Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Một số khía cạnh pháp lý về thẻ thanh toán và thực tiễn điều chỉnh pháp luật về thẻ thanh toán ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (612.43 KB, 76 trang )

B T PHP

B GIO DC V O TO

TRNG I HC LUT H NI

PHM DANH CHNG

Một Số khía cạnh pháp lý về thẻ thanh toán
và thực tiễn điều chỉnh pháp luật về
thẻ thanh toán ở việt nam hiện nay

Chuyờn ngnh: Lut Kinh t
Mó s: 60.38.50

LUN VN THC S LUT HC

NGI HNG DN: PGS.TS Lấ HNG HNH

H NI NM 2006


Tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Phó giáo sư Tiến sỹ luật học Lê Hồng Hạnh, người thầy đã dành nhiều thời gian và
công sức để hướng dẫn tôi hoàn thành Luận văn. Xin trân trọng cảm
ơn các thầy cô giáo Trường Đại học Luật Hà Nội đã giúp trang bị
những kiến thức cần thiết cho tôi trong thời gian đào tạo tại nhà trường.
Xin cám ơn các đồng nghiệp tại Phòng Pháp chế - Chế độ Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã tạo điều kiện, giúp đỡ tôi trong quá
trình hoàn thành Luận văn này.



MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU

1

Chương 1
THẺ THANH TOÁN VÀ SỰ CẦN THIẾT ĐIỀU CHỈNH PHÁP
LUẬT VỀ THẺ THANH TOÁN

6

1.1 Khái niệm, bản chất của thẻ thanh toán

6

1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của thẻ thanh toán

6

1.1.2 Khái niệm, bản chất của thẻ thanh toán

10

1.1.3 Phân loại thẻ

11

1.2 Vai trò của thẻ thanh toán trong nền kinh tế

14


1.3 Các quan hệ pháp lý phát sinh từ việc phát hành, sử dụng,
thanh toán thẻ

17

1.3.1 Các quan hệ pháp lý phát sinh từ việc phát hành thẻ

17

1.3.2 Các quan hệ pháp lý phát sinh từ việc sử dụng thẻ

21

1.3.3 Các quan hệ pháp lý phát sinh từ việc thanh toán thẻ

22

1.4 Rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ

25

1.4.1 Rủi ro trong khâu phát hành thẻ

25

1.4.2 Rủi ro trong khâu sử dụng thẻ

28


1.4.3 Rủi ro trong khâu thanh toán thẻ

30

1.4.4 Rủi ro trong khâu công nghệ ngân hàng, công nghệ thông tin

32

1.5 Sự cần thiết điều chỉnh pháp luật về thẻ thanh toán

32

Chương 2
THẺ THANH TOÁN TRONG PHÁP LUẬT

34

VIỆT NAM HIỆN HÀNH
2.1 Tổng quan về sự phát triển của thẻ thanh toán

34

2.1.1 Thực trạng phát triển của thị trường thẻ thanh toán trên thế giới

34


2.1.2 Thực trạng phát triển của thị trường thẻ thanh toán tại Việt Nam

37


2.1.3 Thực trạng rủi ro và kiểm soát rủi ro trong kinh doanh thẻ tại
Việt Nam

44

2.2 Các quy định của pháp luật hiện hành về thẻ thanh toán

47

Chương 3
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ VIỆC XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN
CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THẺ THANH TOÁN

53

3.1 Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của pháp luật về thẻ
thanh toán

53

3.2 Một số kiến nghị về việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về
thẻ thanh toán

54

3.2.1 Hoàn thiện các quy định của pháp luật điều chỉnh trực tiếp về thẻ
thanh toán

54


3.2.2 Hoàn thiện chính sách quản lý ngoại hối đối với thẻ thanh toán

56

3.2.3 Hoàn thiện chính sách tín dụng đối với thẻ thanh toán

56

3.2.4 Về vấn đề tích hợp hệ thống thanh toán thẻ

57

3.2.5 Xây dựng chính sách quản lý tiền mặt

58

3.2.6 Về vấn đề tội phạm thẻ

61

3.2.7 Xây dựng chính sách bảo hiểm và dự phòng rủi ro đối với thẻ
thanh toán

63

3.2.8 Xây dựng các quy tắc an toàn, tiêu chuẩn, chuẩn mực tối thiểu
cho các tổ chức kinh doanh dịch vụ thẻ thanh toán

64


3.2.9 Nâng cao nhận thức của người dân về thẻ thanh toán thông qua
việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về thẻ thanh toán

65

KẾT LUẬN

67

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

69


DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU

BẢNG
2.1

2.2

TÊN BẢNG
Tình hình thị trường thẻ thanh toán thế giới năm 2005 so
với năm 2004
Bảng tổng kết và dự báo về doanh số, thị phần thẻ Visa,
MasterCard 1995-2010

TRANG
35


36

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

BIỂU
ĐỒ

TÊN BIỂU ĐỒ

TRANG

2.1

Giá trị giao dịch bán trên toàn cầu 1995 - 2005

35

2.2

Tỷ lệ giá trị giao dịch bán thẻ tín dụng quốc tế năm 2005

36

2.3

Tình hình phát hành thẻ nội địa Việt Nam 2004

38


2.4

Tình hình sử dụng thẻ nội địa năm 2004

39

2.5

Tình hình phát hành thẻ nội địa năm 2005

40

2.6

Tình hình phát hành thẻ quốc tế năm 2004

40

2.7

Tình hình sử dụng thẻ quốc tế tại Việt Nam 2004

41

2.8

Tình hình thanh toán thẻ quốc tế năm 2004

42


2.9

Hệ thống máy ATM tại Việt Nam

43


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ACB

: Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu

ATM

: Máy rút tiền tự động (Automatic Teller Machine)

BIDV

: Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam

ĐLPHT

: Đại lý phát hành thẻ

ĐVCNT

: Đơn vị chấp nhận thẻ

EAB


: Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á

EDC/CAT

: Máy thanh toán thẻ (máy cà thẻ) điện tử

ICB

: Ngân hàng Công thương Việt Nam

MASTERCARD : Tổ chức thẻ MasterCard quốc tế
NHPHT

: Ngân hàng phát hành thẻ

NHTTT

: Ngân hàng thanh toán thẻ

TCB

: Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ Thương Việt Nam

TCTQT

: Tổ chức thẻ quốc tế

VBARD


: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam

VCB

: Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam

VISA

: Tổ chức thẻ Visa quốc tế


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Cùng với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công
nghệ, nhất là trong lĩnh vực điện tử và tin học, phương thức thanh toán bằng
thẻ đã ra đời, phát triển mạnh mẽ và trở nên thông dụng thay thế dần phương
thức thanh toán bằng tiền mặt truyền thống.
Thẻ thanh toán là một sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại, là kết quả
của việc ứng dụng công nghệ thông tin, truyền thông trong hoạt động ngân
hàng. Với nhiều ưu điểm và tiện ích mà thẻ thanh toán mang lại cho khách
hàng, cũng như vai trò của lĩnh vực hoạt động này trong việc nâng cao thương
hiệu của ngân hàng và thu hút khách hàng tiềm năng, hoạt động kinh doanh
thẻ... thẻ thanh toán đã nhanh chóng trở thành một phương tiện thanh toán
không dùng tiền mặt hữu hiệu nhất của nền kinh tế.
Tuy nhiên, để đáp ứng sự phát triển nhanh chóng của thẻ thanh toán thì
cần phải xây dựng một khung pháp luật đầy đủ, phù hợp với khả năng dự báo
các vấn đề sẽ phát sinh trong lĩnh vực thanh toán thẻ nhằm điều chỉnh một
cách toàn diện lĩnh vực này.

Từ năm 1990, hình thức thanh toán thẻ đã du nhập vào Việt Nam nhưng
thị trường thẻ Việt Nam mới chỉ thực sự sôi động mấy năm gần đây với sự
xuất hiện ồ ạt của nhiều loại thẻ thanh toán với nhiều thương hiệu khác nhau.
Sự phát triển của thẻ thanh toán đã khẳng định vị trí vững vàng của thẻ
thanh toán trong nghiệp vụ của các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, sự phát
triển của thẻ thanh toán ở Việt Nam vẫn chưa xứng tầm với vai trò của nó đối
với nền kinh tế. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân như: Thói quen
thanh toán bằng tiền mặt trong đời sống, sinh hoạt, nhận thức của người dân
về thanh toán thẻ còn hạn chế… Đặc biệt là các cơ sở pháp lý về thẻ thanh
toán còn chưa được giải quyết triệt để, dẫn tới khó khăn trong việc áp dụng.


2

Trong khi đó ở Việt Nam hầu như chưa có một công trình luật học nào
nghiên cứu một cách đầy đủ, hệ thống về thẻ thanh toán.
Vì vậy, việc nghiên cứu để hoàn thiện khung pháp lý điều chỉnh các vấn
đề về thẻ thanh toán đang là một nhu cầu cấp bách và cần thiết trong giai đoạn
hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trên thế giới, thẻ thanh toán và việc nghiên cứu về thẻ thanh toán không
còn nhiều mới mẻ. Các tổ chức thẻ quốc tế như Visa, MasterCard, American
Express, JCB, Diner Club…đã tổ chức nhiều chương trình nghiên cứu, tổ
chức nhiều diễn đàn, chương trình đào tạo… về thẻ thanh toán.
Ở Việt Nam, thẻ thanh toán vẫn còn khá mới mẻ nhưng pháp luật hiện
hành cũng đã có quy định về lĩnh vực này, đó là: “Quy chế về phát hành, sử
dụng và thanh toán thẻ ngân hàng ban hành kèm theo Quyết định số
371/1999/QĐ-NHNN1 ngày 19/10/1999” của Ngân hàng Nhà nước.
Bên cạnh đó, các cuộc hội thảo về thẻ thanh toán cũng thường xuyên được
tổ chức như: Hội thảo “Công nghệ thông tin với mở rộng thanh toán không dùng

tiền mặt tại Việt Nam” do Cục Công nghệ Tin học Ngân hàng (Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam) và Tập đoàn dữ liệu Quốc tế (IDJ) phối hợp tổ chức tại Hà Nội
trong hai ngày 15-16/6/2004, Hội thảo: “Quản lý rủi ro và giả mạo thẻ” do Hội
thẻ Ngân hàng Việt Nam phối hợp với Tổ chức thẻ quốc tế MasterCard tổ chức
vào ngày 14/12/2005, Hội thảo “Thanh toán không dùng tiền mặt trong khu vực
Chính phủ: Giải pháp thẻ thương mại” do Ngân hàng Nhà nước tổ chức vào
ngày 24/3/2006, Hội thảo “Các biện pháp phòng ngừa gian lận thẻ” do Hiệp hội
thẻ Ngân hàng Việt Nam tổ chức vào ngày 07/4/2006…
Thẻ thanh toán cũng được một số tác giả đi sâu nghiên cứu như:
- Tác giả Nguyễn Danh Lương với Luận án Tiến sĩ kinh tế: “Những giải
pháp nhằm phát triển thanh toán thẻ ở Việt Nam”.


3

- Tác giả Trần Hoàng Anh với Luận văn Thạc sĩ: “Khảo sát thị trường
thẻ tín dụng tại Tp.Hồ Chí Minh”.
- PGS.TS Lê Văn Tề, Thạc sĩ Trương Thị Hồng với đề tài “Thẻ thanh
toán quốc tế và việc ứng dụng thẻ thanh toán tại Việt Nam”.
- Một số khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp của các sinh viên
Học viện Ngân hàng cũng đề cập tới vấn đề này.
Ngoài ra, cũng có một số bài viết về thẻ thanh toán trên tạp chí, báo
chuyên ngành như Tạp chí Ngân hàng, Thời báo Ngân hàng, các Báo điện tử
trên mạng Internet...
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu đã nêu chỉ xem xét thẻ từ góc độ
kinh tế, cụ thể là quan hệ thanh toán, tín dụng… chưa đi sâu nghiên cứu và
đưa ra các giải pháp cụ thể về mặt pháp lý.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Trong khuôn khổ một bản Luận văn Thạc sĩ với một đề tài mới, với khả
năng nghiên cứu và nguồn tài liệu tham khảo còn hạn chế công trình nghiên

cứu này chưa thể bao quát hết được các vấn đề pháp lý về thẻ thanh toán mà
chỉ dừng lại ở những tiếp cận ban đầu và các giải pháp mang tính gợi mở.
Luận văn không nhằm cung cấp tất cả các vấn đề pháp lý liên quan tới
thẻ thanh toán mà chỉ nhằm giới thiệu về thẻ thanh toán và nghiên cứu một số
vấn đề pháp lý đặt ra đối với thẻ thanh toán.
Luận văn cũng đưa ra một cách tổng quát về sự phát triển của thẻ
thanh toán và thực trạng điều chỉnh pháp luật về thẻ thanh toán ở Việt Nam
hiện nay.
Trên cơ sở đó Luận văn cũng đưa ra một số gợi ý và đề xuất một vài vấn
đề chủ yếu để hoàn thiện khung pháp luật điều chỉnh và thẻ thanh toán và đảm
bảo cho khung pháp luật đó được khả thi trên thực tế.


4

4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Phương pháp luận để nghiên cứu đề tài này là chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp song song với các phương pháp
tổng hợp, phân tích, thống kê, so sánh, sơ đồ.
Phương pháp phân tích được dùng để làm rõ khái niệm, bản chất của thẻ
thanh toán, các vấn đề pháp lý đặt ra đối với thẻ thanh toán, làm rõ thực trạng
điều chỉnh của pháp luật Việt Nam về thẻ thanh toán.
Phương pháp thống kê, so sánh được sử dụng để làm rõ sự phát triển của
thẻ thanh toán. Ngoài ra, luận văn cũng sử dụng các bảng biểu, sơ đồ, số liệu
trong và ngoài nước để phân tích, chứng minh các nội dung liên quan.
Trên cơ sở đó, phương pháp tổng hợp được sử dụng để khái quát hóa
nhằm đưa ra những đề xuất, kiến nghị của luận văn.
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Thông qua việc nghiên cứu có hệ thống các vấn đề lý luận về thẻ thanh
toán, các quy định của pháp luật thực định về thẻ thanh toán…Luận văn nhằm

mục đích làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoàn thiện khung
pháp luật điều chỉnh các quan hệ về thẻ thanh toán.
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là:
Thứ nhất, nghiên cứu các quan điểm về thẻ thanh toán, các quan hệ phát
sinh trong quá trình phát hành, sử dụng, thanh toán thẻ, các rủi ro phát sinh trong
hoạt động kinh doanh thẻ, sự cần thiết điều chỉnh pháp luật về thẻ thanh toán.
Thứ hai, nghiên cứu, phân tích, làm rõ thực trạng phát triển của thị
trường thẻ thanh toán ở Việt Nam và các quy định hiện hành của pháp luật
Việt Nam về thẻ thanh toán.
Thứ ba, nghiên cứu và đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm xây dựng
và hoàn thiện các quy định của pháp luật về thẻ thanh toán.


5

6. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được bố cục thành 03 chương:
- Chương 1: Thẻ thanh toán và sự cần thiết điều chỉnh pháp luật về thẻ
thanh toán.
- Chương 2: Thẻ thanh toán trong pháp luật Việt Nam hiện hành.
- Chương 3: Một số kiến nghị về việc xây dựng và hoàn thiện các quy
định của pháp luật về thẻ thanh toán.


6

Chương 1
THẺ THANH TOÁN VÀ SỰ CẦN THIẾT ĐIỀU CHỈNH
PHÁP LUẬT VỀ THẺ THANH TOÁN


1.1 Khái niệm, bản chất của thẻ thanh toán
1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của thẻ thanh toán
Lịch sử hình thành của thẻ thanh toán bắt đầu từ năm 1914 bằng việc các
Liên hiệp miền Tây nước Mỹ cấp cho các khách hàng truyền thống của mình
những tấm thẻ được sử dụng cho những dịch vụ đặc biệt. Sau đó hàng loạt các
khách sạn, nhà hàng, công ty…cũng đã cho ra đời các tấm thẻ của mình.
Năm 1946, hệ thống mua bán chịu do John Biggins sáng lập đã phát
hành tấm thẻ tín dụng đầu tiên với tên gọi là Charg-It cho phép các khách
hàng không cần trả tiền ngay cho những giao dịch mua bán lẻ tại địa phương.
Các cơ sở chấp nhận thẻ nộp biên lai bán hàng vào ngân hàng của Biggins,
ngân hàng sẽ trả tiền cho họ và thu lại từ khách hàng sử dụng Charg-It.
Đến cuối năm 1949, sau sự kiện bị từ chối thanh toán bằng séc trong khi
không mang tiền mặt tại một quán ăn, ông Frank Mc Namara, một doanh
nhân người Mỹ đã sáng chế ra chiếc thẻ Diner Club phát hành cho các hội
viên của Diner Club sử dụng tại 27 cửa hiệu quen thuộc tại New York. Diner
Club trả cho các chủ hiệu tiền thanh toán thẻ hàng tháng sau khi đã trừ đi chi
phí dịch vụ thẻ cùng với yêu cầu các chủ thẻ phải thanh toán ngay số tiền khi
nhận được bảng kê.
Năm 1951, các ngân hàng đã bắt đầu quan tâm tới thẻ thanh toán. Mở
đầu bằng việc Ngân hàng quốc gia Franklin ở Long Island, New York (nay là
European American Bank - EAB) phát hành tấm thẻ tín dụng ngân hàng đầu
tiên, theo đó thì ngân hàng sẽ xem xét uy tín và khả năng tài chính của người
có nhu cầu sử dụng để cấp cho họ một giá trị tín dụng và một loại thẻ dùng để


7

mua hàng hóa hoặc sử dụng dịch vụ. Ngân hàng phát hành sẽ thanh toán cho
người bán hàng trị giá hàng đã bán sau khi trừ đi khoản phí đã thỏa thuận

trước và sẽ quản lý các trị giá đã sử dụng của các chủ thẻ như những khoản nợ
vay ngân hàng.
Năm 1953, Schneider và Alfred Blooming Dale đã tiếp nhận hệ thống
Diner Club từ Franklin Mc Namara và tiếp tục phát triển hệ thống này.
Năm 1955, theo chân Diner Club, hàng loạt các loại thẻ khác ra đời như
Gold Key, Esquire Club, Gourmet Club, Trip Charge…đánh dấu một bước
phát triển mới của thẻ thanh toán.
Năm 1958, American Express Company - một tổ chức phi ngân hàng đã phát hành thẻ American Express Card (Amex). Loại thẻ này được Carte
Blanch phát triển vào những năm 1960 và nó đã thống lĩnh thị trường thẻ thời
bấy giờ.
Trong giai đoạn này, phần lớn thẻ thanh toán được dùng bởi những
người có tiềm lực kinh tế, có vị thế trong xã hội nhưng các ngân hàng đã nhận
thấy giới bình dân mới là đối tượng sử dụng thẻ tiềm năng và họ đã lao vào
cuộc đua tranh.
Năm 1960, Ngân hàng Mỹ (Bank of America) đã phát hành tấm thẻ đầu
tiên cho mọi đối tượng sử dụng với tên gọi Bank Americard. Bank Americard
đã mang lại sự phát đạt cho Bank of America. Những thành công của Bank
Americard đã thúc đẩy các nhà phát hành thẻ khác trên khắp nước Mỹ liên kết
với nhau để cạnh tranh với loại thẻ này.
Năm 1966, mười bốn ngân hàng hàng đầu của Mỹ đã thành lập Hiệp hội
thẻ liên Ngân hàng để phối hợp hoạt động với tên gọi là Interbank Card
Association (ICA) để giúp thẻ của họ có khả năng cạnh tranh với hệ thống thẻ
Bank Americard.


8

Năm 1967, bốn ngân hàng bang California lập ra Hiệp hội thẻ các bang
Miền Tây (Western State Bank Card Association - WSBA). WSBA đã phát
hành thẻ Master Charge cũng để cạnh tranh chủ yếu với Bank Americard.

Nhưng sau đó, WSBA đã bán thương hiệu Master Charge của mình cho
ICA và từ đó ICA đã lấy Master Charge làm tên thẻ và biểu tượng của mình.
Với sự xuất hiện của hai loại thẻ lớn nhất là Bank Americard và Master
Charge, từ 1968 các ngân hàng đã không còn đơn lẻ tham gia vào lĩnh vực thẻ
thanh toán trừ một vài trường hợp ngoại lệ. Các hiệp hội, chương trình thẻ
đang hoạt động độc lập khác cũng dần sáp nhập vào một trong hai tổ chức thẻ
nói trên.
Năm 1976, Bank Americard được đổi tên thành Visa và kể từ đó thẻ tín
dụng Visa đã trở nên thông dụng trên thế giới.
Cũng trong khoảng thời này ICA đã mở rộng thành viên từ Châu Phi tới
Châu Úc. Để thể hiện cam kết vì sự phát triển toàn cầu mà ICA đã đổi tên thẻ
Master Charge thành MasterCard và cũng kể từ đó thì MasterCard cũng trở
thành một thương hiệu mạnh đủ sức cạnh tranh với Visa.
Cùng với sự phát triển của hai thương hiệu thẻ trên, hàng loạt các thương
hiệu thẻ khác cũng được ra đời bởi các định chế tài chính khác làm cho thị
trường thẻ ngày càng phong phú: American Express (Amex), Diner Club,
JCB, Euro Card...
Tính đến thời điểm hiện nay, thẻ thanh toán đã trở thành một phương
tiện thanh toán thông dụng và không thể thiếu trong đời sống kinh tế xã hội
của nhiều quốc gia trên thế giới.
Ở Việt Nam, thẻ thanh toán mới chỉ xuất hiện từ những năm 1990 mà
mở đầu là sự kiện Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam ký kết Hợp đồng đại lý
thanh toán thẻ với Ngân hàng BFCE Singapore vào ngày 27/6/1990.


9

Ngay sau đó, tháng 7 năm 1990, Ngân hàng Sài Gòn Công Thương ngân hàng liên doanh với một công ty con của Tyndall Group của Anh - thành
lập nên Trung tâm thanh toán Visa tại thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 24/7/1991, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam lại tiếp tục ký Hợp

đồng đại lý thanh toán thẻ tín dụng quốc tế MasterCard với Công ty thẻ MBF
Malaysia.
Ngày 18/9/1991, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam ký Hợp đồng đại lý
thanh toán thẻ JCB Card với Công ty JCB International Co.Ltd của Nhật Bản.
Tuy nhiên, thẻ thanh toán chỉ thực sự được phát hành tại Việt Nam qua
sự kiện Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam thí điểm phát hành thẻ
Vietcombank Card (VCB Card) vào ngày 01/7/1993.
Năm 1994, một số ngân hàng khác cũng tham gia thị trường thanh toán
thẻ như Ngân hàng Công thương Việt Nam với thẻ Visa, Eximbank với thẻ
Visa và MasterCard…
Cho đến nay, ở Việt Nam đã có 17 ngân hàng thương mại tham gia phát
hành thẻ nội địa với các thương hiệu như: Thẻ đa năng của Ngân hàng Đông
Á, Connect 24 của Vietcombank, Cash Card của Incombank, Power của
BIDV, Access của Techcombank…
Về lĩnh vực phát hành thẻ quốc tế thì hiện có 6 ngân hàng thương mại
tham gia phát hành thẻ quốc tế cho các thương hiệu nổi tiếng như Visa,
MasterCard, JCB, Amex, Diner Club…
Về lĩnh vực liên kết thẻ, hiện tại mới có 3 liên minh thẻ là Liên minh
giữa Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam với 17 ngân hàng thương mại cổ
phần, Công ty cổ phần chuyển mạch tài chính quốc gia - Banknet (có 14 ngân
hàng thương mại tham gia với VDC), Hệ thống VNBC (có 4 ngân hàng
thương mại tham gia). Tuy nhiên, trên thực tế các liên minh thẻ này chưa đi
vào hoạt động.


10

1.1.2 Khái niệm, bản chất của thẻ thanh toán
Khi nhắc tới thẻ thanh toán ai cũng nghĩ ngay tới một tấm plastic có kích
thước tiêu chuẩn trên đó có biểu tượng của một ngân hàng phát hành, tên

người sử dụng thẻ, số thẻ…dùng để rút tiền tại các máy ATM hay dùng để
thanh toán hàng hóa, dịch vụ tại các cơ sở chấp nhận thẻ (POS). Tuy nhiên,
không phải ai cũng nắm rõ được khái niệm và bản chất của thẻ thanh toán.
Hiện nay có nhiều cách định nghĩa khác nhau về thẻ thanh toán tùy thuộc
vào góc độ nhìn nhận của các nhà nghiên cứu nhưng tất cả các định nghĩa đều
nhằm một mục đích là nêu bật được nội dung của thẻ thanh toán một cách
khái quát nhất.
Dưới góc độ cấu tạo vật lý, thẻ thanh toán là một miếng plastic có kích
thước tiêu chuẩn và có một dải băng từ ở mặt sau ghi thông tin về thẻ và chủ
thẻ, cũng có thể có chip điện tử để ghi các thông tin phụ thêm khác.
Dưới góc độ phát hành, thẻ thanh toán là một công cụ thanh toán được
phát hành bởi các ngân hàng, các tổ chức tài chính hay các công ty.
Dưới góc độ công nghệ thanh toán, thẻ thanh toán là phương thức thanh
toán ghi sổ điện tử số tiền của các giao dịch cần thanh toán thông qua hệ
thống thanh toán được kết nối giữa các chủ thể tham gia dựa trên nền tảng
công nghệ ngân hàng, tin học và viễn thông. Nó cho phép thực hiện thanh
toán nhanh chóng, thuận lợi và an toàn đối với các chủ thể tham gia.
Dưới góc độ mục đích sử dụng, thẻ thanh toán là một phương tiện thanh
toán tiền mua hàng hóa, dịch vụ không dùng tiền mặt hoặc có thể được dùng
để rút tiền mặt tại các máy rút tiền tự động, các ngân hàng đại lý.
Nhìn chung tất cả các định nghĩa trên đều chỉ ra rằng thẻ thanh toán là
một phương tiện thanh toán nhưng các định nghĩa đó chưa nêu bật được đầy
đủ bản chất pháp lý của thẻ thanh toán.


11

Thẻ thanh toán không đơn thuần chỉ là một miếng plastic có kích thước
tiêu chuẩn dùng để thanh toán hàng hóa, dịch vụ mà thẻ thanh toán là loại
chứng chỉ đặc biệt thể hiện sự cam kết của tổ chức phát hành bảo đảm thanh

toán cho những khoản tiền do chủ thẻ sử dụng bằng tiền của tổ chức phát
hành cho chủ thẻ vay hoặc tiền của chính chủ thẻ đã gửi tại tổ chức phát hành.
Việc thanh toán qua thẻ thực chất là việc chủ thẻ ủy nhiệm cho tổ chức
phát hành thực hiện nghĩa vụ thanh toán của mình bằng các bút toán ghi trên
tài khoản của chủ thẻ có tại tổ chức phát hành thông qua hệ thống thanh toán
điện tử được kết nối giữa các chủ thể tham gia dựa trên nền tảng công nghệ
ngân hàng, tin học và viễn thông. Vì vậy, thẻ thanh toán là một phương thức
thanh toán điện tử không dùng tiền mặt.
Về mục đích sử dụng của thẻ thanh toán cũng không còn bó hẹp trong từng
lĩnh vực cụ thể như lúc mới hình thành. Với một tấm thẻ, khách hàng có thể vừa
dùng để vừa mua hàng, rút tiền mặt, chuyển khoản, xem sao kê tài khoản của
mình tại ngân hàng, giao dịch mua bán qua Internet, trả cước phí dịch vụ công
cộng. Chủ thẻ có thể vừa sử dụng bằng tiền gửi của mình tại ngân hàng, vừa sử
dụng tiền vay nếu được ngân hàng chấp nhận…Tóm lại, mục đích sử dụng của
thẻ thanh toán là nhằm thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của chủ thẻ trên cơ sở sự đáp
ứng về mặt công nghệ.
Có thể định nghĩa về thẻ thanh toán như sau: Thẻ thanh toán là một công
cụ thanh toán không dùng tiền mặt do ngân hàng, các tổ chức tài chính hoặc
các công ty phát hành được người sở hữu thẻ sử dụng để thỏa mãn nhu cầu
tiêu dùng của mình, kể cả rút tiền mặt, thực hiện các dịch vụ tự động do ngân
hàng hoặc các tổ chức khác cung cấp thông qua hệ thống thanh toán điện tử.
1.1.3 Phân loại thẻ:
1.1.3.1 Dựa vào công nghệ sản xuất và đặc tính kỹ thuật, người ta chia
thẻ thanh toán thành ba (03) loại chính:


12

- Thẻ khắc chữ nổi (Embossing Card): Đây là loại thẻ được sản xuất dựa
trên công nghệ khắc chữ nổi, các thông tin cơ bản được khắc nổi trên thẻ.

- Thẻ từ (Magnetic Stripe): Đây là loại thẻ được sản xuất dựa trên kỹ
thuật thư tín với một băng từ có hai (02) hoặc ba (03) dải ghi các thông tin cần
thiết. Các thông tin này thường là các thông tin cố định về chủ thẻ và về thẻ
cũng như số liệu kết nối.
- Thẻ thông minh - Thẻ Chip (Smart Card): Đây là loại thẻ được sản xuất
dựa trên nền tảng kỹ thuật vi xử lý. Mặt trước của thẻ được gắn một chip điện
tử theo nguyên tắc xử lý như một máy tính nhỏ.
1.1.3.2 Dựa vào tính chất thanh toán, người ta chia thẻ thanh bốn (04)
loại chính:
- Thẻ ghi nợ (Debit Card): Đây là loại thẻ được dùng để thanh toán, chi
trả hoặc rút tiền mặt trên cơ sở số tiền của chính chủ thẻ gửi tại ngân hàng.
Thẻ này không tạo tín dụng và hoạt động theo nguyên tắc tương tự thẻ ATM.
Mỗi lần sử dụng, ngân hàng sẽ tự động trừ ngay số tiền tương ứng trên tài
khoản của chủ thẻ. Thẻ ghi nợ có hai loại cơ bản:
+ Thẻ online: là loại thẻ mà giá trị những giao dịch được khấu trừ ngay
lập tức vào tài khoản chủ thẻ.
+ Thẻ offline: là loại thẻ mà giá trị những giao dịch được khấu trừ vào
tài khoản của chủ thẻ sau đó vài ngày.
- Thẻ tín dụng (Credit Card): Đây là loại thẻ được sử dụng rất phổ biến,
theo đó chủ thẻ sẽ được cấp một khoản tín dụng không phải trả lãi (nếu chủ
thẻ hoàn trả số tiền sử dụng đúng thời hạn, thường là cuối tháng) để mua hàng
hóa dịch vụ tại những cơ sở chấp nhận loại thẻ này hoặc để rút tiền mặt tại
quầy giao dịch của ngân hàng. Hạn mức tín dụng này tương đối nhỏ so với
các khoản vay thông thường và khác nhau đối với từng loại khách hàng khác
nhau theo chính sách của từng ngân hàng.


13

- Thẻ thanh toán trả sau (Charge Card): Loại thẻ này thường do các tổ

chức phi ngân hàng phát hành; đơn vị phát hành thẻ sẽ tham gia giải quyết
trực tiếp mọi giao dịch giữa chủ thẻ và cơ sở chấp nhận thẻ; là loại thẻ không
quy định trước hạn mức chi tiêu, cuối tháng khách hàng sẽ phải thanh toán
theo bảng kê thông báo tài khoản.
- Thẻ rút tiền mặt (Cash Card): Đây là loại thẻ được dùng để rút tiền mặt
tại các máy rút tiền tự động (ATM) hoặc ở ngân hàng. Với chức năng chuyên
biệt chỉ dùng để rút tiền, chủ thẻ phải ký quỹ tiền gửi vào tài khoản ngân hàng
hoặc chủ thẻ được cấp tín dụng thấu chi mới sử dụng được. Số tiền rút ra mỗi
lần sẽ được trừ dần vào số tiền ký quỹ.
1.1.3.3 Dựa vào chủ thể phát hành, người ta chia thẻ ra thành hai (02)
loại chính:
- Thẻ do ngân hàng phát hành (Bank Card): Đây là loại thẻ do các ngân
hàng phát hành giúp cho khách hàng sử dụng linh động tài khoản của mình tại
ngân hàng, hoặc sử dụng một số tiền do ngân hàng cấp tín dụng.
- Thẻ do các tổ chức phi ngân hàng phát hành (Non-Bank Card): Đây là
loại thẻ du lịch và giải trí do các tập đoàn kinh doanh lớn hoặc các Công ty
xăng dầu…phát hành như Dinner Club, Amex…
1.1.3.4 Dựa vào chủ thẻ, người ta chi thẻ ra thành hai (02) loại:
- Thẻ công ty: Đây là loại thẻ do một tổ chức yêu cầu ngân hàng phát
hành. Những người sử dụng thẻ này là người được tổ chức đó ủy quyền và
có tên in nổi trên thẻ cùng với tên của tổ chức. Tổ chức yêu cầu phát hành
chịu trách nhiệm thanh toán trực tiếp với ngân hàng. Người sử dụng thẻ chỉ
có nghĩa vụ tuân thủ các quy định về sử dụng thẻ và không có nghĩa vụ
thanh toán.
- Thẻ cá nhân: Đây là loại thẻ do một cá nhân có nhu cầu và có đủ điều
kiện trực tiếp đứng ra yêu cầu ngân hàng phát hành thẻ cho mình. Ở thẻ cá


14


nhân, chủ thẻ và người sử dụng thẻ là một. Do vậy, cá nhân đó có trách nhiệm
sử dụng thẻ đúng quy định và có nghĩa vụ thanh toán với ngân hàng. Thẻ cá
nhân có hai loại:
+ Thẻ chính: do cá nhân đứng tên xin phát hành thẻ cho chính mình sử
dụng và cá nhân đó là chủ thẻ.
+ Thẻ phụ: chủ thẻ chính có thể đứng tên xin phát hành thẻ phụ cho
người khác sử dụng (chủ thẻ phụ) và chịu trách nhiệm thanh toán toàn bộ các
khoản chi tiêu của chủ thẻ phụ.
1.1.3.5 Dựa vào phạm vi lãnh thổ sử dụng, người ta chia thẻ ra thành
hai (02) loại chính là:
- Thẻ nội địa: Đây là loại thẻ được giới hạn sử dụng trong phạm vi một
quốc gia, chủ yếu cho mục đích tiêu dùng. Đồng tiền được sử dụng của loại
thẻ này là đồng bản tệ của quốc gia đó.
- Thẻ quốc tế: Đây là loại thẻ do tổ chức thẻ quốc tế, hoặc thành viên của
tổ chức này phát hành. Loại thẻ này có tính chất toàn cầu, tức là có thể thanh
toán ở bất cứ nước nào có cơ sở chấp nhận loại thẻ đó. Cũng vì mang tính
chất toàn cầu nên đồng tiền được sử dụng của loại thẻ này phải là các ngoại tệ
mạnh. Thẻ quốc tế được hỗ trợ và quản lý trên toàn thế giới, bởi những tổ
chức thẻ quốc tế như MasterCard, Visa, Amex…
Ngoài ra, dựa vào mức độ tín nhiệm của chủ thẻ và trị giá sử dụng của
thẻ, người ta chia thẻ ra thành ba (03) loại chính: Thẻ thường, Thẻ vàng và
Thẻ thượng hạng.
1.2 Vai trò của thẻ thanh toán trong nền kinh tế:
Xã hội ngày càng phát triển, quy trình công nghệ ngày càng được nâng
cao, thì phương thức thanh toán cũng ngày càng hiện đại. Thanh toán không
dùng tiền mặt ra đời góp phần làm đa dạng hoá phương thức thanh toán trong
nền kinh tế. Chính vì thế các chủ thể trong nền kinh tế có thêm cơ hội để lựa


15


chọn phương thức cho phù hợp với ngành và lĩnh vực kinh doanh của mình.
Khác với nền kinh tế sản xuất giản đơn, nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần nảy sinh nhiều mối quan hệ thanh toán lớn ở mức độ ngày càng tăng.
Chính vì vậy, thanh toán không dùng tiền mặt nói chung và thẻ thanh toán nói
riêng đóng một vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội.
Thứ nhất, thẻ thanh toán có vai trò tạo điều kiện để nhà nước quản lý nền
kinh tế và chỉ đạo thực hiện chính sách kinh tế tốt hơn, giúp giảm chi xã hội
cho nền kinh tế. Vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước chỉ thực hiện đầy đủ,
phát huy tác dụng của mình khi khối lượng thanh toán phần lớn được tập
trung qua ngân hàng, có nghĩa là các chủ thể của nền kinh tế trao đổi, thanh
toán tiền hàng hoá dịch vụ thông qua hệ thống ngân hàng.
Trong nền kinh tế xã hội, ngân hàng là một ngành kinh tế đặc thù, thực
hiện các chính sách của nhà nước về tiền tệ, tín dụng và thanh toán, việc mở
rộng thanh toán không dùng tiền mặt nói chung và thẻ thanh toán nói riêng
tạo điều kiện cho nhà nước quản lý một cách tổng thể quá trình sản xuất và
lưu thông hàng hoá của các doanh nghiệp thông qua hệ thống ngân hàng. Mặt
khác, cũng thông qua ngân hàng, nhà nước kiểm soát mức tạo tiền và cấp tín
dụng thông qua sử dụng các công cụ thanh toán tại các ngân hàng, góp phần
thực hiện tốt chính sách tiền tệ, kiểm soát lạm phát và tạo điều kiện tăng
trưởng kinh tế.
Ngoài ra, thẻ thanh toán đã giúp cho khối tiền “bất động” trở thành sống
động hơn, di chuyển từ nơi này sang nơi khác, từ khách hàng này sang khách
hàng khác để phục vụ sản xuất kinh doanh, thúc đẩy nguồn vốn luân chuyển
nhanh chóng.
Thứ hai, thẻ thanh toán tạo điều kiện thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ
an toàn, chính xác, hiệu quả ... giúp giảm thiểu thời gian, chi phí để đạt hiệu
quả cao trong thanh toán.



16

Ngoài ra, bộ nhớ cài đặt trên thẻ ghi lại chính xác từng giao dịch, cuối kỳ
chủ thẻ có thể nhận được báo cáo giao dịch qua thẻ. Do đó chủ thẻ có thể
quản lý chi tiêu của mình.
Thứ ba, thẻ thanh toán tạo cho các giao dịch tính an toàn và bảo mật rất
cao. Chỉ với một thẻ thanh toán, người tiêu dùng có thể thanh toán một khối
lượng lớn hàng hóa dịch vụ mà không phải mang theo tiền mặt. Nhà nước
cũng có thể giảm chi phí bảo quản, vận chuyển tiền, cũng như các chi phí phát
hành và lưu thông tiền tệ (in ấn, quản lý tiền , hủy tiền…), qua đó, các hoạt
động kinh tế ngầm, tiêu cực và tệ nạn xã hội sẽ được hạn chế.
Thứ tư, thẻ thanh toán tạo điều kiện cho hoạt động huy động vốn của
ngân hàng. Để thực hiện việc thanh toán, khách hàng phải tiến hành mở tài
khoản tiền gửi tại ngân hàng. Như vậy, ở tài khoản tiền gửi của khách hàng
luôn phải duy trì một khoản tiền nhất định, số tiền này sẽ trở thành nguồn
vốn nhàn rỗi, ngân hàng có thể sử dụng số tiền này để kinh doanh, sau khi đã
duy trì một tỷ lệ dự trữ bắt buộc đủ chi trả cho các chủ tài khoản trong mọi
trường hợp.
Thanh toán qua thẻ vừa tạo ra nguồn thu từ phí thanh toán cho ngân
hàng, vừa góp phần làm cơ sở tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng khi thực
hiện việc cấp tín dụng cho khách hàng. Thông qua tài khoản tiền gửi của
khách hàng, ngân hàng có thể nắm được thông tin về tình hình hoạt động của
khách hàng, từ đó có thể kiểm soát được khách hàng dễ dàng hơn, giúp ngân
hàng đưa ra các quyết định tín dụng, đầu tư một cách đúng đắn, an toàn và
hiệu quả.
Mở rộng và phát triển dịch vụ thẻ thanh toán mang lại hiệu quả kinh tế
lớn cho các ngân hàng thương mại, nhờ việc khai thác và sử dung linh hoạt
nguồn vốn tiền gửi thanh toán của các tổ chức kinh tế và các cá nhân trên tài
khoản tiền gửi thanh toán, với chi phí sử dụng vốn thấp (chi phí trả lãi thấp).



17

Ngoài ra, thẻ thanh toán có tác động tích cực, kích thích các hoạt động
dịch vụ ngân hàng liên quan phát triển.
1.3 Các quan hệ pháp lý phát sinh từ việc phát hành, sử dụng, thanh
toán thẻ
1.3.1 Các quan hệ pháp lý phát sinh từ việc phát hành thẻ
Các chủ thể tham gia quan hệ phát hành thẻ bao gồm tổ chức thẻ quốc tế,
ngân hàng phát hành thẻ, khách hàng (chủ thẻ), đại lý phát hành thẻ.
Tổ chức thẻ quốc tế là một tổ chức gồm một hoặc một số các ngân hàng,
định chế tài chính hoặc tổ chức phi tài chính gắn với một thương hiệu độc
quyền sản phẩm thẻ (như Visa International, Mastercard International,
American Express, Diner Club, JCB…). Trên cơ sở thương hiệu đã có các Tổ
chức thẻ quốc tế có thể ủy quyền cho các ngân hàng, tổ chức khác phát hành
thẻ. Tổ chức thẻ quốc tế có điều lệ và quy chế hoạt động riêng, chịu trách
nhiệm tổ chức và hướng dẫn các thành viên của mình thực hiện theo đúng quy
chế, quy định đề ra cũng như có trách nhiệm phân xử, hòa giải những tranh
chấp trong quá trình vận hành.
Ngân hàng phát hành thẻ là tổ chức được ngân hàng trung ương hoặc cơ
quan có thẩm quyền cho phép thực hiện nghiệp vụ phát hành thẻ, cấp thẻ cho
các chủ thẻ sử dụng, chịu trách nhiệm thanh toán và cung cấp các dịch vụ liên
quan đến thẻ đó. Trong trường hợp phát hành thẻ quốc tế, ngân hàng phát
hành thẻ còn phải được sự cho phép của các tổ chức thẻ quốc tế.
Chủ thẻ là cá nhân hoặc tổ chức được ngân hàng phát hành thẻ cấp thẻ
để sử dụng. Chủ thẻ bao gồm chủ thẻ chính và chủ thẻ phụ. Chủ thẻ chính là
người đứng tên đề nghị ngân hàng phát hành cấp thẻ và phải chịu hoàn toàn
trách nhiệm thanh toán, xử lý các vấn đề liên quan đến việc sử dụng thẻ của
mình (kể cả thẻ phụ phát hành kèm theo thẻ chính). Chủ thẻ phụ là người
được cấp thẻ theo đề nghị của chủ thẻ chính.



18

Đại lý phát hành thẻ là cá nhân, tổ chức được ngân hàng phát hành thẻ
ủy quyền thực hiện một số nghiệp vụ phát hành thẻ trực tiếp cho chủ thẻ
thông qua hợp đồng đại lý phát hành thẻ.
Ngoài ra, trong quá trình phát hành thẻ còn có thể có sự tham gia của các
chủ thể khác như các công ty chuyển phát, bưu điện thực hiện việc giao nhận
thẻ từ ngân hàng phát hành tới chủ thẻ, người được chủ thẻ ủy quyền đến
nhận thẻ…
Với sự tham gia của các chủ thể trên, việc phát hành thẻ được tiến hành
theo quy trình sau:
- Khách hàng gửi cho ngân hàng phát hành thẻ (trực tiếp hoặc thông qua
đại lý phát hành thẻ) đơn yêu cầu sử dụng thẻ và các hồ sơ, tài liệu liên quan
theo yêu cầu của ngân hàng phát hành thẻ.
- Ngân hàng phát hành thẻ hoặc đại lý phát hành thẻ sẽ tiến hành thẩm
định các điều kiện của khách hàng và ra quyết định chấp nhận hoặc từ chối
phát hành.
- Với những hồ sơ được chấp nhận, ngân hàng phát hành thẻ yêu cầu
khách hàng ký kết hợp đồng sử dụng thẻ và tiến hành mở tài khoản thẻ cho
khách hàng, cập nhật hồ sơ và tiến hành in thẻ.
- Sau khi in thẻ, ngân hàng phát hành thẻ sẽ tiến hành giao thẻ cho khách
hàng theo phương thức đảm bảo bí mật thông tin cho khách hàng. Việc giao
nhận thẻ có thể được tiến hành theo các phương thức sau:
+ Khách hàng trực tiếp đến nhận thẻ tại ngân hàng phát hành thẻ, đại lý
phát hành thẻ hoặc ủy quyền cho người khác đến nhận thẻ.
+ Ngân hàng phát hành thẻ gửi thẻ cho khách hàng thông qua các công
ty chuyển phát, bưu điện theo một phương thức bảo đảm an toàn, bí mật.
Chúng ta có thể thấy các quan hệ chủ yếu phát sinh từ việc phát hành thẻ

bao gồm:


19

(1) Quan hệ giữa khách hàng (chủ thẻ) với ngân hàng phát hành thẻ. Có
thể nói đây là quan hệ chính trong việc phát hành thẻ. Quan hệ này được phát
sinh trên cơ sở hợp đồng sử dụng thẻ, theo đó NHPHT đồng ý cung cấp dịch
vụ và khách hàng đồng ý sử dụng dịch vụ thẻ của NHPHT. Tuy nhiên, quan
hệ này chỉ thực sự phát sinh nếu khách hàng có đủ điều kiện được sử dụng thẻ
theo quy định của NHPHT. Ngoài các điều kiện về năng lực chủ thể, khách
hàng còn có thể phải đáp ứng năng lực về tài chính tùy theo loại thẻ, đặc biệt
là việc duy trì số dư tiền gửi tối thiểu trên tài khoản thẻ.
Trong quan hệ này, các chủ thể tham gia có quyền và nghĩa vụ sau:
- Chủ thẻ có quyền lựa chọn NHPHT cung cấp dịch vụ thẻ cho mình.
- Chủ thẻ có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ và chính xác thông tin cần thiết
theo yêu cầu của NHPHT khi xin phát hành thẻ và trong quá trình sử dụng
thẻ. Chủ thẻ phải có trách nhiệm bảo mật các thông tin về thẻ và tài khoản
của mình.
- NHPHT có quyền chấp nhận hoặc từ chối các đơn xin phát hành thẻ
không đảm bảo được các điều kiện theo yêu cầu của NHPHT; có quyền quy
định về loại thẻ, thời hạn sử dụng cũng như các yêu cầu về khả năng tài chính
của chủ thẻ; có quyền yêu cầu các bên có liên quan cung cấp các thông tin cần
thiết cho ngân hàng nếu được yêu cầu; có quyền từ chối các thẻ không hợp lệ
hay chấm dứt việc sử dụng thẻ của những chủ thẻ vi phạm.
- NHPHT có nghĩa vụ bảo đảm bí mật thông tin về giao dịch tài khoản
của chủ thể theo quy định của pháp luật; thực hiện tra soát và giải quyết các
khiếu nại của chủ thẻ. Trong trường hợp thẻ bị lợi dụng, nếu NHPHT không
chứng minh được việc thẻ bị lợi dụng là do lỗi của chủ thẻ thì NHPHT phải
gánh chịu toàn bộ thiệt hại phát sinh.

(2) Quan hệ giữa khách hàng (chủ thẻ) với đại lý phát hành thẻ. Quan hệ
này phát sinh trên cơ sở khách hàng đến thực hiện thủ tục phát hành thẻ tại


×