Tải bản đầy đủ (.pdf) (158 trang)

Triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam và ý nghĩa của nó đối với đời sống xã hội ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 158 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ TÌNH

TRIẾT LÝ NHÂN SINH
TRONG TỤC NGỮ, CA DAO VIỆT NAM
VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
Ở NƢỚC TA HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2018


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU..................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài.....................................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.....................................................................3
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu......................................................................3
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu.......................................................3
5. Đóng góp mới của luận án...................................................................................4
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án...........................................................4
7. Kết cấu của luận án.............................................................................................5
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI............................................................................................................................6
1.1. Các công trình nghiên cứu về triết lý và triết lý nhân sinh..........................6
1.1.1. Các công trình nghiên cứu triết lý trong sự phân biệt với triết học............6
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về con người và đời sống con người...............12


1.2. Các công trình nghiên cứu có liên quan đến triết lý trong tục ngữ, ca dao
Việt Nam..................................................................................................................16
1.2.1. Các công trình nghiên cứu về giá trị ca dao tục ngữ nói chung.................16
1.2.2. Các công trình nghiên cứu về triết lý và triết lý nhân sinh trong ca dao, tục
ngữ Việt Nam...........................................................................................................24
1.3. Những kết quả đƣợc kế thừa từ các công trình đã công bố và những vấn đề
luận án cần tiếp tục nghiên cứu.............................................................................28
Kết luận chƣơng 1...................................................................................................30
Chƣơng 2: TRIẾT LÝ NHÂN SINH TRONG TỤC NGỮ CA DAO VIỆT NAM:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN.....................................................................32
2.1. Quan niệm về triết lý nhân sinh......................................................................32
2.1.1. Triết học và triết lý: phân biệt triết lý với triết học.......................................32
2.1.2. Nhân sinh, nhân sinh quan và triết lý nhân sinh.........................................41
2.2. Triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam: cơ sở hình thành và đặc
điểm.......................................................................................................................................45
2.2.1. Quan niệm về tục ngữ và ca dao: một số vấn đề lý luận ...............................45
2.2.2. Cơ sở hình thành triết lý nhân sinh trong tục ngữ ca dao Việt Nam..........54
2.2.3. Đặc điểm và vai trò của triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam
Kết luận chương 2....................................................................................................57


Chƣơng 3: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TRIẾT LÝ NHÂN SINHTRONG TỤC
NGỮ, CA DAO VIỆT NAM...................................................................................68
3.1. Triết lý về nguồn gốc, bản chất, về vị thế con ngƣời......................................................68
3.1.1. Triết lý về nguồn gốc của con người.............................................................68
3.1.2. Triết lý về bản chất con người......................................................................74
3.2. Triết lý về quan hệ con ngƣời với tự nhiên......................................................................82
3.3. Triết lý về quan hệ con ngƣời với con ngƣời……………………………………...88
3.3.1. Triết lý về sự làm người.................................................................................88
3.3.2. Triết lý đối nhân xử thế..................................................................................91

3.4. Triết lý về đạo đức, nhân cách và ý nghĩa cuộc sống..................................105
3.4.1. Triết lý về đạo đức, nhân cách.....................................................................105
3.4.2. Triết lý về ý nghĩa cuộc sống.......................................................................109
3.5. Những nét độc đáocủa triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam
3.5.1. Thừa nhận thực tế đời sống đầy mâu thuẫn................................................................111
3.5.2. Phạm vi ứng dụng rộng, bao quát...............................................................113
3.5.3. Trình độ khái quát cao.................................................................................114
Kết luận chƣơng 3.................................................................................................114
Chƣơng 4: Ý NGHĨA CỦA TRIẾT LÝ NHÂN SINH TRONG TỤC NGỮ, CA
DAO VIỆT NA ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG XÃ HỘI HIỆN NAY………………117
4.1. Thực tiễn đời sống xã hội Việt Nam hiện nay: những vấn đề đặt ra…….117
4.2. Ý nghĩa định hƣớng của triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao đối với đời
sống xã hội hiện nay……………………………………………………………..127
4.2.1. Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam góp phần thúc đẩy tư
duy lành mạnh, định hướng hành động hợp lẽ phải……………………..……..128
4.2.2. Triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam góp phần giáo dục quan
niệm sống tốt đẹp và lối sống nhân văn…………………………………………131
4.2.3. Về hạn chế của triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam……..138
Kết luận chƣơng 4………………………………………………………………141
KẾT LUẬN……………………………………………………………………...143
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN…………………………………………………………………………..148


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng
định “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng
đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.
Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội

sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” [25;126]. Đây là
quan điểm có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp phát triển văn hóa và xây dựng
con người Việt Nam, cũng đồng thời là quan điểm định hướng cho sự nghiên cứu lý
luận và thực tiễn về văn hóa và con người Việt Nam.
Về phương diện nghiên cứu, cho đến nay, giới lý luận đã đạt được những
thành tựu rất đáng kể trong nghiên cứu văn hóa và con người. Tuy vậy, điều đáng
lưu ý là, việc nghiên cứu về con người vẫn có thể rơi vào tình trạng không đầy đủ
nếu thiếu vắng những khám phá về triết lý nhân sinh. Mà ở Việt Nam, trong kho
tàng tục ngữ, ca dao, triết lý nhân sinh – triết lý về con người và về đời sống con
người, lại chiếm vị trí rất đáng kể và có ý nghĩa không nhỏ đối với đời sống xã hội,
trước đây cũng như hiện nay.
Có thể thấy, tục ngữ, ca dao là một bộ phận đồng thời là chỉ báo tin cậy phản
ánh sự phát triển phong phú về đời sống tinh thần của người Việt Nam từ trong lịch
sử xa xưa. Bằng nghệ thuật ngôn từ trau chuốt, sâu sắc nhưng dung dị, mộc mạc,
quen thuộc với người nông dân, ca dao, tục ngữ, và triết lý nhân sinh chứa đựng
trong đó đã thực sự là vũ khí tinh thần sắc bén, là những chỉ dẫn thế giới quan và
nhân sinh quan sáng suốt, định hướng cho con người sống, lao động, sáng tạo và
yêu thương… trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Ngày nay, triết lý nhân sinh trong
ca dao tục ngữ vẫn là hành trang đắt giá của xã hội hiện đại.
Nói đến triết lý nhân sinh ở Việt Nam, trước tiên, người ta không thể không
tìm kiếm trong văn học dân gian Việt Nam, trong kho tàng tục ngữ, ca dao Việt
Nam. Dĩ nhiên, triết học là tri thức hệ thống, bác học về thế giới quan và phương
pháp luận, còn tục ngữ, ca dao lại là tri thức dân gian (Folk Knowledge) - tri thức
của sự phản ánh cái cụ thể, cái thuộc về những kinh nghiệm, lẽ phải thông thường.

1


Quần chúng nhân dân, bằng kinh nghiệm và trí khôn của nhiều thế hệ là tác giả của

loại hình tri thức này. Sức mạnh của triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao là ở đó.
Như nhiều tài liệu đã khẳng định, tục ngữ, ca dao Việt Nam, trên khắp các
vùng miền, ở tất cả các lĩnh vực, đều chứa đựng trong nó hệ thống phong phú các
triết lý nhân sinh sâu sắc. Mấy nghìn năm dân tộc Việt Nam tồn tại và phát triển,
cũng là mấy nghìn năm triết lý nhân sinh luôn nối tiếp nhau xuất hiện và thực hiện
chức năng định hướng của mình trong tục ngữ, ca dao. Kinh nghiệm sống, lao động
và đấu tranh, các giá trị làm người, các bản sắc đặc trưng về lối sống và ứng xử…
không ngừng được đúc kết và cất giữ trong ca dao, tục ngữ, kể cả trong xã hội hiện
đại.
Vấn đề là ở chỗ, hiện hay việc xác định hệ thống triết lý nhân sinh trong kho
tàng tục ngữ, ca dao Việt Nam trên thực tế chưa được tìm hiểu một cách hệ thống.
Đại đa số các tác giả tuy đánh giá cao giá trị của các triết lý nhân sinh, chỉ ra sự tồn
tại của một số triết lý nhân sinh cụ thể trong kho tàng tục ngữ, ca dao và phân tích
nội dung của chúng, nhưng lại chưa tiến hành hệ thống hóa, phân loại, và đánh giá ý
nghĩa nhiều tầng, đa diện của tục ngữ, ca dao đối với các xã hội ở từng giai đoạn
lịch sử và trong toàn bộ đời sống xã hội nói chung. Việc xem xét cũng chủ yếu tiến
hành trong khuôn khổ những nghiên cứu văn học, văn hóa học… hầu như rất ít
được nghiên cứu từ góc độ triết học.
Đối với việc nghiên cứu từ góc độ triết học, những vấn đề cần phải giải đáp
là: Những nội dung cơ bản của triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam
gồm những gì? Làm thế nào để phân loại, xác định và nhận diện hợp lý các triết lý
nhân sinh phong phú, đa dạng trong đời sống xã hội Việt Nam ở các thời kỳ lịch sử
khác nhau? Ý nghĩa định hướng của triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao đối với
đời sống xã hội hiện nay thể hiện như thế nào? Cần phải làm gì và làm như thế nào
để giữ gìn và phát huy những nội dung của triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao
Việt Nam vào giáo dục con người trong bối cảnh hiện nay?
Nghiên cứu triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam, do vậy có ý
nghĩa không nhỏ trong việc khẳng định những giá trị quý báu của văn hóa dân tộc.
Trên cơ sở đó, việc làm rõ, đánh giá những giá trị của triết lý nhân sinh trong tục
ngữ, ca dao Việt Nam, sẽ góp phần làm tăng cường sức sống của đời sống tinh thần


2


xã hội, củng cố niềm tin, lý tưởng sống cho mỗi người Việt Nam hiện nay dưới tác
động của toàn cầu hóa.
Xuất phát từ những lý do đó, tác giả đã chọn: “Triết lý nhân sinh trong tục
ngữ, ca dao Việt Nam và ý nghĩa của nó đối với đời sống xã hội ở nước ta hiện nay”
để làm đề tài luận án tiến sĩ triết học này.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích
- Nghiên cứu, xác định những nội dung cơ bản của triết lý nhân sinh trong
tục ngữ, ca dao Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá giá trị và ý nghĩa của những triết lý nhân sinh đó đối
với đời sống xã hội ở nước ta hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
Phù hợp với mục đích nghiên cứu nói trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
gồm:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan và xác định khung lý thuyết
để nghiên cứu đến đề tài.
- Nghiên cứu, xác định triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam.
- Phân tích nội dung cơ bản của các loại triết lý nhân sinh chủ yếu trong kho
tàng tục ngữ, ca dao Việt Nam.
- Đánh giá ý nghĩa với những giá trị và hạn chế của triết lý nhân sinh trong
tục ngữ, ca dao Việt Nam đối với đời sống xã hội Việt Nam hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao
Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận án giới hạn nghiên cứu những ca dao, tục ngữ đã được tuyển chọn
trong kho tàng tục ngữ, ca dao các tỉnh Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ; chủ yếu là trong các
tác phẩm về tục ngữ, ca dao đã xuất bản.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận

3


- Cơ sở lý luận của luận án là Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa
duy vật lịch sử: Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về con
người và đời sống con người, về tồn tại xã hội và ý thức xã hội…
Cùng với cơ sở lý luận cơ bản đó, luận án còn chú ý khai thác và sử dụng
những giá trị lý luận của các công trình nghiên cứu ngoài triết học về chủ đề đời
sống con người được phản ánh trong tục ngữ, ca dao.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp logic - lịch sử, quy nạp - diễn dịch, tổng hợp phân tích, so sánh - đối chiếu, thống kê,…
Luận án chú trọng sử dụng các tài liệu triết học và triết lý, về đời sống tinh
thần và vật chất của xã hội và con người, về văn hóa và con người. Trong chừng
mực có liên quan, luận án có sử dụng các tài liệu văn học, văn hóa học có liên quan
đến chủ đề, các báo cáo chuyên môn của các tổ chức văn hóa - xã hội của Đảng và
Nhà nước, đặc biệt các báo cáo của các Hội văn học – nghệ thuật, các trường Đại
học khu vực phía bắc… có liên quan đến đề tài.
5. Đóng góp mới của luận án
Luận án đã xác định được những nội dung cơ bản của triết lý nhân sinh trong
tục ngữ, ca dao Việt Nam. Bước đầu phân loại các loại triết lý nhân sinh theo đặc
thù của đời sống người Việt thể hiện trong kho tàng ca dao, tục ngữ Việt Nam.
Luận án đã chỉ ra những nét độc đáo, góp phần khẳng định giá trị của triết lý
nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam.

Luận án đã phân tích làm rõ ý nghĩa của các triết lý nhân sinh trongviệc xây
dựng nhân sinh quan lành mạnh của con người Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận án đã góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận như nội dung cơ bản, phân
loại, ý nghĩa định hướng… của triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam.
Luận án đã góp phần chỉ ra ý nghĩa của triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca
dao Việt Nam đối với việc xây dựng nhân sinh quan của con người hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn

4


Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và
giảng dạy về triết học, triết lý, chủ nghĩa duy vật lịch sử, văn học dân gian, văn hóa
học về ca dao, tục ngữ Việt Nam, đặc biệt về triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao
Việt Nam.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận
án được bố cục làm 4 chương với 12 tiết.

5


Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Các công trình nghiên cứu về triết lý và triết lý nhân sinh
1.1.1. Các công trình nghiên cứu triết lý trong sự phân biệt với triết học
Công trình sớm nhất về vấn đề này là của Trần Đức Thảo với tên gọi “Triết
lý đã đi đến đâu”, Nxb. Minh Tân, Paris, 1950. Bản điện tử do triethoc.edu.vn thực

hiện. Mở đầu tác giả viết: “Triết lý là ý niệm của nhân loại, tự giác đã đi ra khỏi
cách sinh sống thời đại dã man, và nhờ văn minh có nâng đời sống lên phương diện
phổ biến: nghĩa là mỗi người có một nhân phẩm, ai ai cũng phải công nhận, không
kể đến hoàn cảnh đặc biệt, nhưng chỉ vì một người là một người, có giá trị làm
người”.[100,2]. Ở tác phẩm này, tác giả chia vấn đề triết lý ra làm 3 phần: Phần 1:
Căn bản thiết thực của triết lý - châu Âu và châu Á; phần 2: Giai đoạn trưởng giả
cách mệnh, từ thời trung cổ đến Hêghen; phần 3: Thời đại trưởng giả trụy lạc,
Mácxit phát triến. Có thể khẳng định, với công trình này Trần Đức Thảo đã chỉ ra
những đặc điểm của triết lý, trên cơ sở đã trình bày một cách đầy đủ nguồn gốc hình
thành và quá trình phát triển của triết lý trong triết học phương Đông và phương
Tây. Với tính cách là triết gia Việt Nam được thừa nhận có tầm vóc quốc tế ở
Phương Tây, Trần Đức Thảo trong tác phẩm này đã dành nhiều tâm huyết cho vấn
đề triết lý. Tiếc rằng ông lại chưa đặt ra vấn đề phân biệt giữa triết học và triết lý,
mặc dù ông sử dụng cả hai thuật ngữ này.
Tác giả Phạm Xuân Nam (chủ biên) với cuốn sách “Triết lý phát triển ở Việt
Nam - Mấy vấn đề cốt yếu”, Nxb. Khoa học xã hội, 2003; cuốn sách gần 600 trang,
là một công trình nghiên cứu lớn về triết lý và triết lý phát triển ở Việt Nam, gồm 7
chương, đề cập đến những vấn đề như: Triết lý được định nghĩa là gì? Triết lý phát
triển là như thế nào? Triết lý về mối quan hệ giữa các lĩnh vực trong đời sống xã hội
như kinh tế, chính trị, đạo đức, pháp luật, triết lý về mối quan hệ giữa con người với
tự nhiên, con người với xã hội… Nội dung của các chương này đều phản ánh cô đúc
và có phần bổ sung, phát triển thêm kết quả nghiên cứu của 6 đề tài nhánh thuộc
chương trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân
văn Quốc gia từ cuối năm 1997 đến năm 2001. Khi bàn đến triết lý, chủ yếu tác giả
Phạm Xuân Nam đẫ đề cập đến triết lý phát triển của xã hội. Theo tác giả, “Triết lý

6


phát triển - chính là những quan điểm, luận điểm, phương châm cốt lõi và cơ bản

nhất có vai trò định hướng cho hoạt động thực tiễn nhiều mặt của con người, nhằm
biến đổi theo chiều hướng đi lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp của tất
cả các yếu tố, các chiều cạnh hợp thành xã hội tổng thể mà trong đó bản thân con
người là trung tâm” [79;40].
Tác giả Nguyễn Văn Huyên với công trình “Triết lý phát triển – từ Mác –
Lênin đến Hồ Chí Minh”, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000. Sách chuyên
khảo này gồm những nội dung lớn như: Quan niệm triết lý là gì? Triết lý Hồ Chí
Minh là như thế nào? Nguồn gốc và nội dung triết lý phát triển của Hồ Chí Minh và
sự vận dụng triết lý phát triển ấy trong công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước ở Việt
Nam hiện nay. Theo tác giả, đặc điểm nổi bật của tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung
và triết lý phát triển Hồ Chí Minh nói riêng là tư tưởng - hành động. Nhân lõi triết
lý của Hồ Chí Minh về một đất nước phát triển cũng như giải pháp có tính nguyên
tắc đối với việc thực hiện quá trình phát triển đất nước không chỉ dừng lại ở lý
thuyết, mà nó được hoà quyện vào trong hành động thực tiễn, vào trong toàn bộ sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam.
Hồ Sĩ Quý với “Một số suy nghĩ về triết học và triết lý” đăng trên Tạp chí
Triết học số 3/1998 đã phân biệt một cách khá súc tích triết học với triết lý. Theo
tác giả, “Triết học là một môn khoa học nghiên cứu những qui luật chung nhất của
tự nhiên, xã hội, con người và mối quan hệ của tư duy với tồn tại. Nó thường được
thể hiện dưới dạng một hệ thống các nguyên lý, quan điểm có tính trừu tượng khái
quát hoá cao với lôgíc nội tại tương đối chặt chẽ. Khác với triết học, triết lý không
phải là môn khoa học đề cập đến những vấn đề chung nhất của tự nhiên, xã hội, tư
duy” [91;3]. Còn triết lý, tác giả cho rằng có thể và nên được hiểu là những tư tưởng,
quan điểm hay quan niệm... mang tính khái quát cao, nhưng thường thiếu tính hệ
thống, được khái quát chủ yếu từ kinh nghiệm hàng ngày hoặc là “mảnh vụn” của
những hệ thống tri thức nào đó. Triết lý, dĩ nhiên cũng được phản ánh một cách cô
đúc dưới dạng các mệnh đề hoặc các phán đoán thường là trau chuốt về mặt ngôn
ngữ; và được sử dụng trong đời sống xã hội với tính cách là những định hướng cho
hoạt động của con người về mặt thế giới quan, phương pháp luận. Theo chúng tôi
đây là một trong những công trình phân biệt rõ và sâu về sự khác biệt giữa triết học


7


và triết lý, giúp người đọc có thể hiểu rõ những đặc trưng cơ bản của triết lý và sự
khác nhau của nó với triết học.
Công trình “Triết lý phương Đông - giá trị và bài học Lịch sử” của tác giả
Trịnh Doãn Chính, Nxb. Chính trị Quốc gia, 2001. Nội dung chính của tác phẩm đề
cập đến những vấn đề cơ bản trong triết lý phương Đông như: triết lý về đạo đức,
triết lý về pháp luật, triết lý về con người, triết lý về xã hội…Tuy nhiên, cũng như
các tác giả khác, Trịnh Doãn Chính chưa đề cập đến vấn đề sự phân biệt giữa triết
học và triết lý, đồng thời chỉ đề cập đến những nội dung cơ bản trong triết lý
phương Đông mà chủ yếu là Ấn Độ và Trung Quốc.
Công trình “Triết lý trong văn hóa phương Đông” của tác giả Nguyễn Hùng
Hậu, Nxb. Đại học sư phạm Hà Nội, 2002. Trong cuốn sách này tác giả đã đề cập
đến những nội dung cơ bản của triết lý trong văn hóa phương Đông, trong đó nổi
bật là một số quan điểm, nội dung, sự thống nhất giữa mục tiêu và động lực của
nhân tố con người trong triết lý phát triển Hồ Chí Minh. Ở đây, tác giả đã sơ bộ
trình bày một vài vấn đề triết lý trong văn hoá phương Đông - một trong những cái
nôi văn minh của nhân loại - thể hiện ở ba nước: Ấn Độ, Trung Quốc và Việt Nam.
Dĩ nhiên, phương Đông còn bao gồm nhiều nước khác nữa mà tác giả chưa có điều
kiện nghiên cứu. Tuy vậy, qua nghiên cứu triết lý trong văn hoá ba nước trên cũng
phần nào giúp chúng ta hiểu tính cách của người Việt Nam nói riêng và người
phương Đông nói chung, từ đó ta có những chiến lược phát triển con người nói
riêng và văn hoá nói chung một cách thích hợp, góp phần đẩy mạnh công cuộc công
nghiệp hóa - hiện đại hoá đất nước, hướng nhanh đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh….
Tác giả Trịnh Doãn Chính còn có một công trình khác có liên quan đến vấn
đề này là “Veda, Upanishad - những bộ kinh triết lý tôn giáo cổ Ấn Độ”, Nxb.
Chính trị Quốc gia, 2006. Phần thứ nhất giới thiệu về kinh Veda; phần thứ hai giới

thiệu về kinh Upanishad. Với mỗi bộ kinh, các tác giả đều giới thiệu khái quát về
niên đại, nguồn gốc, kết cấu, nội dung cơ bản và sau đó là toàn bộ nội dung của
kinh văn gốc được biên dịch, chú giải. Ngoài ra, trong cuốn sách còn có thêm phần
từ vựng, giúp bạn đọc nắm một cách cơ bản một số từ, khái niệm cổ được sử dụng.
Thông qua những bộ kinh này, người đọc sẽ có thêm nhiều hiểu biết sâu sắc về

8


nhân sinh quan, vũ trụ quan của người Ấn Độ cổ, cũng như cuộc sống hàng ngày,
mong ước của họ, những giá trị chân lý mà họ hướng tới…Đồng thời, khi đọc cuốn
sách này, bạn đọc sẽ thấy rằng, tư tưởng của chúng không chỉ có ý nghĩa triết học
tôn giáo, ý nghĩa văn chương mà còn có ý nghĩa cả về luân lý, đạo đức; hơn thế,
rộng lớn hơn là giá trị văn hóa của nó. Nó được coi là một trong những cội nguồn tư
tưởng của nền văn minh Ấn Độ, là hệ tư tưởng truyền thống thống trị trong đời sống
tinh thần xã hội Ấn Độ cổ, là cơ sở triết lý cho một trong những tôn giáo lớn của Ấn
Độ. Có thể khẳng định, đây là một công trình lớn, có ý nghĩa thiết thực cho những
người nghiên cứu về triết học, triết lý và triết học phương Đông. Mang trong mình ý
nghĩa, giá trị to lớn cùng với sự ảnh hưởng sâu rộng của nền triết học Ấn Độ đến
Việt Nam, cuốn sách là tài liệu hữu ích cho các nhà nghiên cứu trong việc tìm hiểu,
nghiên cứu tư tưởng và tôn giáo cổ Ấn Độ từ sự tiếp cận trực tiếp với các kinh văn
gốc.
Tác giả Trương Văn Chung với “Bài giảng triết học phương Đông”, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội, 2007. Nội dung chính của công trình này nêu những đặc
điểm chung của Triết học phương Đông, triết học tâm linh siêu nghiệm, phương
pháp tư duy trực cảm, tiên nghiệm, triết học chính trị đạo đức. Tất nhiên, trong công
trình này tác giả cũng dành một phần để đề cập đến vấn đề triết lý trong triết học
phương Đông nhưng vẫn còn mờ nhạt, không rõ ràng.
Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài khoa học cấp Bộ năm 2008 của
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh với tiêu đề: “Triết lý phát

triển Hồ Chí Minh- giá trị lý luận và thực tiễn”. Công trình lớn này bao gồm 2
chương: Chương 1, quan niệm về triết lý phát triển và nguồn gốc tư tưởng – lý luận
hình thành triết lý phát triển Hồ Chí Minh; chương 2: Bản chất và nội dung triết lý
phát triển Hồ Chí Minh; chương 3: Vận dụng và phát triển triết lý phát triển Hồ Chí
Minh trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay. Nội dung chính của tác phẩm này
đề cập đến nguồn gốc hình thành, nội dung của triết lý Hồ Chí Minh và đặc biệt là
vấn đề vận dụng triết lý Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
Công trình là sự nghiên cứu nét độc đáo, sáng tạo, giá trị của triết lý phát triển Hồ
Chí Minh cho phép chúng ta khám phá những nội dung đặc sắc nhất của tư tưởng
Hồ Chí Minh với tư cách là hệ thống các quan điểm sâu sắc và toàn diện về cách

9


mạng Việt Nam. Triết lý phát triển chính là hạt nhân cốt lõi của phương pháp luận
Hồ Chí Minh. Ở đây, các tác giả còn nêu bật, trên bình diện lý luận, sức sống, sức
hấp dẫn lâu bền của tư tưởng Hồ Chí Minh; vai trò nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
trong hành động của triết lý phát triển Hồ Chí Minh đối với việc xác định, hoàn
thiện triết lý phát triển Việt Nam hiện đại. Đồng thời chỉ ra những đóng góp lý luận
của triết lý phát triển Hồ Chí Minh cho sự phát triển nhân loại với tư cách nhà văn
hóa kiệt xuất.
Nguyễn Gia Linh với tác phẩm “Triết lý nhân sinh cuộc đời”, Nxb. Lao động,
2009. Nội dung tác phẩm đề cập đến những vấn đề cơ bản trong quan niệm sống
của con người như: nội tâm, tính cách, thân phận, tâm linh… Tác giả cho rằng:
Cuộc sống của con người không phải do một thế lực siêu nhiên nào mà do chính
bản thân mình tạo ra. Mỗi người đều phải thường xuyên đối mặt với các vấn đề của
cuộc sống như: công việc, xã hội. Cách đối nhân xử thế, thái độ làm việc, mức độ
cố gắng, cách tư duy và niềm tin... của chúng ta quyết định sự thành bại trong cuộc
đời của chúng ta. Bất kể thế nào thì chúng ta đều muốn thành công và tìm cách
tránh thất bại hoặc đi đường vòng. Triết lý nhân sinh của cuộc đời chính là cây đèn

soi sáng để bạn đi đến lý tưởng, thành công.
Bertrand Russell trả lời phỏng vấn với tên gọi “Triết lý là cái gì vậy?” đã có
câu trả lời rất sâu sắc. Theo ông, triết lí là suy luận về những đầu đề chưa thể có một
tri thức đích xác được. “Đại khái thì chúng ta có thể nói rằng khoa học là cái gì
mình biết, mà triết lí là cái gì mình không biết. Định nghĩa đó đơn sơ; vì vậy mà
chúng ta thường thấy những vấn đề triết lí chuyển qua khu vực khoa học. Triết lí có
hai công dụng. Công dụng thứ nhất: duy trì sự suy tư về những môn mà chúng ta
vẫn chưa thể sắp vào loại tri thức khoa học được; vì tri thức khoa học vẫn chủ bao
gồm một phần rất nhỏ những vấn đề nhân loại chú điểm lợi ích vô cùng mà khoa
học, ít nhất là lúc này, chưa bàn xét gì tới mấy; và nếu chúng ta không tưởng tượng
gì khác ngoài những cái gì mình biết rồi thì tôi cho là đáng tiếc lắm. Tưởng tượng
vũ trụ, đặt giả thuyết để mở rộng nó ra, đó có thể là một công dụng khác, theo tôi,
quan trọng cũng không kém: là triết lí cho chúng ta thấy rằng có những điều chúng
ta tưởng là biết rồi mà sự thật chưa biết. Một triết lí bắt chúng ta phải suy tư hoài về
những cái chúng ta có thể biết được; mặt khác nó nhắc nhở chúng ta phải khiêm tốn,

10


nghĩ rằng cái mà chúng ta cho là biết rồi, là tri thức, sự thực chưa phải là tri thức”
[5;10]. Có thể thấy những quan niệm sâu sắc về triết lý trong triết học, Bertrand
Russell đã góp phần trả lời cho nhiều nhà nghiên cứu khi đặt ra vấn đề triết lý. Là
cơ sở cho tác giả luận án khi tiếp cận các góc độ của triết lý để triển khai ở nội dung
của chương 2.
Từ những công trình nghiên cứu trên, có thể hiểu được sâu hơn về triết học.
Có khá nhiều định nghĩa về triết học, nhưng định nghĩa nào cũng đều bao hàm
những nội dung cơ bản sau: Triết học nghiên cứu toàn bộ vũ trụ và con người (hay
thế giới, con người, xã hội và tư duy) trong hệ thống chỉnh thể toàn vẹn, giải thích
tất cả các quan hệ trong và ngoài các chỉnh thể đó, chỉ ra những quy luật phổ biến
nhất chi phối, quy định sự vận động của các chỉnh thể, tức là của vũ trụ, của xã hội

loài người, của con người và của tư duy, tư tưởng và thể hiện toàn bộ sự hiểu biết
đó dưới dạng các tri thức hệ thống về thế giới quan và nhân sinh quan.
Tóm lại, theo nghiên cứu ở trên thì triết lý là những lý lẽ mang tính khái
quát, nó là kết quả của sự suy nghĩ, chiêm nghiệm, đúc kết thành những quan diểm,
luận điểm, phương châm cơ bản mang tính cốt lõi nhất về cuộc sống và hoạt đọng
thực tiễn của con người. Chúng có vai trò định hướng cho con người trong cuộc
sống cũng như hoạt động thực tiễn. Về mặt hình thức nó thường được thể hiện dưới
dạng những mệnh đề, những câu châm ngôn ngắn gọn, súc tích bao chứa ý nghĩa
sâu xa về nhân tình thế thái, về tự nhiên, xã hội và con người.
Qua phân tích các công trình nói trên về vấn đề triết lý, theo tác giả luận
ánhiện nay ở Việt Nam vẫn có những quan niệm không hoàn toàn giống nhau về
triết lý, nhưng các ý kiến đều thống nhất ở chỗ:
Thứ nhất, triết lý khác triết học. Triết học là hệ thống tri thức ở trình độ
những vấn đề chung nhất, phổ biến nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã
hội và tư duy. Triết lý không phải là một hệ thốngvà cũng không nghiên cứu những
vấn đề chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy như triết học, mặc dù triết lý có
quan hệ với triết học, thậm chí đôi khi là phái sinh từ một triết học nào đó. Triết lý
chỉ đề cập tới từng mặt, từng lĩnh vực hẹp của đời sống xã hội, nhất là trong các nội
dung về nhân sinh.
Thứ hai, từ những nguyên lý triết học cụ thể nhất định, người ta có thể rút ra

11


những triết lý về phương diện nào đó của cuộc sống.
Thứ ba, triết lý có thể được nảy sinh trực tiếp trên cơ sở hoạt động thực tiễn
của con người. Nghĩa là từ hoạt động kinh nghiệm thường ngày, con người có thể
rút ra những triết lý sống, triết lý hành động cho bản thân và cộng đồng. Triết lý có
ý nghĩa như là phương châm cho đối nhân, xử thế, cho hành vi của con người trong
đời sống hàng ngày.

Thứ tư, có nhiều loại triết lý khác nhau, phụ thuộc vào cách phân loại; chẳng
hạn, triết lý phát triển, triết lý nhân sinh, triết lý kinh doanh,.v.v..
Ngoài ra, cũng có một vài quan niệm khác hơi đặc biệt về triết lý. Chẳng hạn,
theo GS. Trần Văn Giàu, triết học chủ yếu là lý luận về nhận thức, nó đặt vấn đề
đúng hay sai, phải hay không phải; còn triết lý chủ yếu hướng về đạo lý (chứ không
phải bản thân đạo lý). Nó chủ yếu đặt vấn đề tốt hay xấu, nên hay không nên; chứ
không đặt vấn đề đúng hay sai, phải hay không phải.
GS.Vũ Khiêu thì cho rằng triết lý là triết học khiêm tốn nói về mình; nó
không thể hiện tầm khái quát vũ trụ quan và nhân sinh quan mà nó thể hiện ý nghĩ
và hành vi chỉ đạo cuộc sống con nguời.
Kế thừa những kết quả nghiên cứu trên, dựa trên quan niệm được nhiều
người tán thành nhất về khái niệm triết lý (nội dung, cách hiểu khái niệm triết lý)
chúng tôi thấy rằng có thể hiểu triết lý là quan niệm định hướng nhận thức và hành
vi (với tính cách là kết quả của sự ứng dụng những tri thức triết học, hay trực tiếp
khái quát từ thực tiễn của hoạt động người), được thể hiện dưới dạng những luận
điểm, những mệnh đề, những tư tưởng được coi là cốt lõi nhất về cuộc sống, về con
người và về xã hội, được nhiều người thừa nhận và coi đó là nguyên tắc xử thế,
phương châm sống và hành động.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về con người và đời sống con người
Công trình nghiên cứu do Phạm Minh Hạc chủ biên với tên gọi “Vấn đề con
người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 1996. Tác phẩm đã đề cập đến những vấn đề cơ bản về truyền thống, cơ sở
hình thành cùng những nội dung cơ bản của truyền thống Việt Nam và phát huy vai
trò của truyền thống trong nhân tố con người phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Tác giả cũng khái quát những phẩm chất tốt đẹp của con

12


người Việt Nam được hun đúc từ bao đời nay như: yêu nước, yêu lao động, nhân

nghĩa, thủy chung, vị tha… Tuy nhiên, theo tác giả với xu thế toàn cầu hóa hiện nay
đã và đang làm ảnh hưởng không nhỏ đến những giá trị truyền thống văn hóa dân
tộc. Vấn đề đặt ra là phải làm thế nào để bên cạnh việc tiếp thu có chọn lọc những
tinh hoa văn hóa nhân loại cần kế thừa và phát triển những giá trị truyền thống tốt
đẹp của con người Việt bao đời nay.
Công trình “Quan điểm của triết học Mác- Lênin về con người với việc xây
dựng con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Luận án Tiến sĩ
triết học của tác giả Vũ Thiện Vương, bảo vệ tại Đại học Quốc gia Hà Nội năm
2000. Tác giả đã phân tích một cách có hệ thống quan điểm của triết học Mác Lênin
về con người; phân tích CNH - HĐH với những yêu cầu xây dựng con người Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay cũng như đề ra những phương hướng và giải pháp cơ
bản nhằm xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu CNH - HĐH.
Công trình “Tìm hiểu giá trị văn hóa truyền thống trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001. Công trình này
do các tác giả: Nguyễn Trọng Chuẩn, Phạm Văn Đức và Hồ Sỹ Quý đồng chủ biên
đã phản ánh rõ những nét cơ bản về giá trị và giá trị truyền thống được thể hiện
trong mối quan hệ giữa văn hóa truyền thống với sự phát triển trong đó nhấn mạnh
vị thế chủ thể của văn hóa nội sinh trong hội nhập, khai thác những yếu tố tích cực
của Nho giáo Việt Nam phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Tác giả Trần Văn Giàu với “Con người Việt Nam, một số vấn đề cần nghiên
cứu” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu con người, số 2/2002. Bài viết đã làm nổi bật ý
nghĩa và tầm quan trọng của giá trị và tinh thần của con người, của dân tộc
Việt Nam, từ đó đưa ra những vấn đề cần thiết trong nghiên cứu về con người
Việt Nam. Mở đầu bài viết, tác giả đã nêu lên những suy nghĩ của mình khi đọc
cuốn sách của Mắcnamara viết về cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Mắcnamara đã
phân tích các diễn biến của cuộc chiến và nhìn thẳng vào nguyên nhân khiến Mỹ
thất bại trong cuộc chiến tranh tại Việt Nam. Trong số các nguyên nhân được chỉ ra,
tác giả đặc biệt chú ý tới hai nguyên nhân. Mắcnamara cho rằng Mỹ đã thua vì Mỹ
không thể hiểu nổi tại sao người Việt Nam lại đấu tranh cho lý tưởng của mình một


13


cách kiên cường như thế; không hiểu vì sao con người Việt Nam lại dũng cảm, bền
bỉ, hy sinh để bảo vệ những giá trị của họ. Theo Mắcnamara, người Việt Nam có
một loại văn minh, văn hóa khác với Mỹ mà Mỹ không hiểu được. Mỹ thua là thua
“phần Việt Nam”, thua “chất Việt Nam” chứ không phải thua về mặt khoa học – kỹ
thuật. Sự đúc kết và suy ngẫm của Mắcnamara khiến tác giả bài viết hiểu thêm tầm
quan trọng của ý thức dân tộc của dân tộc Việt Nam bởi Mỹ đã thua tinh thần
Việt Nam, tinh thần đấu tranh cho những giá trị của dân tộc.
Công trình này cũng rất chú ý tới nghiên cứu của Hồ Chí Minh bởi từ rất
sớm, Hồ Chí Minh đã hiểu được tầm quan trọng của ý thức dân tộc của dân tộc Việt
Nam, sức mạnh của tinh thần dân tộc. Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề dân tộc vào đúng
tầm quan trọng và vị trí của nó, hiểu được quan hệ của cách mạng dân tộc với cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, tư tưởng của Hồ Chí Minh rất quốc tế chủ nghĩa
chứ không hề dân tộc hẹp hòi. Điều thú vị là theo Hồ Chí Minh, nếu nghiên cứu con
người Việt Nam thì phải nghiên cứu xem con người Việt Nam có những đặc điểm
gì, có những gì bí ẩn. Có thể thấy, theo Trần Văn Giàu thì bản lĩnh, phẩm chất, văn
hóa của con người là vô cùng quan trọng đối với việc khai thác các giá trị của con
người và của xã hội.
Hồ Sĩ Quý với “Con người và phát triển con người”, Giáo trình Trường Đại
học Khoa học xã hội và nhân văn, Khoa Triết học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2007.
Giáo trình trình bày một cách đầy đủ nhất những vấn đề cơ bản, có hệ thống về con
người và phát triển con người như: Phương pháp luận nghiên cứu con người, định
nghĩa, khái niệm về con người, sự phát riển con người, nguồn lực con người, nhân
cách, tiềm năng, tài năng, cộng đồng và cá nhân… Bên cạnh đó giáo trình còn nêu
lên những vấn đề cơ bản về con người Việt Nam, về vai trò nhân tố con người; chỉ
ra những khả năng phát riển con người; xác định phương hướng, giải pháp xây dựng
con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong

giai đoạn hiện nay. Ở cuốn sách này tác giả còn nêu khái quát về đời sống con
người ở tầm triết học, theo tác giả con người là chủ nhân, chủ thể tích cực của mọi
hoạt động trong xã hội, con người đã và đang làm chủ cuộc sống của chính mình và
của xã hội…Theo chúng tôi nghĩ ở tầm triết lý cũng như vậy. Những tư tưởng ấy
của tác giả cũng có ý nghĩa rất lớn về mặt triết lý và triết học.

14


Tác giả Nguyễn Đắc Hưng với cuốn sách “Việt Nam – Văn hóa và con
người”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009. Ở đây, tác giả đi vào nghiên cứu về
con người Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, về con người theo từng vùng lãnh thổ,
về mối quan hệ, sự tác động qua lại lẫn nhau giữa con người và văn hóa, tầm quan
trọng của văn hóa và con người đối với sự phát triển của quốc gia. Đồng thời, tác
giả cũng nêu lên những mặt hạn chế của toàn cầu hóa ảnh hưởng tới văn hóa, nhân
cách của con người Việt Nam hiện nay.
Nguyễn Văn Dân với cuốn sách “Con người và văn hóa Việt Nam trong thời
kỳ đổi mới và hội nhập”, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2011. Ở tác phẩm này tác
giả đã trình bày một cách khái quát cơ sở lý luận về con người và văn hóa Việt Nam
trong tình hình mới, nêu lên những nhân tố cơ bản tác động đến sự biến đổi của con
người Việt Nam trong thời kỳ hội nhập và đề xuất một số giải pháp phát huy mặt
tích cực và hạn chế của con người Việt Nam trong thời đại mới. Tác giả viết: “Con
người và văn hóa Việt Nam đang biến đổi theo hướng tốt đẹp. Tuy nhiên, cũng còn
không ít điều phải làm để cho xu hướng biến đổi tốt đẹp đó được duy trì và phát huy.
Muốn cho Việt Nam có được một hình ảnh và vị thế chủ động và tích cực trong hội
nhập, chúng ta phải đứng từ góc độ của người tham gia để tiếp thu và hội nhập, phải
xuất phát từ bên trong để hội nhập, chứ không thụ động đón nhận bất cứ thứ gì áp
đặt từ bên ngoài” [15;240]. Theo chúng tôi, đây là những ý tưởng lớn, có ý nghĩa
quan trọng về triết học. Bởi tác giả khẳng định, con người đang biến đổi theo chiều
hướng tốt đẹp, xuất phát từ bản chất tốt đẹp, cao quý của con người, sự biến đổi ấy

dựa vào nội lực của con người. Đây là những luận điểm quan trọng để luận án kế
thừa và phát triển ở nội dung chương 2, chương 3 của luận án.
Lê Công Sự với “Con người qua lăng kính triết gia”, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2012. Tác phẩm đã trình bày một cách khái quát nhất quan niệm về con
người trong triết học phương Đông, phương Tây mà cụ thể là triết lý về con người
của Lão Tử, Khổng Tử, con người trong sự trăn trở của Trần Đức Thảo và quan
niệm về con người trong triết học phương Tây hiện đại là “Xây dựng một cuộc sống
ấm no hạnh phúc ở chốn trần gian”[97; 85] Theo tác giả, hạnh phúc không phải là
hư ảo, mà nó gắn liền với đời sống con người, từ những sinh hoạt hàng ngày như:
ăn, mặc, ở, đi lại…

15


Như vậy, có thể khẳng định nghiên cứu về con người và đời sống con người
ở phương diện nào đều được các tác giả nhấn mạnh. Đây là những công trình có ý
nghĩa quan trọng cho tác giả luận án tiêp cận khi nghiên cứu về vấn đề triết lý nhân
sinh trong các chương 2 và 3 của luận án.
1.2. Các công trình nghiên cứu có liên quan đến triết lý trong tục ngữ, ca dao
Việt Nam
1.2.1. Các công trình nghiên cứu về giá trị ca dao, tục ngữ nói chung
Đã từ lâu nghiên cứu về con người, về giá trị, về các triết lý trong ca dao, tục
ngữ Việt Nam đã được nhiều tác giả quan tâm và nghiên cứu theo những hướng
khác nhau. Có thể kể tên các công trình nghiên cứu liên quan như sau:
Tác giả Nguyễn Văn Ngọc với công trình sưu tập ca dao, tục ngữ công phu
nhất, có nội dung rất phong phú là bộ sách “Tục ngữ phong dao”, Nxb. Đại Nam,
xuất bản năm 2003 (xuất bản lần đầu năm 1928). Công trình này bao gồm 4 tập với
nhiều câu tục ngữ, phong dao của các vùng miền Bắc, Trung, Nam cho đến nay vẫn
được coi là một trong những công trình sưu tập tục ngữ đầu tiên, có quy mô lớn
trong nghiên cứu, sưu tầm tục ngữ, phong dao.

Tác giả Vũ Ngọc Phan với cuốn sách “Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam”,
Nxb. Khoa học xã hội, 2010. Ở công trình này, ngoài phần sưu tập, tuyển chọn tục
ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam, tác giả còn có nhiều trang viết giới thiệu, bàn luận về:
Công việc sưu tập, nghiên cứu tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam từ xưa đến nay;
bàn về vấn đề ca dao tục ngữ thực chất là gì, thế nào là tục ngữ, ca dao, dân ca; nội
dung và hình thức của tục ngữ, ca dao, dân ca….. Tức là tác giả Vũ Ngọc Phan đi
sâu bàn đến tục ngữ, ca dao, dân ca dưới góc độ văn hóa, văn học…Ở tầm triết lý
trong ca dao tục ngữ theo Vũ Ngọc Phan: “Tính tư tưởng của nhân dân Việt Nam
biểu lộ ở ca dao không chỉ làm cho người ta thông cảm tình yêu thắm thiết mặn
nồng của họ, mà còn cho người ta thấy phẩm chất của họ trong các cuộc đấu tranh
thiên nhiên, đấu tranh xã hội. Họ đã vất vả như thế nào trong công cuộc cải tạo
thiên nhiên, hào hứng như thế nào khi thu được thắng lợi…” [89;75] đây là triết lý
về tình cảm của con người và mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, con người
với xã hội.
Nội dung đáng chú ý trong ca dao, tục ngữ theo Vũ Ngọc Phan là: Qua thực

16


tế đấu tranh gian khổ trên một đất nước có nhiều thiên tai, địch họa, nhân dân Việt
Nam đã rút được nhiều kinh nghiệm quý báu ở những cuộc đấu tranh chống thiên
tai, chống ngoại xâm và có những nhận xét khá sâu sắc về cuộc đời. Óc nhận xét và
phê bình ấy của nhân dân Việt Nam đã biểu hiện bằng lời ca, truyền từ đời nọ sang
đời kia và từ địa phương này sang địa phương khác. Nhiều câu đã thành châm ngôn
cho cả dân tộc, là biểu trưng cho tinh thần đoàn kết và ý chí kiên cường của dân tộc
Việt Nam.
Có thể nói, đây là một trong những công trình đồ sộ đầu tiên nghiên cứu một
cách có hệ thống về tục ngữ, ca dao, dân ca. Qua công trình này tác giả giúp người
đọc có cái nhìn cụ thể hơn về ca dao, tục ngữ, phân loại ca dao tục ngữ theo các chủ
đề về: Nguồn gốc của con người, quan hệ với thiên nhiên, quan hệ với xã hội… Tuy

nhiên, trong giới hạn nào đó, tác phẩm cũng mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu giá
trị nghệ thuật và chú trọng vào việc phân loại, liệt kê tục ngữ, ca dao, dân ca chứ
chưa đề cập nhiều đến các vấn đề triết học.
Nghiên cứu về tục ngữ, ca dao Việt Nam không thể không nói đến công trình
có tên “Văn học dân gian Việt Nam” của các tác giả Đinh Gia Khánh (chủ biên),
Chu Xuân Diên và Võ Quang Nhơn đồng tác giả, do Nxb. Giáo dục ấn hành năm
1998. Các chương trong bộ giáo trình này có đề cập đến việc phân loại ca dao, dân
ca Việt Nam, đất nước và con người trong ca dao, dân ca Việt Nam, các thể loại trữ
tình trong văn học dân gian Việt Nam… tác phẩm nhằm mục đích phục vụ cho việc
giảng dạy và nghiên cứu văn học trong các trường phổ thông và giáo dục chuyên
nghiệp. Theo các tác giả: Văn học dân gian hay văn học truyền miệng là những sáng
tác văn học do nhân dân tạo nên và lưu truyền. Văn học dân gian cũng là những
sáng tác nghệ thuật ngôn từ như văn học viết, nhưng lại có những đặc điểm riêng về
lịch sử ra đời và phát triển, về người sáng tác, về cách thức sáng tác và lưu truyền,
về nội dung tư tưởng và thể loại nghệ thuật. Do mục đích đã được xác định trước là
thiên về văn học nên không tiếp cận tục ngữ, ca dao dưới góc độ triết học.
Cuốn “Tục ngữ Việt Nam” của nhóm tác giả Chu Xuân Diên, Lương Văn
Đang, Phương Tri, Nxb. Khoa học xã hội in và phát hành năm 1975. Công trình này
ngoài phần sưu tập tục ngữ Việt Nam, nội dung cuốn sách còn có phần nghiên cứu
về kho tàng sáng tác dân gian này do Chu Xuân Diên viết gồm 6 chương, trong hơn

17


170 trang. Chu Xuân Diên đã bàn luận nhiều vấn đề trong tục ngữ Việt Nam. Ông
phân tích, chứng minh và khẳng định có sức thuyết phục rằng, tục ngữ là một hiện
tượng ý thức xã hội, là lối nghĩ của nhân dân, là lối nói của dân tộc. Ông còn đề cập
nhiều vấn đề triết học, đạo đức khác nhau nữa trong tục ngữ Việt Nam. Tuy nhiên,
tác giả mới chỉ dừng lại ở cách phân loại, chọn, xắp xếp các tác phẩm tục ngữ theo
chủ đề như thiện – các, ân nghĩa – bội bạc, trách nhiệm, phát triển, suy tàn, sự thay

đổi… để phục vụ cho công việc học tập và giảng dạy văn học chứ chưa đề cập đến
vấn đề con người dưới góc độ triết học.
Qua phân tích các công trình nghiên cứu trên, chúng tôi nhận thấy: các công
trình này chủ yếu thiên về thống kê, liệt kê theo phân loại ca dao tục ngữ theo chủ
đề chứ chưa đề cập nhiều đến các giá trị triết học và tính triết lý. Tuy nhiên, những
công trình này có ý nghĩa rất quan trọng cho luận án khi phân tích tìm hiểu và phân
loại ca dao tục ngữ dưới góc độ triết học.
Nguyễn Tấn Long, Phan Canh với công trình “Thi ca bình dân Việt Nam –
tòa lâu đài văn hóa dân tộc”, Nxb. Hội Nhà văn, xuất bản năm 1998. Đây là một
công trình đồ sộ, bề thế cả về dung lượng trang và nội dung đề cập. Công trình này
gồm 4 tập (tập 1: 627 trang; tập 2: 754 trang; tập 3: 615 trang; tập 4: 699 trang).
Trong ngót ba nghìn trang sách, đề cập đến các vấn đề như: Nhân sinh quan, xã hội
quan, vũ trụ quan. Nhưng có một vấn đề khiến người đọc băn khoăn là: tiêu đề tác
giả đặt ra đầy màu sắc triết học nhưng khi bàn về triết học lại rất thờ ơ. Đọc hàng
trăm nghiên cứu về thơ ca bình dân Việt Nam, độc giả chỉ thấy những lời bàn về các
vấn đề văn học, nghệ thuật, xã hội học, tín ngưỡng, đạo đức nói chung chứ không
thấy có sự phân tích, bình luận về các yếu tố, giá trị triết học, đạo đức dưới cái nhìn
triết học.
Tác giả Nguyễn Xuân Lạc với cuốn “Văn học dân gian Việt Nam trong nhà
trường”, Nxb. Giáo dục, Hà Nội năm 1998. Trong cuốn sách này, tác giả đã nêu lên
một số các bài ca dao, tục ngữ tiêu biểu và phân tích giá trị nội dung của các tác
phẩm điển hình ấy.
Tác giả Thao Nguyễn với công trình “Ca dao Việt Nam - Viên ngọc quý
trong kho tàng văn học dân gian”, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, 2005. Theo
tác giả, ca dao là loại thơ riêng biệt, thơ biến đổi rất nhiều theo nội dung tư tưởng và

18


tình cảm của mỗi thời. Dù hiện nay, ca dao có biến đổi thế nào đi nữa thì ca dao vẫn

là một loại hình của văn học dân gian, nên vẫn tiếp thu truyền thống dân gian. Và vì
lẽ đó, nó là viên ngọc quý cần được giữ gìn và phát huy. Công trình này nghiên cứu
ca dao, tục ngữ cũng chỉ nghiêng về giá trị văn học và văn hóa chứ chưa bàn đến giá
trị triết học.
Tác giả Sương Nguyệt Minh với bài viết “Hạt ngọc trầm bích” đăng trên tạp
chí “Tiếp thị và gia đình” ngày 17/01/2009. Trong giới bài viết đăng tạp chí, tác giả
bàn về việc tục ngữ và ca dao là phương tiện để người Việt giãi bày tâm trạng, tình
cảm hoặc gửi gắm tâm sự lúc buồn đau và cả khi hạnh phúc. Qua bài viết này, cho
thấy người viết có suy nghĩ sâu sắc và chứng tỏ với độc giả một hướng tiếp cận,
hiểu những câu tục ngữ, ca dao như thế nào cho đúng. Theo tác giả, ngày nay hầu
hết những viên ngọc quý (chỉ tác phẩm ca dao, tục ngữ hay) vẫn còn nguyên giá trị,
rất đáng trân trọng, nâng niu. Mặc dù đây là một bài viết ngắn về cách tiếp cận, hiểu
tục ngữ ca dao như thế nào cho đúng nhưng cũng có những giá trị về mặt triết lý
như: quan niệm về cuộc sống của con người, về giá trị của con người và về giá trị
đạo đức…
Tác giả Vũ Thị Thu Hương với công trình “Ca dao Việt Nam - Những lời
bình” Nxb.Văn hóa –Thông tin, Hà Nội, 2000. Nội dung cuốn sách gồm một bài
chính của người sưu tập, biên soạn và hơn ba mươi chuyên luận của các tác giả
khác, được chia làm hai phần; phần I: Những đặc điểm nổi bật của ca dao Việt Nam
như: Có sự lặp lại, dùng hình ảnh so sánh ẩn dụ lấy từ cuộc sống đời thường hoặc từ
thiên nhiên, thể thơ lục bát và lục bát biến thể. Những điều này không có hoặc ít có
ở thơ của văn học viết. Nó là nghệ thuật đặc thù của ca dao in đậm sắc màu dân gian,
bởi nó là tiếng nói của cộng đồng chứ không phải là tiếng nói của cá thể nghệ sĩ như
ở văn học viết. Phần II: Đến với những bài ca dao tiêu biểu như: những bài ca dao
về tình yêu lao động, ca dao trào phúng, ca dao trữ tình…. Nhìn chung, các bài
trong cuốn sách đều đem đến cho độc giả cách tiếp cận, cảm thụ tinh tế về nhiều tác
phẩm ca dao nổi tiếng của dân tộc. Đây là cuốn sách có nhiều thông tin mới, bổ ích
cho bạn đọc nói chung, giới nghiên cứu văn học nói riêng. Tuy tác phẩm này gồm
nhiều bài viết có giá trị về ca dao Việt Nam nhưng không có một tác giả nào bàn về
vấn đề triết lý nhân sinh và triết học.


19


Nghiên cứu về Văn học dân gian mà đặc biệt là nghiên cứu về Tục ngữ, ca
dao Việt Nam có những công trình điển hình như: “Tục ngữ, Ca dao Việt lời bình”
của tác giả Vũ Thị Hương, Nxb. Văn hóa thông tin, năm 2000; “Từ điển Thành ngữ
tiếng Việt phổ thông” của đồng tác giả Vũ Dung- Vũ Thuý Anh- Vũ Quang Hào,
Nxb. Văn hóa Hà Nội năm 2000; công trình “Kho tàng Ca dao người Việt” của
nhóm tác giả Nguyễn Xuân Kính - Phan Đăng Nhật - Phan Đăng Tài - Nguyễn
Thuý Loan - Đặng Diệu Trang, Nxb. Giáo dục, năm 2001; “Thành ngữ - Tục ngữ
Việt Nam” của Bùi Hạnh Cẩm - Bích Hằng - Việt Anh; “Ca dao Việt Nam”, Nxb.
Văn hóa thông tin, Hà Nội năm 2000. Và một số các công trình khác.
Đánh giá một cách tổng quát, những công trình này, phần lớn thiên về thống
kê, phân loại, liệt kê ca dao tục ngữ. Một vài công trình nghiên cứu về giá trị nội
dung và nghệ thuật trên phương diện văn học của ca dao tục ngữ chứ chưa đề cập
đến vấn đề triết lý và triết học.
Công trình nghiên cứu của nhóm tác giả Nguyễn Xuân Kính, Nguyễn Thúy
Loan, Phan Lan Hương, Nguyễn Luân với tên gọi “Kho tàng tục ngữ người Việt”,
Nxb. Văn hóa - thông tin, 2000. Tác phẩm gồm 2 tập, lý giải thế nào là tục ngữ,
nguồn gốc hình thành tục ngữ và các thể loại tục ngữ, Mục đích của các tác giảlà
bước đầu hoàn thành Hệ thống tục ngữ người Việt sắp xếp theo trật tự chữ cái của
tiếng đầu. Theo các tác giả, tục ngữ là những câu nói dân gian ngắn gọn, ổn định, có
nhịp điệu, hình ảnh, thể hiện kinh nghiệm của nhân dân về mọi mặt (Tự nhiên, lao
động, sản xuất, xã hội), được nhân dân ta vận dụng vào đời sống, suy nghĩ và lời ăn
tiếng nói hằng ngày đây là 1 thể loại văn học dân gian. Cần phân biệt tục ngữ và
thành ngữ. Tục ngữ là thể loại văn học dân gian nhằm đúc kết kinh nghiệm, tri thức
của nhân dân dưới hình thức những câu nói ngắn gọn, súc tích, có nhịp điệu, dễ nhớ,
dễ truyền.
Tác giả Phúc Hải với “Ca dao việt Nam đặc sắc”, Nxb. Thời đại, 2003. Tác

phẩm trình bày theo dạng sưu tập có sự phân loại các sản phẩm của ca dao, tục ngữ
Việt Nam. Tuy nhiên, tác phẩm mới chỉ dừng lại ở dạng liệt kê những câu ca dao
Việt Nam đặc sắc chứ chưa có sự phân tích về giá trị ca dao, tục ngữ.
Phan Mậu Cảnh với bài viết: “Đặc trưng văn hóa, cội nguồn văn hóa và sự
thể hiện chúng trong ca dao người Việt”, tạp chí Văn hóa học, số 10/2008. Theo tác

20


giả:“Cùng với khoa học - công nghệ và giáo dục - đào tạo, các hoạt động văn hoá văn nghệ có vị trí quan trọng trong việc xây dựng một xã hội phát triển, làm phong
phú đời sống tinh thần con người, đưa dân tộc đến sự văn minh…Trong số đó, văn
hoá là nền tảng xã hội, là động lực thúc đẩy dân tộc phát triển theo hướng an sinh,
bền vững. Văn hoá thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống. Các phương thức biểu
hiện, lưu giữ và truyền đạt văn hoá rất phong phú và đa dạng. Trong số đó, nổi bật
và tiêu biểu là phương thức ngôn ngữ biểu đạt văn hoá qua các hình thức sáng tác,
trong đó có văn học dân gian” [6;25].Cần phải thấy rằng, những quan niệm, tâm lý,
tình cảm của con người Việt Nam là sự kết hợp đặc sắc giữa hai yếu tối nội sinh và
ngoại sinh, có nhiều tư tưởng xuất phát, nảy sinh từ môi trường không gian sinh tồn
và nghề nghiệp của người dân Việt trồng lúa nước từ thuở xa xưa. Đặc sắc hơn,
những giá trị văn hoá này vốn từ trong phạm vi hẹp (cá nhân, gia đình), lại trở thành
một hệ giá trị trong phạm vi rộng lớn (xã hội) và trường tồn. Ca dao đã thể hiện vai
trò của nó ở cái thời truyền miệng, nhưng trong thời đại ngày nay, ca dao vẫn tiếp
tục được sáng tác, và hình thức truyền miệng vẫn tồn tại, cho dù đã có các hình thức
khác. Theo tác giả, ca dao vẫn đi cùng năm tháng, bởi cái giá trị nhân sinh của nó
(ca dao là tâm nguyện của con người về lẽ sống), bởi cái giá trị văn hoá của nó (ca
dao thể hiện bản sắc truyền thống của dân tộc, làm nền tảng cho sự phát triển, tiếp
biến văn hoá hiện đại).
Bài viết “Đạo đức - một giá trị được tôn vinh trong kho tàng tục ngữ, thơ ca
dân gian Việt Nam” của tác giả Lê Huy Thực đăng trên Tạp chí Khoa học chính trị,
số 6/2013.Đây là công trình bàn về đạo đức dưới góc độ triết học trong tục ngữ, thơ

ca dân gian Việt Nam. Tiếp cận kho tàng sáng tác dân gian nói trên theo một hướng
mới, tác giả đã luận chứng để đi đến khẳng định: Đạo đức là một giá trị thuộc về
bản chất con người có tác dụng không nhỏ, đem lại nhiều lợi ích cho những thành
viên trong xã hội, là cơ sở xây dựng tình yêu, hôn nhân và là giá trị hơn hẳn vẻ đẹp
hình thức của mỗi cá nhân, cao quý hơn tiền bạc, vật chất. Có thể nói, Lê Huy Thực
là một trong số ít những tác giả nghiên cứu sâu về triết lý trong ca dao tục ngữ, đặc
biệt là triết lý về đạo đức.
Một công trình lớn có tên gọi: “Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam”, Nxb.
Văn học, năm 2012 bao gồm 4 tập của nhóm tác giả biên soạn là: Tập 1: Thành ngữ,
tục ngữ. Ca dao, dân ca Việt Nam về cảnh đẹp quê hương đất nước; Tập 2: Thành
ngữ, tục ngữ. Ca dao, dân ca Việt Nam về kinh nghiệm ứng xử; Tập 3: Thành ngữ,

21


tục ngữ. Ca dao, dân ca Việt Namvề tình cảm gia đình; Tập 4: Thành ngữ, tục ngữ.
Ca dao, dân ca Việt Nam về thiên nhiên và lao động sản xuất. Có thể nói đây là
một trong những công trình đồ sộ nghiên cứu về những nội dung cơ bản của ca dao,
tục ngữ, thành ngữ, dân ca Việt Nam. Các tác giả đã thống kê được về số lượng, liệt
kê và phân loại theo các chủ đề của ca dao tục ngữ, làm cho người đọc thấy được
bức tranh phong phú và đa dạng của ca dao, tục ngữ Việt Nam.
Nghiên cứu công trình trên ta thấy: Tục ngữ, ca dao là phần phong phú nhất
trong văn học dân gian của dân tộc ta. Đây cũng là phần có giá trị nhất về mặt trí tuệ,
tình cảm và nghệ thuật biểu hiện. Do đặc điểm nội dung và hình thức ngắn gọn, có
vần, dễ nhớ nên nó luôn luôn được nhân dân vận dụng, truyền miệng qua nhiều thế
hệ. Chính vì vậy nó luôn được trau chuốt mà vẫn giữ được cái hồn, cái hình mặc dù
có thay đổi một vài từ khi đến “cư trú” ở các địa phương khác nhau. Với ca dao,
chúng ta còn có thể nêu lên nhiều cái độc đáo khác nữa của thể loại này như: cách
xưng hô, đối đáp, hình tượng, không gian, thời gian, tính ước lệ... cùng với tục ngữ,
ca dao được quần chúng nhân dân sáng tạo qua nhiều thế hệ tác giả, qua nhiều thời

đại đã có được vẻ đẹp nhiều mặt bền vững như ngày nay. Mỗi câu tục ngữ, mỗi câu
ca dao ra đời trong môi trường, hoàn cảnh nhất định và bao giờ cũng gắn liền với
giới tự nhiên: cây cỏ, loài vật, dòng sông, con đò, bến nước, đường làng... cho nên
nghiên cứu tục ngữ, ca dao cũng như nghiên cứu văn học dân gian nói chung, tốt
nhất, lý tưởng nhất là trở về với dạng nguyên hợp của nó. Có nhiều bài thơ hay là
những tác phẩm mà các tác giả đã vận dụng một cách sáng tạo ngôn ngữ và các
phương pháp nghệ thuật của tục ngữ, ca dao. Nói như vậy để thấy rằng, đây là một
công trình lớn nghiên cứu về ca dao, tục ngữ nhưng các tác giả chỉ thiên về thống kê,
phân loại và nghiên cứu giá trị nghệ thuật, văn học chứ ít bàn về vấn đề triết lý.
Một điều đáng lưu ý là, ca dao tục ngữ Việt Nam không chỉ là đối tượng
nghiên cứu của các nhà nghiên cứu, nhà phê bình trong nước mà còn thu hút sự
quan tâm của các học giả nước ngoài. Tác giả luận án đã tìm tòi các công trình
nghiên cứu của các tác giả nước ngoài và tìm thấy một số công trình như:
Tác giả Chu Tinh với luận văn thạc sĩ: “Từ ca dao tục ngữ luận về văn hóa
Việt Nam”, bảo vệ năm 2012, tại Đại học Dân tộc Quảng Tây, Trung Quốc. Tác giả
chỉ ra: Việt Nam là một nước nông nghiệp từ thời cổ đại, có một nền văn hóa nông
nghiệp phát triển mạnh mẽ. Ca dao Việt Nam là một phần của văn hóa Việt Nam.
Luận văn phân tích yếu tố thời tiết, khí hậu, thiên văn trong ca dao Việt, các giai

22


×