Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

TIỂU LUẬN vấn đề gắn kết CHÍNH SÁCH TĂNG TRƯỞNG KINH tế và TIẾN bộ, CÔNG BẰNG xã hội TRONG nền KINH tế THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG xã hội CHỦ NGHĨA ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.64 KB, 30 trang )

1
VẤN ĐỀ GẮN KẾT CHÍNH SÁCH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ TIẾN
BỘ, CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

MỞ ĐẦU
Tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội không chỉ là mục tiêu
mà còn là khát vọng của toàn nhân loại trong mọi thời đại. Tuy nhiên, việc đạt
được mong muốn kép này là hết sức khó khăn và trong thực tiễn đã hình
thành các ý kiến khác nhau: Có ý kiến cho rằng, có những mâu thuẫn nhất
định giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội trong quá trình
phát triển; có ý kiến cho rằng, tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã
hội về cơ bản là đồng thuận với nhau trong quá trình phát triển; có ý kiến cho
rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm quan hệ tốt giữa tăng trưởng kinh
tế và tiến bộ, công bằng xã hội. Những chính sách xã hội dựa trên mục tiêu
tiến bộ, công bằng xã hội có thể dẫn đến triệt tiêu các động lực tăng trưởng
kinh tế; Ngược lại, những chính sách chỉ nhằm tăng trưởng kinh tế có thể làm
gia tăng bất bình đẳng và giảm công bằng xã hội. Bởi vậy, nghiên cứu về mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội luôn là một chủ
đề lớn, một yêu cầu tất yếu đặt ra cho mọi thời đại, mọi quốc gia.
Thực tiễn ở các nước cho thấy, muốn phát triển bền vững phải giải
quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, tăng
trưởng kinh tế là điều kiện cần để thực hiện công bằng xã hội, ngược lại giải
quyết tốt các vấn đề xã hội sẽ tạo động lực để thúc đẩy kinh tế, bởi không có
ổn định kinh tế thì sẽ không có phát triển kinh tế.
Đối với nước ta, công cuộc đổi mới được Đảng cộng sản Việt Nam
khởi xướng và lãnh đạo từ năm 1986 đã mang lại những thành tựu to lớn, làm
biến đổi sâu sắc các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội ở nước ta, trong đó phải


2


kể đến thành tựu về tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ đi đôi và gắn kết với đẩy
nhanh tiến bộ và thực hiện công bằng xã hội; Tuy nhiên, đà tăng trưởng kinh
tế, việc thực hiện công bằng xã hội và việc thúc đẩy tiến bộ của Việt Nam còn
chưa thật vững chắc.
Trong thời gian qua, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn mới nảy sinh đã
được Đảng ta nghiên cứu và giải quyết một cách sáng tạo, linh hoạt phù hợp
với điều kiện cụ thể ở nước ta. Tuy nhiên, thực tiễn cũng đã chỉ ra rằng còn
nhiều vấn đề quan trọng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam cần được nghiên cứu, tổng kết từ cuộc sống để làm sáng tỏ và
vận dụng một cách có hiệu quả, trong đó có vấn đề giải quyết hợp lý và đúng
đắn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội là đòi hỏi tất
yếu của phát triển, trực tiếp nhất là phát triển kinh tế và xã hội, hướng tới phát
triển bền vững ở nước ta.
Với ý nghĩa đó, trong quá trình nghiên cứu môn học quy luật cách mạng
xã hội chủ nghĩa, tác giả đã lựa chọn vấn đề: “Vấn đề gắn kết chính sách tăng
trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay” để nghiên cứu và viết tiểu luận.
NỘI DUNG
1. Tính tất yếu khách quan của chính sách gắn kết tăng trưởng
kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội trong điều kiện nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
1.1. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội
* Quan niệm chung về tăng trưởng kinh tế, tiến bộ và công bằng xã hội
Giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng
xã hội đang là tâm điểm trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội của nhiều
quốc gia. Đặc biệt, đối với Việt Nam - một nước đang phát triển, chịu tác


3
động của toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế nhằm đáp ứng yêu cầu phát

triển kinh tế trí thức - thì mối quan hệ này trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Tăng trưởng kinh tế là một khái niệm kinh tế học được dùng để chỉ sự
gia tăng về quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định.
Các chỉ tiêu thường được sử dụng để đo mức tăng trưởng kinh tế là mức tăng
tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc dân (GNP), GNP bình
quân đầu người và các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp khác. Nội hàm tăng trưởng
kinh tế là sự gia tăng cả về số lượng và chất lượng của nền kinh tế quốc dân
trong một thời kỳ nhất định. Các chỉ tiêu phản ánh phát triển kinh tế là hiệu
quả của nền kinh tế, hiệu quả đầu tư, cơ cấu kinh tế, khả năng cạnh tranh của
nền kinh tế so với các nước khác trong khu vực và thế giới…
Tiến bộ xã hội, theo nghĩa rộng, là sự vận động của xã hội từ trình độ
thấp đến trình độ cao, từ lạc hậu đến văn minh, hiện đại; Tiến bộ xã hội trước
hết phải xuất phát từ con người, vì con người và hướng tới sự tiến bộ của con
người; Sự tiến bộ xã hội còn thể hiện ở sự phát triển ngày càng cao hơn của
cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng và ý thức xã hội. Tiến bộ xã hội mà Việt
Nam đang thực hiện chính là phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Theo nghĩa hẹp: tiến bộ xã hội là sự phát triển của lực lượng sản xuất, đời
sống ngày càng văn minh, dân chủ được thực hiện và các quyền con người
được bảo đảm. Như vậy, tiến bộ xã hội được xem như nội hàm phát triển kinh
tế và công bằng xã hội.
Công bằng xã hội là khái niệm mang tính chuẩn tắc phụ thuộc vào quan
niệm khác nhau của mỗi giai cấp, mỗi quốc gia, công bằng xã hội là sự bình
đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, bình đẳng trong chế độ phân
phối, thu nhập, cơ hội phát triển và điều kiện thực hiện cơ hội. Như vậy công
bằng xã hội là một khái niệm rất rộng, bao gồm cả yếu tố kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội… Những thước đo chủ yếu đối với công bằng xã hội bao


4
gồm: chỉ số phát triển con người (HDI); đường cong Lorenz; hệ số GINI; mức

độ nghèo khổ; mức độ thoã mãn nhu cầu con người…
Có thể hiểu công bằng xã hội là các giá trị định hướng để con người
sinh sống và phát triển trong các quan hệ giữa các thành viên trong cộng đồng
về vật chất cũng như về tinh thần. Đó là những giá trị cơ bản trong các quan
hệ xã hội như: quan hệ giữa mức độ lao động và mức độ thu nhập; quan hệ
giữa quyền sở hữu tư liệu sản xuất và quyền định đoạt sự sản xuất và phân
phối; quan hệ giữa mức độ phạm tội và mức độ bị trừng phạt; quan hệ giữa
các thành viên của xã hội với hoàn cảnh kinh tế, mức độ phát triển trí lực khác
nhau và cơ hội tham gia vào quá trình giáo dục, khám chữa bệnh, hưởng thụ
các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật, thể dục - thể thao...
*Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội
Tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là mục tiêu phát triển
của các quốc gia trong mọi thời đại; Tuy nhiên, xét về lý thuyết, đây cũng là
một nội dung trọng tâm của kinh tế học phát triển cho đến ngày nay. Lý do là
việc đạt được mục tiêu này không hề dễ dàng, thậm chí còn tồn tại sự đối lập
giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội. Chính sách phát triển
chỉ nhằm tăng trưởng nhanh có thể phải trả giá rất đắt nếu tình trạng bất bình
đẳng về thu nhập, về cơ hội học hành, tiếp cận dịch vụ xã hội và nghèo đói
gia tăng, thậm chí có thể dẫn đến mâu thuẫn, gây căng thẳng xã hội, nhưng
ngược lại, những chính sách chỉ thiên về mục tiêu tiến bộ, công bằng xã hội
có thể làm triệt tiêu các động lực kích thích tăng trưởng kinh tế.
Mối quan hệ hai chiều giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng
xã hội ngày càng được thế giới nhận thức rõ hơn từ hai thập kỷ gần đây, được
coi là một trọng tâm của chính sách phát triển ở tất cả các nước cũng như các
tổ chức quốc tế. Mối quan hệ này thực ra đã nằm trong nội hàm của phát triển
bền vững. Theo khái niệm mới nhất, phát triển bền vững gồm ba trụ cột có


5
quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, đó là phát triển kinh tế bền vững, phát triển xã

hội bền vững và bảo vệ môi trường. Qua đó, có thể thấy rằng nếu chỉ tăng
trưởng không thôi sẽ không đủ để có xã hội bền vững. Kết quả của mối quan
hệ này thể hiện một phần ở chỗ thành tựu về tăng trưởng kinh tế có đi liền với
tiến bộ, công bằng xã hội hay không.
Tác động của tăng trưởng kinh tế đối với tiến bộ và công bằng xã hội
và ngược lại không phải được quan tâm ngẫu nhiên, thiếu căn cứ. Trái lại, mối
quan hệ hai chiều này đã được lý giải cả về lý thuyết và chứng minh trên thực
tiễn, đặc biệt là qua dòng lý thuyết tăng trưởng nội sinh, tiến bộ và công bằng
xã hội - có thể đo bằng một số thước đo như chỉ số HDI, công bằng trong tiếp
cận các dịch vụ giáo dục, y tế, vốn xã hội… - là những đại lượng xác định
tăng trưởng trong dài hạn của một nền kinh tế. Tiến bộ và công bằng xã hội
quan hệ chặt chẽ với tăng trưởng ở cả hai khía cạnh: vừa là yếu tố đầu vào,
vừa là thành quả của tăng trưởng, thể hiện ở sự phân phối thành quả của tăng
trưởng cho các thành viên trong xã hội. Do đó, đầu tư cho giáo dục, y tế, tạo
cơ hội cho mọi người, nhất là người nghèo tiếp cận dịch vụ giáo dục, y tế…sẽ
đóng góp vào tăng trưởng kinh tế. Nếu tăng trưởng nhanh bằng mọi giá mà
các chỉ số nêu trên không được cải thiện, sẽ khó hy vọng có được tăng trưởng
kinh tế bền vững, thậm chí còn dẫn đến mâu thuẫn, xung đột xã hội và hệ luỵ
có thể là bất ổn xã hội.
Tăng trưởng kinh tế là mức tăng về lượng, về tốc độ của nền kinh tế,
tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa, tăng năng suất lao động xã hội, đáp ứng nhu
cầu sản xuất, tiêu dùng trong xã hội. Tăng trưởng là điều kiện của phát triển,
của tiến bộ, đó là tiền đề về vật chất - kinh tế để thực hiện công bằng. Một xã
hội có nền kinh tế phồn vinh, giàu có phải là một xã hội đạt được và duy trì
được sức tăng trưởng kinh tế, cũng như vậy, những dấu hiệu trì trệ và suy
thoái, thậm chí khủng hoảng (gắn với lạm phát) phải nhận biết từ mức tăng


6
trưởng chậm lại, giảm sút tăng trưởng. Không có một nền kinh tế tăng trưởng

thì không thể có tiềm lực vật chất để tiếp tục đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh, không có vốn và các nguồn lực nói chung để có thể tái sản xuất
mở rộng, càng không thể có điều kiện vật chất để cải thiện, nâng cao mức
sống, chất lượng cuộc sống của dân cư.
Nếu tăng trưởng kinh tế là điều kiện và tiền đề thì tiến bộ và phát triển
là kết quả và công bằng xã hội là động lực và mục tiêu của quá trình tăng
trưởng, tiến bộ và phát triển. Nói một cách khác, công bằng xã hội đóng vai
trò là động lực thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, là nhân tố bảo đảm
ổn định và lành mạnh xã hội, kể cả xác lập ổn định tích cực của chính trị, là
động lực, đồng thời là mục tiêu của đổi mới để phát triển đi đúng định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa xã hội là một chế độ kiểu mới, do bản chất kinh tế và chính
trị ưu việt của nó càng phải chú trọng thực hiện mục tiêu công bằng, càng
phải chứng tỏ trong thực tế việc thực hiện công bằng xã hội đạt ở mức độ phổ
biến, rộng rãi trong xã hội, đạt được những thành tựu to lớn, bền vững hơn so
với các chế độ trước đó, đem lại sự thụ hưởng lợi ích chính đáng cho số đông
dân chúng. Đó là xét về mặt nguyên tắc, về mặt lý luận.
1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của chính sách gắn kết tăng trưởng
kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
* Những cơ sở lý luận của chính sách gắn kết giữa tăng trưởng kinh
tế và tiến bộ, công bằng xã hội
- Xuất phát từ những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội.
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng cùng với việc kế
thừa, phát triển một cách sáng tạo những yếu tố hợp lý trong tư tưởng về công


7
bằng xã hội trong lịch sử, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã đưa ra
quan niệm mới, khoa học và toàn diện hơn về công bằng xã hội.

Trước hết: Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, công bằng xã hội là sản
phẩm của đời sống xã hội, là mối quan hệ giữa con người với con người hình
thành trong quá trình hoạt động, sinh sống. Quan hệ đó không phải do sự sáng
tạo thuần tuý chủ quan của con người hay do một lực lượng thần thánh, siêu
tự nhiên nào đó gây ra, là sản phẩm của đời sống xã hội, mà đời sống xã hội
luôn vận động, biến đổi, nên công bằng xã hội cũng biến đổi cùng với những
điều kiện tồn tại của đời sống xã hội.
Thứ hai: Công bằng xã hội thực chất là mối quan hệ về mặt lợi ích của
con người trong xã hội. Lợi ích của con người biểu hiện trên nhiều lĩnh vực,
như lợi ích kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, khoa học, nghệ thuật…; trong
đó, lợi ích về kinh tế là cơ bản nhất.
Thứ ba: Để giải quyết vấn đề công bằng xã hội, trước hết phải giải
quyết vấn đề xã hội trên lĩnh vực kinh tế và phải thực hiện từng bước, xuất
phát từ những điều kiện thực tế của sự phát triển sản xuất. Nghiên cứu nền
sản xuất tư bản chủ nghĩa, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã vạch rõ
cơ sở khách quan của sự bất công trên lĩnh vực kinh tế trong chủ nghĩa tư bản,
đó là chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và sản phẩm
lao động. Chủ nghĩa Mác - Lênin cũng quan niệm, trong giai đoạn đầu chủ
nghĩa cộng sản do mới thoát thai từ xã hội tư bản, chủ nghĩa cộng sản chưa
phát triển trên cơ sở chính mình, nên vẫn còn chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa
tư bản. Thực hiện phân phối theo lao động trong giai đoạn đầu chủ nghĩa cộng
sản là một bước tiến lớn trong việc thực hiện công bằng xã hội, tuy nhiên vẫn
chấp nhận sự bất công nhất định. Mác viết: “Quyền không bao giờ có thể ở


8
một mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hoá của xã hội do chế
độ kinh tế đó quyết định”1.
Thứ tư: Công bằng xã hội theo xu hướng vận động của nó luôn đối lập
với bất công xã hội, luôn hướng tới giải quyết tốt hơn những nhu cầu cơ bản

của con người, bảo đảm tốt hơn những điều kiện cho sự tồn tại và phát triển
toàn diện con người. Do vậy, công bằng xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động
lực sự phát triển xã hội.
- Xuất phát từ tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giữa tăng trưởng kinh
tế và tiến bộ, công bằng xã hội.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo quan điểm của
các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc giải quyết mối quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế gắn với thực hiện công bằng xã hội trong điều kiện
cụ thể của Việt Nam. Người khẳng định: Mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội
là để không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. Mục tiêu hàng đầu của
phát triển kinh tế là nâng cao đời sống của nhân dân, trước hết là nhân dân lao
động, làm cho đời sống của người dân ngày càng đầy đủ, sung sướng, hạnh
phúc. Đồng thời, Người cũng xác định rõ trách nhiệm của Đảng và Nhà nước
trong việc chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân: Xuất phát từ
một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội không kinh qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, điều này chi phối quan điểm phân phối. Để
bảo đảm tính công bằng trong phân phối, Hồ Chí Minh đòi hỏi cán bộ phải
chí công, vô tư. Người quan tâm đến vấn đề phúc lợi xã hội, tuy nhiên theo
Người, phúc lợi phải gắn với hiệu quả sản xuất. Như vậy, vấn đề tăng trưởng
kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội được xem xét trong quan
điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là: Mục đích của xây dựng kinh tế để không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; thực hiện công
1

C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 19, tr.35 - 36.


9
bằng xã hội phù hợp sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải quyết các nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan niệm phải gắn kết phát
triển kinh tế với công bằng xã hội ngay từ đầu và từng bước thực hiện, coi đó
không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực của tăng trưởng kinh tế. Hồ Chí
Minh coi việc thực hiện công bằng xã hội là một yêu cầu bức thiết, và yêu cầu
đó lại càng bức thiết hơn khi cuộc sống còn nhiều khó khăn, Người căn dặn:
“Trong công tác lưu thông phân phối, có hai điều quan trọng phải luôn nhớ:
“Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng
Không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên”2
Mặt khác, Hồ Chí Minh chỉ ra rằng thực hiện công bằng xã hội theo
nguyên tắc ngang bằng nhau giữa người và người trong mối quan hệ giữa nghĩa
vụ và quyền lợi; giữa cống hiến và hưởng thụ… Do đó, không thể coi việc thực
hiện công bằng xã hội như sự cào bằng trong nghèo khổ. Người khẳng định:
“Không phải chúng ta ham chuộng khổ hạnh và bần cùng. Trái lại, chúng ta có
phấn đấu hy sinh, vì chúng ta muốn xây dựng một xã hội ai cũng ấm no, sung
sướng”3. Người cũng viết: “Bình quân chủ nghĩa là trái chủ nghĩa xã hội”4.
Hồ Chí Minh cho rằng bình đẳng xã hội trước hết là bình đẳng trong
phân phối, mà ở đây là phân phối theo lao động. Nhưng điểm xuất phát của sự
phân phối đó lại chứa đứng sự bất bình đẳng trong cơ hội, cho nên ngay từ
đầu, Người đã đặt vấn đề phân phối theo lao động và theo phúc lợi: “Ai làm
nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít, ai không làm thì không ăn, tất nhiên là
trừ những người già cả, đau yếu và trẻ con”5. Người mong muốn:
“Làm cho người nghèo thì đủ ăn
Người đủ ăn thì khá giàu
2

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 12, tr.185.
Sđd, tập 7, tr.568
4
Sđd, tập 8, tr.386
5

Sđd, tập 8, tr.226
3


10
Người khá giàu thì giàu thêm”6
Nói đến việc thực hiện công bằng xã hội với tư cách là một yếu tố quan
trọng của phát triển bền vững, không thể không nhắc tới chính sách nhân đạo
và khoan dung của chủ tịch Hồ Chí Minh: “Lo toan và bảo đảm những điều
kiện sống cho mọi người trong xã hội, bất kể thành phần, vị trí, hoàn cảnh.
Đối với người nghèo, lo cơm ăn áo mặc, học hành. Đối với người hữu sản, lo
làm sao giúp đỡ họ có thể đem tài năng và phương tiện để phát triển sản
xuất, góp phần kiến quốc”7. Chính sách đó là tiền đề của chương trình an sinh
xã hội sau này.
* Từ thực trạng của việc thực hiện tăng trưởng kinh tế và tiến bộ,
công bằng xã hội ở nước ta hiện nay
- Những thành tựu nổi bật:
Về kinh tế, kết quả thực hiện chiến lược 10 năm (2001 - 2010) ước tính
GDP tăng bình quân 7,2 %/năm (năm 2009 - 2010, ước theo kế hoạch của Chính
phủ); GDP tuyệt đối tăng 2 lần; GDP/đầu người tăng 3,17 lần và đã vượt ngưỡng
1.000 USD. Hiệu quả sử dụng các yếu tố sản xuất gia tăng đáng kể: Đóng góp
của yếu tố vốn vào tăng trưởng GDP đã giảm từ 70% (giai đoạn kế hoạch 1991 1995) xuống còn khoảng 52% (giai đoạn 2006 - 2010); đóng góp của yếu tố lao
động vào tăng trưởng GDP đã tăng từ 16% (giai đoạn kế hoạch 1991 - 1995) lên
khoảng 20% (giai đoạn 2006 - 2010); đóng góp của yếu tố tăng trưởng tổng hợp
(TFP) đã tăng từ 14% (giai đoạn kế hoạch 1991 - 1995) lên khoảng 28% (giai
đoạn 2006 - 2010). Các số liệu trên cho thấy, hiệu quả quản lý nền kinh tế đất
nước được nâng cao trong vòng 20 năm qua, nền kinh tế đất nước tăng trưởng
liên tục và thuộc nhóm “thị trường mới nổi” có nhiều tiềm năng; vị trí kinh tế
của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao đáng kể.


6
7

Sđd, tập 5, tr.65
Đặng Phong: Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945 – 2000, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002, t.1, tr.278


11
Tiến bộ và công bằng xã hội càng thể hiện rõ nét hơn những thành quả
của tăng trưởng kinh tế. Thông thường, để đo tính chất công bằng trong phát
triển, người ta thường sử dụng 3 loại thang đo: Ngũ phân vị (chia các tầng lớp
dân cư làm 5 tầng, dựa theo sự cách biệt trong chi tiêu, mỗi phân tầng là 20%,
xem xét độ chênh lệch giữa các tầng); Hệ số bất bình đẳng GINI (được tính từ
0 đến 1) và Đường cong lô-ren (lorent). Ở nước ta, cứ hai năm một lần, Tổng
cục Thống kê đều tiến hành điều tra và công bố sự chênh lệch giàu nghèo theo
thang đo thứ nhất.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê (tháng 12 - 2007), sự bất bình
đẳng trong chi tiêu giữa các tầng lớp dân cư ở nước ta từ năm 1993 đến năm
2006 ngày càng tăng. Chêch lệch chi tiêu giữa nhóm người giàu nhất và
nghèo nhất tăng từ 5 lần (năm 1993) lên 6 lần (năm 2006). Hệ số GINI tăng từ
0,34 (năm 1993) lên 0,36 (năm 2006).
Cũng theo số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2007, 60% tầng lớp dân
cư nước ta có mức sống từ trung bình trở xuống chỉ chiếm 36,7% tổng chi
tiêu của cả nước và tiếp tục giảm còn 35,5% vào năm 2006; trong khi đó,
20% tầng lớp dân cư giàu nhất chiếm 41,8% (năm 1993) và tăng lên 43,3%
(năm 2006) tổng chi tiêu của cả nước.
Khái niệm bình đẳng mang tính chất tương đối khi so sánh giữa các
tầng lớp dân cư, nên khác với ý nghĩa của kết quả giảm hộ nghèo, mặc dù
những năm qua, chúng ta đã rất thành công trong các chương trình xóa đói,
giảm nghèo; nhất là các Chương trình 135, 132 của Chính phủ đã giải quyết

được tình trạng nghèo tuyệt đối ở các địa bàn nông thôn. Theo đó, tỷ lệ hộ
nghèo đã giảm rất ấn tượng trong 15 năm qua: từ 58,1% (năm 1993) xuống
còn khoảng 11% (năm 2009).
Dù nước ta hiện không còn nằm trong số 50 quốc gia nghèo nhất của
thế giới theo tiêu chí xếp loại của UNDP (với mức GINI dưới


12
750USD/người/năm), nhưng vẫn chỉ là quốc gia có thu nhập trung bình ở
ngưỡng thấp theo tiêu chí đánh giá của Ngân hàng Thế giới (thu nhập trung
bình GDP/người từ 936 USD đến 3.705 USD). Tuy nhiên, nhờ đường lối sáng
suốt của Đảng ta trong việc kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với công
bằng xã hội trong hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, Việt Nam đã đạt
nhiều thành tựu về tiến bộ xã hội.
Cụ thể là: chỉ số HDI đạt 0,733, xếp hạng 105/177 quốc gia, thuộc
nhóm trung bình cao (nhóm trung bình từ 0,503 đến 0,798). Tỷ lệ hộ nghèo đã
giảm xuống còn khoảng 11% theo tiêu chí Việt Nam (nếu theo tiêu chí quốc tế
là 2 USD/người/ngày thì số hộ nghèo còn khoảng 40%). Bảo hiểm y tế được
mở rộng đến 52% dân số, 100% số xã có trạm y tế và 78% số xã có bác sĩ phụ
trách. Tuổi thọ trung bình đạt 72 tuổi. Trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng còn
dưới 20%. Ngân sách nhà nước đã bảo đảm được 78% chi phí cho giáo dục
đào tạo toàn xã hội (đạt 20% ngân sách nhà nước) v.v…
Những thành tựu nêu trên phần nào phản ánh được sự đúng đắn trong
đường lối đổi mới của Đảng nói chung và trong Chiến lược xóa đói, giảm
nghèo giai đoạn 2001 - 2010 nói riêng. Tuy vậy, trong quá trình thực thi
chính sách, vẫn bộc lộ không ít những hạn chế cùng nhiều vấn đề xã hội
khác đang đặt ra.
- Những vấn đề đang tồn tại:
Thứ nhất, giữa chính sách kinh tế tài chính và chính sách xã hội chưa
thực sự gắn kết với nhau, dẫn đến sự phân hóa về thu nhập và tài sản ngày

càng lớn.
Hiện ở nước ta chưa có cuộc điều tra nào về sự phân hóa thu nhập và
tài sản, mà chỉ có điều tra về mức chi tiêu. Sự giàu nhanh của một bộ phận
dân cư, chủ yếu dựa vào sự bất cập của cơ chế và yếu kém trong quản lý nhà
nước, chứ không phải dựa vào tài năng, sự sáng tạo và hiệu quả của lao động.


13
Chẳng hạn, trong 10 năm gần đây, có rất nhiều người giàu nhanh là nhờ vào
“lỗ hổng” trong quản lý đất đai. Tuy chưa có cuộc điều tra nào về vấn đề này,
nhưng thực tế dễ nhìn thấy được là do yếu kém và tiêu cực trong quản lý đất
đai, nhất là ở các đô thị lớn, đã biến nguồn vốn xã hội này thành của cải của
một thiểu số, tạo sự bất công xã hội ngày càng gay gắt.
Do chính sách thiếu đồng bộ, nhất là sử dụng không hiệu quả các công
cụ quản lý, như quy hoạch, quản lý sử dụng đất, quản lý dự án đầu tư bất
động sản, sử dụng công cụ tài chính như thuế, phí… để điều tiết và chống đầu
cơ, đã tạo ra bất công xã hội.
Thứ hai, quá trình đô thị hóa diễn ra tự phát, thiếu quy hoạch và chính
sách điều tiết chưa hợp lý dẫn đến mâu thuẫn giữa mục tiêu kinh tế và mục
tiêu xã hội.
Nghiên cứu kinh nghiệm ở nhiều quốc gia cho thấy, trong quá trình đô
thị hóa và công nghiệp hóa, vấn đề khó khăn nhất là làm thế nào để chuyển
một bộ phận nông dân mất đất thành thị dân, trở thành người lao động trong
các ngành nghề phi nông nghiệp. Ở nhiều địa phương, chính quyền chủ yếu
chỉ quan tâm vào việc giải tỏa nhanh để lấy đất, đền bù cho người dân một số
tiền theo kiểu “áp đặt giá mua”, trong khi việc quan trọng hơn là giúp họ tổ
chức cuộc sống cho bản thân và gia đình sau khi mất đất thì ít được quan tâm.
Nhiều người đã hiểu sai lệch về cơ chế kinh tế thị trường theo kiểu “thuận
mua vừa bán” trong công tác đền bù giải tỏa (để chuyển từ đất nông nghiệp
sang phi nông nghiệp), mà không hiểu rằng, chỉ có việc làm mới là cơ sở quan

trọng nhất tạo sự ổn định cuộc sống cho mỗi con người.
Thứ ba, trong mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã
hội thông qua sự vận động của cơ chế thị trường, công cụ quan trọng nhất để
Nhà nước điều tiết là thuế và phí.


14
Trong đó, chính sách thuế phải chuyển dần từ thuế gián thu sang thuế
trực thu, như thuế thu nhập cá nhân, thuế tài sản bất động sản trong nguồn thu
ngân sách nhà nước. Sau Đại hội IX (năm 2001), Chính phủ đã có chiến lược
cải cách về thuế trong giai đoạn 2001 - 2010 nhằm thay đổi cơ cấu nguồn thu.
Thuế trực thu hiện mới đóng góp khoảng 7% - 8% cho ngân sách, còn chủ
yếu dựa vào thuế gián thu. Mặt khác, những nỗ lực của Nhà nước thời gian
qua để kiểm soát thu nhập của các tầng lớp dân cư nhằm điều tiết bằng công
cụ thuế thu nhập cá nhân đã không mấy thành công do chưa giải quyết được
tình trạng của nền kinh tế tiền mặt.
Thứ tư, mô hình kinh tế dựa vào nền tảng phát triển các doanh nghiệp
vừa và nhỏ là mô hình tạo ra tầng lớp trung lưu chiếm chủ yếu trong cơ cấu
xã hội, nên tính bình đẳng càng cao.
Trong nhiều năm qua, chúng ta cũng có chủ trương hỗ trợ để phát triển
doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhưng trên thực tế, khi thực hiện chủ trương này,
hầu như không có chính sách cụ thể kèm theo, như chính sách thuế, chính
sách tín dụng, chính sách hỗ trợ về đất đai, dịch vụ sản xuất, ứng dụng công
nghệ, đào tạo nhân lực, xúc tiến thương mại... Hiện nay, cả nước có đến hàng
chục tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhưng chủ yếu vẫn chỉ là cung
cấp dịch vụ để thu phí, thay vì thực thi chính sách quốc gia hỗ trợ cho doanh
nghiệp vừa và nhỏ phát triển.
Thứ năm, có sự lệch lạc trong việc thực thi chủ trương xã hội hóa các
dịch vụ thuộc về hạ tầng xã hội như giáo dục, y tế, văn hóa v.v…
Điển hình nhất là thương mại hóa các lĩnh vực giáo dục, y tế với chủ

trương cho phép thành lập các loại công ty kinh doanh y tế, giáo dục. Ai cũng
biết, bản chất của công ty là tối đa hóa lợi nhuận, nên không thể vừa cho lập
công ty kinh doanh vừa kêu gọi hạn chế lợi nhuận. Trong khi đó, y tế, giáo
dục là vấn đề của Nhà nước chứ không phải là vấn đề của thị trường. Một khi


15
để thị trường điều tiết 2 loại dịch vụ công này, thì không thể rút ngắn được
khoảng cách biệt về hưởng thụ giữa các tầng lớp dân cư, để từ đó góp phần
nâng cao tính chất công bằng xã hội.
Mặc dù đến nay người ta nhận thấy rằng, chưa có mô hình kinh tế nào
tạo động lực phát triển tốt hơn mô hình kinh tế thị trường, nhưng bản thân mô
hình kinh tế này cũng có nhiều khuyết tật mang tính bản chất, nổi bật, do đặc
điểm chế độ chính trị, truyền thống văn hóa, lịch sử và năng lực quản trị khác
nhau, nên việc giải quyết những khuyết tật đó ở mỗi quốc gia sẽ có kết quả
khác nhau. Có thể nói: Vai trò của nhà nước là hạn chế những thất bại của thị
trường, đồng thời khắc phục những khuyết tật cố hữu của thị trường, chức
năng này càng trở nên quan trọng đối với nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa mà nước ta đang xây dựng.
2. Quan điểm của Đảng ta và những giải pháp cơ bản nhằm gắn kết
tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội trong điều kiện nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
2.1. Quan điểm của Đảng ta về gắn kết hợp lý giữa phát triển kinh tế
và tiến bộ, công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta
* Quan điểm tổng quát:
Phát triển kinh tế gắn kết hợp lý với tiến bộ, công bằng xã hội ngay trong
từng giai đoạn phát triển và trong suốt quá trình phát triển; phát triển kinh tế nhanh
và bền vững gắn với bảo vệ môi trường, bảo đảm an sinh xã hội, giảm bất bình
đẳng, bảo đảm thống nhất chính sách phát triển kinh tế và chính sách xã hội.

Bảo đảm công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của công dân trong chế độ
phân phối thu nhập, cơ hội phát triển và điều kiện thực hiện cơ hội. Phát triển
hài hoà đời sống vật chất và đời sống tinh thần, gắn nghĩa vụ với quyền lợi,
cống hiến với hưởng thụ, quyền hạn với trách nhiệm, lợi ích cá nhân với lợi ích


16
tập thể và cộng đồng xã hội. Khuyến khích làm giàu theo pháp luật đi đôi với
xoá đói giảm nghèo, từng bước làm cho mọi thành viên trong xã hội đều có
cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Có thể nói một trong những quan điểm lớn, giữ vai trò chủ đạo, bảo đảm cho
công cuộc đổi mới theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa là kết hợp tăng trưởng
kinh tế với từng bước thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Đây là vấn đề được
Đảng ta đặc biệt chú ý trong quá trình hoạch định đường lối, chính sách. Phải bảo
đảm tính thống nhất và mối liên hệ mật thiết, sự tác động qua lại lẫn nhau giữa
chính sách kinh tế với chính sách xã hội, ngày càng chú trọng nhiều hơn tới chính
sách phát triển văn hóa và con người, chú trọng xây dựng đạo đức xã hội lành
mạnh, ngăn ngừa tình trạng suy thoái đạo đức, đẩy mạnh đổi mới giáo dục để chấn
hưng giáo dục.
Ở Việt Nam, trong quá trình đổi mới, đường lối của Đảng, chính sách
của Nhà nước đã thể hiện quan điểm mới, sâu sắc và toàn diện trong việc giải
quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội. Điều này
được phản ánh một cách nhất quán trong các văn kiện lớn của Đảng và trong
chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong suốt thời kỳ đổi mới:
Đại hội VI (1986) bước đầu đã nêu lên: “Trình độ phát triển kinh tế là
điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng những mục tiêu xã
hội lại là mục đích của các hoạt động kinh tế”8
Đến đại hội VII (1991) Đảng ta đã chính thức khẳng định một số quan điểm chỉ
đạo việc kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội.
Đại hội VIII (1996) của Đảng bổ sung quan điểm quan trọng là: “Tăng

trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng
bước và trong suốt quá trình phát triển”9
8

9

Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.86
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1996, tr.113


17
Đến Hội nghị Trung ương 4 khóa VIII, Đảng ta nhấn mạnh rằng, phát
triển kinh tế phải đi đôi với thực hiện công bằng xã hội, thu hẹp khoảng cách
giữa thành thị và nông thôn, giữa nông thôn với nông thôn, giữa thành thị với
thành thị, giữa các tầng lớp xã hội .
Đường lối đúng đắn đó tiếp tục được Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng
định tại Đại hội lần thứ IX: “… phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững;
tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội, bảo vệ và cải thiện môi trường” 10
Vấn đề trên được Đại hội X của Đảng bổ sung và phát triển một bước quan
trọng: “Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả
nước, ở từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện tốt chính sách xã hội
trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ,
tạo động lực mạnh mẽ và bền vững hơn cho phát triển kinh tế - xã hội. Tập
trung giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc”11 Như vậy, quan điểm phát triển
của Đảng ta là phát triển trong công bằng và tiến bộ xã hội, mục tiêu phát triển là
đưa đất nước sớm ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Tiếp tục nhận thức điều đó, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục đề cập: “Chính sách xã
hội đúng đắn, công bằng vì con người là động lực mạnh mẽ phát huy mọi năng lực
sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm công
bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân”12

10

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2001, tr.88 - 89
11
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, H.2006, tr.101
12
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr.79


18
Đại hội XI của Đảng đã khẳng định: “Kết hợp chặt chẽ, hợp lý phát
triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội ngay trong từng bước và từng chính sách; phát triển hài hoà đời sống vật
chất và đời sống tinh thần, không ngừng nâng cao đời sống của mọi thành
viên trong xã hội về ăn, ở, đi lại, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh và nâng cao
thể chất, gắn nghĩa vụ với quyền lợi, cống hiến với hưởng thụ, lợi ích cá nhân
với lợi ích tập thể và cộng đồng xã hội” 13
Như vậy, theo quan điểm Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, vấn đề có
tính quy luật là chỉ có trên cơ sở phát triển kinh tế mới có điều kiện để làm tốt
chính sách xã hội, phải tập trung phát triển kinh tế, một nhiệm vụ trung tâm,
đồng thời thực hiện tốt chính sách xã hội không chỉ bảo đảm cho sự phát triển
bền vững của nền kinh tế mà còn thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
* Quan điểm cụ thể:

Một là: Phát triển kinh tế nhanh, bền vững là điều kiện vật chất bảo đảm
tiến bộ và công bằng xã hội và tiến bộ, công bằng xã hội là tiền đề cho phát
triển kinh tế cao, ổn định.
Phát triển kinh tế tạo điều kiện vật chất để thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội; đến lượt nó, thực hiện tốt tiến bộ và công bằng xã hội lại trở thành tiền
đề tinh thần thúc đẩy phát triển kinh tế; Không thể có tiến bộ và công bằng xã
hội trên cơ sở một nền kinh tế kém hiệu quả, chất lượng thấp, thậm chí có lúc
rơi vào trì trệ, suy thoái hoặc khủng hoảng. Cũng không thể có một nền kinh tế
tăng trưởng nhanh, có hiệu quả cao và bền vững trong một xã hội với đa số lao
động chỉ có trình độ học vấn và tay nghề thấp, một tỷ lệ đáng kể dân cư còn
nghèo do thất nghiệp hoặc thiếu việc làm.
Hai là: Phát triển kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là hai nhân tố chủ lực
phát triển bền vững; Về bản chất, đây chính là sự phát triển bền vững của đất nước
13

Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, tr.79


19
ta. Phát huy sự đồng thuận của hai nhân tố này để tạo ra hợp lực phát triển kinh tế
- xã hội nhanh và bền vững, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là: Phát triển kinh tế gắn với nâng cao dân trí, bảo đảm các quyền con
người và bảo vệ môi trường; Phát triển kinh tế và công bằng xã hội trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không thể tách rời nâng cao dân trí.
Nhiệm vụ đặc biệt quan trọng đặt ra hiện nay là phải đưa các yếu tố nhân văn
thấm sâu vào mọi lĩnh vực hoạt động và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước ta
đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc
lực sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất,
kinh doanh, phải tập trung xây dựng và hình thành cho được một đội ngũ đông
đảo những nhà kinh doanh giỏi có nhân cách và đạo đức kinh doanh.

Bốn là: Không có công bằng tuyệt đối và cần xoá bỏ chủ nghĩa cào bằng,
bình quân. Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong điều kiện nền kinh tế
thị trường nhiều thành phần, đa sở hữu phải triệt để khắc phục những tàn dư
của chế độ phân phối bình quân, chia đều các nguồn lực và của cải làm ra, bất
chấp chất lượng, hiệu quả sản xuất, kinh doanh và sự đóng góp công sức, trí tuệ,
tài sản của mỗi người cho sự phát triển chung của đất nước, như đã từng sai lầm
trong thời kỳ đổi mới; Càng không thể dồn phần lớn của cải làm ra để thực hiện
chính sách bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội vượt quá khả năng mà nền kinh
tế cho phép. Bởi như vậy sẽ làm giảm các điều kiện cần thiết để thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, khiến cho kinh tế trì trệ, suy thoái và rốt cuộc cũng không thực
hiện được các chính sách xã hội theo hướng tiến bộ và công bằng.
Năm là: Thực hiện gắn kết hợp lý giữa phát triển kinh tế và tiến bộ, công
bằng xã hội ngay trong từng giai đoạn và trong suốt quá trình phát triển nhưng
có mức độ và lộ trình cụ thể. Trong mỗi bước đi, mỗi thời điểm cụ thể của quá
trình phát triển, phải tìm ra mức độ phù hợp giữa phát triển kinh tế với công


20
bằng xã hội, sao cho hai mặt này không cản trở, triệt tiêu lẫn nhau mà trái lại có
thể bổ trợ cho nhau.
Tóm lại, có thể khái quát quan điểm chỉ đạo của Đảng về vấn đề này
trên một số điểm cơ bản sau: Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội; Để công bằng xã hội trở
thành động lực phát triển kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, cần phải gắn quyền lợi với nghĩa vụ, cống hiến với hưởng thụ;
Thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trên phạm vi cả
nước, ở mọi lĩnh vực, địa phương ngay trong từng bước và từng chính sách
phát triển; Bảo đảm sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công
bằng xã hội nhằm phát triển xã hội mà trung tâm là phát triển con người, phát
huy nhân tố con người; Phát huy vai trò của nhà nước, đẩy mạnh xã hội hóa

các hoạt động xã hội là nhân tố cơ bản đảm bảo kết hợp tăng trưởng kinh tế
với công bằng xã hội.
2.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm gắn kết tăng trưởng kinh tế và
tiến bộ, công bằng xã hội trong điều kiện nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế
với công bằng xã hội cũng như thực trạng những ưu, khuyết điểm trên thực tế
khi hiện thực hóa vấn đề này, cần thực hiện một số giải pháp cơ bản nhằm
thực hiện tốt hơn nữa việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã
hội ở nước ta hiện nay:
Thứ nhất, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của các
đoàn thể xã hội là điều kiện tiên quyết để kết hợp chặt chẽ các mục tiêu kinh
tế với các mục tiêu xã hội, thực hiện công bằng xã hội ngay trong từng bước
và từng chính sách phát triển.


21
Việc gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội trong điều kiện kinh
tế thị trường tất yếu cần đến sự can thiệp của các nhân tố chủ quan. Trong
điều kiện nước ta hiện nay, trong bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều
nhạy cảm, không ít những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc nhằm làm lu mờ
vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền, xa rời mục tiêu Đảng và nhân dân ta đã
lựa chọn, điều tiên quyết là phải giữ vững sự lãnh đạo của Đảng. Dù công
cuộc đổi mới do Đảng lãnh đạo còn nhiều hạn chế, song không thể phủ nhận
được những thay đổi lớn lao và toàn diện của đất nước trong thời kỳ đổi mới.
Những thành tựu ấy cùng với sự đổi mới tư duy lãnh đạo của Đảng đã tạo đà
cho bước phát triển tiếp theo.
Tuy nhiên, trước yêu cầu mới, đòi hỏi của đất nước, Đảng cầm quyền
phải là một Đảng có trí tuệ ngang tầm, bản lĩnh vững vàng, trong sạch, giữ
được niềm tin nơi dân chúng, Đảng phải thật sự tiên tiến, lắng nghe ý kiến của

nhân dân, hoạch định chủ trương đúng; Đảng phải thực sự là hạt nhân đoàn
kết tập hợp các giai cấp, tầng lớp xã hội, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết
toàn dân tộc để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới.
Hướng tới mục tiêu trên, Đảng cần nghiêm túc phê và tự phê bình để
vượt lên chính mình trong nhận thức; Đẩy mạnh công cuộc đấu tranh chống
quan liêu, tham nhũng, lãng phí, thờ ơ, vô trách nhiệm trong chính đội ngũ
cán bộ, đảng viên; Đoàn kết trong nội bộ Đảng và thực sự trở thành hạt nhân
trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc… Làm được như vậy, sẽ nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong công cuộc đổi mới đất nước
hiện nay. Bên cạnh đó, việc phát huy vai trò của các đoàn thể chính trị - xã hội
cũng là một nhân tố vô cùng quan trọng trong việc khuyến khích, tổ chức
người dân phát triển kinh tế cũng như thực hiện chính sách xã hội.
Thứ hai, phát huy vai trò của Nhà nước trong việc kết hợp tăng trưởng
kinh tế với công bằng xã hội ở nước ta hiện nay.


22
Thực tế phát triển kinh tế thị trường ở các nước và kinh nghiệm nước ta
trong những năm qua cho thấy sự phân hoá, phân tầng là một tất yếu: Tăng
trưởng kinh tế thường không đồng thuận với những yêu cầu phát triển xã hội,
nhân văn và môi trường. Người nghèo, vùng nghèo và cả những người có
công với đất nước luôn đứng trước nguy cơ bị bần cùng hoá trước sự bùng
phát của kinh tế thị trường, môi trường bị huỷ hoại vì các mục tiêu kinh tế
được đặt lên hàng đầu… Nếu để tự phát sẽ tạo nên phân hoá lớn, gây mất ổn
định xã hội, đạo lý sẽ bị vi phạm, môi trường xã hội nhân văn tốt đẹp không
được thực hiện, môi trường sinh thái bị suy thoái. Giải pháp cho vấn đề này
tất yếu cần đến bàn tay điều tiết của Nhà nước.
Đối với các nước xã hội chủ nghĩa, việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh
tế với công bằng xã hội càng trở nên cần thiết hơn. Đó là yêu cầu khách quan,
không chỉ để tăng trưởng kinh tế mà bảo đảm cho mục tiêu chính trị đã lựa

chọn. Điều này không đến một cách tự nhiên mà còn có sự tác động một cách
chủ động của kiến trúc thượng tầng chính trị, trước hết là nhà nước: Nhà nước
điều tiết trước hết bằng những định hướng phát triển thông qua các chiến lược
quy hoạch, kế hoạch và cơ chế, chính sách; Nhà nước định hướng xã hội chủ
nghĩa cho quá trình phát triển kinh tế thị trường, nhà nước không chỉ tác động
vào các quá trình kinh tế - xã hội, tạo điều kiện cho kinh tế tăng trưởng và
phát triển mà còn bảo đảm cho tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng xã hội;
vai trò của nhà nước được phát huy qua việc ban hành và thực thi hệ thống
chính sách xã hội - thông qua các tổ chức thiết chế nhà nước có thể điều hành
mọi cấp, mọi ngành, mọi lĩnh vực, mọi đối tượng.
Nhà nước với vai trò quản lý xã hội của mình phải có chính sách
khuyến khích làm giàu chính đáng, tạo điều kiện cho mọi đối tượng có cơ hội
ngang nhau trong lao động, trong tổ chức, trong kinh doanh; có chính sách
phân phối thu nhập phù hợp theo lao động, theo đóng góp và chính sách phân


23
phối lại thu nhập thông qua nhiều chính sách kinh tế để điều tiết thu nhập của
các tầng lớp dân cư; đồng thời có các biện pháp, chính sách ưu tiên cho phát
triển nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa vùng đồng bào dân tộc thiểu số,
vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến trước đây, nhằm giảm dần khoảng cách
về trình độ phát triển giữa các vùng này, từng bước khắc phục tình trạng “bất
công tự nhiên” và bất công do lịch sử để lại, giữ vững ổn định chính trị - xã
hội, bảo đảm cho sự phát triển bền vững của đất nước.…
Thứ ba, mở rộng và phát huy dân chủ trong nhân dân
Dân chủ theo nghĩa rộng bao gồm nhiều khía cạnh: Dân chủ là giá trị,
là chế độ chính trị, là nguyên tắc tổ chức, là mục tiêu xã hội… Ở đây, dân chủ
được đề cập đến chủ yếu trên phương diện là phương thức thực hiện quyền
làm chủ của nhân dân lao động, từ kinh tế đến chính trị - xã hội nói chung
nhằm hướng tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.

Ở Việt Nam, xây dựng một xã hội mới từ một nước thuộc địa, nửa
phong kiến, - vốn có bản chất là không dân chủ, vì vậy truyền thống dân chủ
nước ta hết sức hạn chế. Hơn nữa, một thời gian dài, chúng ta thực hiện cơ
chế quan liêu, bao cấp nên những cách độc đoán, chuyên quyền, thiếu dân chủ
tiếp tục được duy trì. Đây là một trong những nguyên nhân làm giảm sút sức
cạnh tranh lành mạnh trong phát triển kinh tế thị trường cũng như tạo nên
những bất công phi lý trong các quan hệ xã hội. Vì vậy, mở rộng và phát huy
dân chủ không chỉ là mục tiêu thể hiện tính tốt đẹp nhân văn của xã hội mà
còn là phương thức hữu hiệu để thực hiện mục tiêu ấy.
Mở rộng và phát huy dân chủ trong kinh tế là yêu cầu số một hiện nay với nội hàm chính là mọi thành phần kinh tế đều có điều kiện để phát triển
trong khuôn khổ của pháp luật. Đi liền với nó là bãi bỏ sự độc quyền cũng
như cơ chế xin - cho, làm giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế.


24
Dân chủ trong kinh tế một mặt đòi hỏi phải động viên, khuyến khích và
có cơ chế để mọi người làm giàu một cách chính đáng, mặt khác phải trừng trị
những kẻ làm giàu bất chính trái pháp luật. Trước đây, trong bối cảnh mất
nước, nhiệm vụ hàng đầu là giành lại độc lập, tự do cho đất nước. Hiện nay
đất nước đã độc lập, điều quan trọng là phải làm cho nước mạnh, dân giàu dân chủ trong kinh tế không đi ngoài mục tiêu ấy.
Mở rộng, phát huy dân chủ trong kinh tế phải đi liền với dân chủ về
chính trị - xã hội với những nội dung cơ bản để mọi tầng lớp nhân dân nhận
thức được trách nhiệm xã hội và tham gia vào các quá trình chính trị xã hội
với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Cần tăng cường
và cải tiến các hoạt động mang tính dân chủ cao như chất vấn đại biểu Quốc
hội và Hội đồng nhân dân, đối thoại trực tiếp với nhân dân qua cầu truyền
hình và Internet, thiết lập các đường dây nóng liên lạc với người dân, đổi mới
tiếp xúc với cử tri… Thực tế cho thấy nơi nào phát huy tốt dân chủ cơ sở sẽ
hạn chế được những hiện tượng tiêu cực, những biểu hiện sai trái, vi phạm kỷ
cương, phép nước, những biểu hiện suy thoái đạo đức của một số cán bộ có

chức, có quyền, các hiện tượng quan liêu, tham nhũng.
Việc mở rộng dân chủ phải đi liền với kỷ cương, pháp luật. Trên cơ sở
đó phát huy vai trò chủ động, tích cực của mọi tầng lớp dân cư tham gia và
quản lý kinh tế - xã hội, tham gia kiểm kê, kiểm soát lực lượng lao động, sản
xuất và phân phối sản phẩm… Mục tiêu tăng trưởng kinh tế và công bằng xã
hội ắt sẽ được thực hiện.
Thứ tư, nâng cao hiệu quả công tác chống tham nhũng lãng phí, làm
ăn phi pháp, tệ nạn xã hội
Một trong những lực cản đối với tăng trưởng kinh tế và công bằng xã
hội bắt nguồn từ các hoạt động quan liêu, tham nhũng, làm ăn phi pháp.
Những hoạt động này làm giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế, kém hiệu quả


25
trong các hoạt động đầu tư, giảm cơ hội xoá đói, giảm nghèo, làm hao mòn
những nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội, tổn thất ấy không chỉ đo bằng tài
sản, tiền bạc vật chất mà còn là máu, nước mắt và cả những cống hiến hy sinh
của nhiều thế hệ con người Việt Nam.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện tượng trên và diễn biến cụ thể của
nó cũng rất phức tạp. Đó là hậu quả của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp
kéo dài, vẫn còn tồn tại cơ chế xin - cho; do chính sách văn bản quy định
thiếu minh bạch, không đồng bộ, do kỷ cương luật pháp chưa thật nghiêm
minh; do lạm dụng công quyền để mưu lợi cá nhân… Dù xuất phát từ lý do
nào thì đây thực sự là thứ giặc nội xâm hàng ngày, hàng giờ làm xói mòn nền
kinh tế, làm méo mó các quan hệ xã hội, làm lệch lạc những giá trị đạo lý
truyền thống, lu mờ các giá trị nhân văn đang được định hình và củng cố
trong xã hội mới. Đẩy mạnh công tác chống tham nhũng, lãng phí làm ăn bất
chính là yêu cầu tất yếu trong chiến lược phát triển kinh tế và thực hiện công
bằng xã hội ở nước ta hiện nay. Để thực hiện được điều này cần thực hiện
đồng bộ các biện pháp sau:

- Phải kiên quyết và xử lý kịp thời, nghiêm minh đúng pháp luật các vụ
việc vi phạm, nhất là các vụ nghiêm trọng, không phân biệt người vi phạm ở
cương vị nào, cấp nào, đồng thời xử lý công khai, nghiêm minh những người
có biểu hiện bao che, dung túng cho tham nhũng.
- Đẩy mạnh chất lượng cải cách hành chính và hệ thống chính trị; xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách đầy đủ, đồng bộ, minh bạch.
- Phát huy sức mạnh tổng hợp của quần chúng và các cơ quan thông tin
đại chúng: Một bài học quan trọng được rút ra từ kinh nghiệm nhiều nước trên
thế giới là để chống tham nhũng có hiệu quả phải có những kênh thông tin
lành mạnh và đội ngũ nhà báo dũng cảm, trung thực dám dấn than vì cuộc
chiến chống tham nhũng; Lắng nghe và tôn trọng dư luận xã hội được phản


×