Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Mối quan hệ giữa văn hoá pháp luật và nền kinh tế tri thức – một số vấn đề lý luận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (506.8 KB, 75 trang )

Bộ tư pháp

bộ giáo dục và đào tạo
Trường đại học luật hà nội

Phạm Thị Mỹ Dung

Mối quan hệ giữa Văn hoá
pháp luật và nền kinh tế tri thức
một số vấn đề lý luận
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số
:
60.38.01

luận văn thạc sỹ luật học

Người hướng dẫn : TS. Nguyễn Minh Đoan

Hà Nội - 2006


Mục lục
Trang
Phần mở đầu

1

Chương 1: Khái quát về văn hoá pháp luật

5



1.1. Khái niệm văn hoá pháp luật
1.2. Các chức năng cơ bản của văn hoá pháp luật
1.3. Cơ cấu của văn hoá pháp luật
Chương 2: Khái quát về nền kinh tế tri thức
2.1. Khái niệm nền kinh tế tri thức
2.2. Đặc điểm chính của nền kinh tế tri thức
Chương 3: Sự tác động qua lại giữa văn hoá pháp luật
và nền kinh tế tri thức
3.1. Văn hoá pháp luật và nền kinh tế tri thức luôn gắn bó chặt
chẽ và tác động qua lại với nhau
3.2. ảnh hưởng của kinh tế tri thức đối với sự phát triển văn hoá
pháp luật
3.3. Văn hoá pháp luật với sự phát triển kinh tế tri thức
3.4. Xây dựng và hoàn thiện văn hoá pháp luật Việt Nam để tạo
điều kiện hình thành và phát triển nền kinh tế tri thức ở
Việt Nam
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo

5
11
14
25
25
32
37
37
40
49

56

67


Những chữ viết tắt trong luận văn

PL

:

pháp luật

KTTT :

kinh tế tri thức

XHCN :

xã hội chủ nghĩa


1
Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chúng ta thường gặp cách nói: Văn hoá nhân cách, văn hoá lao động,
văn hoá chính trị, văn hoá PL, văn hoá gia đình, văn hoá ngôn ngữ, văn hoá
giao tiếp, văn hoá dịch vụ, văn hoá quản lý. Việc gắn liền văn hoá với một
lĩnh vực, một mặt nào đó trong hoạt động của con người ngày càng được sử
dụng rộng rãi trong ngôn ngữ xã hội như một yêu cầu bức thiết đòi hỏi về chất

lượng, về sự hoàn thiện, về tính nhân văn trong các lĩnh vực hoạt động của con
người và ở ngay bản thân con người.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII và lần thứ IX đã nhấn mạnh vai trò
đặc biệt của văn hoá nói chung, chỉ rõ tính xuyên suốt, thấm sâu của văn hoá
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và chỉ ra phương châm phải gắn kết
những vấn đề văn hoá với những vấn đề kinh tế- xã hội. Văn hoá cùng với
kinh tế, chính trị tạo nên đời sống xã hội của một dân tộc. Văn hoá gắn liền
với sự phát triển của xã hội loài người và phản ánh trình độ văn minh của xã
hội. Có thể nói, văn hoá là một quá trình chọn lọc tinh hoa của dân tộc trong
quá trình phát triển. Văn hoá và kinh tế, văn hoá và phát triển gắn liền với
nhau. Nếu không có văn hoá thì không có điều kiện phát triển kinh tế và phát
triển xã hội, ngược lại, đời sống kinh tế và tiến bộ xã hội bao giờ cũng là biểu
hiện của văn hoá. Dân tộc Việt Nam hướng tới Chủ nghĩa xã hội theo đúng
quy luật và quan điểm về tính hợp lý, Đảng và Nhà nước phải làm hai việc với
truyền thống văn hoá như Hồ Chí Minh đã nói: Tiếp thu các truyền thống văn
hoá tốt đẹp, đảm bảo tính lịch sử liên tục đồng thời hấp thụ những cái mới để
nâng nền văn hoá mới lên một tầm cao mới. Văn hoá phải được xác lập trên
các định chuẩn của cái đúng, tức là các quy luật khách quan cùng hành lang
PL sâu và một nền khoa học với công nghệ cao và sạch.
Văn hoá PL là một trong những yếu tố của văn hoá, do vậy để xây dựng
nền văn hoá tiến tiến đậm đà bản sắc dân tộc, thì không thể bỏ qua việc xây


2
dựng và phát triển văn hoá PL. Xây dựng và phát triển văn hoá PL chính là nội
lực để đảm bảo thực hiện đường lối của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX về
xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân
trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Nền KTTT đã hình thành và được thực hiện ở nhiều nước trên thế giới.
Đó cũng là xu thế tất yếu của quá trình phát triển sức sản xuất, là thành tựu

quan trọng của loài người mà chủ nghĩa xã hội phải nắm lấy và vận dụng để
phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa
xã hội. Trong những năm vừa qua, khái niệm Kinh tế tri thức tuy mới xuất
hiện ở Việt Nam nhưng đã nhanh chóng thu hút được sự quan tâm của công
chúng và các nhà nghiên cứu hoạch định chính sách. Đảng ta cũng đã chỉ rõ,
trong thế kỷ XXI khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt, KTTT có
vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Quan
điểm của Đảng là: Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả
năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và
công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn
và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học, từng bước phát triển
KTTT [9, tr.91].
Việt Nam đang bước vào nền KTTT với điểm xuất phát là nền kinh tế
nông nghiệp, chúng ta cần phải thực hiện tốt phương châm đi tắt, đón đầu
nhằm nắm bắt và làm chủ nhanh các tri thức mới nhất, tạo sự phát triển nhanh
nhất cho đất nước. Muốn đạt được điều đó, Nhà nước phải tạo được môi
trường pháp lý cần thiết, thuận lợi cho khuyến khích đầu tư và phát triển
KTTT. Đánh giá cao vai trò của văn hoá PL trong việc tạo dựng môi trường
pháp lý cho sự phát triển nền KTTT, tác giả luận văn quyết định chọn đề tài:
Mối quan hệ giữa văn hoá pháp luật và nền kinh tế tri thức - Một số vấn
đề lý luận .
Văn hoá PL không phải là vấn đề mới, song việc xem xét từng yếu tố
của văn hoá PL tác động tới sự phát triển nền KTTT hiện nay là một việc làm
cần thiết và có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn.


3
2. Phương pháp nghiên cứu
Về phương pháp luận, luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở của
phép duy vật biện chứng. Phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp

lôgíc - lịch sử được sử dụng thường xuyên và phương pháp dự báo được sử
dụng khi đưa ra phỏng đoán về sự phát triển hoàn thiện của văn hoá PL, ảnh
hưởng của nó đối với sự phát triển nền KTTT ở Việt Nam.
3. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài
Luận văn tập trung nghiên cứu về văn hoá PL, về nền KTTT và những
tác động qua lại giữa văn hoá PL và sự phát triển nền KTTT, qua đó đưa ra
một số ý kiến về xây dựng và hoàn thiện văn hoá PL Việt Nam hướng tới phát
triển nền KTTT ở Việt Nam.
4. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian vừa qua đã có nhiều tác giả nghiên cứu về văn hoá và
văn hoá PL, về KTTT dưới những góc độ khác nhau: Vấn đề văn hoá PL ở
nước ta trong giai đoan hiện nay của GS.TS Lê Minh Tâm, Văn hoá pháp lý
Việt Nam của Luật sư Lê Đức Tiết, Văn hoá tư pháp trong văn hoá dân tộc
Việt Nam của Luật gia Ngô Văn Thâu, Bàn về văn hoá tư pháp Việt Nam
của TS Dương Thanh Mai, Mấy suy nghĩ về văn hoá PL ở nước ta của TS
Lê Thanh Thập, Bàn về hành vi giao tiếp pháp lý của TS. Nguyễn Minh
Đoan, Văn hoá PL ở công sở trong điều kiện cải cách hành chính và cải cách
tư pháp ở nước ta hiện nay - Luận văn Th.S luật học của tác giả Nguyễn Thị
Lê Thu, Văn hoá và đời sống xã hội của tác giả Thanh Lê, Văn hoá với sự
phát triển của xã hội Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa do GS. Lê
Quang Thiêm chủ biên, Những vấn đề cần trao đổi về cách nhìn nhận nền
KTTT của TS Trần Cao Sơn, KTTT và vấn đề lựa chọn mô hình phát triển ở
Việt Nam của TS. Trần Đình Thiện, KTTT và vai trò của PL lao động trong
việc đào tạo nguồn nhân lực hướng tới nền KTTT ở Việt Nam của TS Phạm


4
Công Trứ, Định hướng tiếp cận nền KTTT ở Việt Nam của tác giả Trần Đức
Hiệp, Nền KTTT, nhận thức và hành động, kinh nghiệm của các nước phát
triển và đang phát triển của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW.

Các công trình nghiên cứu trên đã tạo cơ sở lý luận và thực tiễn bước đầu
rất quan trọng cho tác giả khi nghiên cứu về văn hoá PL với sự phát triển nền
KTTT, góp phần nâng cao và hoàn thiện văn hoá PL trên phạm vi toàn xã hội
đáp ứng mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được kết cấu thành 3 chương với 9 mục.


5
Chương 1
khái quát về văn hoá pháp luật

1.1. Khái niệm văn hoá pháp luật
Nghiên cứu về văn hoá PL đòi hỏi phải tìm hiểu những vấn đề lý luận
cơ bản về văn hoá như khái niệm văn hoá, chức năng của văn hoá cũng như
vai trò của nó trong đời sống kinh tế xã hội.
Văn hoá là khái niệm có nội hàm rộng lớn, có thể tiếp cận dưới nhiều
góc độ khác nhau. Các nhà nghiên cứu thường đưa ra những cách định nghĩa
khác nhau về văn hoá nhằm phục vụ cho những mục tiêu nghiên cứu cụ thể
của họ. Cho đến tận hôm nay, những định nghĩa đang được sử dụng, trên thực
tế vẫn chỉ là những định nghĩa có tính chất quy ước nhằm đi tới một khái niệm
để tiện sử dụng. Ngay từ giữa thế kỷ XX, hai nhà văn hoá học Hoa Kỳ
A.Kroeber và C.Kluckhln đã thống kê được khoảng 150 định nghĩa khác nhau
về văn hoá. Ngày nay, số lượng các định nghĩa về văn hoá đã tăng lên rất
nhiều, hiện nay có học giả còn cho là đã có trên 300 định nghĩa văn hoá. Có
thể phân thành các loại định nghĩa miêu tả, định nghĩa lịch sử, định nghĩa
chuẩn mực, định nghĩa nguồn gốc.[35, tr.7-17,T1].
Chẳng hạn, Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ năm 1942, đã đưa ra một định

nghĩa về văn hoá: Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người
mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, PL, khoa học, tôn
giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn,
ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó là
văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu
hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời
sống và đòi hỏi của sự sinh tồn[40, tr.431]. Có thể coi đây là một định nghĩa
khá toàn diện về văn hoá, không quá rộng cũng không quá hẹp mà hoàn toàn
thích hợp với con người ở những trình độ phát triển khác nhau, ở những xã hội


6
chưa có điều kiện phát triển cao, cũng như xã hội đã có cuộc sống cao. Hay
GS Trần Quốc Vượng thì cho rằng: Văn hoá là thế ứng xử, năng động của
một cộng đồng (ứng xử tập thể) hay một cá nhân đứng trước thiên nhiên, xã
hội và đứng trước chính mình. Văn hoá là lối sống, là nếp sống tập thể và cá
nhân [89, tr.87].
Gần đây UNESCO đã đưa ra một định nghĩa chính thức về văn hoá khi đặt
nó trong mối quan hệ với phát triển: Văn hoá phản ánh và thể hiện một cách
tổng quát sống động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và các cộng đồng)
đã diễn ra trong quá khứ, cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế
kỷ, nó đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối
sống mà dựa trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình
[80, tr.23]. Theo cách hiểu này thì văn hoá trong một lĩnh vực hoạt động xã hội
cụ thể của mỗi dân tộc được thể hiện qua ba yếu tố cốt lõi sau:
+ Các giá trị tư tưởng, đạo đức, thẩm mỹ (yếu tố về ý thức).
+ Những giá trị vật chất, kỹ thuật do con người sáng tạo ra trong lĩnh vực đó.
+ Năng lực, cách thức sử dụng các dạng vật chất đã sáng tạo ra nhằm đáp
ứng nhu cầu của đời sống con người cả về vật chất và tinh thần.
Tựu trung lại văn hoá được hiểu là tổng thể những giá trị vật chất và

tinh thần được hình thành và sáng tạo trong hoạt động của con người, được lưu
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ cộng đồng này sang cộng đồng khác
thành truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc, bên cạnh những giá trị chung
của nhân loại, văn hoá gắn liền với sự phát triển của xã hội loài người và phản
ánh trình độ văn minh của xã hội. Theo nghĩa hẹp, văn hoá phản ánh hệ thống
các giá trị và quy tắc ứng xử được xã hội chấp nhận. Văn hoá hướng con người
tới chân - thiện - mỹ. Bởi vì, nói đến văn hoá là nói đến con người, văn hoá là
một thuộc tính biểu hiện bản chất xã hội của con người.
Có thể nói văn hoá là môi trường thứ hai để con người trở thành chính
bản thân mình. Văn hoá là ánh sáng dẫn dắt đời sống nhân loại đi tới những
giá trị cao cả. Do đó, làm lành mạnh môi trường văn hoá, tạo điều kiện cho


7
văn hoá phát triển cũng có ý nghĩa tích cực đối với sự phát triển tiến bộ xã hội
và hoàn thiện nhân cách mỗi cá nhân con người. Trong những năm gần đây,
chúng ta đã từng bước chú ý đến sự phát triển của xã hội trong khía cạnh văn
hoá đầy tinh tế của nó. Những nấc thang khác nhau của văn hoá có thể coi là
những giai đoạn của sự phát triển kế tiếp nhau, mà trong đó, mỗi giai đoạn
đều là sản phẩm của quá khứ, đồng thời lại đóng vai trò đặc biệt đối với sự
hình thành tương lai. Nhìn ở một khía cạnh nào đó thì sự khác biệt về văn hoá,
những điều nan giải trong sự đối thoại giữa các nền văn hoá, theo các nhà lý
luận thật ra còn cơ bản hơn cả những khác biệt về ý thức hệ hoặc về chế độ
chính trị. ở các quốc gia, kể cả các quốc gia có nền kinh tế phát triển và đại đa
số các quốc gia đang trên đường phát triển đều buộc phải định hướng xây
dựng cho mình một xã hội mang những nét đặc thù về văn hoá tới mức nào
đó để khỏi bị đứt đoạn với quá khứ và không bị hẫng hụt trước tương lai. Bằng
văn hóa, dựa vào văn hoá và thông qua văn hoá là con đường tự nhiên và tất
yếu mà loài người dù muốn hay không cũng đều phải thực hiện để tiến tới văn
minh. Tất cả những gì mà con người sáng tạo ra, xét trên bình diện ý nghĩa

của chúng đối với hiện tại và tương lai đều là văn hóa. Thông qua hệ thống giá
trị văn hoá quy định và điều chỉnh hành vi của con người, văn hoá tham gia
vào việc kiến tạo nên bộ mặt của tương lai [53,tr.46-48].
Như vậy, chúng ta có thể thấy văn hoá là hiện tượng bao trùm lên tất
thảy các mặt của đời sống con người, văn hoá có mặt trong tất cả các sản
phẩm do con người tạo ra, khiến bất kỳ định nghĩa nào đưa ra đều khó có thể
bao quát hết nội dung của nó. Văn hoá là tất cả các giá trị do con người sáng
tạo trong quá trình sống, nhằm thoả mãn nhu cầu đời sống vật chất và tinh
thần của mình. Cùng với sự vận động của xã hội, những gì còn lại, tồn tại
cùng năm tháng và thời gian, khẳng định được giá trị của nó, đó là các giá trị
văn hoá.
Trong thời đại ngày nay, văn hoá có một vai trò đặc biệt quan trọng, nó
xuyên suốt cơ thể xã hội và thấm sâu vào tất cả mọi lĩnh vực hoạt động của


8
con người. Nghị quyết Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam khoá VIII về việc xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đã khẳng định: Văn hoá là nền tảng
tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội [8, tr.5].
Là một trong những loại hình của văn hoá, văn hoá PL góp phần xây
dựng nên nền tảng tinh thần của xã hội, góp phần thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội. Văn hoá PL là kết quả và quá trình hoạt động sáng tạo của
con người trong lĩnh vực PL. Trên thế giới vào những năm 90 của thế kỷ trước,
văn hoá PL (có người gọi là văn hoá pháp lý) đã trở thành thuật ngữ được quan
tâm nhiều nhất trong các nghiên cứu khoa học pháp lý hiện đại. Lý do có sự
quan tâm đặc biệt đó là vì đã có sự thay đổi nhanh chóng trong văn hoá PL ở
nhiều nước, đặc biệt là các nước Đông Âu và các nước trung tâm Châu Âu. Sự
thay đổi này đã đặt ra yêu cầu cần thiết phải nhận dạng nền văn hoá PL ở mỗi

quốc gia. Tại Việt Nam, văn hoá PL chỉ mới được các nhà nghiên cứu, các nhà
khoa học quan tâm trong khoảng 10 năm trở lại đây.
ở Việt Nam hiện nay vẫn tồn tại nhiều quan điểm và những cách tiếp
cận khác nhau về văn hoá PL. Theo quan điểm của GS.TS Lê Minh Tâm thì
văn hoá PL là: Tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần mà con người đã
sáng tạo ra trong lĩnh vực PL bao gồm hệ thống quy phạm PL được ban hành
trong các thời kỳ lịch sử, những tư tưởng, quan điểm, luận điểm, nguyên lý,
nguyên tắc, những tác phẩm văn hoá PL, những kinh nghiệm và thói quen tích
luỹ được trong quá trình xây dựng và thực thi PL[55, tr.18]. Theo quan điểm
của PGS.TS Hoàng Thị Kim Quế thì: Văn hoá pháp lý là hệ thống các yếu tố
vật chất và tinh thần thuộc lĩnh vực tác động của PL được thể hiện trong ý
thức và hành vi của con ngườiVăn hoá pháp lý thể hiện trình độ cao của sự
tôn trọng PL, trình độ tri thức PL của nhân dân; thực trạng có chất lượng của
quá trình lập pháp và thực hiện PL; các phương thức hoạt động PL đặc thù


9
như của các cơ quan PL, kiểm tra hiến pháp v.v.; kết quả của hoạt động PL
dưới dạng sản phẩm tinh thần và vật chất do con người xây dựng như luật, hệ
thống lập pháp, thực tiễn tư pháp và hành pháp [50, tr.7]. TS. Lê Thanh Thập
lại cho rằng: Văn hoá PL là những giá trị nhân đạo, tiến bộ, tích cực của một
hệ thống PL trong xã hội được thể hiện trong các bộ luật, đạo luật và thiết chế
xã hội nhằm bảo đảm thực hiện nó. Đồng thời, các giá trị đó còn được thẩm
thấu vào nhận thức và hành động của mỗi cá nhân, biến thành nhu cầu
thường trực trong ứng xử của họ[71, tr.49]. Ngoài ra còn một số quan điểm
khác nữa về văn hoá PL.
Như đã lý giải về văn hoá, thì văn hoá nói chung và văn hoá PL nói
riêng cùng có chung mục đích là dẫn dắt đời sống nhân loại đi tới những giá
trị cao cả để đạt được những giá trị chân - thiện - mỹ. Trong lĩnh vực PL văn
hoá có khả năng hiện thực hoá những năng lực nhân tính, phát huy vai trò và

tăng cường hiệu quả của PL trong xã hội. Ngược lại, hiệu quả của PL trong xã
hội là chỉ số, là thước đo trình độ phát triển văn hoá PL. Yếu tố văn hoá trong
lĩnh vực PL là sự thống nhất hữu cơ giữa quá trình hoạt động sống của con
người trong quan hệ PL, và hiệu quả hiện thực hoá năng lực của con người
trong lĩnh vực đó. Do vậy, phát triển yếu tố văn hoá trong lĩnh vực PL không
những góp phần nâng cao hiệu quả PL, mà còn bảo đảm cho sự phát triển
nhân cách của con người. Trong lĩnh vực PL, văn hoá được thể hiện như là
một phương thức quản lý xã hội vì con người, đảm bảo cuộc sống hạnh phúc
cho con người, và đồng thời nó cũng thể hiện như là kết quả hoạt động sáng
tạo của con người trong việc xây dựng và thực thi PL hướng tới chân - thiện mỹ. Những chuẩn mực quy phạm PL chỉ có giá trị khi nó bảo vệ những lý
tưởng xã hội tốt đẹp, hướng con người tới các giá trị cao đẹp của văn hoá. Khi
PL bảo vệ và dung túng cho cái sai, cái ác, cái thiếu chân thực, thấp hèn ti
tiện thì nó sẽ không có giá trị về mặt văn hoá. Tính nhân đạo, tiến bộ và
hướng thiện của PL không chỉ phản ánh mức độ tiến bộ của giai cấp thống trị,
mà còn phản ánh xu hướng phát triển của các quan hệ xã hội ngày càng hoàn
thiện hơn những giá trị nhân bản.


10
Do vậy, theo chúng tôi thì văn hoá PL là những giá trị vật chất và tinh
thần mà con người sáng tạo ra trong lĩnh vực luật pháp, cấu thành nên một hệ
thống giá trị, truyền thống và lối sống của một quốc gia, một dân tộc. Văn hoá
PL thể hiện trình độ cao của sự tôn trọng PL, trình độ tri thức PL của công
dân, thực trạng có chất lượng của quá trình xây dựng và thực hiện PL.
Văn hoá PL của bất kỳ xã hội nào cũng được hình thành trong sự tác
động, ảnh hưởng của các yếu tố văn hoá truyền thống và hiện đại. Văn hoá PL
của một dân tộc phải thể hiện được những giá trị truyền thống của bản sắc văn
hoá dân tộc bên cạnh việc tiếp thu các giá trị của văn hoá PL quốc tế. Tính
dân tộc của văn hoá PL chính là những phong tục tập quán, truyền thống tốt
đẹp, những thói quen trong đời sống PL đã được hình thành lưu giữ và kế tục

qua nhiều thế hệ của cộng đồng người. Sự khác nhau giữa các nền văn hoá PL
chính là do tính dân tộc quy định, và nhờ sự khác biệt này mà văn hoá PL mới
phát triển.
Văn hoá PL luôn biểu hiện sự thống nhất giữa tính giai cấp và tính xã
hội (nhân loại) trong các chuẩn mực quy phạm PL. PL ra đời, tồn tại gắn liền
với xã hội có giai cấp và luôn mang tính giai cấp nên văn hoá PL cũng thể
hiện tính giai cấp. Tính giai cấp của văn hoá PL là những yếu tố phản ánh
quyền lực và lợi ích của giai cấp thống trị được thể chế hoá thành luật, được
đưa vào đời sống PL, khi những yếu tố đó phù hợp với lợi ích dân tộc, sự phát
triển và tiến bộ xã hội. Nền văn hoá PL không chỉ có tính giai cấp đơn thuần
mà tính giai cấp còn gắn liền với tính nhân loại. Tính xã hội (nhân loại) của
văn hoá PL thể hiện ở một nền luật pháp có sự bảo đảm các quyền cơ bản của
con người như quyền tự do, bình đẳng, công bằng trước PL, quyền tự bảo vệ,
quyền được đảm bảo các lợi ích cơ bản phù hợp với sự tiến bộ xã hội. Khi giai
cấp thống trị đang là và còn là giai cấp cách mạng, đóng vai trò tích cực trong
xã hội thì nhu cầu và lợi ích của họ và của nhân dân có sự nhất trí cao. Giai
cấp thống trị ban hành một số chuẩn mực tiến bộ trong hiến pháp và PL nhằm
đáp ứng đòi hỏi của nhân dân, khi đó có sự thống nhất giữa tính giai cấp và


11
tính nhân loại trong hệ thống PL. Những chuẩn mực PL chỉ có giá trị văn hoá
khi nó bảo vệ những lý tưởng xã hội tiến bộ, tốt đẹp, hướng con người tới
những giá trị chân, thiện, mỹ. Khi đó chúng ta nói rằng hệ thống PL thể hiện
các giá trị văn hoá.
Theo quan điểm Mác Lênin thì kinh tế là nền tảng của xã hội, là cơ sở
hạ tầng còn chính trị, PL, văn hoá thuộc kiến trúc thượng tầng được xây
dựng trên cơ sở hạ tầng. Trong mối quan hệ này, văn hoá PL chịu sự quyết
định của điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, đồng thời nó ảnh hưởng lại
đời sống vật chất của xã hội và góp phần không nhỏ vào việc cải tạo xã hội.

Một câu hỏi đặt ra là: vai trò của văn hoá được biểu hiện như thế nào trong
việc cải tạo xã hội hay đối với sự phát triển xã hội? Câu trả lời là: văn hoá thể
hiện vai trò của mình thông qua sự tác động của các nhân tố mà nó biểu đạt,
bởi theo cách hiểu trên thì văn hoá có mặt trong tất cả các sản phẩm do con
người tạo ra.
Việc chú ý tới văn hoá và đánh giá cao vai trò của văn hoá trong sự phát
triển của xã hội hiện đại không phải là một trò chơi thời thượng, cũng không
phải là sự bịa đặt hoang tưởng của những đầu óc chủ quan mà có cơ sở khách
quan và khoa học của nó. Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VIII đã
xác định: Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội[8, tr.5]. Đây có thể coi là cột
mốc đánh dấu quá trình nhận thức của chúng ta về vai trò của văn hoá đối với
sự phát triển của kinh tế xã hội.
1.2. Các chức năng cơ bản của văn hoá pháp luật
Có thể nói, văn hoá PL là một bộ phận quan trọng của đời sống tinh
thần xã hội. Sự phát triển của văn hoá PL đánh dấu sự tiến bộ mang tính chất
nhân văn trong đời sống của một cộng đồng, một thời đại. Nếu nói rằng: Tự
nhiên là môi trường thứ nhất nuôi dưỡng con người lớn lên về thể xác, còn văn
hoá là môi trường thứ hai nuôi dưỡng con người lớn lên về mặt tinh thần, trí
tuệ và nhân cách, thì văn hoá PL đã và đang góp phần tạo môi trường pháp lý


12
lành mạnh, mang tính nhân văn, nhân đạo để các thế hệ dựa trên công lý mà
vươn tới hạnh phúc, vươn tới một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Dựa
trên cơ sở củng cố và xác lập một hệ thống giá trị PL cho xã hội với các khuôn
mẫu ứng xử, chuẩn mực hành vi của con người phù hợp với PL, văn hoá PL có
tác dụng định hướng cho các thành viên trong xã hội tiếp thu, vận dụng các
giá trị đó và sáng tạo nên những giá trị mới, tiến bộ cho hệ thống PL tiên tiến
phù hợp với quy luật vận động và phát triển thực tiễn của các quan hệ xã hội.

Văn hoá PL là một bộ phận của văn hoá nên nó cũng có chức năng
giống như văn hoá. Văn hoá PL có sự tác động đến đời sống xã hội và con
người hay còn gọi đó là những chức năng xã hội đặc biệt của văn hoá PL.
- Chức năng nhận thức là chức năng đầu tiên của văn hoá PL, nó gắn
liền với hoạt động sáng tạo PL, thực hiện và áp dụng PL của các chủ thể PL.
Văn hoá PL đóng vai trò là cuốn sách về đời sống PL, nó bổ sung, cung cấp
kinh nghiệm PL, kiến thức PL, thông tin pháp lýcho con người. Thiếu chức
năng nhận thức thì không thể nói đến bất kỳ chức năng nào khác. Một sản
phẩm văn hóa PL (luật, bộ luật, các văn bản dưới lụât) trước khi đi vào cuộc
sống, phát huy vai trò và hiệu lực của mình trong việc điều chỉnh các quan hệ
xã hội thì nó phải được mọi người nhận thức đúng, hiểu đúng về nó. Khi nhận
thức một cách sâu sắc các quy luật của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội các
nhà làm luật mới đưa ra được các chuẩn mực, quy phạm PL để điều chỉnh các
quan hệ xã hội. Cơ sở của mọi hoạt động văn hoá nói chung và văn hoá PL nói
riêng đều khát vọng hướng tới chân - thiện - mỹ.
- Chức năng hình thành các chuẩn mực và hệ giá trị: Các chuẩn mực
của văn hoá PL có vai trò định hướng các xúc cảm, các tư tưởng, cách ứng xử.
Tất cả những cái chúng ta đang thực hiện trong hành vi của mình, trong suy
nghĩ của mình, trong ứng xử của mình đều do những chuẩn mực, các hệ thống
giá trị mà văn hoá PL (nói rộng ra là các chuẩn mực văn hoá) chi phối. Các tập
quán, phong tục, điều nên làm hay không nên làm luôn gắn chặt với các chuẩn
mực văn hoá PL, chuẩn mực đạo đức. Vai trò của văn hoá PL với tư cách là
một hệ thống giá trị thể hiện ở chỗ nó có thể đề xuất những điều tốt đẹp chưa


13
thật phổ biến trong đời sống, nhân chúng lên thành các hiện tượng PL phổ
biến, kêu gọi mọi người sống theo nó. Chuẩn mực pháp lý được bảo đảm thực
hiện bằng nhà nước, còn chuẩn mực của thói quen (phong tục tập quán) được
thực hiện bằng cách khích lệ và sử dụng áp lực của dư luận xã hội. Định

hướng giá trị văn hoá PL là xu hướng của con người muốn vươn lên chiếm
lĩnh hoặc tiếp cận với các giá trị văn hoá cao đẹp của PL, nhờ đó mà dần dần
hình thành nhân cách của mình.
- Chức năng giáo dục: Chức năng giáo dục của văn hoá PL thể hiện
trong việc định hướng xã hội, hướng lý tưởng và hành vi của con người theo
đúng chuẩn mực của xã hội. Văn hoá PL như một hệ thống hoạt động, khi
nhận thức, phản ánh, đánh giá, xét đoán các giá trịnó gây ấn tượng cho con
người. ấn tượng đó lại tác động đến tình cảm, tư tưởng rồi từ đó định hướng
hành vi của con người. ý nghĩa giáo dục từ định hướng văn hoá cho hành vi
PL là ở chỗ giáo dục cách xử sự tích cực đối với PL dựa trên ý thức PL, tình
cảm PL đúng đắn, phù hợp với các chuẩn mực và hệ giá trị. Mỗi cá nhân, theo
quy luật hướng thiện, không muốn thực hiện hành vi vi phạm PL hay phá vỡ
các yêu cầu của chuẩn mực PL. Do đó, chức năng giáo dục của văn hoá PL sẽ
hỗ trợ cho con người bên cạnh ý thức tự giác của họ. Thông qua các hoạt
động, văn hoá PL nâng cao trình độ hiểu biết, ý thức tôn trọng PL trong các
tầng lớp nhân dân đồng thời giáo dục đạo đức, nhân cách và giáo dục lối sống
có văn hoá phù hợp với quy định PL.
- Chức năng thực tiễn: sự vận dụng và phát huy các kết quả nghiên cứu
văn hóa PL vào hoạt động thực tiễn của việc hoạch định và xây dựng chính
sách PL của Nhà nước chính là văn hoá PL thực hiện chức năng thực tiễn.
Dưới tác động của văn hoá PL, việc hoạch định và xây dựng chính sách PL
đúng đắn là định hướng quan trọng cho công tác xây dựng và hoàn thiện hệ
thống PL. Trong chức năng thực tiễn còn có vấn đề dự báo tình hình và xu
hướng phát triển PL. Dựa trên cơ sở nhận thức sâu sắc các quy luật phát triển
của đời sống kinh tế xã hội, văn hoá PL đưa ra khả năng dự liệu các quy phạm
để điều chỉnh các quan hệ xã hội sẽ phát sinh.


14
1.3. Cơ cấu của văn hoá pháp luật

Theo khái niệm (đã phân tích ở phần trên) thì văn hoá trong một lĩnh
vực hoạt động xã hội cụ thể của mỗi dân tộc được thể hiện qua ba yếu tố cốt
lõi: yếu tố ý thức (các giá trị tư tưởng, đạo đức, thẩm mỹ); sự vật chất hoá yếu
tố ý thức (những giá trị vật chất, kỹ thuật do con người sáng tạo ra trong lĩnh
vực đó); và yếu tố ứng xử (năng lực, cách thức sử dụng các dạng vật chất đã
sáng tạo ra nhằm đáp ứng nhu cầu của đời sống con người cả về vật chất và
tinh thần). Các yếu tố này kết hợp thành một hệ thống các giá trị truyền thống,
thẩm mỹ và lối sống, được lưu truyền qua nhiều thế hệ tạo thành truyền thống
mang bản sắc riêng của mỗi dân tộc. Văn hoá PL là một dạng, một bộ phận
hợp thành của nền văn hoá dân tộc, văn hoá PL cũng được nhận diện đầy đủ
bởi ba yếu tố là ý thức PL, hệ thống PL và kỹ năng, hành vi thực hiện, áp dụng
PL. Trong đó, ý thức PL là những tư tưởng, quan điểm, nhận thức và tâm lý,
tình cảm về PL của con người. Hệ thống PL được thể hiện với ý nghĩa là các
sản phẩm vật chất của ý thức PL. Kỹ năng và hành vi thực hiện áp dụng PL là
kết quả tất yếu của của quá trình nhận thức, chắt lọc kiến thức PL và là yếu tố
không thể thiếu của văn hoá PL.
1.3.1. ý thức pháp luật
ý thức PL là yếu tố quan trọng của văn hoá PL. Là một hình thái của ý

thức xã hội, ý thức PL là tổng thể những học thuyết, tư tưởng, quan điểm,
quan niệm thịnh hành trong xã hội, thể hiện mối quan hệ của con người đối
với PL hiện hành, PL đã qua và PL cần phải có, thể hiện sự đánh giá về tính
hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi xử sự của con người cũng như
trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, của các tổ chức xã hội.
ý thức PL được hình thành và phát triển từ những điều kiện kinh tế, điều

kiện vật chất của xã hội. Toàn bộ những điều kiện khách quan về địa lý tự
nhiên, phong tục tập quán, truyền thống đạo đức dân tộcnhững điều kiện
kinh tế- xã hội bên ngoài mỗi quốc gia, xu thế vận động quốc tế ở mỗi thời kỳ
đều có tác động chi phối đến ý thức PL. ở đây, tồn tại xã hội cần phải được



15
hiểu theo nghĩa rộng hơn không chỉ giới hạn trong khuôn khổ những quan hệ
sản xuất thuần tuý mà còn bao hàm cả các quan hệ phi kinh tế đang tồn tại và
có sức mạnh chi phối ý thức PL của con người. Chính vì vậy mà ý thức PL vừa
chịu sự quy định của tồn tại xã hội, thường lạc hậu so với tồn tại xã hội, song
đôi khi nó cũng có tính tiên phong, sự phát triển vượt trước đối với tồn tại xã
hội. Tuỳ thuộc vào sự tiến bộ hay lạc hậu của ý thức PL mà sự tác động của nó
có thể là thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của tồn tại xã hội và các yếu tố
thuộc thượng tầng kiến trúc. ý thức PL thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội, có
nghĩa là khi tồn tại xã hội đã thay đổi nhưng ý thức PL phản ánh tồn tại xã hội
đó vẫn còn, nhất là yếu tố tâm lý, tập quán trong ý thức PL vẫn tồn tại dai
dẳng một thời gian dài. Ví dụ, ở nước ta hiện nay, có một bộ phận dân cư
(không nhỏ) vẫn còn biểu hiện của tâm lý PL phong kiến như thờ ơ đối với
PL, không có thói quen xử sự theo PL, mang nặng tâm lý phép Vua thua lệ
làng; những tư tưởng, quan niệm của thời kỳ quản lý tập trung quan liêu bao
cấp vẫn chưa bị xoá bỏ hết mà biểu hiện của nó vẫn tồn tại trong lối sống, lối
suy nghĩ, trong nhận thức, trong cách giải quyết công việc...của người dân và
trong chính những cán bộ nhà nước. Sự lạc hậu của ý thức PL còn biểu hiện
trong việc chậm trễ tiếp cận với tư duy pháp lý mới của thế giới...
Thế nhưng trong một số trường hợp nhất định, ý thức PL có thể vượt
trước sự phát triển của tồn tại xã hội. Đó là trường hợp những hệ tư tưởng PL
khoa học, tiên tiến thể hiện ra thành PL tiến bộ thúc đẩy sự phát triển xã hội.
Giải quyết tốt mối quan hệ biện chứng này sẽ góp phần giáo dục và nâng cao
ý thức PL của toàn xã hội. Cần phải biết phát huy mặt tích cực trong những
biểu hiện của tính độc lập tương đối của ý thức PL, và hạn chế tới mức thấp
nhất mặt tiêu cực của những biểu hiện đó. ý thức PL mặc dù phản ánh tồn tại
xã hội trong một giai đoạn lịch sử nhất định nào đó, đồng thời nó cũng tiếp
thu và kế thừa những yếu tố của ý thức PL của giai đoạn lịch sử trước đó, nhất

là những giá trị văn hoá PL.
ý thức PL cũng có sự tác động qua lại với các hình thái ý thức xã hội

khác. Các hình thái ý thức xã hội đều phản ánh và đánh giá các hiện tượng xã


16
hội và qua đó các hình thái ý thức xã hội tác động lẫn nhau nhằm xác định
mục đích, tiêu chuẩn của hành vi phù hợp với hình thái ý thức của mình, từ đó
hình thành ở các chủ thể hành vi phù hợp.
Trong xã hội luôn luôn tồn tại nhiều học thuyết, tư tưởng, quan điểm
khác nhau về PL, bởi chúng được quy định bởi những điều kiện sinh hoạt của
các tầng lớp, giai cấp khác nhau. Có ý thức PL của giai cấp bị trị, ý thức PL
của giai cấp thống trị, ý thức PL của các tầng lớp trung gianSong chỉ có ý
thức PL của giai cấp thống trị mới được phản ánh đầy đủ vào trong PL. ý thức
PL của các tầng lớp, giai cấp xã hội khác chủ yếu được thể hiện thông qua
quan điểm, thái độ, hành vi của họ đối với PL hiện hành và phản ứng của họ
trước việc duy trì và quản lý xã hội của nhà nước để bảo vệ quyền lợi cho
mình. Để duy trì địa vị thống trị của mình, giai cấp thống trị phải tìm cách hợp
thức hoá ý chí của giai cấp mình thành PL thông qua con đường nhà nước.
Như vậy có thể nói ý thức PL luôn mang tính giai cấp. ý thức PL trong xã hội
ta hiện nay là ý thức PL xã hội chủ nghĩa. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, ý
thức PL có tính thống nhất cao bởi vì lợi ích của giai cấp công nhân, nông dân
và các tầng lớp lao động khác về cơ bản được thống nhất lâu dài với nhau.
ý thức PL thể hiện ở những cấp độ khác nhau, tuỳ thuộc vào những điều

kiện khách quan và năng lực nhận thức chủ quan của chủ thể nhận thức. Bao
gồm: ý thức PL thông thường, ý thức PL lý luận. ý thức PL thông thường là
thể hiện ở mức thấp nhất của sự nhận thức, các hiện tượng PL được phản ánh
trực tiếp, giản đơn, mới chỉ là sự hiểu biết thông thường chứ chưa toàn diện và

sâu sắc. ý thức PL thông thường được hình thành dưới sự tác động trực tiếp
của điều kiện khách quan và kinh nghiệm cuộc sống cá nhân. ý thức PL ở
mức độ này mới chỉ biểu hiện ở sự thừa nhận, tiếp thu và xử sự theo sự thừa
nhận và tiếp thu đó. ý thức PL thông thường mới chỉ phản ánh được mối liên
hệ bên ngoài, có tính cục bộ của hiện tượng PL chưa có khả năng đi sâu vào
bản chất của PL. ý thức PL lý luận thể hiện ở mức độ cao hơn của sự nhận
thức. Bản chất của PL và các hiện tượng PL được nhận thức có căn cứ khoa


17
học nhờ quá trình học tập nghiên cứu một cách có hệ thống và được kiểm
nghiệm trong thực tiễn. ý thức PL lý luận là cơ sở cho hoạt động sáng tạo PL,
truyền bá những tư tưởng, quan điểm pháp lý và hoạt động thực tiễn PL. ý
thức PL lý luận phản ánh mối liên hệ bên trong, bản chất của PL.
Hai bộ phận cấu thành ý thức PL là hệ tư tưởng PL và tâm lý PL. Hệ tư
tưởng PL là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm và học thuyết có tính chất lý
luận về PL. Tư tưởng PL phản ánh trình độ nhận thức cao và có tính hệ thống
về các vấn đề có tính chất bản chất của PL và các hiện tượng PL. Hạt nhân cốt
lõi của tư tưởng PL là tri thức khoa học về PL. Còn tâm lý PL là sự phản ánh
những tâm trạng, cảm xúc, thái độ, cách đánh giá đối với PL và các hiện tượng
pháp lý cụ thể. Tâm lý PL biểu hiện cấp độ nhận thức thông thường dựa trên
cơ sở kinh nghiệm sống, tập quán và tâm lý xã hội. Nói cách khác, tâm lý PL
được hình thành một cách tự phát, thiếu tính hệ thống và cơ sở khách quan
khoa học. Sự thống nhất hài hoà giữa tư tưởng PL và tâm lý PL trong ý thức
PL thể hiện mối quan hệ của con người đối với PL, thể hiện sự đánh giá về
tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi xử sự của con người cũng
như trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội.
Là yếu tố quan trọng trong văn hoá PL, ý thức PL tiến bộ, tích cực là tiền đề tư
tưởng của việc xây dựng PL, là nhân tố thúc đẩy việc thực hiện và áp dụng PL
đúng đắn, chính xác, có hiệu quả.

1.3.2. Hệ thống pháp luật
PL là một phạm trù của văn hoá và PL mang bản chất giai cấp sâu sắc.
Song không phải biểu hiện cụ thể nào của PL cũng được coi là có giá trị văn
hoá, mà chỉ những quy phạm có tính chất tiến bộ và tiêu biểu trong điều kiện
kinh tế xã hội cùng thời, phù hợp với định hướng mà con người muốn vươn tới
chân - thiện - mỹ mới được coi là có giá trị văn hoá.
Hệ thống PL là yếu tố quan trọng cấu thành văn hoá PL. Hệ thống PL
có vai trò quyết định đối với quá trình hình thành và phát triển của văn hoá
PL. Bản thân PL là hình thái của văn hoá, văn hoá là chiều sâu, là nội dung


18
của PL. Thông qua hệ thống PL, con người có thể có được các thông tin cơ
bản nhất về tình hình kinh tế, văn hoá, xã hội của một đất nước trong từng thời
kỳ. Các yếu tố của văn hoá được đưa vào nội dung các điều luật, vào quá trình
xây dựng PL và áp dụng PL.
Khi nói đến văn hoá PL của một dân tộc, một quốc gia thì không thể
không nói đến hệ thống PL của dân tộc, quốc gia đó. Hệ thống PL chính là kết
quả đạt được từ năng lực hoạt động luật pháp của con người. Hệ thống PL là
tổng thể các quy phạm PL có mối liên hệ nội tại thống nhất với nhau, được
phân định thành các chế định PL, các ngành luật và được thể hiện trong các
nguồn luật mà chủ yếu là trong các văn bản quy phạm pháp luật do Nhà nước
ban hành theo trình tự, thủ tục và hình thức nhất định. Hệ thống PL được xem
xét ở hai giác độ là giác độ cấu trúc bên trong và giác độ biểu hiện bên ngoài.
Dưới giác độ cấu trúc thì hệ thống PL là tổng thể các quy phạm PL có
mối liên hệ nội tại thống nhất với nhau, được phân định thành các chế định
luật và các ngành luật. Thành tố nhỏ nhất trong cấu trúc của hệ thống PL là
các quy phạm PL. Quy phạm PL là sự biểu hiện đầy đủ, chính xác nhất của PL
trong phạm vi hẹp nhất. Nó là quy tắc xử sự chung, là hình mẫu và chuẩn mực
để điều chỉnh quan hệ xã hội. Một số quy phạm có những đặc điểm chung

giống nhau nhằm điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội tương ứng hợp thành
chế định PL. Mỗi chế định PL dù mang những nét riêng, nhưng vẫn chịu sự
ảnh hưởng và tác động của các chế định khác trong hệ thống PL. Khi xác định
rõ giới hạn và nội dung của chế định PL sẽ xây dựng được một ngành luật
hoàn chỉnh. Ngành luật bao gồm hệ thống quy phạm PL có đặc tính chung để
điều chỉnh các quan hệ cùng loại trong một lĩnh vực nhất định của đời sống xã
hội. Tính chất, nội dung và phạm vi của mỗi ngành luật phụ thuộc vào đối
tượng điều chỉnh (quan hệ xã hội) và phương pháp điều chỉnh (cách thức tác
động vào quan hệ xã hội) của ngành luật đó. Bởi vậy, việc phân định ranh giới
giữa các ngành luật chỉ mang tính tương đối và hệ thống PL theo đó cũng luôn
biến động.


19
Dưới giác độ biểu hiện bên ngoài, hệ thống pháp luật được thể hiện
thông qua các nguồn luật mà chủ yếu là văn bản quy phạm pháp luật. Các văn
bản quy phạm PL có mối liên hệ mật thiết với nhau tạo thành một hệ thống
văn bản PL. Văn bản PL phải phù hợp với hệ thống cấu trúc của PL và phù
hợp với thẩm quyền của cơ quan ban hành chúng (tính thứ bậc).Ví dụ: Hiến
pháp là văn bản PL nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản và quan trọng
nhất gắn liền với việc xác định chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hoá, giáo
dục, khoa học và công nghệ....đồng thời nó là đạo luật cơ bản có giá trị pháp
lý cao nhất do cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước ban hành.
Tuy nhiên một hệ thống PL tốt không phải chỉ là số cộng đơn giản của
các quy phạm PL tốt đơn lẻ. Một hệ thống PL hoàn thiện cần đảm bảo những
tiêu chuẩn cơ bản là tính phù hợp, tính toàn diện, tính đồng bộ, và trình độ kỹ
thuật pháp lý của hệ thống PL.
+ Tính phù hợp của hệ thống PL thể hiện sự tương quan giữa trình độ của
hệ thống PL và trình độ phát triển kinh tế xã hội. Trong mối quan hệ với kinh
tế, PL phụ thuộc vào kinh tế nhưng PL cũng có sự tác động trở lại một cách

mạnh mẽ đối với kinh tế. Nội dung của PL là do các quan hệ kinh tế quyết
định hay chế độ kinh tế là cơ sở của PL. Hệ thống PL cần phản ánh đúng trình
độ phát triển của kinh tế xã hội, nó không thể cao hơn hay thấp hơn trình độ
đó. Sự phù hợp của các văn bản quy phạm PL mà đặc biệt là của các đạo luật
với các quy luật khách quan của sự phát triển kinh tế-xã hội là điều kiện vô
cùng quan trọng bảo đảm cho hiệu quả của PL. Một yếu tố quan trọng khác
mà PL phải phù hợp là chính trị. PL luôn phản ánh đường lối chính sách của
Đảng, là sự thể chế hoá đường lối chính sách đó thành những quy định của PL
và là hình thức hiện thực hoá đường lối chính sách của Đảng. Mục đích của
Đảng luôn phù hợp với mong muốn, nguyện vọng của nhân dân, của nhà nước
cho nên PL cũng phù hợp với ý chí và lợi ích của nhân dân. Ngoài ra PL còn
phải phù hợp với đạo đức, văn hoá, phong tục tập quán, truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, phù hợp với điều ước và thông lệ quốc tế. Những quy phạm, văn


20
bản PL lạc hậu không còn phù hợp cũng như những quy phạm, văn bản PL
được ban hành do sai lầm, vay mượn, xa lạ và quá cao so với trình độ phát
triển kinh tế trong thời điểm chúng đang tồn tại cần được loại bỏ để thay thế
bằng những quy phạm, văn bản phù hợp.
+ Sự hoàn thiện của hệ thống PL còn thể hiện ở sự toàn diện và đồng bộ
của nó, đáp ứng nhu cầu điều chỉnh của PL trên các lĩnh vực quan trọng của
đời sống xã hội. Hệ thống PL phải có đủ các ngành luật theo cơ cấu nội dung
lôgic và thể hiện thống nhất trong hệ thống văn bản quy phạm PL tương ứng,
đồng thời mỗi ngành luật phải có đầy đủ các chế định PL và các quy phạm
PL. Hệ thống PL phải luôn thống nhất. Tính thứ bậc của các văn bản PL có ý
nghĩa rất quan trọng trong việc tạo ra tính thống nhất của toàn bộ hệ thống văn
bản PL, là điều kiện quan trọng biểu đạt hệ thống cơ cấu của PL, thoả mãn
tính toàn diện, tính phù hợp, tính chính xác của hệ thống PL. Tính đồng bộ
của hệ thống PL thể hiện ở sự thống nhất không mâu thuẫn, không trùng lặp

giữa các ngành luật với nhau, cũng như trong mỗi ngành luật thì giữa các chế
định và giữa các quy phạm PL với nhau.
+ Hệ thống PL hoàn thiện thì phải được xây dựng ở trình độ kỹ thuật pháp
lý cao. Điều đó thể hiện ở những nguyên tắc khoa học được vạch ra khi xây
dựng PL; ở việc xác định chính xác cơ cấu PL và được biểu đạt bằng ngôn ngữ
pháp lý giản đơn dễ hiểu nhưng chặt chẽ, chính xác để mọi công dân, tổ chức
đều có thể hiểu và thi hành một cách chuẩn xác. Kỹ thuật pháp lý được sử
dụng như thế nào luôn để lại dấu ấn trong hệ thống PL. Vì vậy nó là một trong
những tiêu chí để đánh giá mức độ hoàn thiện của hệ thống PL và góp phần
làm nên những khía cạnh của văn hoá PL.
Hệ thống PL hoàn thiện sẽ đảm bảo duy trì, phát triển ổn định, bền vững và
phát huy cao độ giá trị của chính nó và của ý thức PL, hành vi lối sống theo
PL. Hệ thống PL chính là một yếu tố đóng góp những giá trị làm nên sắc thái,
diện mạo của một nền văn hoá PL. Một hệ thống PL hoàn thiện đạt được các
tiêu chí như đã phân tích ở trên là một biểu hiện sinh động của một nền văn
hoá PL cao.


21
1.3.3. Kỹ năng và hành vi thực hiện, áp dụng pháp luật
Thực hiện PL là hành vi của con người phù hợp với các quy định của
PL. Đó chính là nội dung thứ ba của văn hoá PL. Nó thể hiện cách thức, khả
năng, trình độ sử dụng PL và các công cụ PL của cá nhân, của cộng đồng, của
Nhà nước trong quá trình đấu tranh vì công lý, vì sự bình đẳng và công bằng
xã hội theo hướng chân - thiện - mỹ. Đối với cá nhân, cộng đồng thì văn hoá
PL thể hiện ở kỹ năng thực hiện pháp luật, ở hành vi, thói quen, lối sống theo
PL. Còn với cơ quan nhà nước thì văn hoá PL thể hiện ở kỹ năng, hành vi,
cách thức, trình độ áp dụng PL để duy trì trật tự xã hội.
Trình độ xây dựng PL tốt để đảm bảo có hệ thống PL hoàn thiện mới chỉ
là bước khởi đầu, cần phải có những con người có đủ năng lực, phẩm chất đạo

đức, có văn hoá pháp luật để đưa PL vào cuộc sống. PL được Nhà nước ban hành
và đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phù hợp với lợi ích
Nhà nước, lợi ích xã hội. Song điều đó phụ thuộc vào hoạt động đưa PL trên giấy
vào thực tiễn đời sống xã hội, hay nói cách khác là phụ thuộc vào trình độ, năng
lực của chủ thể thực hiện các hành vi phù hợp với mục đích yêu cầu của PL.
Thực tiễn PL cho thấy, người dân hiểu về PL, thể hiện thái độ tình cảm của mình
đối với PL thông qua cái mà họ nhìn thấy, cảm thấy ở hoạt động thực hiện và áp
dụng PL của các cơ quan nhà nước, các cán bộ công chức trong tình huống cụ
thể liên quan trực tiếp đến quyền lợi của bản thân. Đồng thời việc sử dụng PL để
thực hiện quyền và nghĩa vụ của cá nhân công dân được quy định trong PL phụ
thuộc rất lớn vào trình độ, năng lực của chủ thể.
Hành vi thực hiện, áp dụng PL được hiểu là hành động của con người và
tổ chức của con người diễn ra trong môi trường điều chỉnh của PL. Hành vi
thực hiện, áp dụng PL mang ý nghĩa tích cực và được coi là hành vi hợp pháp
hay hành vi xử sự tích cực đối với PL và các hiện tượng PL, dựa trên những tri
thức PL và tình cảm PL đúng đắn, phù hợp với xã hội. Hành vi hợp pháp mang
ý nghĩa xã hội và văn hoá to lớn: một mặt nó nói lên động cơ hành vi của chủ
thể, mặt khác nó phản ánh nhu cầu tiến bộ của xã hội, sự hài hoà giữa các lợi
ích trong xã hội, sự hài hoà giữa nhu cầu của Nhà nước và nhu cầu của công


22
dân. Hành vi hợp pháp được xã hội tôn trọng và thể hiện trình độ cao của văn
hoá PL. Xét ở góc độ văn hoá, hành vi PL tích cực được hiểu theo nghĩa rộng
hơn, đó là hành vi xử sự ủng hộ PL tiến bộ, đấu tranh, xây dựng và bảo vệ nó;
đồng thời đấu tranh xoá bỏ hệ tư tưởng và tâm lý PL lạc hậu, lỗi thời, phản
động góp phần xây dựng chế độ xã hội ngày càng tiến bộ, văn minh.
áp dụng PL là một hình thức đặc thù của thực hiện PL, khi áp dụng PL

đòi hỏi các nhà chức trách phải có ý thức PL cao, có trí thức tổng hợp, có kinh

nghiệm phong phú, có đạo đức cách mạng và có kỹ năng sử dụng PL. Có
những phẩm chất trên thì người áp dụng PL mới có thể độc lập, công tâm, có
trách niệm cao khi tiến hành các hoạt động áp dụng PL. Từ việc xác định đúng
tình tiết vụ việc đến việc lựa chọn các quy định của PL để ra văn bản áp dụng
đều thể hiện kỹ năng, trình độ PL của người áp dụng và đó cũng là cơ sở đánh
giá trình độ văn hoá PL của người đó.
Hành vi thực hiện, áp dụng PL sẽ kéo theo lối sống theo PL. Phương
thức hành động của một cộng đồng như thế nào thì sẽ tạo ra lối sống như thế
ấy. Lối sống theo PL là lối sống dựa trên nền tảng ý thức PL tiên tiến, là biểu
hiện của lối sống có văn hoá. Lối sống theo PL vừa có tác dụng đóng góp vào
quá trình sáng tạo văn hoá PL, vừa là quá trình tiếp nhận và phát huy các giá
trị văn hoá PL trong thực tiễn.
Giá trị mà văn hoá PL đem lại trong hoạt động thực hiện PL là biến tính
bắt buộc của PL thành tính tự giác, tự nguyện tuân thủ PL của mọi người.
Bằng sự hiểu biết đạt đến trình độ nhất định, những người thực hiện PL sẽ làm
cho những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan nhận ra được đâu là lợi
ích hợp pháp, giới hạn nào là vượt quá khuôn khổ quy định của PL. Với cùng
một sự việc xảy ra, với cùng quy định của PL, nhưng trình độ và kỹ năng vận
dụng khác nhau sẽ cho kết quả rất khác nhau. Khi thực hiện PL chưa trở thành
một thứ văn hoá ứng xử thì PL hiện ra trần trụi chỉ là một công cụ cưỡng bức.
Như vậy, văn hoá PL đòi hỏi trước hết phải có những tri thức cơ bản về
PL, về các quyền và nghĩa vụ cơ bản của con người cũng như cơ chế để đảm
bảo tính hiện thực cho các quyền và nghĩa vụ đó, về cơ chế hợp pháp để bảo


×