Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

phong tuc cuoi hoi xua va nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (979.45 KB, 17 trang )

Phong tục và lễ nghi thời phong kiến

Quan niệm về hôn nhân
Thời phong kiến, con cái mà còn cha mẹ khi nào cũng ở địa vị phụ thuộc, việc hôn nhân của con cái cha mẹ có
quyền độc đoán và "đặt đâu ngồi đấy". Nếu con cái không bằng lòng với người vợ (hay chồng) mà cha mẹ chỉ định
thì chỉ có cách bỏ nhà ra đi. Chính sự không cần biết ái tình của con cái, chỉ cốt tìm được nơi "môn đăng hộ đối" là
cha mẹ nhờ "mối lái" điều đình để đính hôn nên đã xảy ra tệ tảo hôn và tục phúc hôn.
Người xưa quan niệm mục đích hôn nhân cốt duy trì gia thống cho nên việc hôn nhân là việc chung của gia tộc chứ
không phải việc riêng của con cái. Bởi vậy định vợ gả chồng cho con là quyền quyết định của cha mẹ. Nghĩa vụ
của mỗi người đối với tổ tiên, dòng họ là phải truyền giống về sau để "vĩnh truyền tông tộc", do đó luân lý cho
người "vô hậu" là phạm điều bất hiếu rất lớn . Việc hôn nhân không những chỉ có nguyên nhân huyết thống mà còn
có nguyên nhân kinh tế. Người vợ không những phải sinh con đẻ cái nối dõi tông đường mà còn phải làm lụng và
coi sóc việc nhà cho gia đình nhà chồng.
Chế độ "đa thê, đa thiếp" cho phép đàn ông được phép có nhiều vợ mà không phải vì vợ chính không sinh con hay
chỉ sinh con gái. Lấy thiếp (còn gọi là vợ lẽ, vợ hai, vợ ba, nàng hầu...) không cần tổ chức lễ cưới và vì người thiếp
không phải là một phần tử trọng yếu trong gia đình nên chồng hay vợ chính muốn đuổi khi nào cũng được .

Lễ nghi dân gian
Trước đây (và cả bây giờ) người Việt gọi lễ cưới là hôn lễ. Theo giải thích của Đào Duy Anh, chữ "hôn" nguyên
nghĩa là chiều hôm, theo lễ tục xưa người ta làm lễ cưới vào buổi chiều tối
Dân gian coi cưới xin là một trong ba việc lớn của đời người (sự nghiệp, làm nhà và cưới vợ) khi nhấn mạnh trong
câu ca dao: "tậu trâu cưới vợ làm nhà..."
Lễ cưới dân gian
Khi nhà trai xin cưới và nếu nhà gái thuận thì trả lời cho ông bà mai. Sự trả lời này còn bao gồm việc thách cưới,
nghĩa là nhà gái đòi nhà trai trong lễ đón dâu phải có những đồ lễ gì, bao nhiêu. Thách cưới, nhà gái thường đòi
với số lượng lớn, yêu cầu thường là trầu rượu, cau, trà, bánh trái, gạo, heo, đồ trang sức, y phục cho cô dâu và
tiền mặt
Đúng ngày cưới, người ta chọn giờ "hoàng đạo" mới đi, thường là về chiều, có nơi đi vào chập tối. Dẫn đầu đám
rước đàng trai là một cụ già nhiều tuổi được dân làng kính nể vì tuổi tác, tư cách, địa vị xã hội, đóng vai chủ hôn.
Ở miền Bắc Việt Nam ngày xưa, tại nhà trai, người ta chờ đợi đám rước dâu về. Một quả lò than đốt hồng đặt
trước ngưỡng cửa để chờ cô dâu với nghĩa: lửa hồng sẽ đốt hết những tà ma theo ám ảnh cô dâu và sẽ đốt vía


của tất cả những kẻ độc mồm độc miệng đã quở mắng cô dâu ở dọc đường.
Cô dâu vào lễ gia tiên nhà chồng xong, ông bà cũng như cha mẹ chồng tặng cho cô dâu món quà, thường là tiền
hoặc là đồ nữ trang.
Lễ tơ hồng được cử hành rất đơn giản. Bàn thờ thiết lập ngoài trời, bày lư hương và nến hay đèn, tế vật dùng xôi,
gà, trầu, rượu.
Hai ngày sau lễ cưới, vợ chồng đưa nhau về thăm cha mẹ vợ với một số lễ vật, tùy theo tập tục địa phương bên
vợ. Xưa lễ này gọi là "Nhị hỷ". Nếu nhà chồng ở cách xa quá, không về được trong hai ngày thì có thể để bốn ngày
sau, gọi là "Tứ hỷ".
Theo tục lệ vợ chồng đem lễ chay hoặc lễ mặn về nhà để cúng gia tiên, để trình bày với gia tiên và cha mẹ, cùng
họ hàng việc cưới đã xong xuôi toàn mãn.

Pháp chế
Nhằm tránh xảy ra những điều đáng tiếc, nhà nước quân chủ Việt Nam cũng can thiệp vào việc giá thú của người
dân bởi những điều lệ hay luật. Điều lệ hương đảng do vua Gia Long ban hành năm 1804, khoản về giá thú đã dẫn
câu từ sách cổ: "Hôn lễ là mối đầu của đạo người", "Giá thú mà bàn của cải là thói quen mọi rợ" và quy định: "Đại
phàm lấy vợ lấy chồng, chẳng qua cốt được cặp đôi mà thôi, còn lễ cưới thì nên châm chước trong sáu lễ, lượng
tuỳ nhà có hay không, chứ không được viết khế cố ruộng. Hương trưởng thu tiền cheo trong lễ cưới thì người giàu
1 quan 2 tiền, người vừa 6 tiền, người nghèo 3 tiền, người làng khác thì gấp đôi..."
Năm 1864, vua Tự Đức cũng sai định rõ lại lễ cưới xin của dân gian: "Từ lúc vấn danh đến khi xin cưới, cho kỳ hạn
là 6 tháng, đều theo tiết kiệm, không được quá xa xỉ"

Lễ nghi cung đình
Lễ cưới trong giới quý tộc, quan lại ở các triều đại phong kiến nhìn chung giống với tục cưới gả của Trung Hoa là
căn cứ vào sáu bước (lục lễ), có thể rút bớt hay kết hợp nhưng được sắp đặt cầu kỳ, tỷ mỉ, trang trọng và xa hoa


hơn trong dân gian. Việc dựng vợ gả chồng hoàn toàn do cha mẹ chủ trương và theo lối "cha mẹ đặt đâu con ngồi
đấy". Hoàng tử lấy vợ chính gọi là "nạp phi" và "nạp thiếp" khi lấy vợ thứ (khi về nhà chồng, cô dâu được gọi là phủ
phi hay phủ thiếp), và công chúa lấy chồng gọi là "hạ giá" (chú rể được phong Phò mã Đô uý).
Hoàng tử nạp phi

Hoàng tử khi đến 15-18 tuổi sẽ được phong tước, cấp đất và tiền để lập phủ riêng, sau đó vua mới nghĩ đến việc
cưới vợ cho con. Cô dâu do chính vua kén chọn qua việc dò hỏi các vị đại thần, ai muốn gả con gái đến tuổi cho
hoàng tử. Khi có vị nhận lời, vua mới chuẩn bị hôn lễ. Theo "Nghị định" năm Gia Long thứ 7 (1808), hôn lễ được cử
hành qua các bước:





Truyền mệnh: vua cử hai đại thần lãnh cờ tiết đến nhà gái thông báo, đúng ngày đã định, cha mẹ cô gái
vào cung nhận mệnh, sau đó Khâm Thiên giám chọn ngày tốt để tiến hành hôn lễ.
Nạp thái: trước ngày nạp lễ, có một buổi thiết triều ở điện Cần Chánh để vua truyền cho biết ngày giờ hôn
lễ và cử các quan vào trong ban phụ trách việc hôn lễ này. Hai quan đại thần và một số người khác và vài
mệnh phụ, quân lính bưng tráp thiếp và lễ vật đến nhà gái. Lễ vật được đặt sẵn trên các án sơn son thếp vàng
bao gồm: vàng, bạc, gấm, lụa, nữ trang, trầu, cau, trâu, bò, lợn, rượu. Hòm thiếp đựng giấy ghi danh sách, số
lượng vật phẩm và ngày giờ cử hành các lễ tiếp theo.
Nạp trưng: Theo ngày tốt đã chọn, nghi thức được tiến hành. Lần này, ngoài những vật phẩm như trên còn
có mũ áo, xiêm, hài, kiệu, lọng và "tờ sách vàng" khắc bài dụ của vua. Một nữ quan đọc tờ sách, cô dâu ngồi
vào ghế để nhận lạy mừng của mọi người. Lễ xong, một bữa tiệc được nhà gái bày ra để khoản đãi những
người tham dự, sau đó rước cô dâu về phủ của hoàng tử. Hai đại thần về điện nạp cờ tiết phục mệnh. Hôm
sau, cha mẹ của cô dâu phải vào cung để làm lễ tạ ơn (ông đến tiện điện và bà đến điện Khôn Đức).

Khác với dân gian, nếu hoàng tử muốn cưới nàng hầu thì nghi lễ cũng phải tiến hành tương tự. Theo cuốn "Văn
hóa Huế xưa", tác giả Lê Nguyễn Lưu, phần nói về đời sống văn hóa cung đình (tập 3), trang 285-286 viết: Hoàng
tử lấy vợ gọi là nạp phi (đối với bà chính) và nạp thiếp (đối với bà thứ). Cô gái khi đã về làm dâu của vua (hoàng
tức) được gọi là "phủ phi" hay "phủ thiếp".
Công chúa hạ giá
Khi công chúa hạ mình xuống để lấy chồng thì người chồng được gọi là "thượng giá" và trở thành phò mã. Tuy
nhiên, việc chọn phò mã không hề đơn giản. Vua sai Bộ Lại, Bộ Binh lập danh sách 5 người là con cháu và chắt
các công thần từ nhị phẩm trở lên, những chàng trai này tất nhiên là không bị tàn tật, nhưng phải thông minh và

đẹp. Một vị hoàng thân và một vị đại thần mà vợ chồng song toàn được cử làm chủ hôn và chiếu liệu (lo sắp đặt
mọi chuyện). Họ hội ý với nhau để cử người xứng đáng nhất và hợp tuổi với hoàng nữ trong bản kê, tâu với vua
vua sẽ khuyên son (quyết định).
Trong lịch sử triều Nguyễn, có những vua như Minh Mạng hay Thiệu Trị, vì số hoàng nữ quá nhiều, con cháu công
thần không đáp ứng đủ nên nhiều người phải tìm cách trốn tránh, chạy chọt để khỏi bị ghi danh vì sợ mình lấy phải
công chúa nhiều tuổi hay kém nhan sắc, mà đã kết hôn với công chúa thì phải suốt đời "một vợ một chồng".
Sau khi vua chọn, phò mã tương lai được vua ban tiền để tậu phủ và sắm vật dụng, trang phục đúng nghi thức,
trong đó có một chiếc thuyền bồng[13], đồng thời cha mẹ phải vào lạy tạ ơn trên.
Khâm Thiên giám làm nhiệm vụ chọn ngày để tiến hành lục bộ (sáu lễ), nhà trai phải liên hệ để biết mà chuẩn bị,
cũng có thể kết hợp một ngày 2 đến ba lễ, cách quãng nhau.




Lễ nạp thái và vấn danh: gia đình phò mã sẽ đưa lễ vật vào cung, cúng tổ tiên công chúa và được chủ
hôn mở tiệc khoản đãi. Công chúa nhận vàng bạc và nữ trang.
Lễ nạp trưng và nạp cát: gia đình lại đưa lễ vật vào cung, sau đó hai bên tự tổ chức lễ cáo với tổ tiên mình
về việc cưới hỏi.
Lễ điện nhạn và thân nghinh: trước đó, vua sai quan khâm mạng đến phủ đệ phò mã, bày giường thất
bảo, màn tiên. Đúng ngày giờ đã định, gia đình phò mã lễ vật vào cung, trong đó có một cặp ngỗng. Vị đại thần
làm chủ hôn lập một phái đoàn rước công chúa về phủ phò mã.

Phẩm vật cưới về số lượng mỗi khi mỗi khác và thường là khá nặng. Vào năm 1833, lễ nạp thái được ghi nhận
gồm: 20 lạng vàng, 100 lạng bạc, 2 mâm trầu, 2 mâm cau; lễ vấn danh gồm: một con trâu, hai con lợn, 2 hũ rượu;
lễ nạp cát gồm: 4 tấm gấm, 10 tấm lĩnh màu, 10 tấm sa màu; lễ nạp trưng gồm: 2 mâm trầu, 2 mâm cau, 2 hũ rượu;
lễ thỉnh kỳ gồm: một con bò, hai con dê, 3 hũ rượu; lễ điện nhạn gồm: hai con chim nhạn (được thay bằng ngỗng),
1 hộp kim chỉ, 100 đồng tiền cổ, 20 lạng vàng, 100 lạng bạc... Có quan nghèo không lo nổi nên vào năm 1864, vua
Thiệu Trị dụ rằng: "Đời xưa, vua Nghiêu gả hai con gái cho Ngu Thuấn ở Vĩ Nhuế, chả nghe nói lễ cưới sang trọng.
Hơn nữa, đám cưới chỉ dùng 2 da hươu làm lễ, xưa kia vẫn nói thế. Nay gả hoàng nữ cho con các đại thần, mà các
đại thần thanh thận trung cần, trẫm biết sẵn, vậy 6 lễ cưới, cho tuỳ theo cảnh nhà giàu nghèo mà sắm sửa, không

nên ấn định lễ vật, chớ nên bày đặt quá nhiều. Vậy các quan chủ hôn cần biết rõ."


Nhà nước phong kiến Việt Nam, triều đại nhà Nguyễn chấm dứt sau Cách mạng tháng Tám (1945), cùng với sự
hình thành của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đã có quy định như sau về hôn nhân:
Việc thực hiện đầy đủ chế độ hôn nhân tự do và tiến bộ, một vợ một chồng, nam nữ bình đẳng, bảo vệ quyền lợi của phụ
nữ và con cái, Xoá bỏ những tàn tích còn lại của chế độ hôn nhân phong kiến cưỡng ép, trọng nam khinh nữ, coi rẻ
quyền lợi của con cái, Cấm tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự do, yêu sách của cải trong việc cưới hỏi,
đánh đập hoặc ngược đãi vợ. Cấm lấy vợ lẽ...

Dần dần, những quy định trên được thể chế hóa thành luật
Ở phương diện luật định, sau khi đăng ký kết hôn đôi trai gái được pháp luật bảo vệ. Tuy nhiên, trong tâm thức và
văn hóa dân tộc, lễ cưới chứ không phải tờ hôn thú, mới là thời điểm để họ hàng, bè bạn và mọi người chính thức
công nhận đôi trai gái là vợ chồng. Một đám cưới theo nghi thức cổ truyền có thể vừa được khen, vừa bị chê.
Người khen thì cho rằng thế mới là đám cưới Việt Nam, thế mới không sợ sự du nhập của văn hóa bên ngoài,
nhưng người chê thì lại nói rằng thế là rườm rà, lãng phí và luỵ cổ.
Tuy vậy, chính quyền không cấm việc tổ chức cưới hỏi theo phong tập tập quán xưa, mà chỉ ban hành "quy chế
thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới hỏi", theo đó, quy định rằng: "các thủ tục có tính phong tục, tập quán
như chạm ngõ, lễ hỏi, xin dâu cần được tổ chức đơn giản và gọn nhẹ" và "việc cưới cần được tổ chức trang trọng
vui tươi, lành mạnh phù hợp với phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc".
Trình tự tiến đến lễ cưới của người Việt Nam, có thể có những cách thức, tên gọi khác nhau, đa số có những điểm
chung:





Đăng ký kết hôn: Lễ cưới ngày nay thường được tổ chức sau khi đã được chính quyền cấp giấy chứng
nhận kết hôn.
Chụp ảnh, quay phim: Ở một số thành phố lớn, cô dâu và chú rể thường đến một số địa điểm đẹp ngoài trời

để chụp ảnh làm kỷ niệm.
Chuẩn bị vật phẩm hôn lễ, quà cưới, phòng cưới, tiệc cưới, quần áo, xe hoa...
Phải chọn một người trung gian, đóng vai trò bắc cầu cho hai bên gia đình. Đó thường là người đứng tuổi,
có uy tín, có kinh nghiệm trong ăn nói,thường được gọi là Chủ hôn.

Lễ dạm ngõ
Được sự đồng ý của nhà gái, nhà trai đem lễ sang. Đồ lễ bắt buộc phải có là trầu, cau, rượu, chè, bánh, kẹo,
nước uống... Phải có trầu cau vì câu chuyện trầu cau trong cổ tích Việt Nam là tiêu biểu cho tình nghĩa vợ
chồng, họ hàng ruột thịt. Miếng trầu là đầu câu chuyện, không có trầu là không theo lễ. Lễ vật được dâng lên
bàn thờ tổ tiên. Sau đó, nhà trai sẽ đem về phần lễ mà nhà gái đã lưu lại, được gọi là lại quả.

Lễ Ăn hỏi[
Hay còn gọi là lễ vấn danh, theo tục xưa là hỏi tên tuổi cô gái, nhưng ngày nay cha mẹ đôi bên đã biết biết
rõ rồi. Cô gái nhà nào đã nhận lễ vấn danh coi như đã có nơi, có chốn. Sau ngày lễ ăn hỏi, phải có báo hỉ,
chia trầu. Nhà gái trích trong lễ vật nhà trai đưa đến một lá trầu, một quả cau, một gói trà nhỏ, một cái bánh
cốm, hoặc vài hạt mứt. Tất cả gói thành hộp hay phong bao giấy hồng, mang đến cho các gia đình họ
hàng, bạn hữu của nhà gái. Nhà trai cũng báo hỉ, nhưng không phải có lễ vật này mà chỉ cần thiếp báo hỉ.
Cũng trong lễ ăn hỏi, hai họ định luôn ngày cưới.

Lễ cưới - Thành hôn (diễn ra vào ngày rước dâu




Lễ nạp tài: Là ngày nhà trai đem sính lễ sang nhà gái để đón dâu (như ở dưới sẽ nêu). Ý nghĩa của lễ
nạp tài là nhà trai góp phần với nhà gái chi phí cỗ bàn, cho nhà gái và cô dâu biết mọi thứ đã chuẩn bị
sẵn. Với đồ nữ trang cho cô dâu làm vốn (bố mẹ chồng sẽ trao lúc làm lễ ở nhà gái trước đông đủ
quan viên được mời - nội ngoại nhà gái), cô có thể yên tâm xây dựng tổ ấm mới, chứ không đến nỗi sẽ
gặp cảnh thiếu thốn.
Lễ xin dâu: Trước giờ đón dâu nhà trai cử người đem trầu, rượu đến xin dâu, báo đoàn đón dâu đã

đến.
 Tục chăng dây: ở một số đám cưới, nhà gái bố trí vài em nhỏ bụ bẫm, xinh xắn, mặc áo đỏ chăng

dây trước của nhà gái. Khi nhà trai đến, một trong các em nhỏ chạy về báo cho nhà gái biết. Nhà
trai chuẩn bị một ít kẹo để phân phát cho lũ trẻ chăng dây này, khi đã nhận được kẹo bọn chúng sẽ


rút dây để đoàn nhà trai đi vào nhà gái (tục này hiện nay đã mai một không còn thấy xuất hiện ở
nhiều địa phương).


Lễ rước dâu: Đoàn rước dâu của nhà trai đi thành một đoàn, có cụ già cầm hương đi trước, cùng với
người mang lễ vật (các quả hộp: trầu cau, rượu, bánh phu thê và nếu gia đình nhà trai có điều kiện thì
lễ vật sẽ thêm các món khác - ví như nem chả, bánh kem,...). Nhà gái cho mời cụ già thắp hương vái
trước bàn thờ rồi cùng ra đón đoàn nhà trai vào. Cô dâu cùng với chú rể lạy trước bàn thờ, trình với tổ
tiên. Sau đó hai người cùng bưng trầu ra mời họ hàng. Cha mẹ (nhà gái) cô dâu tặng quà cho con gái
mình. Có gia đình cũng lúc này bày cỗ bàn cho cả họ nhà gái chung vui. Khách nhà trai (như là các vị
khách thông thường không có sự xuất hiện của các lễ nghi có sự tham gia của hai bên) cũng được
mời vào cỗ với mục đích giới thiệu đôi bên rằng đây là nơi con gái họ làm dâu(ở Huế gọi đây là ngày
Vu Quy tương đương Thành Hôn ở nhà trai, lễ Vu Quy này có thể diễn ra trước một ngày so với lễ
Thành Hôn của nhà trai. Xin nói thêm là lễ Vu Quy là lễ cáo bái ở nhà gái để cô dâu ra đi lấy chồng
xong đây là lễ mang tính chất nghi lễ cao không đòi hỏi cỗ bàn, nếu nhà gái có điều kiện thì tổ chức
quy mô còn không thì thắp hương và từ biệt họ hàng nội ngoại). Sau đó là cả đoàn rời nhà gái, để đưa
dâu về nhà chồng. Họ nhà gái chọn sẵn người đi theo cô gái, gọi là các cô phù dâu.



Rước dâu vào nhà: đoàn đưa dâu về đến ngõ. Lúc này, bà mẹ chồng cầm bình vôi, tránh mặt đi một
lúc, để cô dâu bước vào nhà. Hiện tượng này được giải thích theo nhiều cách. Thường người ta cho
rằng việc làm này có ý nghĩa khắc phục những chuyện cay nghiệt giữa mẹ chồng và nàng dâu sau này.




Lễ tơ hồng: khi hai họ ra về, một số người trừ người thân tín ở lại chứng kiến cô dâu chú rể làm lễ
cúng tơ hồng. Người ta cho rằng vợ chồng lấy được nhau là do ông Tơ bà Nguyệt trên trời xe duyên
cho. Cúng tơ hồng là để tạ ơn hai ông bà này. Lễ cúng đơn giản, ông cụ già cầm hương lúc đón dâu,
hoặc ông cụ già cả nhất của họ hàng làm chủ lễ. Hai vợ chồng lạy lễ tơ hồng rồi vái nhau.



Trải giường chiếu: bà mẹ chồng, hoặc một bà cao tuổi khác, đông con nhiều cháu, phúc hậu, hiền từ,
cô dâu chú rể vào phòng tân hôn, bà sẽ trải sẽ trải đôi chiếu lên giường ngay ngắn, xếp gối màn cẩn
thận...



Lễ hợp cẩn: đây là buổi lễ kết thúc đám cưới tại nhà trai. Trước giường có bàn bày trầu rượu và một
đĩa bánh phu thê. Ông cụ già đứng lên rót rượu vào chén rồi mời đôi vợ chồng cùng uống.



Tiệc cưới: dù đám cưới lớn hay nhỏ, cũng phải có tiệc cưới. Đặc biệt là ở nông thôn, tính cộng đồng
xóm giềng, làng xã, họ hàng đang còn mạnh thì tiệc cưới là một dịp tốt để củng cố tính cộng đồng ấy.
Ở thành phố, người ta thường tổ chức tiệc cưới ngay sau lễ thành hôn, cho nên nhiều khi cái "tục" của
sự ăn lấn át mất cái "thiêng" của lễ cưới. Người ta đến ăn, ngồi cùng bàn ăn là những người không
quen biết, ăn sao cho đúng giờ. Tiệc cưới có thể tổ chức nhà gái (trước hôm cưới) và nhà trai (trong
ngày cưới); nhưng cũng có thể hai nhà tổ chức chung thành một tiệc.
 Lễ cheo: một số vùng của Việt Nam còn có lễ cheo. Lễ cheo có thể tiến hành trước nhiều ngày,

hoặc sau lễ cưới một ngày. Lễ cheo là nhà trai phải có lễ vật hoặc kinh phí đem đến cho làng hay

cho xóm có con gái đi lấy chồng. Lễ cưới là để họ hàng công nhận, lễ cheo là để xóm làng tiếp thu
thêm thành viên mới, tế bào mới của làng.


Lễ lại mặt: (còn gọi là nhị hỷ hoặc tứ hỷ), sau lễ cưới (2 hoặc 4 ngày), hai vợ chồng trẻ sẽ trở về nhà
cha mẹ vợ mang theo lễ vật để tạ gia tiên. Lễ vật cũng có trầu, xôi, lợn. cha mẹ vợ làm cơm để mời
chàng rể và con gái mình. Ở một số trường hợp nếu xảy ra chuyện gì mà nhà trai không bằng lòng sau
đêm hợp cẩn, thì lễ nhị hỉ lại có những chuyện không hay, nhưng trường hợp này rất hiếm.



Tóm lại: các nghi lễ cưới theo văn hóa Việt Nam hiện nay đều tuân thủ các lễ như vậy xong ở các vùng
miền khác nhau có sự thay đổi chút ít để phù hợp hơn nhưng mô hình chung không thể phá vỡ mô
hình trên. Chỉ có các dân tộc thiểu số vẫn còn duy trì văn hóa mẫu hệ (con mang họ mẹ) thì mới có
hình thức ngược lại với trên, còn các dân tộc theo văn hóa phụ hệ (con theo họ cha) thì hầu như trong
lễ cưới thì họ là người quyết định ngày giờ và cách thức cưới hỏi.

Những lễ cưới đặc biệt


Lễ cưới theo nghi thức tôn giáo:
 Phật giáo: Phật chưa hề khuyến khích chuyện lứa đôi; nhưng giáo lý Phật có dạy về bổn phận của
vợ đối với chồng, chồng đối với vợ, con cái đối với cha mẹ, cha mẹ đối với con cái. Nếu hai Phật
tử là người đã quy y, hoặc chưa quy y, nhân ngày cưới, sắm sửa lễ vật nhang đèn, hoa quả
đến chùa nhờ Thầy làm lễ chú nguyện cho hai Phật tử và có sự chứng kiến của hai họ. Quý Thầy
sẽ tụng kinh, trì chú, đọc lời dạy của Ðức Phật theo như trong tinh thần của "kinh Thiện Sanh". Sau


đó hai người đọc lời phát nguyện trước Tam bảo và sau cùng là lễ trao nhẫn cho nhau. Sau phần
tụng kinh lễ Phật, cô dâu chú rể đến lễ ông bà và cảm ơn những người tham dự cũng như đón

nhận những lời chúc tụng hoặc quà cưới và cuối cùng là tiệc trà Ðạo vị[].Lễ cưới tổ chức theo kiểu
này gọi là "Lễ Hằng Thuận". Người khởi xướng nghi lễ này là ông Đồ Nam Tử (1883-1940). Ông
tên thật là Nguyễn Trọng Thuật quê tỉnh Hải Dương.Lễ Hằng Thuận đầu tiên là Lễ cưới của ông
Hoàng Văn Tâm và bà Lê Thị Hoành ở chùa Từ Đàm (Huế). Năm 1971, hoà thượng Thích Thiện
Hoa chính thức dùng hai chữ "Hằng Thuận" để chỉ nghi lễ kết hôn trước cửa Phật [18].
 Công giáo:

Lễ cưới được gọi là "Bí tích Hôn phối" và được cử hành trong nhà thờ nếu đôi nam nữ là đồng
đạo Công giáo. Mọi nghi lễ đều do linh mục của nhà thờ lo liệu (thường thì có nhiều quy định trước
khi tổ chức lễ cưới). Lễ cưới ở nhà thờ có nghi lễ tuyên hứa, làm phép và đeo nhẫn cưới cho chú
rể và cô dâu (nếu chú rể và cô đâu đã đeo nhẫn cưới ở nhà thì khi đến nhà thờ, linh mục cũng lặp
lại nghi thức đeo nhẫn). Lễ cưới ở nhà thờ luôn phải cử hành trước lễ gia tiên. Ở hải ngoại, nếu lễ
cưới được cử hành ở nhà thờ thì nhà thờ đã thừa lệnh của chính quyền địa phương để làm giấy
hôn thú cho chú rể cô dâu ngay tại nhà thờ trong khi làm lễ cưới. Nhưng ở Việt Nam, vì không có
quy chế này nên cô dâu và chú rể bắt buộc phải có Giấy đăng ký kết hôn từ chính quyền thì mới
được tổ chức lễ cưới.
 Cao Đài: Chiếu theo Tân Luật Cao Đài điều thứ 6 đến thứ 10 dạy sự chọn hôn trong người đồng



Đạo, trừ khi nào người ngoài ưng thuận nhập môn thì mới được kết làm giai ngẫu. Tám ngày trước
Lễ Sính hôn, chủ hôn trai phải dán bố cáo nơi Thánh thất sở tại cho trong bổn đạo hay biết, sau
khỏi điều trắc trở. Làm Lễ Sính hôn, hai đàng trai và gái phải đến Thánh thất hoặc Đền Thánh mà
cầu lễ Chứng Hôn (Lễ Hôn Phối). Tất cả người trong Đạo khi kết thành hôn nhơn cho con cháu,
phải tuân hành theo Tân Luật như sau: Trước hết phải chọn hôn là người trong Đạo, như điều thứ
sáu của Tân Luật. Trước ngày Sính hôn, phải đăng bát nhựt tại Thánh thất sở tại, như điều thứ 7
của Tân Luật. Khi làm lễ cưới, gả, hai đàng trai và gái phải xin phép lập lễ Hôn Phối tại Thánh thất
hoặc Đền Thánh theo điều thứ 8 của Tân Luật. Cấm không được cưới hầu thiếp, trừ khi nào không
con nối hậu thì đặng phép cưới hầu thiếp nhưng chính người chánh thê đứng cưới mới đặng (Điều
thứ 9 Tân Luật). Cấm người trong Đạo không được để bỏ nhau, trừ khi ngoại tình hay thất hiếu với

công cô (Điều thứ 10 Tân Luật).
Cưới chạy tang: Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam quy định "Việc để tang không cản trở việc kết
hôn" nhưng việc cưới chạy tang vẫn có thể xảy ra. Cưới chạy tang tức đám cưới cử hành trước đám
tang. Trường hợp cha mẹ hay người thân (thuộc ngũ hạng tang) mất thình lình mà hai đưa trẻ đã hứa
hôn hay đính hôn, nếu phải chờ cho mãn tang thì bất tiện nên hai nhà thu xếp để cho làm đám cưới
trước và sau đó mới cử hành tang lễ. Lễ cưới cũng đủ các giai đoạn nhưng giản lược đi nhiều.



Đám cưới tập thể: là hình thức tuy một lễ cưới nhưng cho nhiều cặp cô dâu chú rể.



Hôn nhân có yếu tố nước ngoài: là khi một người Việt Nam kết hôn với một người có quốc tịch
không phải là Việt Nam. Sau khi kết hôn hai người có thể thay đổi sang quốc tịch của người kia hoặc
có cả hai quốc tịch tuỳ vào luật pháp của mỗi quốc gia. Hôn nhân với những người thuộc các quốc gia
phương Tây thường là lựa chọn được các cô gái Việt Nam yêu thích vì những người phương Tây như
châu Âu, châu Mỹ có tiếng là có lối sống văn minh và tôn trọng phụ nữ. Nhưng nhiều khi cũng có mặt
trái khi xuất hiện một trào lưu mới của một bộ phận phụ nữ, nhằm có điều kiện di cư hoặc cải thiện đời
sống kinh tế gia đình. Yếu tố nước ngoài có thể là kết hôn với người nước ngoài da trắng, Việt Kiều
hoặc về sau là người dân các nước quanh vùng như người Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc,
Singapore. Một số vùng quê đồng bằng sông Cửu Long đã có hiện tượng bắt chước nhau cùng lấy
chồng ngoại để giúp cha mẹ, phần lớn họ là những phụ nữ thiếu học vấn, không rành tiếng nước
ngoài, phong tục nơi sắp đến và không biết cách kêu cứu khi bị ngược đãi. Thông qua các công ty mai
mối hôn nhân một người đàn ông độc thân từ 20 đến 70 tuổi chỉ cần một cú điện thoại, một số tiền cọc
1.000 đô la Singapore là có thể lựa chọn trong một số đông phụ nữ trẻ Việt Nam được trưng bày trong
các "bể cá". Đã có một số cô dâu vùng quê bị chồng hoặc gia đình chống ngược đãi, hành hạ, đánh
chết sau một thời gian ngắn kết hôn với người ngoại quốc xa lạ vừa mới được môi giới thông qua một
đám cưới tập thể ở thành phố rồi bỏ nước ra đi làm dâu nơi xứ người.




Lễ Tuyên hôn: Hay là còn gọi là Lễ Tuyên bố là lễ cưới không theo trình tự hỏi, cưới ở trên mà Lễ
cưới và Ăn hỏi nhập chung lại thành một gọi là đám cưới một lễ[. Trước đây hình thức này rất phổ biến
trong quân đội.


PHONG TỤC TẬP QUÁN

Phong tục tập quán cưới hỏi Việt Nam xưa và nay

I- Phong tục tập quán và lễ nghi cưới hỏi thời phong kiến
Quan niệm về Hôn nhân
Thời phong kiến, theo luân lý "tam cương ngũ thường", con cái mà có cha khi nào cũng ở địa vị phụ thuộc, việc hôn nhân của con cái
cha mẹ có quyền độc đoán và "đặt đâu ngồi đấy". Nếu con cái không bằng lòng với người vợ (hay chồng) mà cha mẹ chỉ định thì chỉ
có cách bỏ nhà ra đi.
Chính sự không cần biết ái tình của con cái, chỉ cốt tìm được nơi "môn đăng hộ đối" là cha mẹ nhờ "mối lái" điều đình để đính hôn nên
đã xảy ra tệ tảo hôn và tục phúc hôn.

Phong tục tập quán cưới hỏi Việt Nam xưa và nay
Người xưa quan niệm mục đích hôn nhân cốt duy trì gia thống cho nên việc hôn nhân là việc chung của gia tộc chứ không phải việc
riêng của con cái. Bởi vậy định vợ gả chồng cho con là quyền quyết định của cha mẹ. Nghĩa vụ của mỗi người đối với tổ tiên, dòng họ
là phải truyền giống về sau để "vĩnh truyền tông tộc", do đó luân lý cho người "vô hậu" là phạm điều bất hiếu rất lớn.
Việc hôn nhân không những chỉ có nguyên nhân huyết thống mà còn có nguyên nhân kinh tế. Người vợ không những phải Sinh con
Đẻ cái nối dõi tông Đường mà còn phải làm lụng và coi sóc việc nhà cho Gia đình nhà chồng.
Chế độ "đa thê, đa thiếp" cho phép đàn ông được phép có nhiều vợ mà không phải vì vợ chính không Sinh con hay chỉ Sinh con gái.
Lấy thiếp (còn gọi là vợ lẽ, vợ hai, vợ ba, nàng hầu...) không cần tổ chức lễ cưới và vì người thiếp không phải là một phần tử trọng yếu
trong gia đình nên chồng hay vợ chính muốn đuổi khi nào cũng được.
Lễ nghi dân gian
Trước đây (và cả bây giờ) người Việt gọi lễ cưới là là hôn lễ. Theo giải thích của Đào Duy Anh, chữ "hôn" nguyên nghĩa là chiều hôm,

theo phong tuc tap quan từ xa xưa người ta làm lễ cưới vào buổi chiều tối.
Dân gian coi cưới xin là một trong ba việc lớn của đời người (sự nghiệp, làm nhà và cưới vợ) khi nhấn mạnh trong câu ca dao: "tậu
trâu cưới vợ làm nhà..."
Ảnh hưởng văn hoá Trung Hoa, hôn nhân của người Việt xưa có sáu lễ chính. Để tiến đến lễ cưới, hai gia đình phải thực hiện những
lễ chính sau:
Lễ nạp thái: sau khi nghị hôn, nhà trai mang sang nhà gái một cặp "nhạn" để tỏ ý đã kén chọn ở nơi ấy.
Lễ vấn danh: là lễ do nhà trai sai người làm mối đến hỏi tên tuổi và ngày sinh tháng Đẻ của người con gái.
Lễ nạp cát: lễ báo cho nhà gái biết rằng đã xem bói được quẻ tốt, nam nữ hợp tuổi nhau thì lấy được nhau, nếu tuổi xung khắc thì thôi,
quan niệm thoáng hơn người ta tìm cách hóa giài,
Lễ nạp tệ (hay nạp trưng): là lễ nạp đồ sính lễ cho nhà gái, tang chứng cho sự hứa hôn chắc chắn.
Lễ thỉnh kỳ: là lễ xin định ngày giờ làm rước dâu tức lễ cưới.


Lễ thân nghinh (tức lễ rước dâu hay lễ cưới): đúng ngày giờ đã định, họ nhà trai mang lễ đến để rước dâu về.
Lễ cưới dân gian
Khi nhà trai xin cưới và nếu nhà gái thuận thì trả lời cho ông bà mai. Sự trả lời này còn bao gồm việc thách cưới, nghĩa là nhà gái đòi
nhà trai trong lễ đón dâu phải có những đồ lễ gì, bao nhiêu. Thách cưới, nhà gái thường đòi với số lượng lớn, yêu cầu thường là trầu
rượu, cau, trà, bánh trái, gạo, heo, đồ trang sức, y phục cho cô dâu và tiền mặt.
Đúng ngày cưới, người ta chọn giờ "hoàng đạo" mới đi, thường là về chiều, có nơi đi vào chập tối. Dẫn đầu đám rước đàng trai là một
cụ Già nhiều tuổi được dân làng kính nể vì tuổi tác, tư cách, địa vị xã hội, đóng vai chủ hôn.
Ở miền Bắc Việt Nam ngày xưa, tại nhà trai, người ta chờ đợi đám rước dâu về. Một quả lò than đốt hồng đặt trước ngưỡng cửa để
chờ cô dâu với nghĩa: lửa hồng sẽ đốt hết những tà ma theo Ám ảnh cô dâu và sẽ đốt vía của tất cả những kẻ độc mồm độc Miệng đã
quở mắng cô dâu ở dọc đường.
Cô dâu vào lễ gia tiên nhà chồng xong, ông bà cũng như bố Mẹ chồng tặng cho cô dâu món quà, thường là tiền hoặc là đồ nữ trang.
Lễ tơ hồng được cử Hành rất đơn giản. Bàn thờ thiết lập ngoài trời, bày lư hương và nến hay đèn, tế vật dùng xôi, gà, trầu, rượu.
Hai ngày sau lễ cưới, Vợ chồng đưa nhau về thăm cha mẹ vợ với một số lễ vật, tùy theo tập tục địa phương bên vợ. Xưa lễ này gọi là
"Nhị hỷ". Nếu nhà chồng ở cách xa quá, không về được trong hai ngày thì có thể để bốn ngày sau, gọi là "Tứ hỷ".
Theo tục lệ vợ chồng đem lễ chay hoặc lễ mặn về nhà để cúng gia tiên, để trình bày với gia tiên và cha mẹ, cùng họ hàng việc cưới đã
xong xuôi toàn mãn.
Pháp chế

Nhằm tránh xảy ra những điều đáng tiếc, nhà Nước phong kiến Việt Nam cũng can thiệp vào việc giá thú của người dân bởi những
điều lệ hay luật.
Điều lệ hương đảng do vua Gia Long Ban hành năm 1804, khoản về giá thú đã dẫn câu từ sách cổ: "Hôn lễ là mối đầu của đạo
người", "Giá thú mà bàn của cải là thói quen mọi rợ" và quy định: "Đại phàm lấy vợ lấy chồng, chẳng qua cốt được cặp đôi mà thôi,
còn lễ cưới thì nên châm chước trong sáu lễ, lượng tuỳ nhà có hay không, chứ không được viết khế cố ruộng. Hương trưởng thu tiền
cheo trong lễ cưới thì người giàu 1 quan 2 tiền, người vừa 6 tiền, người nghèo 3 tiền, người làng khác thì gấp đôi...".
Năm 1864, vua Tự Đức cũng sai định rõ lại kễ lễ cưới xin của dân gian: "Từ lúc vấn danh đến khi xin cưới, cho kỳ hạn là 6 tháng, đều
theo tiết kiệm, không được quá xa xỉ".
Lễ nghi cung đình
Lễ cưới trong giới quý tộc, quan lại ở các triều đại phong kiến nhìn chung giống với tục cưới gả của Trung Hoa là căn cứ vào sáu
bước (lục lễ), có thể rút bớt hay kết hợp nhưng được sắp đặt cầu kỳ, tỷ mỉ, trang trọng và xa hoa hơn trong dân gian.
Việc dựng vợ gả chồng hoàn toàn do cha mẹ chủ trương và theo lối "cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy". Hoàng tử lấy vợ chính gọi là "nạp
phi" và "nạp thiếp" khi lấy vợ thứ (khi về nhà chồng, cô dâu được gọi là phủ phi hay phủ thiếp), và công chúa lấy chồng gọi là "hạ giá"
(chú rể được phong Phò mã Đô uý).
Hoàng tử nạp phi
Hoàng tử khi đến 15-18 tuổi sẽ được phong tước, cấp đất và tiền để lập phủ riêng, sau đó vua mới nghĩ đến việc cưới vợ cho con. Cô
dâu do chính vua kén chọn qua việc dò hỏi các vị đại thần, ai muốn gả con gái đến tuổi cho hoàng tử. Khi có vị nhận lời, vua mới
chuẩn bị hôn lễ. Theo "Nghị định" năm Gia Long thứ 7 (1808), hôn lễ được cử hành qua các bước:


Khác với dân gian, nếu hoàng tử muốn cưới nàng hầu thì nghi lễ cũng phải tiến hành tương tự. Theo cuốn "Văn hoá Huế xưa", tác giả
Lê Nguyễn Lưu, phần nói về đời sống văn hoá cung đình (tập 3), trang 285-286 viết: Hoàng tử lấy vợ gọi là nạp phi (đối với bà chính)
và nạp thiếp (đối với bà thứ). Cô gái khi đã về Làm dâu của vua (hoàng tức) được gọi là "phủ phi" hay "phủ thiếp".
Công chúa hạ giá
Khi công chúa hạ mình xuống để lấy chồng thì người chồng được gọi là "thượng giá" và trở thành phò mã. Tuy nhiên, việc chọn phò
mã không hề đơn giản. Vua sai Bộ Lại, Bộ Binh lập danh sách 5 người là con cháu và chắt các công thần từ nhị phẩm trở lên, những
chàng trai này tất nhiên là không bị tàn tật, nhưng phải thông minh và đẹp.
Một vị hoàng thân và một vị đại thần mà vợ chồng song toàn được cử làm chủ hôn và chiếu liệu (lo sắp đặt mọi chuyện). Họ hội ý với
nhau để cử người xứng đáng nhất và hợp tuổi với hoàng nữ trong bản kê, tâu với vua vua sẽ khuyên son (quyết định).
Sau khi vua chọn, phò mã tương lai được vua ban tiền để tậu phủ và sắm vật dụng, Trang phục đúng nghi thức, trong đó có một chiếc

thuyền bồng, đồng thời cha mẹ phải vào lạy tạ ơn trên.
Khâm Thiên giám làm nhiệm vụ chọn ngày để tiến hành lục bộ (sáu lễ), nhà trai phải liên hệ để biết mà chuẩn bị, cũng có thể kết hợp
một ngày 2 đến ba lễ, cách quãng nhau.
Lễ nạp thái và vấn danh: gia đình phò mã sẽ đưa lễ vật vào cung, cúng tổ tiên công chúa và được chủ hôn mở tiệc khoản đãi. Công
chúa nhận vàng bạc và nữ trang. Lễ nạp trưng và nạp cát: gia đình lại đưa lễ vật vào cung, sau đó hai bên tự tổ chức lễ cáo với tổ tiên
mình về việc cưới hỏi. Lễ điện nhạn và thân nghinh: trước đó, vua sai quan khâm mạng đến phủ đệ phò mã, bày giường thất bảo, màn
tiên. Đúng ngày giờ đã định, gia đình phò mã lễ vật vào cung, trong đó có một cặp ngỗng. Vị đại thần làm chủ hôn lập một phái đoàn
rước công chúa về phủ phò mã.
Phẩm vật cưới về số lượng mỗi khi mỗi khác và thường là khá nặng. Vào năm 1833, lễ nạp thái được ghi nhận gồm: 20 lạng vàng,
100 lạng bạc, 2 mâm trầu, 2 mâm cau; lễ vấn danh gồm: 1 con trâu, 2 con lợn, 2 hũ rượu; lễ nạp cát gồm: 4 tấm gấm, 10 tấm lĩnh
màu, 10 tấm sa màu; lễ nạp trưng gồm: 2 mâm trầu, 2 mâm cau, 2 hũ rượu; lễ thỉnh kỳ gồm: 1 con bò, 2 con dê, 3 hũ rượu; lễ điện
nhạn gồm: 2 con chim nhạn (được thay bằng ngỗng), 1 hộp kim chỉ, 100 đồng tiền cổ, 20 lạng vàng, 100 lạng bạc...
Có quan nghèo không lo nổi nên vào năm 1864, vua Thiệu Trị dụ rằng: "Đời xưa, vua Nghiêu gả 2 con gái cho Ngu Thuấn ở Vĩ Nhuế,
chả nghe nói lễ cưới sang trọng. Hơn nữa, đám cưới chỉ dùng 2 Da hươu làm lễ, xưa kia vẫn nói thế. Nay gả hoàng nữ cho con các
đại thần, mà các đại thần thanh thận trung cần, trẫm biết sẵn, vậy 6 lễ cưới, cho tuỳ theo cảnh nhà giàu nghèo mà sắm sửa, không
nên ấn định lễ vật, chớ nên bày đặt quá nhiều. Vậy các quan chủ hôn cần biết rõ."
II- Phong tục tập quán và lễ nghi cưới hỏi ngày nay
Ở phương diện luật định, sau khi đăng ký kết hôn đôi trai gái được pháp luật bảo vệ. Tuy nhiên, trong tâm thức và văn hóa dân tộc, lễ
cưới chứ không phải tờ hôn thú, mới là thời điểm để họ hàng, bè bạn và mọi người chính thức công nhận đôi trai gái là vợ chồng.

Phong tục tập quán cưới hỏi Việt Nam xưa và nay
Cũng vì vậy, tại lễ cưới nhiều vấn đề xã hội diễn ra, khen chê của dư luận xã hội đều tập trung vào đó, "ma chê cưới trách" nhưng lại
"ai chê đám cưới, ai cười đám ma". Một đám cưới theo nghi thức cổ truyền có thể vừa được khen, vừa bị chê. Người khen thì cho
rằng thế mới là đám cưới Việt Nam, thế mới không sợ sự du nhập của văn hoá bên ngoài, nhưng người chê thì lại nói rằng thế là
rườm rà, lãng phí và luỵ cổ.
Tuy vậy, chính quyền không cấm việc tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán xưa, mà chỉ ban hành "quy chế thực hiện nếp sống
văn minh trong việc cưới hỏi", theo đó, quy định rằng: "các thủ tục có tính phong tục tập quán như chạm ngõ, lễ hỏi, xin dâu cần được


tổ chức đơn giản và gọn nhẹ" và "việc cưới cần được tổ chức trang trọng vui tươi, lành mạnh phù hợp với phong tục tập quán tốt đẹp

của dân tộc".
Trình tự tiến đến lễ cưới của người Việt Nam, có thể có những cách thức, tên gọi khác nhau, đa số có những điểm chung:
Đăng ký kết hôn
Lễ cưới ngày nay thường được tổ chức sau khi đã được chính quyền cấp giấy chứng nhận kết hôn.Chụp ảnh, quay phim: Ở một số
thành phố lớn, cô dâu và chú rể thường đến một số địa điểm đẹp ngoài trời để chụp ảnh làm kỷ niệm.Chuẩn bị vật phẩm hôn lễ, quà
cưới, phòng cưới, tiệc cưới, quần áo, xe hoa...Phải chọn một người trung gian, đóng vai trò bắc cầu cho hai bên gia đình. Đó thường
là người đứng tuổi, có uy tín, có kinh nghiệm trong ăn nói.
Lễ dạm ngõ
Được sự đồng ý của nhà gái, nhà trai đem lễ sang. Đồ lễ bắt buộc phải có là trầu, cau, rượu, chè. Phải có trầu Cau vì câu chuyện trầu
cau trong cổ tích Việt Nam là tiêu biểu cho tình nghĩa vợ chồng, họ hàng ruột thịt. Miếng trầu là đầu câu chuyện, không có trầu là
không theo lễ.
Lễ Ăn hỏi
Hay còn gọi là lễ vấn danh, theo tục xưa là hỏi tên tuổi cô gái, nhưng ngày nay cha mẹ đôi bên đã biết biết rõ rồi. Cô gái nhà nào đã
nhận lễ vấn danh coi như đã có nơi, có chốn. Sau ngày lễ ăn hỏi, phải có báo hỉ, chia trầu. Nhà gái trích trong lễ vật nhà trai đưa đến
một lá trầu, một quả cau, một gói trà nhỏ, một cái bánh cốm, hoặc vài hạt mứt. Tất cả gói thành hộp hay phong bao giấy hồng, mang
đến cho các gia đình họ hàng, bạn hữu của nhà gái. Nhà trai cũng báo hỉ, nhưng không phải có lễ vật này mà chỉ cần thiếp báo hỉ.
Cũng trong lễ ăn hỏi, hai họ định luôn ngày cưới.
Lễ cưới
Lễ nạp tài: Là ngày nhà trai đem sính lễ sang nhà gái. Đồ sính lễ gồm trầu cau, gạo nếp, Thịt lợn, quần áo và đồ trang sức cho cô dâu.
Ý nghĩa của lễ nạp tài là nhà trai góp với nhà gái chi phí cỗ bàn, cho nhà gái và cô dâu biết mọi thứ đã chuẩn bị sẵn. Với đồ nữ trang
cho cô dâu làm vốn, cô có thể yên tâm xây dựng tổ ấm mới, chứ không đến nỗi sẽ gặp cảnh thiếu thốn.
Lễ xin dâu: Trước giờ đón dâu nhà trai cử người đem trầu, Rượu đến xin dâu, báo đoàn đón dâu sẽ đến.
Tục chăng dây: ở một số đám cưới, nhà gái bố trí vài em nhỏ bụ bẫm, xinh xắn, mặc áo đỏ chăng dây trước của nhà gái. Khi nhà trai
đến, một trong các em nhỏ chạy về báo cho nhà gái biết. Nhà trai chuẩn bị một ít kẹo để phân phát cho lũ trẻ chăng dây này, khi đã
nhận được kẹo bọn chúng sẽ rút dây để đoàn nhà trai đi vào nhà gái.
Lễ rước dâu: Đoàn rước dâu của nhà trai đi thành một đoàn, có cụ già cầm hương đi trước, cùng với người mang lễ vật. Nhà gái cho
mời cụ già thắp hương vái trước bàn thờ rồi cùng ra đón đoàn nhà trai vào. Cô dâu cùng với chú rể lạy trước bàn thờ, trình với tổ tiên.
Sau đó hai người cùng bưng trầu ra mời họ hàng. Bố mẹ cô dâu tặng quà cho con gái mình. Có gia đình cũng lúc này bày cỗ bàn cho
cả họ nhà gái chung vui. Khách nhà trai cũng được mời vào cỗ. Sau đó là cả đoàn rời nhà gái, để đưa dâu về nhà chồng. Họ nhà gái
chọn sẵn người đi theo cô gái, gọi là các cô phù dâu.

Rước dâu vào nhà: đoàn đưa dâu về đến ngõ. Lúc này, bà mẹ chồng cầm bình vôi, tránh mặt đi một lúc, để cô dâu bước vào nhà.
Hiện tượng này được giải thích theo nhiều cách. Thường người ta cho rằng việc làm này có ý nghĩa khắc phục những chuyện cay
nghiệt giữa mẹ chồng và nàng dâu sau này.
Lễ tơ hồng: khi hai họ ra về, một số người trừ người thân tín ở lại chứng kiến cô dâu chú rể làm lễ cúng tơ hồng. Người ta cho rằng
vợ chồng lấy được nhau là do ông Tơ bà Nguyệt trên trời xe duyên cho. Cúng tơ hồng là để tạ ơn hai ông bà này. Lễ cúng đơn giản,
ông cụ già cầm hương lúc đón dâu, hoặc ông cụ già cả nhất của họ hàng làm chủ lễ. Hai vợ chồng lạy lễ tơ hồng rồi vái nhau.


Trải giường chiếu: bà mẹ chồng, hoặc một bà cao tuổi khác, đông con nhiều cháu, phúc hậu, hiền từ, cô dâu chú rể vào phòng tân
hôn, bà sẽ trải sẽ trải đôi chiếu lên giường ngay ngắn, xếp gối màn cẩn thận...
Lễ hợp cẩn: đây là buổi lễ kết thúc đám cưới tại nhà trai. Trước giường có bàn bày trầu Rượu và một đĩa bánh phu thê. Ông cụ già
đứng lên rót rượu vào chén rồi mời đôi vợ chồng cùng uống.
Tiệc cưới: dù đám cưới to hay nhỏ, cũng phải có tiệc cưới. Đặc biệt là ở nông thôn, tính cộng đồng xóm giềng, làng xã, họ hàng đang
còn mạnh thì tiệc cưới là một dịp tốt để củng cố tính cộng đồng ấy. Ở thành phố, người ta thường tổ chức tiệc cưới ngay sau lễ thành
hôn, cho nên nhiều khi cái "tục" của sự ăn lấn át mất cái "thiêng" của lễ cưới. Người ta đến ăn, ngồi cùng bàn ăn là những người
không quen biết, ăn sao cho đúng giờ. Tiệc cưới có thể tổ chức nhà gái (trước hôm cưới) và nhà trai (trong ngày cưới); nhưng cũng có
thể hai nhà tổ chức chung thành một tiệc.
Lễ cheo: một số vùng của Việt Nam còn có lễ cheo. Lễ cheo có thể tiến hành trước nhiều ngày, hoặc sau lễ cưới một ngày. Lễ cheo là
nhà trai phải có lễ vật hoặc kinh phí đem đến cho làng hay cho xóm Có con gái đi lấy chồng. Lễ cưới là để họ hàng công nhận, lễ cheo
là để xóm làng tiếp thu thêm thành viên mới, tế bào mới của làng.
Lễ lại mặt: (còn gọi là nhị hỉ hoặc tứ hỉ), sau lễ cưới (2 hoặc 4 ngày), hai vợ chồng trẻ sẽ trở về nhà cha mẹ vợ mang theo lễ vật để tạ
gia tiên. Lễ vật cũng có trầu, xôi, lợn. Bố mẹ vợ làm cơm để mời chàng rể và con gái mình. Ở một số trường hợp nếu xảy ra chuyện gì
mà nhà trai không bằng lòng sau đêm hợp cẩn, thì lễ nhị hỉ lại có những chuyện không hay, nhưng trường hợp này rất hiếm.
Đám cưới của tín đồ tôn giáo:

Phong tục tập quán cưới hỏi Việt Nam xưa và nay
Phật giáo: Phật chưa hề khuyến khích chuyện lứa đôi; nhưng giáo lý Phật có dạy về bổn phận của vợ đối với chồng, chồng đối với
vợ, con cái đối với cha mẹ, cha mẹ đối với con cái. Nếu hai Phật tử là người đã quy y, hoặc chưa quy y, nhân ngày cưới, sắm sửa lễ
vật nhang đèn, Hoa Quả đến chùa nhờ Thầy làm lễ chú nguyện cho hai Phật tử và có sự chứng kiến của hai họ. Quý Thầy sẽ tụng
kinh, trì chú, đọc lời dạy của Ðức Phật theo như trong Tinh thần của "kinh Thiện Sanh". Sau đó hai người đọc lời phát nguyện trước

Tam bảo và sau cùng là lễ trao nhẫn cho nhau. Sau phần tụng kinh lễ Phật, cô dâu chú rể đến lễ ông bà và cảm ơn những người tham
dự cũng như đón nhận những lời chúc tụng hoặc quà cưới và cuối cùng là tiệc trà Ðạo vị.
Thiên Chúa Giáo: sau khi rước dâu về nhà chồng, ngay ngày hôm sau nhà trai và nhà gái còn có hẹn đến làm lễ cưới tại nhà thờ. Mọi
nghi lễ đều do đức cha của nhà thờ lo liệu. Lễ cưới ở nhà thờ cũng có nghi lễ đeo nhẫn cưới cho chú rể và cô dâu. Nếu chú rể và cô
đâu đã đeo nhẫn cưới ở nhà thì trước khi đến nhà thờ phải tháo nhẫn cưới đó ra trước khi lên gặp các cha để đeo nhẫn cưới cho. Hôn
nhân người Việt khác với hải ngoại ở điểm, ở hải ngoại, nếu lễ cưới được cử hành ở nhà thờ thì nhà thờ đã thừa lệnh của chính
quyền địa phương để làm giấy hôn thú cho chú rể cô dâu ngay tại nhà thờ trong khi làm lễ cưới.
Cưới chạy tang: Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam quy định "Việc để tang không cản trở việc kết hôn" nhưng việc cưới chạy tang
vẫn có thể xảy ra. Cưới chạy tang tức đám cưới cử hành trước đám tang.
Hôn nhân có yếu tố nước ngoài: là một trào lưu mới khi nền kinh tế đi vào thời kỳ đổi mới của một bộ phận phụ nữ, nhằm có điều
kiện di cư hoặc cải thiện đời sống kinh tế gia đình.


Các phong tục cưới cổ truyền ở Việt Nam đến nay. Các giai đoạn trong quá trình tổ 
chức một lễ cưới
Phong tục cưới hỏi truyền thống của người Việt Nam nói chung thì cũng rất đa dạng 
phong phú. Thời xưa khi việc cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy thì một lễ cưới diễn ra không 
những trang trọng mà cũng rất cầu kỳ. Bởi hôn nhân thời đó được cho là Hỷ sự của một 
đời người, hôn nhân là ngọn nguồn, là cội rễ của đời sống lứa đôi hạnh phúc. Vì vậy nhất
thiết phải được sự đồng ý của đôi bên cha mẹ.
Theo thời gian sự tiến bộ và phát triển của đời sống xã hội kéo theo nhiều sự thay đổi 
trong các phong tục và nghi thức của một đám cưới. Nhưng nói chung người Việt ta vẫn 
giữ những nghi thức cơ bản của một lễ cưới hỏi trọn gói: Lễ Dạm Ngõ, Lễ Ăn Hỏi, và Lễ 
Đón Dâu (Lễ Cưới Hỏi).

1/ Đầu tiên là Lễ Dạm Ngõ
Đây là một lễ nhằm chính thức hóa quan hệ hôn nhân của hai gia đình. Lễ chạm ngõ 
cũng có người gọi là Rạm ngõ ngày nay không còn theo lối xưa, mà chỉ là buổi gặp gỡ 
giữa hai gia đình. Nhà trai xin đến nhà gái đặt vấn đề chính thức cho đôi nam nữ được tự
do đi lại, tiếp tục quá trình tìm hiểu nhau một cách kỹ càng hơn trước khi đi đến quyết 

định hôn nhân. Buổi lễ này, không cần vai trò hẹn trước của người mai mối và cũng 
không cần lễ vật rườm rà.
Về bản chất, lễ này chỉ là một ứng xử văn hóa, thông qua đó hai gia đình có thể biết rõ về
nhau hơn (về gia cảnh, gia phong). Vì vậy trước khi chạm ngõ, nhà trai cũng phải chọn 
ngày đẹp để đến gặp gia đình nhà gái cho “Thuận buồm xuôi gió” suôn sẻ thì mọi việc 
tiếp theo mới trọn vẹn.
Lễ vật trong ngày dạm ngõ đơn giản là Trầu Cau một số nơi có thêm chè thuốc, kẹo với 
số lượng chẵn. Hai nhà nói chuyện để bàn chuyện xem ngày, chọn ngày và các thủ tục 
khác cho lễ ăn hỏi và lễ cưới. Sau lễ chạm ngõ, người con gái được xem như đã có nơi 
có chốn, bước đầu để chuẩn bị tiến tới hôn nhân.

2/ Tiếp đến Lễ Ăn hỏi
Sau lễ chạm ngõ là đến lễ ăn hỏi, có thể nói lễ ăn hỏi là một thông báo chính thức về sự 
kết giao hứa gả của hai gia đình và hai họ. Cô gái được hỏi đã chính thức trở thành cô 
dâu tương lai của chàng trai đi hỏi. Ngày nay, về hình thức lễ này vẫn giữ tên là lễ ăn hỏi,
nhưng trên thực tế, nó đã bao hàm cả lễ dẫn cưới.
Chính vì thế, mô hình lễ ăn hỏi ngày nay phải phản ánh được sự thay đổi ấy, nói cách 
khác, trong các nghi thức ở lễ ăn hỏi ngày nay phải có cả những nghi thức của lễ dẫn 
cưới.


Lễ vật của lễ ăn hỏi là tráp ăn hỏi, Tráp ăn hỏi thường là số lẻ 5, 7, 9 hoặc 11 tráp, và số 
đồ lễ thì phải là số chẵn. Đồ lễ ăn hỏi thường có là bánh cốm, bánh su sê, mứt sen, chè, 
rượu, trầu cau, thuốc lá… và có thêm xôi, lợn quay – những lễ vật tối thiểu theo tục lệ cổ 
truyền.
Ý nghĩa của lễ vật dẫn cưới có thể hiểu là để thể hiện lòng biết ơn của nhà trai đối với 
công ơn dưỡng dục của cha mẹ cô gái. Nói theo cách xưa là: nhà trai bỗng dưng được 
thêm người, còn nhà gái thì ngược lại. Mặt khác, lễ vật cũng biểu thị được sự quý mến, 
tôn trọng của nhà trai đối với cô dâu tương lai.
Trong một chừng mực nào đó, đồ dẫn cưới cũng thể hiện được thiện ý của nhà trai: xin 

đóng góp một phần vật chất để nhà gái giảm bớt chi phí xung quanh hôn sự.


Đồ lễ ăn hỏi được nhà gái lấy một ít và trầu cau mang lên thắp hương trên bàn thờ tổ 
tiên. Ngoài ra, nhà gái giữ lại thường là 2 phần và đưa trả lại nhà trai 1 phần. Đồ lễ nhà 
gái giữ lại được dùng để mời cưới.
Điều đặc biệt cần lưu ý trong lễ ăn hỏi là nhà trai phải chuẩn bị 3 phong bì đựng tiền (gọi 
là lễ lên đèn), một phong bì dành cho nhà nội cô dâu, một phong bì dành cho nhà ngoại 
cô dâu và phong bì còn lại để thắp hương trên bàn thờ nhà cô dâu.  Số tiền tùy thuộc vào
nhà gái.
Cuối cùng, cô dâu và chú rể ra mắt hai họ, rót nước, mời trầu các vị quan khách. Thời 
gian ăn hỏi và lễ cưới cách nhau 3 ngày, 1 tuần, hay lâu hơn tùy vào việc lựa chọn ngày 
đẹp của hai bên gia đình.

3/ Lễ cưới hỏi
Lễ cưới là đỉnh điểm của cả quy trình tiến tới hôn nhân, là hình thức liên hoan, báo hỉ 
mừng cô dâu, chú rể, mừng hai gia đình, nên có ý nghĩa rất thiêng liêng. Do đó, cả xưa 
và nay, mọi người đều rất coi trọng. Đây cũng chính là nghi lễ được dư luận xã hội quan 
tâm nhiều hơn cả.


Lễ cưới chỉ được tổ chức sau khi đã được chính quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kết 
hôn. Trước đây, người ta gọi lễ này là lễ rước dâu. Ngày nay, trong ngôn từ của đời sống
thường ngày, người ta gọi lễ này là lễ cưới (dịch theo tiếng Hán là hôn lễ). Ý nghĩa của lễ 
này là: Công bố sự thành hôn của đôi trai gái (còn được gọi là lễ Thành hôn).
Lễ cưới bao gồm các nghi thức sau:
Lễ xin dâu: Trước giờ đón dâu, mẹ chú rể sẽ cùng một người thân trong gia đình đến nhà
gái đem cơi trầu, chai rượu ( hay còn gọi là tráp xin dâu) để báo trước giờ đoàn đón dâu 
sẽ đến, nhà gái yên tâm chuẩn bị đón tiếp.
Lễ rước dâu: Trong ngày giờ đẹp đã được chọn sẵn, chú rể sẽ cùng bố và đại diện nhà 

trai tới nhà gái, mang theo xe hoa, hoa cưới để đón cô dâu về nhà. Cô dâu sẽ được trang
điểm, mặc váy cưới và chú rể mặc vest.
Nhà trai và nhà gái giới thiệu thành phần tham dự, rồi nhà trai trao trầu xin dâu cho nhà 
gái, xin phép cho chú rể lên phòng đón cô dâu. Cô dâu chú rể làm lễ gia tiên tại nhà gái.
Thông thường, đi đầu là đại diện nhà trai (là người khéo ăn, khéo nói, có vị thế xã hội); 
tiếp đến là bố chú rể, chú rể và bạn bè (ở Việt Nam, mẹ chồng thường không đi cùng để 
đón con dâu tuy nhiên ở một số nơi vẫn có tục Cha đưa Mẹ đón).

Sau cùng nhà trai xin phép được đưa cô dâu mới về nhà chồng. Đại diện nhà gái cũng 
phát biểu đồng ý cho nhà trai đón cô dâu.  Khi cô dâu về nhà chồng, lễ gia tiên cũng 
được thực hiện ở nhà trai. Chính lúc này người con gái đã được nhận vào làm thành viên
trong gia đình của người con trai.
Cha mẹ chồng sẽ nhận con dâu, và chúc phúc cho 2 con. Sau đó, lễ cưới sẽ được tổ 
chức tại nhà trai với các bài phát biểu của hai bên đại diện gia đình, trao quà và tiệc mặn 
hoặc ngọt cùng các chương trình biểu diễn văn nghệ góp vui.


Ngoài ra, sau lễ cưới, cô dâu chú rể phải thực hiện lễ lại mặt. Thời gian đôi vợ chồng mới
cưới về lại mặt nhà gái thường là ngay sau ngày cưới. Tuy nhiên, thời gian này còn tùy 
thuộc vào điều kiện công việc của cô dâu chú rể và khoảng cách địa lý giữa hai nhà.
Thông thường, cô dâu chú rể về nhà ngoại tiến hành nghi lễ này vào buổi sáng. Đồ lễ gia 
đình nhà trai chuẩn bị là gà trống và gạo nếp hoặc đơn giản hơn là bánh kẹo, rượu thuốc 
để đôi vợ chồng trẻ mang về nhà ngoại. Và cô dâu chú rể sẽ ở lại ăn cơm cùng bố mẹ 
vợ.
Lễ lại mặt vẫn là một trong lễ quan trọng thể hiện ý nghĩa như lời nhắc nhở đôi vợ chồng 
mới cưới về chữ hiếu không chỉ với nhà chồng mà cũng phải quan tâm, chăm sóc tới gia 
đình nhà vợ.  Ngoài ra còn thể hiện sự chu đáo, quan tâm của gia đình nhà trai và chú rể 
với gia đình nhà gái, tạo sự gắn bó, thân mật giữa hai nhà.
Các nghi lễ đám cưới được tổ chức trang trọng và nghiêm trang vừa là sự công nhân 
chính thức để đôi trai gái nên duyên vợ chồng, nó là mối dây liên kết , là dấu mốc nhắc 

nhở cho 2 người luôn yêu thương trân trọng nhau suốt đời.

Phong tục cưới hỏi truyền thống của người Việt Nam
Nhầm giữ gìn nét văn hóa lâu đời của người Việt nên đám cưới cũng phải theo phong tục cưới hỏi 
từ đời xưa của ông cha ta.




Nghi lễ cưới hỏi của người theo đạo thiên chúa
Phong tục cưới hỏi của người Hoa
Phong tục cưới hỏi của người miền Bắc

Ngày cưới là một ngày lễ vô cùng trọng đại và thiêng liêng đối với mỗi đôi uyên ương do vậy việc 
hiểu và nắm rõ nghi thức cưới hỏi là vô cùng quan trọng. Trong đó có nhiều vấn đề bắt buộc phải 
làm và những vấn đề cần kiêng kị phải nghe theo.
Những nghi thức từ rất lâu được ông cha ta truyền lại từ bao đời nay, do đó chúng ta cần phải giữ 
gìn, tôn trọng và tiếp tục phát huy.

mâm quả
1. Chạm ngõ
Lễ chạm ngõ là được ví như lễ ra mắt giữa nhà trai và nhà gái cho hai bên được phép tìm hiểu nhau 
trước khi đi đến hôn nhân. Nhưng trên thực tế, đây là một cách để hai bên gia đình hiểu nhau, thân 
thiết hơn nên không cần lễ vật, chỉ cần mang theo trầu, cau hoặc hoa quả.
Dù là nghi thức đơn giản, nhưng nhiều gia đình hiện nay vẫn giữ lễ chạm ngõ vì cho rằng nếu hai gia
đình không quen biết nhau từ trước mà tổ chức lễ ăn hỏi, đám cưới cho con cái sẽ là đường đột.


Tuy nhiên, về chức năng, nếu bỏ qua nghi thức này mà tiến thẳng vào đám hỏi và đám cưới sẽ có 
chút đường đột, ngang tắt. Vì thế, dù không quá quan trọng nhưng cũng không thể bỏ qua lễ chạm 

ngõ.
2. Lễ ăn hỏi:
Lễ ăn hỏi là ngày mà đôi uyên ương siết chặt nhau, là hai bên gia đình chấp nhận hai bạn là của 
nhau. Chấp nhận cô dâu và chú rể của hai gia đình.
Theo phong tục thì nhà trai cần chuẩn bị như sau:
– Khay trầu rượu có đủ nhạo và ly
– Hai hộp bánh
– Trái cây
– Lợn sữa quay và xôi gấc
– Bánh xu xê (phu thê)
– Tiền nạp tài (tiền nát)
– Một cặp rượu
– Một cặp trà song hỉ
– Đôi đèn cầy hình long phụng
– Trầu cau theo yêu cầu nhà gái nhưng số lượng phải chẵn
– Nữ trang cho cô dâu (đôi bông nhất định phải có, ngoài ra có thể thêm dây chuyền, vòng, lắc, nhẫn
đính hôn…)

trầu cau
3. Lễ xin dâu
Sau lễ ăn hỏi sẽ là lễ xin dâu, trước khi đến giờ đón dâu chính thức, đại diện nhà trai, thường là một 
người phụ nữ thân thiết trong gia đình sẽ mang cơi trầu đến nhà cô dâu trước để làm lễ xin dâu. Mẹ 
cô dâu sẽ nhận tráp trầu cau và mang lên thắp hương trên bàn thờ tổ tiên của nhà gái. Đây là nghi lễ
truyền thống lâu đời, có ý nghĩa như lời chấp nhận chính thức cho cô dâu về nhà chồng.
4. Lễ đón (rước dâu)
Sau lễ xin dâu, khi gia đình cô dâu đồng ý để nhà trai tới đón dâu, chú rể sẽ mang hoa cưới, hoặc 
cùng lễ vật để đón cô dâu về nhà. Và trong ngày trọng đại đó gia đình hai nhà sẽ trao tặng quà, của 
hồi môn cho cô dâu như lời chúc phúc cặp vợ chồng son sẽ luôn giàu sang, hạnh phúc.
5. Đãi tiệc
Tiếp đến sẽ tổ chức đãi tiệc nhầm thông báo tin kết hôn với quan viên hai họ, bạn bè và người thân. 

Hiện nay nhiều gia đình tổ chức tiệc cưới chung sau khi nghi lễ đón dâu kết thúc. Nếu tổ chức tiệc 
riêng, gia đình nhà gái thường mở tiệc trước khi nhà trai đến đón dâu, còn nhà trai sẽ đãi tiệc sau khi
cô dâu về gia mắt họ hàng chú rể.


trao quả
6. Lễ lại mặt
Cuối cùng là sau đám cưới, khi cô dâu đã về nhà chồng, mẹ chồng sẽ chuẩn bị một mâm lễ nhỏ để 
cô dâu và chú rể mang về nhà gái, làm lễ chào hỏi bố mẹ cô dâu. Đây được gọi là lễ lại mặt, hay lễ 
nhị hỷ. Thời gian đôi vợ chồng mới cưới về nhà gái lại mặt là khoảng 1­3 ngày sau khi thành hôn. 
Thời gian này tùy thuộc vào khoảng cách địa lý giữa hai nhà cũng như tùy thuộc vào điều kiện, công 
việc của cô dâu chú rể.
Đây có thể nói là những nghi thức phong tục cưới hỏi cơ bản của người Việt Nam, chúc các bạn 
luôn hạnh phúc trong ngày trọng đại của mình nhé!



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×