triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam quá nhấn mạnh những
tư tưởng duy tâm, siêu hình.
Cha ông ta thời trước, do trình độ khoa học kỹ thuật còn hạn chế, chưa nắm bắt
được quy luật chi phối sự phát sinh, phát triển của các sự vật, hiện tượng nên người lao
động đã giải thích chúng một cách siêu hình. Điều này nói lên sự bế tắc, không lối
thoát và nói lên tư tưởng an phận của người lao động. Chính tư tưởng an phận thủ
thường này của người lao động lại là cơ hội cho giai cấp phong kiến củng cố địa vị của
mình.
4.2.3.2. Triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam quá chú trọng kinh
nghiệm
Qua việc phân tích những nội dung cơ bản của triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca
dao Việt Nam chúng tôi nhận thấy rằng nhận thức của cha ông ta thời xưa chủ yếu dựa
vào kinh nghiệm trong quá trình sinh sống và lao động.
Nhận thức kinh nghiệm nhiều khi gặp phải những mâu thuẫn, những hạn chế
trong quá trình nhận thức vì chỉ dựa vào những cái bên ngoài cho nên khi áp dụng vào
cuộc sống tầm nhìn bị hạn chế sẽ không tránh khỏi tính chất chủ quan, thậm chí là cố
chấp, bảo thủ, lạc hậu, cản trở sự phát triển của nhận thức.


20


4.2.3.3. Triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam mang trong nó không
ít mâu thuẫn
Mặc dù triết lý nhân sinh của cha ông ta về mối quan hệ giữa con người với môi
trường tự nhiên và giữa con người với nhau trong xã hội chứa đựng nhiều tư tưởng
biện chứng, thể hiện cách nhìn, cách đánh giá tương đối khoa học của cha ông ta về tự
nhiên, xã hội và con người. Nhưng trong cách đánh giá ấy ta vẫn nhận thấy những mâu
thuẫn đối lập.
Xét cho cùng thì nguyên nhân sâu xa của những mâu thuẫn, của những tư tưởng
đối lập này chính là ở tư duy lữơng hợp của con người Việt Nam. Lối tư duy tổng hợp
và biện chứng luôn phải đắn đo, cân nhắc của người làm nông nghiệp cộng với lối
sống trọng tình nghĩa đã dẫn đến cách tổ chức cộng đồng theo lối linh hoạt, luôn biến
hóa sao cho thích hợp với từng hoàn cảnh cụ thể, dẫn đến triết lý sống của người Việt
Nam
Nghiên cứu triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam giúp chúng ta hiểu
biết rộng hơn, sâu sắc hơn tư duy triết học của người Việt xa xưa. Những triết lý ấy
vừa chứa đựng những yếu tố duy vật biện chứng vừa có yếu tố duy tâm, siêu hình
nhưng tất cả đều xuất phát từ thực tế cuộc sống của người Việt xa xưa. Đó là đạo làm
người, là cách đối nhân xử thế trong gia đình và ngoài xã hội… Tất cả đều chứa đựng
yếu tố nhân văn sâu sắc và mang đậm nét tâm hồn người Việt.
Kết luận chƣơng 4
Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam chính là tinh hoa trong đạo lý
sống của người Việt được bảo tồn qua nhiều thế hệ như những giá trị trường tồn và
mang đậm bản sắc của dân tộc Việt. Với nội dung truyền tải đa dạng và phong phú đời
sống xã hội; phản ánh những phong tục, tập quán, tâm tư nguyện vọng của con người
Việt Nam, ca dao, tục ngữ Việt đã tạo thành một hệ thống hình ảnh thiên nhiên, con
người lao động thật đẹp và gần gũi nhưng hơn hết nó chứa đựng ý nghĩa triết lý nhân

sinh sâu sắc. Triết lý ấy có tác động và ảnh hưởng tới suy nghĩ, nhận thức từ đó định
hướng nhận thức đúng cho mỗi người. Bởi vậy, nó có một ý nghĩa nhất định trong đời
sống xã hội hiện nay như: Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam thể hiện
tư tưởng duy vật, biện chứng tự phát của nhân dân lao động. Triết lý nhân sinh trong
ca dao, tục ngữ Việt Nam mang tính giáo dục rất sâu sắc. Triết lý nhân sinh trong ca
dao, tục ngữ Việt Nam góp phần giáo dục đạo đức lý tưởng sống cho nhân dân Việt
Nam nói chung và thế hệ thanh niên Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại
một vài hạn chế nhất định như: Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam còn
chứa đựng những tư tưởng duy tâm, siêu hình. Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ
Việt Nam phản ánh hiện thực khách quan, các quan hệ xã hội chủ yếu dưới hình thức
kinh nghiệm. Triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam còn chứa đựng những
mâu thuẫn trong cách ứng xử với tự nhiên và xã hội của con người.
Trong thời đại ngày nay, khi con người được tiếp xúc với nhiều tư tưởng, nhiều
nền văn hóa khác nhau, thì việc nghiên cứu, tiếp thu tinh hoa văn hóa dân tộc trong
21


kho tàng ca dao, tục ngữ Việt Nam là việc làm hết sức cần thiết. Nhiều triết lý có giá
trị đã trở thành những quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp giáo
dục, là cơ sở tư tưởng để xây dựng triết học giáo dục Việt Nam
KẾT LUẬN
Tục ngữ, ca dao thể hiện đời sống tinh thần phong phú của người Việt Nam từ xa
xưa. Đó là một sự phản ánh chân thực về cuộc sống với những ngôn từ dung dị, mộc
mạc, quen thuộc với người nông dân. Trong ca dao, tục ngữ, tư duy triết học được hình
thành từ sự thể hiện tình cảm, thể hiện thế giới nội tâm bằng nghệ thuật của ngôn từ,
bằng hình ảnh để tạo nên các triết lý sâu sắc.
Thực tế lịch sử đã chứng minh, các tác phẩm tục ngữ, ca dao có sức sống trường
cửu vì đấy là sự phản ánh khái quát đời sống xã hội và có tác dụng giáo dục, hướng
thiện… cho con người. Đọc các câu tục ngữ, ca dao nhiều người chúng ta có cảm giác
như cha ông ta đang để lại các tác phẩm kể về cuộc đời của chính họ. Triết lý nhân

sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam là những kinh nghiệm cha ông ta đã đúc kết được
về sinh mệnh con người, về mục đích và lẽ sống của con người trong xã hội, về những
ứng xử của con người với tự nhiên và xã hội.
Tục ngữ, ca dao là một bộ phận đồng thời là chỉ báo tin cậy phản ánh sự phát
triển phong phú về đời sống tinh thần của người Việt Nam từ trong lịch sử xa xưa đến
tận ngày nay. Bằng nghệ thuật ngôn từ trau chuốt, sâu sắc nhưng dung dị, mộc mạc,
quen thuộc với người nông dân, ca dao, tục ngữ, và triết lý nhân sinh chứa đựng trong
đó đã thực sự là vũ khí tinh thần sắc bén, là những chỉ dẫn thế giới quan và nhân sinh
quan sáng suốt, định hướng con người sống, lao động, sáng tạo và yêu thương… trong
suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Ngày nay, triết lý nhân sinh trong ca dao tục ngữ vẫn là
hành trang đắt giá của không ít người trong xã hội hiện đại.
Với luận án này, tác giả muốn góp phần khẳng định rằng, trong di sản tư tưởng
của dân tộc, thì triết lý nhân sinh là một tài sản quý giá trong kho tàng trong tục ngữ,
ca dao Việt Nam, mà hậu thế khai thác còn chưa được bao nhiêu. Mặc dù có những
hạn chế nhất định nhưng triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam vẫn là
những chỉ dẫn thế giớ quan, nhân sinh quan đặc biệt sâu sắc và nhân văn đối với con
người trong đời sống xã hội hiện đại

22


CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Nguyễn Thị Tình (2017), “Triết lý về bản chất con người trong ca dao, tục ngữ
Việt Nam”, Tạp chí Khoa học chính trị, số 03, tr.40-44.
2. Nguyễn Thị Tình (2017), “Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam”,
Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, số 04, tr.39-45.
3. Nguyễn Thị Tình (2017), “Một số nội dung cơ bản của triết lý nhân sinh trong
ca dao, tục ngữ Việt Nam”, Tạp chí Triết học, số 05, tr.73-79.
4. Nguyễn Thị Tình (2017), “Triết lý về đối nhân xử thế trong ca dao, tục ngữ

Việt Nam”, Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội, số 06, tr.82-88.
5. Nguyễn Thị Tình (2018), “Ý nghĩa định hướng của triết lý nhân sinh trong
tục ngữ ca dao đối với đời sống xã hội Việt Nam”, Tạp chí Giáo dục và xã hội,
sốđặc biệt kỳ 2, tháng 05/2018, tr.209-214.
6. Nguyễn Thị Tình (2018), “Cơ sở hình thành và đặc điểm của triết lý nhân
sinh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam”, Tạp chí Giáo dục và xã hội, số đặc biệt kỳ 2,
tháng 05/2018, tr.220-225.


×