Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Thu hoach CHỦ NGHĨA LY KHAI dân tộc TRÊN THẾ GIỚI và ẢNH HƯỞNG của nó đối với CÁCH MẠNG VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.01 KB, 22 trang )

1
CHỦ NGHĨA LY KHAI DÂN TỘC TRÊN THẾ GIỚI VÀ ẢNH HƯỞNG
CỦA NÓ ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM HIỆN NAY

MỞ ĐẦU
Sau khi trật tự hai cực đổ vỡ, thế giới diễn ra những quá trình hợp tác,
đấu tranh, xâm nhập vào nhau và chuyển hóa lẫn nhau vô cùng phức tạp để
thiết lập một trật tự thế giới mới - trật tự theo xu hướng đa cực.
Trong khi đó, các cuộc chiến tranh nhỏ và vừa có nhiều dạng hình khác
nhau, mỗi nơi một vẻ, nhưng tựu trung lại, có thể chia thành các loại: chiến
tranh khu vực, các cuộc nổi dậy, các hoạt động khủng bố, xung đột sắc tộc, tôn
giáo, chiến tranh từ những mâu thuẫn quyền lợi kinh tế giữa các quốc gia dân
tộc có chủ quyền, chiến tranh do những tham vọng chính trị và các cuộc nội
chiến. Các cuộc chiến tranh đã thay nhau ngự trị khắp nơi. Hầu hết các cuộc
chiến tranh nói trên đều bắt nguồn từ vấn đề dân tộc hoặc có liên quan đến vấn
đề dân tộc. Trong đó, chủ nghĩa ly khai dân tộc là một trong những mầm mống
cơ bản làm gia tăng các cuộc xung đột giữa các quốc gia dân tộc với nhau, giữa
các tộc người trong một quốc gia dân tộc.
Đối với Việt Nam - một quốc gia đa tộc người, trong thời gian qua, với
những quan điểm, chính sách dân tộc đúng đắn, kịp thời, chúng ta đã giải
quyết khá tốt vấn đề dân tộc, phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Bên cạnh những kết
quả đã đạt được, trong giải quyết vấn đề dân tộc vẫn còn một số yếu kém,
khuyết điểm. Các thế lực thù địch trong và ngoài nước đã viện cớ đó để đẩy
mạnh chống phá cách mạng Việt Nam với những âm mưu, thủ đoạn vô cùng
tinh vi và xảo quyệt. Đặc biệt, khắp nơi trong cả nước đã xuất hiện những
“điểm nóng” về vấn đề dân tộc như: Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nghệ An,
Tây Nam Bộ…Đã xuất hiện tư tưởng ly khai, đòi độc lập, thành lập quốc gia
riêng như “Nhà nước Đềga độc lập”, “Nhà nước Khơ me Crôm”…Những vấn
đề đó không chỉ làm mất ổn định, trật tự an toàn xã hội và còn đe dọa nghiêm



2
trọng đến việc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa hiện nay.
Do vậy, trong quá trình nghiên cứu môn Dân tộc học, tôi đã lựa chọn vấn đề
“Chủ nghĩa ly khai dân tộc trên thế giới và ảnh hưởng của nó đối với cách mạng
Việt Nam hiện nay” làm nội dung viết thu hoạch. Trên cơ sở làm rõ một số biểu
hiện, nguyên nhân của chủ nghĩa ly khai ngày nay, liên hệ vận dụng vào nhận thức
và giải quyết vấn đề tự quản, tự trị, đòi ly khai ở nước ta hiện nay.
NỘI DUNG
1. Chủ nghĩa ly khai dân tộc trên thế giới - những biểu hiện và
nguyên nhân
* Khái lược những biểu hiện của chủ nghĩa ly khai dân tộc
Kể từ thập niên 90 của thế kỷ XX, sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ
nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu đã dẫn tới sự giải thể của một số quốc gia đa
dân tộc. Làn sóng này đã tác động lên nhiều khu vực ở châu Âu và châu Phi.
Thế giới đã bùng lên một trào lưu mới - trào lưu chủ nghĩa ly khai dân tộc.
Vấn đề dân tộc ở nhiều quốc gia đã trở thành vấn đề nổi cộm, thu hút nhiếu sự
quan tâm sâu sắc của cộng đồng quốc tế.
Hiện nay, Châu Âu những mầm mống của chủ nghĩa ly khai, chủ nghĩa
dân tộc cực đoan xuất hiện từ lâu và các nhà phân tích dự báo, trong thế kỷ 21
này, sẽ có hơn chục quốc gia mới xuất hiện trên bản đồ châu Âu.
Điển hình nhất cho chủ nghĩa ly khai ở châu Âu là Xứ Basque của Tây
Ban Nha: Đất nước Tây Ban Nha hiện có khoảng 2 triệu người Basque sống ở
ba tỉnh (được gọi là xứ Basque). Vùng đất này có nội lực mạnh hơn các vùng
khác thuộc Tây Ban Nha; đời sống của người dân cũng ở mức trên trung bình
mức sống người Tây Ban Nha và tiếng Basque được thừa nhận là ngôn ngữ
chính thức. Kể từ khi Côsôvô tuyên bố độc lập, tháng 2/2008, như phát súng
phát động, phong trào đấu tranh đòi độc lập của xứ Basque ngày càng phát
triển. Tổ chức ly khai ETA đã tiến hành đấu tranh vũ trang đòi độc lập cho xứ

Basque từ giữa những năm 1960; Cuộc đấu tranh này không ngừng lại sau khi
Tây Ban Nha chuyển về hình thức phát triển dân chủ khi tướng Franco đã qua


3
đời và xứ Basque lại được khôi phục quyền tự trị; Cuối tháng 3/2007, ETA đã
ra tuyên bố ngừng bắn và ngỏ ý muốn tiến hành thương lượng hòa bình với
chính phủ Tây Ban Nha. Tuy nhiên tới cuối tháng 12/2007, ETA lại gây ra
một vụ đánh bom ở sân bay Madrid với lý do là vì “chính phủ Tây Ban Nha
không muốn ủng hộ tiến trình hòa bình”…
Sự tan rã của Liên bang Nam Tư là ví dụ điển hình trong số các quốc
gia đa dân tộc bị giải thể cuối thế kỷ XX. Trong quá trình tan rã, gần như mỗi
một lần phân tách là một lần chiến tranh đẫm máu nổ ra, chỉ khác nhau ở chỗ
là thời gian dài hay ngắn, quy mô lớn hay nhỏ mà thôi. Hiện tại, sự tan rã này
vẫn đang tiếp diễn. Phong trào đòi ly khai của người Anbani ở Côxôvô, thêm
vào đó là sự can thiệp của NATO do Mỹ cầm đầu, đã diễn biến thành chiến
tranh xâm lược Liên bang Nam Tư - một cuộc chiến tranh mà so sánh lực
lượng giữa hai bên cực kỳ chênh lệch, trong đó kẻ mạnh ức hiếp, chèn ép kẻ
yếu. Và cho đến nay, Liên bang Nam Tư tiếp tục bị chia cắt tới mức cuối cùng
chỉ còn lại khu vực có đa số người Xécbia sinh sống.
Nước Pháp cũng có kinh nghiệm lâu đời trong việc đối mặt với các
phần tử theo chủ nghĩa ly khai và cực đoan trong phần lãnh thổ của mình,
trước hết là ở hòn đảo lớn thứ tư thuộc Địa Trung Hải, Corsica. Các nhóm
người đảo Corsica đã tiến hành đấu tranh vũ trang với quân đội Pháp vào
giữa những năm 1970, liên minh Dân tộc đảo Corsica và Phong trào Tự
quyết là hai lực lượng có ảnh hưởng nhất trong các nhóm nổi dậy này. Cả
hai đều có các đơn vị chiến đấu được vũ trang. Trước đây, quốc hội Pháp đã
thừa nhận sự tồn tại một quốc gia của người Corsica, nhưng quyết định này
sau đó bị huỷ vì đi ngược lại Hiến pháp Cộng hoà Pháp. Thời gian gần đây,
các phần tử khủng bố trên đảo Corsica lại tiến hành những hoạt động nồi da

nấu thịt, làm trầm trọng hơn hủ tục báo thù truyền kiếp.
Tại nước Anh, tư tưởng ly khai đã chuyển từ Ulster đến Scotland, các
cuộc bầu cử cơ quan lập pháp ở Scotland mới đây chiến thắng đều thuộc về
những người ủng hộ việc thành lập một nhà nước độc lập mới, thuộc đảng dân
tộc Scotland (SNP); Người đứng đầu chính quyền Scotland Alex Salmond


4
tuyên bố rằng Scotland có thể sẽ giành độc lập trong một thập kỷ tới. Tuy
nhiên, xu hướng người dân ủng hộ nền độc lập đang có dấu hiệu giảm dần
23% so với 30% trong cuộc thăm dò một năm trước đây.
Bồ Đào Nha: Những người Hy Lạp ở miền Nam Albania và dân vùng
Azores ngày càng tích cực đấu tranh đòi quyền độc lập. Kể từ tháng 2/2008,
Kosovo, với 90% là dân tộc thiểu số Albania, chính thức tuyên bố độc lập, tách
khỏi Serbia, đã có 55 quốc gia trên thế giới, bao gồm cả Mỹ và phần lớn các
thành viên trong Liên minh châu Âu, công nhận nền độc lập này. Hiệu ứng
đômino lập tức lan ra toàn châu lục.
Đối với nước Nga: không thể không nhắc tới cuộc xung đột vũ trang chớp
nhoáng giữa Nga và Gruzia về hai tỉnh ly khai Nam Ossetia và Abkhazia, hai
vùng đất này sau đó đã tuyên bố độc lập và được Nga công nhận; Một số dân
tộc nhỏ hơn nữa ở Nga vẫn đang đấu tranh để được tách ra khỏi Liên bang
Nga. Chủ nghĩa ly khai ở Trêsnia trở thành một vấn đề khiến Chính phủ Nga
đau đầu, dưới ảnh hưởng của cuộc chiến Trêsnia, khuynh hướng ly khai dân
tộc ở cả khu vực Bắc Cápcadơ đang ngày một tăng lên và đã trở thành một
khu vực rối ren nhất, bất ổn nhất ở Liên bang Nga; ngoài ra, khuynh hướng ly
khai của các dân tộc thiểu số khu vực Xibêri và lưu vực sông Vônga trước
nay vẫn luôn tồn tại chứ chưa bao giờ mất đi cả.
Ở khu vực Tây A: phong trào đòi thành lập nhà nước độc lập của người
Cuốc ngay trên lãnh thổ Thổ Nhĩ Kỳ không hề lắng dịu cho dù thủ lĩnh của nó
đã bị bắt. Do Anh, Mỹ thiết lập khu vực cấm bay ở Irắc và do chính sách

chống phá của Mỹ nên người Cuốc ở phía Bắc gần như thoát khỏi sự kiểm
soát của Chính phủ Irắc.
Đại lục Nam A: nổi lên phong trào ly khai của người Xích với mục đích
đòi tách khỏi Ấn Độ. Phong trào đòi độc lập ở khu vực Casơmia do Ấn Độ
chiếm giữ cũng đang ngày càng mạnh mẽ, xung đột ngày càng quyết liệt hơn
là cho quan hệ Ấn Độ - Pakixtan không ngừng xấu đi. Hai bên đều đua nhau
tiến hành thử nghiệm vũ khí hạt nhân, tên lửa đạn đạo. Điều đó đe dọa
nghiêm trọng đến an ninh khu vực.


5
Các khu vực khác ở châu A - Thái Bình Dương như Mianma, Philippin,
Inđônêxia và quần đảo Nam Thái Bình Dương vẫn đang tồn tại những phong trào
đòi độc lập dân tộc. Các cuộc đấu tranh đòi độc lập lúc quyết liệt, lúc lắng dịu. Đặc
biệt, có một số vấn đề nổi cộm ở châu Á hiện nay như: vấn đề Đông Timo ở
Inđônêxia, vấn đề Moro ở Philippin, vấn đề Tây Tạng, Tân Cương ở Trung Quốc…
Ở đại lục châu Phi: các vấn đề nổi cộm của các quốc gia có nội chiến
kéo dài đa phần liên quan đến vấn dân tộc. Sau chiến tranh lạnh, cùng với sự
tan rã của chính quyền Mônrixô đi theo con đường chủ nghĩa xã hội, Êritơria
cũng đã giành được độc lập từ Êtiôpia. Hiện nay, giữa hai nước Nga và
Êtiôpia đang diễn ra những cuộc can qua, tranh chấp về vấn đề lãnh thổ. Trên
thực tế, đây là vấn đề do ly khai trước kia để lại…
* Một số nguyên nhân dẫn tới ly khai dân tộc trên thế giới
Khi xem xét, đánh giá nguyên nhân dẫn đến chủ nghĩa ly khai dân tộc
ở các nước trên thế giới hiện nay, các nhà khoa học đã đưa ra nhiều nguyên
nhân, dưới góc độ tiếp cận khác nhau nhưng nhìn chung, có thể đưa ra một số
nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất, sự phát triển không đồng đều về kinh tế. Do những nguyên
nhân lịch sử, sự phát triển của một số dân tộc thiểu số trong nội bộ một số
quốc gia dân tộc luôn bị tụt hậu và giữ một khoảng cách rất lớn so với dân

tộc, chủ thể của quốc gia đó dẫn tới việc dân tộc thiểu số cảm thấy bất mãn, từ
đó nảy sinh tư tưởng ly khai. Đôi khi tình hình lại ngược hẳn, một số dân tộc
thiểu số lại phát triển quá nhanh, không muốn gánh vác thêm các khu vực lạc
hậu hậu khác, đặc biệt là gánh nặng viện trợ cho khu vực lạc hậu của dân tộc
chủ thể. Họ cho rằng, như thế họ sẽ bị chặn chân chặn tay và nảy sinh tư
tưởng ly khai. Cả hai trường hợp ấy đều đã biểu hiện trên thực tế.
Thứ hai, sự sai lầm trong chính sách dân tộc. Đôi khi nguyên nhân là
do chính phủ áp dụng chính sách dân tộc bất bình đẳng, thực thi chính sách áp
chế mạnh, đồng hóa cưỡng bức đối với dân tộc thiểu số: Liên Xô đã phạm
phải loại sai lầm này trong vấn đề dân tộc. Ở Xuđăng, chính quyền Trung
ương miền Bắc đã tiến hành Hồi giáo hóa cưỡng bức đối với những người dân


6
da đen miền Nam. Tuy nhiên, đôi khi nguyên nhân lại là do chính sách dân
tộc quá lỏng lẻo, tạo cơ hội cho khuynh hướng tâm lý ly khai trỗi dậy, điển
hình là ở Liên bang Nam Tư cũ.
Thứ ba, những vấn đề do lịch sử để lại. Các quốc gia, dân tộc ngày nay
tuyệt đại đa số được thành lập từ thời phong kiến. Trong lịch sử, tầng lớp thống
trị phong kiến hoặc dân tộc chiếm vị trí thống trị thường không tránh khỏi việc
áp dụng chính sách bất bình đẳng, kỳ thị, chèn ép, bóc lột đối với các dân tộc
thiểu số hoặc các dân tộc bị thống trị khác. Vũ lực là biện pháp thông dụng nhất
để giải quyết phân tranh giữa các dân tộc thời đó; một số khu vực dân tộc thiểu
số mà quốc gia đó có được là do dùng vũ lực thôn tính, mà điển hình là một số
vùng dân tộc thuộc Liên Xô. Lịch sử đó tất yếu để lại những dấu ấn khó phai
trong quan hệ giữa các dân tộc và không dễ nhanh chóng xóa mờ, đặc biệt là,
hiện nay một số quốc gia dân tộc vẫn chưa thể xây dựng mối quan hệ giữa các
dân tộc trên cơ sở bình đẳng; thêm vào đó, những mối thù còn để lại trong các
cuộc phân tranh, xung đột trong lịch sử, khi gặp thời cơ thích hợp là chúng sẽ
bùng nổ tức thì.

Thứ tư, cuộc chiến quyền lực. Ở một số quốc gia, một vài dân tộc có
thực lực khá cân bằng, vì tranh giành nhau quyền chỉ đạo đất nước, kết quả
dẫn tới xung đột, có khi là tự tan rã của Nhà nước. Ví như tranh chấp giữa
người Séc và Slôvakia, giữa người Croatia và người Xécbia.
Thứ năm, những đối tượng dân tộc thiểu số theo chủ nghĩa cực đoan cố
tình gây rối, thao túng và lợi dụng. Một số đối tượng dân tộc thiểu số có dã tâm,
có âm mưu lợi dụng mâu thuẫn giữa các dân tộc và những khó khăn về kinh tế,
chính trị của đất nước, cố tình tuyên truyền, khuấy động, khoét sâu mối thù hận
giữa các dân tộc. Thậm chí họ còn cầu cứu các thế lực bên ngoài, lừa bịp, thúc ép
chính quyền trong nước tham gia vào các phong trào ly khai dân tộc.
Thứ sáu, sự can thiệp của các thế lực bên ngoài. Ở đây vừa có sự can
thiệp của “mẫu quốc” dân tộc ấy, ví như sự can thiệp của Anbani đối với
Côxôvô; vừa có sự can thiệp của các nước láng giềng vì âm mưu lợi cho bản
thân, ví như việc Hy Lạp, Xiri ủng hộ, giúp đỡ các thế lực theo chủ nghĩa ly


7
khai người Cuốc ở Thổ Nhĩ Kỳ. Bởi vì họ đều có mâu thuẫn và xung đột với về
lợi ích địa chiến lược với Thổ Nhĩ Kỳ; cũng có trường hợp là sự can thiệp của
một quốc gia hay một thế lực tôn giáo quốc tế dưới danh nghĩa một tôn giáo
hay một giáo phái nào đó. Ngoài ra, có trường hợp là sự can thiệp của các thế
lực cường quyền quốc tế. Việc NATO do Mỹ cầm đầu công khai ủng hộ các thế
lực ly khai ở Côxôvô (Nam Tư) hiện nay là một ví dụ điền hình.
* Đối sách cơ bản ngăn chặn chủ nghĩa ly khai dân tộc
Trên thế giới hiện nay, các quốc gia đa dân tộc đều đang phải đối mặt
với các vấn đề dân tộc của chính mình, nhưng không phải tất cả mọi quốc gia
đều có thể bị phân chia; Một mặt, chính sách dân tộc và các biện pháp biện
pháp đề phòng đóng vai trò quan trọng, mặt khác, thực lực của các quốc gia
dân tộc cũng có vai trò quan trọng không kém.
Các quốc gia đa dân tộc cần phải có chính sách dân tộc đúng đắn, để

nhân dân các dân tộc có sự biến đổi thực sự về chính trị và cũng được phát
triển về kinh tế và cần phải có các biện pháp hữu hiệu để đề phòng, ngăn chặn
khuynh hướng ly khai dân tộc. Quan trọng nhất là phải thu phục được lòng
người, làm sao để các dân tộc thiểu số kiên định nhận thức và cảm thông với
đất nước. Có như thế mới triệt hạ tận gốc các phần tử ly khai dân tộc thiểu số.
Mấy năm gần đây, các phần tử ly khai dân tộc ở một số quốc gia để đạt được
mục đích của chúng, đã có những mối liên hệ quan trọng với một số khu vực
dân tộc thiểu số - nơi chính quyền Trung ương của quốc gia đó không được
lòng dân. Vũ lực là thủ đoạn chủ yếu để ngăn chặn ly khai dân tộc, nhưng nếu
không chú tâm thu phục lòng dân thì khó mà đạt được hiệu quả lâu dài. Như
trường hợp Thổ Nhĩ Kỳ tiến hành trấn áp đối với người Cuốc, nhiều lần trấn
áp mà phong trào ly khai vẫn cứ nổi lên, liên miên không dứt. Đồng thời, sự
ổn định chính trị và sự lớn mạnh của thực lực đất nước ở các quốc gia dân tộc
cũng là một đảm bảo quan trọng để ngăn chặn ly khai. Trên thực tế, các cuộc
ly khai dân tộc đều phát sinh khi đất nước xảy ra những bước ngoặt lớn, một
số cuộc ly khai quốc gia dân tộc ở cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI xuất hiện
theo sau những biến cố về chính trị - xã hội. Ở một mức độ nào đó mà nói, đó


8
là sản phẩm của thời kỳ đất nước rơi vào suy yếu, khó khăn như: Liên Xô,
Tiệp Khắc, Liên bang Nam Tư và Êtiôpia đều nằm trong tình trạng đó. Hiện
tại, nguy hiểm nhất vẫn là sự can thiệp, ủng hộ từ bên ngoài, đặc biệt là sự xúi
bẩy, giúp đỡ, bao che của các thế lực cường quyền quốc tế đối với chủ nghĩa
ly khai dân tộc vì lợi ích riêng của bản thân họ. Biện pháp dương cao ngọn cờ
“nhân quyền cao hơn chủ quyền” để can thiệp, chỉ trích vô cớ vấn đề dân tộc
của quốc gia có chủ quyền chính là một hình thức mới của chủ nghĩa bá
quyền. Các quốc gia luôn luôn cần tăng cường phối hợp, áp dụng lập trường
chung, kiên trì ngăn chặn, đấu tranh đề phòng khuynh hướng nguy hiểm này
tiếp tục lan tràn.

2. Ảnh hưởng của chủ nghĩa ly khai dân tộc trên thế giới đối với
vấn đề tự trị, tự quản ở Việt Nam hiện nay
Hiện nay, có nhiều quan điểm cho rằng, sở dĩ có sự phát triển của chủ
nghĩa ly khai dân tộc là do những điều mà các nhà kinh điển mácxít đã dự báo
trước đó, nó hoàn toàn diễn ra một cách khách quan, không phải do ý muốn
chủ quan của một cá nhân nào. Họ viện cớ rằng, trong Cương lĩnh dân tộc,
Lênin đã đề cập đến “vấn đề dân tộc tự quyết”, tuy nhiên, chúng ta cần phải
hiểu quyền tự quyết là gì và nó dựa trên cơ sở nào để có một cách nhìn nhận
đúng đắn về vấn đề này.
V.I.Lênin cho rằng, quyền dân tộc tự quyết hoàn toàn chỉ có nghĩa là
các dân tộc có quyền độc lập về chính trị, có quyền tự do phân lập về mặt
chính trị, khỏi dân tộc áp bức họ. Nói một cách cụ thể, yêu sách đòi dân chủ
chính trị đó có nghĩa là hoàn toàn tự do tuyên truyền cho việc phân lập bằng
con đường trưng cầu dân ý trong dân tộc muốn phân lập. Như vậy là yêu sách
đó hoàn toàn không đồng nghĩa với yêu sách đòi phân lập, phân tán, thành lập
những quốc gia nhỏ.
Tuy nhiên, đến nay vẫn có nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, vấn đề
quyền tự quyết dân tộc V.I.Lênin chỉ nêu ra trong thời đại đế quốc chủ nghĩa.
V.I.Lênin cho rằng: “chủ nghĩa xã hội thắng lợi nhất thiết phải thực hiện chế
độ dân chủ hoàn toàn và do đó, không những làm cho các dân tộc hoàn toàn


9
bình quyền với nhau, mà còn thực hành quyền tự quyết của các dân tộc bị áp
bức, tức là quyền tự do phân lập về mặt chính trị. Cả hiện nay lẫn trong thời
kỳ cách mạng, và sau khi cách mạng thắng lợi, các đảng xã hội chủ nghĩa nào
mà không chứng minh bằng toàn bộ hoạt động của mình rằng họ sẽ giải
phóng các dân tộc bị nô dịch và sẽ xây dựng những quan hệ của mình với các
dân tộc đó trên cơ sở một liên minh tự do - và liên minh tự do sẽ là một lời
dối trá nếu nó không bao hàm quyền tự do phân lập - thì các đảng đó sẽ phản

bội chủ nghĩa xã hội”1
Chính Lênin với tư cách là nhà cách mạng, người dân chủ, là người đã
gương mẫu thực hiện cương lĩnh ấy của đảng trong thực tiễn. Vì vậy, ngay sau
khi cách mạng tháng Mười thành công, Lênin tuyên bố các dân tộc thuộc đế quốc
Nga hoàn toàn tự quyết. Các nước này phần lớn (trừ Phần Lan và Ba Lan) sau
năm 1922 lại tự nguyện gia nhập một Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Xôviết gồm 15 nước cộng hòa Xôviết và rất nhiều nước cộng hòa tự trị khác.
Điều đáng chú ý đối với chúng ta là các nhà nước dân tộc trong đế quốc
Nga đều là các dân tộc có thành phần dân cư (tộc người) khá thống nhất, cư trú
trên một lãnh thổ xác định, hình thành khá bền vững trong lịch sử, có ngôn ngữ
tộc người và cộng đồng văn hóa riêng như người Grudia, Cadắcxtan, Ba Lan,
Phần Lan…Các tộc người trong các nước cộng hòa tự trị, tính tự trị của Liên
Xô cũng đều sống trong một lãnh thổ nhất định và khá ổn định.
Như vậy, tự quyết là nhằm xây dựng các quan hệ tiến bộ giữa các dân
tộc, chứ không phải theo chủ nghĩa dân tộc sôvanh hoặc kỳ thị, để khoét sâu
thêm hố ngăn cách, bất bình đẳng giữa dân tộc này và dân tộc khác. Quyền tự
quyết dân tộc không mâu thuẫn với sự thống nhất giữa các dân tộc trên cơ sở
chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, trên cơ sở liên minh giai cấp công
nhân giữa các dân tộc, mà còn không mâu thuẫn với sự thống nhất các dân tộc
một cách tự nguyện trong một liên bang xã hội chủ nghĩa, thậm chí trên phạm
vi toàn thế giới. Điều đó chỉ có thể làm được, nếu trước hết phải giáo dục ý
thức dân tộc mới cho các dân tộc thông qua giao lưu, liên minh văn hóa. Một
1

V.I.Lê nin: toàn tập, tập 27, Nxb Tiến bộ, Mát xít cơ va, 1980, tr.323


10
mặt, Lênin bảo vệ nguyên tắc tự quyết về chính trị, song Lênin cũng kiên
quyết phản đối quan điểm tự trị về văn hóa.

Tóm lại, vấn đề tự quyết, tự trị, tự quản…là vấn đề thường xuyên có
tính phổ biến trong các quốc gia đa dân tộc (nation) và đa tộc người (ethnic),
trong các vùng đa dân tộc và đa tộc người. Vấn đề đó được đặt ra và giải
quyết như thế nào còn tùy thuộc vào các giai đoạn phát triển khác nhau của
lịch sử. Song, nếu việc giải quyết vấn đề dân tộc tự quyết không đúng trên cơ
sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin sẽ là điều kiện thuận lợi cho chủ
nghĩa ly khai phát triển.
Đối với Việt Nam - một quốc gia đa dân tộc, bao gồm 54 dân tộc anh
em: trong đó, dân tộc Kinh chiếm đa số, khoảng 87% dân số, 53 dân tộc còn
lại như Tày, Nùng, Mường, Thái… chỉ chiếm khoảng 13% dân số; Nước ta là
khu vực giao lưu của nhiều tộc người, nhiều loại hình nhân chủng, nhiều ngữ
hệ khác nhau. Trên lãnh thổ Việt Nam, từ xa xưa đã diễn ra các quá trình di cư
của nhiều tộc người. Nhiều tộc người hiện đang sinh sống ở nước ta, vốn
trước đây cư trú ở các khu vực bên ngoài, đã đi vào nước ta cư trú mấy trăm
năm qua như người Mông, Dao, Hoa… Quá trình di cư của các tộc người
hoặc nhóm người ở nước ta làm cho bản đồ phân bố dân cư ở nước ta rất phức
tạp. Nhiều tộc người thiểu số có quan hệ đồng tộc với các nước láng giềng;
nhiều tộc người cư trú đan xen với các tộc người khác. Tính đa tộc người và
đan xen thể hiện trên phạm vi cả nước. Ngoài ra, sau những biến động lịch sử
to lớn, một bộ phận không nhỏ người Việt Nam gồm nhiều tộc người khác
nhau, do nhiều lý do khác nhau, di cư sang nước ngoài, tạo thành cộng đồng
người Việt ở nước ngoài.
Với tính chất phức tạp như vậy, xu hướng phân tách để tự quản, tự trị
có điều kiện thuận lợi để nảy sinh: đặc biệt, trước đây do chính sách và thủ
đoạn của bọn đế quốc thực dân xâm lược. Đó là chính sách chia để trị; kích
động gây hằn thù, kỳ thị dân tộc, chia rẽ người Kinh với các dân tộc thiểu số,
giữa các dân tộc thiểu số với nhau. Thời kỳ thực dân Pháp xâm lược, chúng
chia nước ta làm 3 kỳ với chế độ cai trị khác nhau (Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam



11
Kỳ); lập ra xứ Thái tự trị, Mường tự trị, Mèo tự trị làm nhiều cộng đồng tộc
người bị xé lẻ, phân tán. Đế quốc Mỹ xâm lược, dựng nên chính quyền tay
sai, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta. Ngay ở miền Nam chúng cũng âm
mưu chia rẽ người Kinh với các tộc người thiểu số; lợi dụng những vấn đề
lịch sử để lại kích động gây hận thù giữa các tộc người; thậm chí chúng còn
nuôi dưỡng lực lượng phản động trong các tộc người thiểu số Tây Nguyên,
lập ra tổ chức Phulrô để chống phá sự đoàn kết dân tộc ở nước ta.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc giải quyết vấn đề dân tộc trong cách
mạng xã hội chủ nghĩa, ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta đã quan tâm giải
quyết vấn đề dân tộc nhằm phát huy sức mạnh của toàn dân tộc. Đối với vấn đề
tự quản, tự trị của đồng bào dân tộc thiểu số - đây là một vấn đề hết sức nhạy cảm
và phức tạp. Tuy nhiên, Đảng ta đã có chủ trương, chính sách giải quyết rất cụ
thể. Trong Luận cương cách mạng Việt Nam đệ trình Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ II của Đảng về hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân
dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội, Đảng ta nhấn mạnh: “Chúng ta chủ trương thừa
nhận quyền địa phương tự trị đối với những dân tộc thiểu số tương đối đông và
sống quây quần trong một khu vực nhất định. Tùy theo trình độ cao thấp của
từng dân tộc mà quy định chế độ tự trị đó: trình độ cao thì tự trị về mọi mặt (tự trị
chính trị) trình độ thấp thì tự trị riêng về hành chính (tự trị hành chính)”2.
Ở đây sống quây quần có nghĩa là địa bàn cư trú được xác định và ổn
định, tự trị chính trị là có quyền hoạch định chính sách, quyền tự trị hành chính
là quyền tự quản. Luận cương cũng đồng thời nhấn mạnh, lúc này (1951) chưa
thể thực hiện được tự trị vì các dân tộc chưa được chuẩn bị; hai là vì vậy giống
như việc đem các dân tộc ra làm mồi cho bọn đế quốc xâm lược và bọn phản
động. Do vậy, muốn thực hiện chính sách dân tộc, Luận cương vạch ra những
nhiệm vụ như sau: “1) Giúp đỡ các dân tộc thiểu số tham gia chính quyền các
cấp. 2) Mở mang kinh tế cải thiện đời sống vùng thiểu số. 3) Phát triển văn hóa,
văn nghệ, xây dựng chữ viết của dân tộc thiểu số. 4) Xóa bỏ những thành kiến
dân tộc, giải quyết mọi xung đột dân tộc theo tinh thần đoàn kết thân ái và bình

2

Hội đồng dân tộc của Quốc hội khóa X: Chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước về dân tộc, Nxb,
Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2000, tr.33


12
đẳng, tăng cường hữu ái giữa các dân tộc đa số và thiểu số. 5) Trừng trị bọn thổ
phỉ, phản động, tay sai, khiêu khích, chia rẽ các dân tộc”3
Trong báo cáo về công tác Mặt trận tại hội nghị Ban chấp hành Trung
ương lần thứ IV khóa II, Đảng ta cho rằng: Việc xây dựng các khu tự trị - theo
chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong báo cáo khai mạc, cần chú ý việc gây
điều kiện đầy đủ để có thể giúp đồng bào thiểu số thành lập các khu tự trị.
Điều kiện cần thiết cho việc thành lập ấy là:
a) Về quân sự: Khu vực ấy xa địch và tương đối an ninh.
b) Về kinh tế: Sinh hoạt của đồng bào đã được ít nhiều cải thiện và có
điều kiện phát triển được kinh tế địa phương.
c) Về chính trị: Cơ sở quần chúng đã tương đối vững, quần chúng đã
được phát động và bọn lưu manh, đặc vụ đã bị quét sạch. Đặc biệt là có một
số địa phương đảm đương được công việc cần thiết.
Rõ ràng, nếu không chuẩn bị được đầy đủ các điều kiện trên mà vẫn
thực hiện “tự trị” thì hoặc là sa vào âm mưu chia rẽ của kẻ địch hoặc chỉ là
“tự trị” hình thức mà thôi.
Sau ngày giải phóng miền Bắc (1954), căn cứ vào đặc điểm dân cư các
vùng Việt Bắc và Tây Bắc, chúng ta đã thành lập khu tự trị Việt Bắc và khu tự
trị Tây Bắc. Lúc ấy, mặc dù các dân tộc thiểu số những vùng ấy vẫn sống xen
kẽ, nhưng thành phần dân tộc có cơ cấu khác với hiện nay, người Kinh có rất
ít hoặc nhiều nơi không có. Việc thành lập khu tự trị như vậy đã tạo điều kiện
cho các dân tộc phát huy được tính tích cực của mình trong tổ chức đời sống
kinh tế - xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm và chú ý đến hai khu tự

trị này. Người mong rằng đây sẽ là hai khu tự trị kiểu mẫu.
Đánh giá về khu tự trị Việt Bắc, Nghị quyết của Ban bí thư số 27
-NQ/TƯ ngày 03/11/1961 cho rằng: việc thành lập khu tự trị Việt Bắc đã đem
lại nhiều kết quả tích cực, đồng bào các dân tộc phấn khởi, các tình hình trong
khu tự trị đạt được những tiến bộ rõ rệt.
3

Hội đồng dân tộc của Quốc hội khóa X: Chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước về dân tộc, Nxb,
Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2000, tr.56


13
Nhưng một thời gian sau đó, tình hình đất nước có nhiều thay đổi, cuộc
chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ mở rộng ra khắp miền Bắc, kể cả vùng
dân tộc (là vùng chiến lược trọng yếu về an ninh quốc gia). Các vùng dân tộc
khó có thể được bảo vệ nếu vẫn giữ mô hình quản lý cũ. Mặt khác, các cuộc
di dân khai phá “rừng hoang” được phát động sau ngày hòa bình lập lại đã
làm thay đổi cơ cấu dân cư trong hai khu vực miền núi này. Người Kinh từ
chỗ chỉ chiếm 2 - 3% dân cư, thậm chí nhiều vùng không có, thì nay đã lên
đến 40 - 50%, hoặc có nơi còn cao hơn. Vấn đề “tự trị” rõ ràng cần phải được
xem xét lại, vì không phù hợp nữa, nếu không tiến hành tổ chức tốt sẽ trở
thành hình thức, thậm chí phản tác dụng. Việc “giải tán” các khu tự trị có tính
tất yếu kinh tế - xã hội của nó.
Truyền thống sống xen kẽ giữa người Kinh và người các dân tộc thiểu
số rõ ràng có lợi cho việc giao lưu phát triển mọi mặt của các dân tộc. Đây là
khuynh hướng chủ yếu, chủ đạo trong quan hệ giữa các dân tộc. Tất nhiên do
những tàn tích văn hóa cũ, do những tư tưởng sôvanh hoặc hẹp hòi kỳ thị dân
tộc, khó tránh khỏi những tranh chấp, xung đột, mâu thuẫn nhất định. Nhưng
đây chỉ là những biểu hiện không lành mạnh, sai trái, thậm chí cực đoan, chưa
bao giờ và sẽ không bao giờ được phép trở thành lực lượng đáng kể, ảnh

hưởng đến tình đoàn kết đồng bào thiêng liêng được hun đúc từ ngàn đời
trong truyền thống giữ nước và dựng nước của các dân tộc trên mảnh đất Việt
Nam, được thử thách qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc và
chung tay đấu tranh với cái nghèo nàn lạc hậu, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau
cùng phát triển.
Vấn đề phân cấp, tự trị, hay tự quản đặt ra hay không cũng đều phải
xuất phát từ những nền tảng văn hóa, văn minh ấy, và đó là vấn đề có tính
nguyên tắc trong quan hệ giữa các dân tộc trong quốc gia đa dân tộc chúng ta.
Thực tế, trong một thời gian khá dài, ở phạm vi toàn quốc chúng ta đã
quá nhấn mạnh tập trung quan liêu, coi nhẹ việc phân quyền, phân cấp. Ở
vùng đồng bào dân tộc, song song với việc xóa bỏ các hình thức tự trị, tự
quản, chúng ta cũng mắc phải những khuyết điểm như áp đặt một số chính


14
sách miền xuôi cho vùng miền núi, làm hạn chế khả năng sáng tạo của nhân
dân các vùng đó.
Tình hình trên đã tạo điều kiện cho các lực lượng thù địch lợi dụng
chống phá ta trong vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc. Các thế lực thù địch
và một số phần tử phản động do sự ủng hộ từ bên ngoài đang có những hoạt
động chia rẽ dân tộc, đòi “độc lập” hoặc “tự trị” cho khu vực này hoặc khu
vực khác, chúng đưa ra luận thuyết “Một quốc gia - một dân tộc”, với âm
mưu thành lập “Vương quốc Mông tự trị” ở Tây Bắc; “Nhà nước Đề ga độc
lập” ở Tây Nguyên; “Nhà nước Khơme Crôm” ở Tây Nam Bộ và “Vương
quốc Chăm độc lập” ở Nam Trung Bộ, nhằm phá vỡ sự thống nhất quốc gia
của Việt Nam. Chúng đã và đang gia tăng hoạt động kích động, hỗ trợ cho
bọn phản động trong nước tìm cách thành lập các kiểu “Nhà nước”, “Vương
quốc” nêu trên, tạo cớ kêu gọi nước ngoài can thiệp. Những yêu sách như vậy
không có căn cứ lịch sử, khoa học và pháp lý.
Trên địa bàn Tây Nguyên: Các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách thực

hiện âm mưu gây mất ổn định chính trị, biến Tây Nguyên thành một vùng “tự
trị”, tiến tới thực hiện ý đồ thành lập “Nhà nước Đềga độc lập”. Qua đó, tạo
điều kiện cho người Chăm ở Nam Trung Bộ và người Khơme Crôm ở Nam
Bộ đấu tranh đòi “tự trị”, “độc lập”.
Chúng tăng cường, chỉ đạo, giúp đỡ và sử dụng bọn Fulro cũ kích động
đồng bào dân tộc ít người ở khu vực Tây Nguyên ly khai; tổ chức các hoạt động
gây rối, chống đối, tạo ra tình hình mất ổn định chính trị - xã hội ở các tỉnh Tây
Nguyên và một số tỉnh Đông Bắc Cămpuchia; đẩy mạnh hoạt động kích động
tạo ra dòng người “tỵ nạn” từ các tỉnh Tây Nguyên sang Đông Bắc Cămpuchia,
tuyển chọn bọn cơ hội, phản động trong số đó đưa sang Mỹ đào tạo, sau đó đưa
về Việt Nam hoạt động phá hoại cách mạng nước ta.
Trên địa bàn Tây Nam Bộ: các thế lực thù địch lợi dụng những vấn đề
phức tạp do lịch sử để lại để khơi dậy những mâu thuẫn, hận thù dân tộc, kích
động tư tưởng đòi tự trị dưới các khẩu hiệu: “giải phóng Khơme Crôm”,
“người Khơme hướng về Cămpuchia”. Sử dụng bọn phản động người Khơme
ở Nam Bộ, kết hợp với người Khơ me Crôm ở Cămpuchia, bọn phản động


15
trong ngụy quân, ngụy quyền cũ, trong Phật giáo Hoà Hảo để đẩy mạnh hoạt
động gây rối, nhằm thực hiện ý đồ thành lập “khu tự trị của người Khơme
Crôm”, tiến tới đòi tách thành một “quốc gia độc lập”.
Dựng lên vấn đề “mất đất” để kích động chống đối, ly khai trong cộng
đồng người Khơme ở Nam Bộ, đòi “xem xét lại vấn đề lịch sử dân tộc
Khơme”, đòi “bỏ chương trình dạy tiếng Việt trong các trường ở người
Khơme”, đòi đất đai chùa chiền với diện tích lớn… gây nên tình hình phức
tạp ở một số địa phương, cấp cơ sở; thường xuyên đưa người về các tỉnh miền
Tây Nam Bộ dưới các danh nghĩa: “Việt kiều thăm thân”, hoạt động “từ
thiện”, tham quan du lịch và gặp gỡ số sư sãi cực đoan, trá hình trong các
chùa Khơme, ngụy quân, ngụy quyền cũ để nắm tình hình, móc nối xây dựng

lực lượng, khôi phục lại các tổ chức phản động cũ, tìm cách tạo dựng “ngọn
cờ” trong vùng đồng bào Khơme.
Trên địa bàn Tây Bắc, Tây Nghệ An: các thế lực thù địch lợi dụng vấn
đề người Mông để tuyên truyền kích động tư tưởng ly khai, đòi “tự trị” dân
tộc, thực hiện ý đồ thành lập “Vương quốc Mông độc lập”, tạo cớ can thiệp,
chống phá cách mạng Việt Nam và cách mạng Lào. Mỹ đẩy mạnh tuyên
truyền, chỉ đạo, hỗ trợ phát triển đạo Tin Lành trong đồng bào các dân tộc
thiểu số ở các tỉnh khu vực Tây Bắc. Chúng lợi dụng tình trạng du canh, du cư
tự do của người Mông để thực hiện ý đồ tách nhóm người này ra khỏi cộng
đồng các dân tộc ở Việt Nam, Lào, phía Nam Trung Quốc và Mianma, thành
lập một quốc gia riêng cho người Mông; Kích động đồng bào Mông đi theo
đạo Tin Lành, đòi “ly khai”, “tự trị” dân tộc. Các thế lực thù địch đã triệt để
lợi dụng các trung tâm tôn giáo, hệ thống đài phát thanh, truyền hình các nước
Mỹ, Thái Lan, Philippin để tuyên truyền, chuyển tài liệu, sách, báo, tạp chí,
băng hình… về vùng đồng bào Mông ở Việt Nam và Lào; truyền đạo Tin
Lành, kích động đồng bào Mông đòi thành lập “Quốc gia Mông tự trị”. Đài
phát thanh “Châu Á tự do” của Mỹ vừa là công cụ tuyên truyền, kích động
người Mông chống đối Nhà nước Việt Nam, và là trung tâm chỉ đạo hoạt
động chống phá của bọn phản động trong các tôn giáo, dân tộc trong khu vực.


16
Như vậy, vấn đề dân tộc ở nước ta hiện nay hết sức phức tạp. Nếu
không giải quyết kịp thời và đúng đắn sẽ gây lên những hệ quả khôn lường,
ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đánh giá, xem xét tình hình diễn biến vấn đề dân tộc
thời gian qua ở phạm vi cả nước, nhất là vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây
Nghệ An, Tây Nam Bộ…chúng ta đã chỉ ra một số nguyên nhân sau:
Thứ nhất: Chính sách khoán 10 và trước đó là khoán 100 là một chủ
trương đúng để nền nông nghiệp ở nước ta có bước đột phá, nhưng đối với

miền núi, do việc triển khai, thực hiện không tốt nên đã có những nơi (đặc
biệt là vùng Đông Bắc) người dân đòi lại đất đai của cha ông mà trước đây đã
đưa vào hợp tác xã nông nghiệp, kể cả những nơi đã xây dựng công trình
công cộng. Đặc biệt là người dân tại chỗ đòi lại đất đai trước đó đã nhường
cho đồng bào vùng cao “hạ sơn” theo chương trình Định canh định cư, cho
đồng bào miền xuôi lên xây dựng vùng kinh tế mới, cho đồng bào vùng biên
di chuyển vào thực hiện việc thiết lập “vành đai biên giới”, làm cho mối quan
hệ dân tộc ở các vùng đó cực kỳ phức tạp vào những năm cuối thập niên 80,
90 của thế kỷ trước.
Thứ hai: Việc ưu tiên đầu tư cho các dân tộc thiểu số mà không tính
đến vấn đề địa vực cư trú và tình trạng phân bố xen kẽ giữa các tộc người đã
làm cho mối quan hệ tộc người ở một số địa phương bị tổn thương. Một số
người được ưu tiên đầu tư muốn tách ra sống riêng biệt để được hưởng đầy đủ
sự ưu đãi đó, điều mà trước đây chưa hề xảy ra trong mối quan hệ giữa các
tộc người ở nước ta.
Thứ ba: Việc ban hành Nghị định 364 về việc điều chỉnh địa giới hành
chính ở các địa phương, cũng như trong quá trình thực hiện Nghị định này, do
chưa lường hết được những khó khăn, lại bất chấp các quy định truyền thống
của địa phương nên đã đem lại những kết quả không theo ý muốn, làm nảy
sinh mâu thuẫn, kiện cáo mang tính tập thể giữa thôn với thôn, xã với xã,
huyện với huyện, tỉnh với tỉnh, nhất là những tỉnh miền múi phía Bắc.


17
Thứ tư: Tình hình di dân tự do ở miền núi, vùng các dân tộc thiểu số
bột phát gia tăng, chủ yếu theo hướng bắc - nam và đông - tây, làm cho những
địa bàn nhập cư có thời kỳ rất căng thẳng và phức tạp, gây nên va chạm giữa
các tộc người tại chỗ và dân nhập cư từ nơi khác đến.
Thứ năm: Chúng ta đã xây dựng nhiều công trình công cộng và khai
thác nhiều loại tài nguyên ở miền núi nhưng việc đền bù cho người dân và

công tác tái định cư làm không tốt, ảnh hưởng lớn đến niềm tin của đồng bào
các dân tộc ở các địa phương miền núi đối với Đảng, Nhà nước cũng như mối
quan hệ giữa các tộc người, nhất là người Kinh với các tộc người thiểu số.
Thứ sáu: Đảng và Nhà nước ta đã có những chính sách về dân tộc và miền
núi, bên cạnh những thành tựu đem lại từ việc thực hiện các chính sách đó là rất
lớn, cũng còn nhiều hạn chế cần chú ý. Bởi vì, không những chính sách có nội
dung chung chung mà giữa các chính sách còn thiếu sự đồng bộ, đôi khi là sự
chắp vá, mang nặng mặt này nhẹ mặt kia và ngược lại, làm cho miền miền núi,
vùng các dân tộc thiểu số có phát triển cũng thiếu tính bền vững.
Thứ bảy: Đất đai là vấn đề nhạy cảm và phức tạp nhất ở miền núi, vùng
các dân tộc thiểu số hiện nay, nhưng chưa có một số chủ trương, chính sách nào
giải quyết được cơ bản, mà chỉ mang tính chắp vá. Tình hình khiếu kiện, tranh
chấp đất đai ở vùng các dân tộc, miền núi sẽ còn tiếp tục căng thẳng và phức tạp.
Thứ tám: Các thế lực thù địch trong và ngoài nước ra sức cấu kết, móc nối
hai vấn đề nhạy cảm là dân tộc và tôn giáo để vu khống Đảng và Nhà nước ta vi
phạm về nhân quyền. Tuy nhiên, chúng ta chưa có những giải pháp hữu hiệu để
chủ động giải quyết vấn đề này mà chỉ đề cập đến một cách chung chung ở hai
Nghị quyết 24 và 25 của Hội nghị Trung ương khóa VII, khóa IX.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng, nguyên nhân của vấn đề dân tộc,
nhất là vấn đề tự quản, tự trị hiện nay ở một số khu vực đồng bào dân tộc
thiểu số, Đảng và Nhà nước ta đã tiếp tục có sự bổ sung chính sách giải
quyết vấn đề dân tộc.
Đảng ta luôn xác định: vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc luôn luôn có vị
trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng; giải quyết vấn đề dân tộc vừa là mục
tiêu vừa là động lực của cách mạng Việt Nam. Mục tiêu chính sách dân tộc của


18
Đảng và Nhà nước ta là tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc; phát huy tinh thần
cách mạng và năng lực sáng tạo của các tộc người trong sự nghiệp xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; tạo mọi điều kiện để các tộc người phát triển
trên con đường văn minh, tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của
quốc gia dân tộc Việt Nam.
Tư tưởng chỉ đạo cơ bản, xuyên suốt trong quan điểm, chính sách dân
tộc ở nước ta hiện nay được thể hiện trong Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng
ta xác định: “Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ
nhau giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển, gắn bó mật
thiết với sự phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa, ngôn ngữ, truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Chống tư
tưởng kỳ thị và chia rẽ dân tộc. Các chính sách kinh tế - xã hội phải phù hợp
với đặc thù của các vùng và các dận tộc, nhất là các dân tộc thiểu số”4.
Theo đó, chính sách dân tộc cần quán triệt các quan điểm cụ thể sau:
Một là, vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản,
lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam.
Hai là, các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn
trọng, giúp nhau cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân tộc.
Ba là, phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội và an ninh quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi, gắn tăng trưởng kinh tế
với giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện chính sách dân tộc; quan tâm phát
triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số; giữ gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hoá truyền thống của
các dân tộc thiểu số trong sự phát triển chung các cộng đồng dân tộc Việt
Nam thống nhất.
Bốn là, ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và
miền núi; khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng đi đôi với
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI , Nxb Chính trị quốc gia, H.2011,
tr 81
4



19
bảo vệ bền vững môi trường sinh thái; phát huy nội lực, tinh thần tự lực tự
cường của đồng bào các dân tộc, đồng thời tăng cường sự quan tâm hỗ trợ của
Trung ương và sự tương trợ, giúp đỡ của các địa phương trong cả nước.
Năm là, công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ
của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, của các cấp, các ngành, của toàn bộ hệ
thống chính trị.
Sáu là, thực hiện chính sách ưu tiên trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trí
thức là người dân tộc thiểu số; củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị
ở cơ sở vùng đồng bào dân tộc thiểu số; động viên, phát huy vai trò của những
người tiêu biểu trong các dân tộc. Cán bộ công tác ở vùng dân tộc thiểu số và
miền núi phải gần gũi, hiểu phong tục tập quán, tiếng nói của đồng bào dân tộc,
làm tốt công tác dân vận. Chống các biểu hiện kỳ thị, hẹp hòi, chia rẽ dân tộc.
* Quân đội nhân dân Việt Nam với việc thực hiện chính sách dân tộc
của Đảng và Nhà nước ta
Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội cách mạng, quân đội của dân,
do dân và vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tuyệt đối
trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân, chiến đấu vì độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Là một đội quân chiến đấu, đội quân lao động,
sản xuất và đội quân công tác, quân đội ta có mặt trên khắp mọi miền của Tổ
quốc, luôn đóng quân ở các vùng miền núi, biên giới, gắn bó sâu nặng với đồng
bào các dân tộc thiểu số. Là lực lượng giác ngộ cách mạng cao, ý thức tổ chức
kỷ luật nghiêm, gắn bó máu thịt với đồng bào các tộc người nên có khả năng,
điều kiện để thực hiện tốt chính sách dân tộc.
Hiện nay, miền núi vẫn giữ vị trí chiến lược về kinh tế, chính trị, văn
hóa, quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ
quốc. Trong chiến lược “diễn biến hoà bình”, các thế lực thù địch đang có nhiều
âm mưu, thủ đoạn thâm độc xuyên tạc chống phá quan điểm, chính sách dân tộc

của Đảng và Nhà nước ta, tìm cách chia rẽ, kích động, phá hoại khối đại đoàn
kết dân tộc, hòng làm suy yếu chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong bối cảnh đó, quân
đội ta tích cực thực hiện thắng lợi quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng và
Nhà nước ta càng có ý nghĩa chính trị to lớn, trực tiếp củng cố thế trận quốc


20
phòng - an ninh bảo vệ Tổ quốc, đồng thời cũng trực tiếp góp phần xây dựng
miền núi vững mạnh về mọi mặt và phục vụ tích cực, có hiệu quả cuộc sống của
đồng bào các dân tộc, xứng đáng với niềm tin yêu của nhân dân.
Do đó, thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước là nhiệm
vụ chính trị, đồng thời là vinh dự của quân đội, thể hiện bản chất, truyền thống
cách mạng và tình cảm tốt đẹp của quân đội ta. Đồng thời thực hiện tốt chính
sách dân tộc là một trong những điều kiện cơ bản để xây dựng quân đội cách
mạng chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại; củng cố thế trận quốc phòng
toàn dân; góp phần xây dựng biên cương vững mạnh về mọi mặt. Bởi thế thực
hiện tốt chính sách dân tộc vừa là trách nhiệm vừa là vinh dự thể hiện bản chất,
truyền thống tốt đẹp của quân đội ta.
Để thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, cán bộ,
chiến sỹ Quân đội cần tập trung làm tốt một số nội dung chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, làm cho mọi cán bộ, chiến sĩ quân đội quán triệt sâu sắc, quan
điểm, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, nhận rõ nhiệm vụ, vinh dự
trách nhiệm, từ đó có ý thức và hành động thiết thực, chủ động, sáng tạo trong
thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước.
Thứ hai, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động
nhân dân hiểu rõ và tích cực thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà
nước; động viên đồng bào hăng hái thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, chính trị,
văn hoá xã hội, quốc phòng - an ninh ở vùng dân tộc, miền núi góp phần tăng
cường khối đại đoàn kết dân tộc.
Thứ ba, tích cực tham gia xây dựng miền núi, cơ sở địa phương, vùng

dân tộc thiểu số tiến bộ và vững mạnh về mọi mặt: Xây dưng hệ thống chính
trị trong sạch vững mạnh; Giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội,
an ninh biên giới. Chủ động giúp đỡ đồng bào xây dựng kết cấu hạ tầng, xoá
đói, giảm nghèo, xoá mù chữ; nâng cao dân trí, xây dựng nếp sống văn
minh; định canh, định cư, trồng và bảo vệ rừng, xây dựng các vùng kinh tế,
phổ biến khoa học - kỹ thuật, chăm sóc sức khoẻ, phòng, chữa bệnh cho
nhân dân. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở, xây dựng cốt cán, tạo
nguồn cán bộ cho cơ sở.


21
Thứ tư, xây dựng thế trận quốc phòng - an ninh vững chắc ở vùng dân
tộc thiểu số. Thường xuyên giáo dục ý thức quốc phòng toàn dân ở cơ sở. Kết
hợp tốt kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với an ninh, quốc phòng an ninh
với kinh tế. Xây dựng phát triển các khu kinh tế - quốc phòng vững mạnh. Xây
dựng, hoàn thiện khu vực phòng thủ ở vùng dân tộc, vùng biên giới. Chú trọng
xây dựng các lực lượng vũ trang và nâng cao trình độ hiệp đồng giữa các lực
lượng vũ trang với các cấp bộ đảng, chính quyền - đoàn thể và toàn dân; cảnh
giác chủ động xử lý tốt các tình huống chiến đấu xảy ra trên địa bàn, làm thất
bại mọi âm mưu phá hoại của kẻ xấu và các thế lực thù địch.
Thứ năm, thường xuyên giáo dục cho cán bộ, chiến sỹ hiểu rõ, tôn trọng
phong tục, tập quán, truyền thống văn hoá các dân tộc; giáo dục ý thức chấp
hành kỷ luật quân dân; giữ gìn và phát huy giá trị truyền thống “Bộ đội Cụ
Hồ”. Thực hiện tốt phương châm công tác dân tộc: “Chân thành, tích cực, thận
trọng, kiên trì, tế nhị, vững chắc” và phong cách công tác dân vận: “Trọng dân,
gần dân, hiểu dân, học dân,có trách nhiệm với dân”.
Thứ sáu, Nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, đập tan những âm
mưu và thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chống phá cách mạng,
nhất là ở các khu vực dân tộc ít người.


KẾT LUẬN
Trong bối cảnh tình hình thế giới hiện nay, chủ nghĩa ly khai dân tộc
đã, đang và sẽ tiếp tục gây nên những cuộc chiến tranh cục bộ, đó là hệ quả
tất yếu từ sự xung đột về dân tộc, sắc tộc. Vì vậy, nhận thức và giải quyết


22
đúng đắn nhằm ngăn chặn hiện tượng ly khai trở thành vấn đề mang tính thời
sự hiện nay. Bởi nó đe dọa đến nền hòa bình, an ninh thế giới, khu vực và đối
với từng quốc gia dân tộc, nhất là những quốc gia đa dân tộc.
Đối với cách mạng Việt Nam, vấn đề dân tộc được xác định là vấn đề
có vị trí chiến lược. Giải quyết tốt vấn đề này sẽ tạo nên động lực chủ yếu để
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân
tộc, kế thừa những bài học kinh nghiệm giải quyết vấn đề dân tộc của cha
ông, Đảng ta đã căn cứ vào tình hình cụ thể của đất nước để đưa ra những
quan điểm, chính sách dân tộc và tổ chức thực hiện trên thực tế. Tuy nhiên,
cũng cần nghiêm túc nhìn nhận những kết quả đã đạt được và những hạn chế
còn tồn tại trong giải quyết vấn đề dân tộc để bổ sung kịp thời chính sách dân
tộc. Đồng thời, cần đẩy mạnh đấu tranh chống các thế lực thù địch lợi dụng
vấn đề dân tộc để kích động tư tưởng ly khai, đòi độc lập. Kết hợp đẩy mạnh
tuyên truyền giáo dục với biện pháp hành chính đối với những người bị kẻ
địch lợi dụng để chống phá chính quyền. Kiên quyết đập tan những âm mưu,
thủ đoạn của các thế lực phản động trong và ngoài nước, xây dựng khối đại
đoàn kết dân tộc vững mạnh.



×