Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT ở nƣớc TA HIỆN NAY (từ THỰC TIỄN của THÀNH PHỐ hải PHÒNG)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (649.73 KB, 84 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐÀO THỊ MAI

NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT Ở NƢỚC TA HIỆN NAY
(TỪ THỰC TIỄN CỦA THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG)

Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Nhà nƣớc và Pháp luật
Mã số

: 60 38 01

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:PGS. TS. NGUYỄN VĂN ĐỘNG

HÀ NỘI - 2005


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
CHƢƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THỰC
HIỆN PHÁP LUẬT VÀ HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
1.1. Khái niệm và các hình thức thực hiện pháp luật
1.2. Khái niệm hiệu quả thực hiện pháp luật
1.3. Những bảo đảm pháp lý cho việc thực hiện pháp luật có hiệu quả.


CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT Ở
NƢỚC TA NÓI CHUNG, HẢI PHÒNG NÓI RIÊNG TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1. Những ưu điểm và thành tựu
2.2. Những hạn chế và tồn tại
2.3. Một số nguyên nhân chủ yếu của sự tồn tại ảnh hưởng đến thực
hiện pháp luật ở nước ta

Trang
1
6
6
18
27
35

35
45
53

CHƢƠNG III: MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁP LÝ CHỦ YẾU
NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT Ở
NƢỚC TA HIỆN NAY (TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HẢI
PHÒNG)
3.1. Những đặc điểm cơ bản về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội ảnh
hưởng đến quá trình thực hiện pháp luật ở thành phố Hải Phòng
3.2. Những yêu cầu mang tính khách quan của việc nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật ở nước ta nói chung, Hải Phòng nói riêng trong giai
đoạn hiện nay
3.3. Một số biện pháp pháp lý chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả thực

hiện pháp luật ở nước ta nói chung, Hải Phòng nói riêng trong giai đoạn
hiện nay

56

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

78

56
59

63


-1MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trên cơ sở Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt Nam,
Quốc hội đã thông qua Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, trong đó khẳng định Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhà nước quản lý xã hội bằng
pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tăng cường pháp
chế là điều kiện bảo đảm cho việc xây dựng thành công nhà nước pháp quyền ở
nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để xây dựng thành công nhà nước
pháp quyền không chỉ cần có một hệ thống pháp luật hoàn thiện đạt được các
tiêu chí toàn diện, đồng bộ, phù hợp và trình độ kỹ thuật pháp lý cao, mà còn cần
dựa vào ý thức tôn trọng pháp luật, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật
của mỗi người. Để pháp luật đi vào cuộc sống thì ngoài việc ban hành văn bản

pháp luật đầy đủ thì bất cứ nhà nước nào cũng phải chú ý đến khâu tổ chức thực
hiện pháp luật sao cho có hiệu quả nhất. Đây là khâu then chốt quyết định đến
sức sống của pháp luật. Pháp luật dù có tốt và đầy đủ đến đâu đi chăng nữa thì
pháp luật vẫn chỉ nằm trên giấy nếu không được tổ chức thực hiện. Pháp luật chỉ
thực sự phát huy tác dụng khi nó được thực hiện nghiêm chỉnh thông qua hoạt
động của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và cá nhân. Pháp luật phải trở
thành phương thức quản lý xã hội, là cơ sở để tổ chức đời sống xã hội. Do vậy,
vấn đề không phải chỉ là ban hành thật nhiều văn bản quy phạm pháp luật là xã
hội ổn định và phát triển mà quan trọng hơn là phải thực hiện pháp luật một cách
chính xác và đầy đủ, phải tính toán đến hiệu quả thực hiện pháp luật và chuyển
hóa những quy phạm pháp luật thành những hành vi thực tế của các chủ thể pháp
luật, chuyển hoá pháp luật từ “trạng thái tĩnh” sang “trạng thái động”.


-2Những năm gần đây, thực hiện pháp luật ở Việt Nam nói chung và trên
địa bàn thành phố Hải Phòng nói riêng, ngày càng được đổi mới và tăng cường,
có nhiều kết quả đáng khích lệ, góp phần quan trọng vào việc thực hiện các chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, từng bước nâng cao hiệu
lực quản lý nhà nước. Tuy nhiên, hiệu quả thực hiện pháp luật ở nước ta trong
thời gian qua chưa cao, còn bộc lộ những yếu kém, hạn chế, vướng mắc cả về
mặt lý luận và thực tiễn. Những hạn chế và yếu kém này là một trong những
nguyên nhân của tình trạng: ý thức pháp luật của một bộ phận nhân dân còn hạn
chế, còn có hiện tượng coi thường pháp luật, tội phạm và các vi phạm pháp luật
gia tăng; nạn quan liêu, tham nhũng và suy thoái đạo đức, lối sống của một số
cán bộ, công chức, cơ quan đang gây bất bình, giảm lòng tin của nhân dân; tình
trạng khiếu nại, tố cáo của công dân gia tăng về số lượng, phức tạp về nội dung,
gay gắt về tính chất cần phải giải quyết kịp thời và triệt để; công tác ban hành
văn bản pháp luật còn chồng chéo, mâu thuẫn, kém hiệu lực, gây lúng túng cho
người áp dụng pháp luật.
Vì vậy, đề tài “Nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật ở nước ta hiện nay

(từ thực tiễn của thành phố Hải Phòng) mang tính cấp thiết cả trên phương
diện lý luận và thực tiễn, rất cần được nghiên cứu một cách cơ bản để từ đó đề
xuất biện pháp lý đúng đắn nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật ở
nước ta hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thực hiện pháp luật hiện nay ở nước ta đang là vấn đề nóng bỏng được
các nhà khoa học nghiên cứu dưới các góc độ và mức độ khác nhau. Các công
trình nghiên cứu như “Tổ chức thực hiện pháp luật và tăng cường pháp chế
trong điều kiện đổi mới ở nước ta hiện nay, những vấn đề lý luận và thực
tiễn” (Khoa nhà nước và pháp luật - Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh); luận án tiến sỹ luật học “Thực hiện pháp luật trong hoạt động của lực


-3lượng công an nhân dân để bảo vệ trật tự an toàn xã hội ở nước ta hiện nay”
của tác giả Đỗ Tiến Triển; luận án tiến sỹ luật học “Nâng cao hiệu quả của
pháp luật Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” và sách chuyên thảo “Hiệu quả
pháp luật - những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tiến sỹ Nguyễn Minh
Đoan; luận văn thạc sỹ luật học “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thực
hiện pháp luật ở thành phố Hà Nội” của tác giả Trần Thị Xuân. Các tác giả đã
phân tích một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hiện pháp luật, về hiệu
quả của pháp luật ở nước ta. Tuy nhiên chưa có tác giả nào nghiên cứu một
cách toàn diện bao quát vấn đề nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật ở nước
ta, đặc biệt từ thực tiễn của thành phố Hải Phòng. Vì vậy, luận văn là công
trình nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện, khái quát cơ sở lý luận và thực
tiễn về nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật ở nước ta hiện nay (từ thực tiễn
của thành phố Hải Phòng) dưới góc độ lý luận về nhà nước và pháp luật.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật là một vấn đề rộng lớn và phức tạp,
liên quan đến nhiều lĩnh vực hoạt động của nhà nước và xã hội. Trong phạm
vi một luận văn thạc sỹ, tác giả chỉ nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực

tiễn về thực hiện pháp luật, hiệu quả thực hiện pháp luật, trên cơ sở đó, đề
xuất một số biện pháp pháp lý chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật ở nước ta nói chung, thành phố Hải Phòng nói riêng nhằm thực hiện
tốt nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng nhà nước
pháp quyền ở nước ta hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Cơ sở lý luận của luận văn là những quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; các quan điểm chỉ
đạo của Đảng cộng sản Việt Nam về đường lối đổi mới của đất nước, về xây


-4dựng nhà nước pháp quyền thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng cũng
như trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật của Nhà nước ta.
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của triết học Mác Lênin, luận văn có sử dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích
tổng hợp, so sánh, phương pháp hệ thống kết hợp lý luận với thực tiễn... để
giải quyết vấn đề đặt ra trong luận văn.
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích của luận văn là tìm hiểu những phương hướng và giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật ở nước ta trong thời kỳ công
nghiệp hóa - hiện đại hóa của nước ta hiện nay.
Để thực hiện mục đích đó, luận văn có nhiệm vụ:
- Phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về thực hiện pháp luật và hiệu
quả thực hiện pháp luật.
- Phân tích thực trạng thực hiện pháp luật ở nước ta nói chung và thành
phố Hải Phòng nói riêng.
- Đề xuất một số biện pháp pháp lý chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả thực
hiện pháp luật ở nước ta nói chung, thành phố Hải Phòng nói riêng trong giai
đoạn hiện nay.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Đây là luận văn đầu tiên nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống về nâng
cao hiệu quả thực hiện pháp luật ở nước ta (từ thực tiễn của thành phố Hải

Phòng) dưới góc độ lý luận nhà nước và pháp luật.
- Luận văn tiếp tục nghiên cứu làm rõ hơn lý luận về thực hiện pháp luật
và hiệu quả thực hiện pháp luật.
- Phân tích đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật ở nước ta nói chung,
thành phố Hải Phòng nói riêng và phân tích, lý giải những nguyên nhân của
thực trạng ấy.


-5- Đề xuất những biện pháp pháp lý nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật ở nước ta và thành phố Hải Phòng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm ba chương:
Chƣơng I:

Những vấn đề lý luận cơ bản về thực hiện pháp luật và
hiệu quả thực hiện pháp luật.

Chƣơng II:

Thực trạng thực hiện pháp luật ở ở nước ta nói chung và

thành phố Hải Phòng nói riêng.
Chƣơng III: Một số biện pháp pháp lý chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật ở nước ta nói chung, Hải Phòng nói riêng
trong giai đoạn hiện nay.


-6CHƢƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT

VÀ HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
1.1. Khái niệm và các hình thức thực hiện pháp luật
1.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật
Việc nhà nước ban hành nhiều qui phạm pháp luật, nhiều văn bản pháp luật
không có nghĩa là nhà nước đã điều chỉnh tốt các quan hệ xã hội theo ý muốn chủ
quan của mình. Điều đó chỉ đặt ra và đạt được khi các qui phạm pháp luật đó được
cá nhân, tổ chức trong xã hội thực hiện một cách chính xác, nghiêm chỉnh và đầy
đủ. Đương nhiên, khi ban hành các qui phạm pháp luật, nhà nước nào cũng mong
muốn tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân của mình luôn tôn
trọng và thực hiện pháp luật đầy đủ, nghiêm minh. ở nước ta cũng vậy, khi ban
hành những qui phạm pháp luật, nhà nước luôn mong muốn sử dụng chúng để điều
chỉnh các quan hệ xã hội nhằm giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội,
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học công nghệ, bảo vệ các quyền
và lợi ích hợp pháp của con người, vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Mục đích đó chỉ đạt được khi pháp luật do nhà nước ban
hành được “vật chất hóa” có sự tham gia của con người, tác động vào pháp luật,
đưa pháp luật vào cuộc sống. Với ý nghĩa đó, thực hiện pháp luật có vị trí và tầm
quan trọng đặc biệt trong toàn bộ các hoạt động về pháp luật như xây dựng pháp
luật, phổ biến, tuyên truyền pháp luật, thực hiện pháp luật, kiểm tra và xử lý mọi vi
phạm pháp luật. Chính vì vậy mà thực hiện pháp luật, mối quan hệ giữa các hình
thức thực hiện pháp luật, hiệu quả thực hiện pháp luật là những vấn đề cần được
nghiên cứu đầy đủ và toàn diện.
ở nước ta hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề thực hiện pháp luật:


-7- Quan điểm thứ nhất cho rằng “Thực hiện pháp luật là hành vi (hành động
hoặc không hành động) của con người phù hợp với những qui định của pháp luật.
Nói khác đi, tất cả những hoạt động nào của con người, của các tổ chức mà thực
hiện phù hợp với qui định của pháp luật thì đều được coi là biểu hiện của việc thực
hiện thực tế các qui phạm pháp luật” [21. tr 453]. Như vậy, theo quan điểm trên thì

thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp. Hành vi đó không trái pháp luật, không
vượt quá giới hạn quy định của pháp luật và phù hợp với qui định của pháp luật, các
lợi ích của nhà nước, xã hội và cá nhân. Xử sự của con người khi thực hiện pháp
luật có thể là chủ động (hành động) nhằm thực hiện quyền hoặc nghĩa vụ pháp lý
của mình. Khác với quá trình xây dựng pháp luật (chủ yếu do các cơ quan có thẩm
quyền xây dựng pháp luật tiến hành), quá trình thực hiện pháp luật do nhiều chủ thể
tiến hành nên tác động của yếu tố chủ quan là rất lớn và phức tạp.
- Quan điểm thứ hai cho rằng: “Thực hiện pháp luật là hiện tượng, quá trình có
mục đích làm cho những qui định của pháp luật trở thành hoạt động thực tế của
các chủ thể pháp luật” [22, tr.370]. Tất cả những xử sự được tiến hành phù hợp với
các yêu cầu của các quy phạm pháp luật đều được coi là sự thực hiện thực tế các
quy phạm pháp luật. Dưới lăng kính pháp lý thì hành vi thực hiện pháp luật của các
chủ thể pháp luật là hành vi hợp pháp. Đó là xử sự (hành động hoặc không hành
động) của các cá nhân, tổ chức phù hợp với các quy định của pháp luật, có ích cho
xã hội, nhà nước và công dân.
- Theo tiến sỹ Đào Trí úc thì “áp dụng (thực hiện) pháp luật là toàn bộ những
việc làm, những hoạt động, những phương thức nhằm thực hiện những yêu cầu đặt
ra trong pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội” [27, tr.227]. áp dụng
(thực hiện) pháp luật phải là một quá trình thống nhất bao gồm các hình thức pháp
lý hình thành tiền đề, tạo điều kiện cho việc áp dụng (thực hiện) pháp luật, mang lại
kết quả thực hiện cụ thể.


-8Nhìn chung, trong các định nghĩa trên đều có điểm tương đối đồng nhất, thể
hiện ở chỗ đều cho rằng thực hiện pháp luật là việc làm có mục đích, làm cho các
qui phạm pháp luật do nhà nước ban hành trở thành hiện thực và đi vào cuộc sống.
Sự khác nhau giữa các định nghĩa đó, có chăng chỉ là việc sử dụng các từ ngữ
khác nhau để diễn đạt tư tưởng ấy.
Như vậy, có thể nói rằng, thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích của
con người, của các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội nhằm làm

cho những qui phạm pháp luật đi vào cuộc sống, tạo ra những giá trị văn minh vật
chất và văn minh tinh thần phong phú cho con người và xã hội. Tất cả những xử
sự được tiến hành phù hợp với các yêu cầu của qui phạm pháp luật đều được coi
là sự thực hiện thực tế các qui phạm pháp luật đó.
1.1.2. Các hình thức thực hiện pháp luật
Các qui phạm pháp luật do nhà nước ban hành rất phong phú về chủng loại để
điều chỉnh hành vi của con người phù hợp với ý chí và lợi ích chung của nhà
nước, xã hội. Có loại qui phạm pháp luật qui định những hành vi được thực hiện
(còn gọi là qui phạm pháp luật cho phép hay quy phạm pháp luật trao quyền); có
loại qui phạm pháp luật qui định những hành vi không được thực hiện (còn gọi là
qui phạm pháp luật ngăn cấm); có loại qui phạm pháp luật qui định những hành vi
phải thực hiện (còn gọi là qui phạm pháp luật bắt buộc). Ngoài ra, còn có những
quy phạm xác định các hình thức khen thưởng đối với cá nhân, tổ chức có thành
tích trong việc thực hiện pháp luật và xử phạt đối với cá nhân, tổ chức vi phạm
phạm pháp. Do có nhiều loại quy phạm pháp luật khác nhau, cho nên việc thực
hiện pháp luật cũng được tiến hành dưới nhiều hình thức khác nhau. Thừa nhận
hình thức này hay hình thức khác của thực hiện pháp luật phải căn cứ vào tính
chất của hoạt động thực hiện pháp luật. Khoa học pháp lý đã xác định những hình
thức thực hiện pháp luật dưới đây:


-9- Tuân theo (tuân thủ) pháp luật - hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các
chủ thể pháp luật tự kiềm chế để không tiến hành những hoạt động mà pháp luật
ngăn cấm. Các hành vi bị cấm này thường được qui định trong các qui phạm pháp
luật hành chính, qui phạm pháp luật hình sự. Việc tự kiềm chế để không vi phạm
điều cấm, về thực chất, là nghĩa vụ của cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội
và tổ chức kinh tế.
- Thi hành (chấp hành) pháp luật - hình thực hiện pháp luật, trong đó các chủ
thể pháp luật thực hiện những nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực.
Chủ thể pháp luật buộc phải thực hiện các nghĩa vụ mà pháp luật qui định cho

mình. Những qui phạm bắt buộc được thực hiện ở hình thức này.
- Sử dụng pháp luật - hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp
luật thực hiện quyền chủ thể của mình (thực hiện những hành vi mà pháp luật cho
phép). Những qui phạm pháp luật qui định các quyền và tự do dân chủ của công
dân được thực hiện ở hình thức này. Từ “sử dụng” đã nói lên sự tùy nghi của chủ
thể thực hiện pháp luật. Nó khác tuân thủ pháp luật và thi hành pháp luật ở chỗ: chủ
thể pháp luật có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền được pháp luật cho phép
theo ý chí của mình, chứ không bị ép buộc phải thực hiện. Tuy nhiên, đối với hình
thức thực hiện pháp luật này, pháp luật yêu cầu chủ thể phải sử dụng quyền một
cách đúng đắn, không được vượt quá giới hạn mà pháp luật cho phép hoặc qui định.
- áp dụng pháp luật - hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà nước thông
qua các cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể pháp
luật khác thực hiện những qui định của pháp luật hoặc tự mình căn cứ vào các qui
định của pháp luật tạo ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt
những quan hệ pháp luật cụ thể. Trong trường hợp này, các chủ thể pháp luật thực
hiện các qui định của pháp luật có sự can thiệp của nhà nước.
Nếu như tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật là những
hình thức thực hiện pháp luật mà trong đó mọi chủ thể đều có thể thực hiện thì áp


-10dụng pháp luật luôn đòi hỏi có sự tham gia của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
hoặc nhà chức trách. áp dụng pháp luật vừa là hình thức thực hiện pháp luật, vừa là
cách thức nhà nước tổ chức cho các chủ thể thực hiện pháp luật, nên trong áp dụng
pháp luật có các hình thức tuân thủ (tuân theo) pháp luật, thi hành (chấp hành) pháp
luật và sử dụng pháp luật.
Trong các hình thức thực hiện pháp luật thì áp dụng pháp luật là một hình thức
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, có tính đặc thù nên cần đi sâu nghiên cứu.
1.1.3. áp dụng pháp luật
1.1.3.1. Những trường hợp cần áp dụng pháp luật và đặc điểm của áp dụng
pháp luật

áp dụng pháp luật có tính đặc thù vì nó chứa đựng yếu tố bảo đảm cho những
qui phạm pháp luật được thực hiện trong thực tế. Yếu tố đảm bảo đó chính là sự
can thiệp của nhà nước. Trên thực tế, nếu không có sự can thiệp của nhà nước thì
nhiều qui phạm pháp luật sẽ không được thực hiện hoặc thực hiện không đúng
hoặc quan hệ pháp luật không thể phát sinh. Bởi vậy, rất cần hoạt động áp dụng
pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc cá nhân được nhà nước trao
quyền áp dụng pháp luật để tạo điều kiện cho các chủ thể khác thực hiện đầy đủ
các qui phạm pháp luật.
áp dụng pháp luật được thực hiện trong bốn trường hợp sau đây:
- Khi có vi phạm pháp luật xảy ra và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thấy
cần phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước, hoặc áp dụng các chế tài pháp
luật đối với những chủ thể đó.
- Khi đã có quy phạm pháp luật quy định về các quyền và nghĩa vụ của chủ thể
quan hệ pháp luật cụ thể, nhưng quyền và nghĩa vụ đó chưa thể phát sinh vì chưa có
sự can thiệp của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và cơ quan nhà nước có thẩm
quyền phải can thiệp để làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của chủ quan hệ pháp
luật đó.
- Khi quan hệ pháp luật đã phát sinh nhưng nó vẫn chưa được thực hiện vì xảy
ra tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên tham gia quan hệ pháp luật đó mà
tự họ không tự giải quyết được phải nhờ cơ quan có thẩm quyền của nhà nước để
giải quyết.


-11- Trong một số quan hệ pháp luật mà nhà nước thấy cần thiết phải tham gia vào
quan hệ đó hoặc nhà nước xác nhận sự tồn tại một số sự việc, sự kiện thực tế như
chứng nhận di chúc, công chứng hợp đồng tại các phòng công chứng chuyên trách.
áp dụng pháp luật có những đặc điểm cơ bản sau đây:
- Mang tính tổ chức – quyền lực nhà nước. Tính tổ chức - quyền lực của áp
dụng pháp luật thể hiện ở chỗ:
+ Hoạt động áp dụng luật pháp chỉ do những cơ quan nhà nước có thẩm quyền

hay cá nhân có thẩm quyền tiến hành.
+ Cơ quan có thẩm quyền hoặc cá nhân có thẩm quyền áp dụng pháp luật
không phụ thuộc vào ý chí của đối tượng bị áp dụng mà theo ý chí đơn phương
của mình.
+ Văn bản áp dụng pháp luật khi có hiệu lực pháp luật thì có tính bắt buộc phải
thi hành đối với cá nhân, tổ chức có liên quan và nó được bảo đảm thực hiện bằng
cưỡng chế nhà nước.
- Được tiến hành theo trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật qui định. Xuất phát
từ thực tế là việc áp dụng pháp luật có ảnh hưởng trực tiếp tới quyền và lợi ích hợp
pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức cho nên trình tự, thủ tục áp dụng pháp luật phải
được quy định cụ thể, rõ ràng. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc cá nhân
có thẩm quyền áp dụng pháp luật và các bên có liên quan trong quá trình áp dụng
pháp luật phải tuân thủ nghiêm ngặt các qui định đó.
- Mang tính chất cá biệt, tức là cơ quan nhà nước hay cá nhân có thẩm quyền áp
dụng pháp luật cho từng trường hợp cụ thể, đối với từng cơ quan, tổ chức, cá nhân
cụ thể. Bằng hoạt động áp dụng pháp luật đó, những qui phạm pháp luật được cá
biệt hóa một cách cụ thể và chính xác.
- Là hoạt động đòi hỏi tính sáng tạo. Khi áp dụng pháp luật, các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền hoặc cá nhân có thẩm quyền áp dụng pháp luật phải nghiên
cứu kỹ lưỡng vụ việc, làm sáng tỏ mọi tình tiết vụ việc để từ đó lựa chọn qui phạm


-12pháp luật phù hợp, ra văn bản áp dụng pháp luật chính xác và tổ chức thực hiện văn
bản áp dụng văn bản áp dụng pháp luật. Trong trường hợp pháp luật chưa qui định
hoặc chưa qui định rõ thì phải vận dụng một cách sáng tạo bằng cách áp dụng pháp
luật tương tự dưới hai hình thức là áp dụng tương tự qui phạm pháp luật và áp dụng
tương tự pháp luật. Và để tránh việc áp dụng pháp luật một cách máy móc, tùy tiện
đòi hỏi người áp dụng pháp luật phải có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, có ý
thức pháp luật và kinh nghiệm phong phú và lương tâm nghề nghiệp.
Từ sự phân tích trên, có thể định nghĩa: áp dụng pháp luật là hoạt động mang

tính tổ chức - quyền lực nhà nước do cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc cá
nhân có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục luật định, nhằm cá biệt hóa
những qui phạm pháp luật vào từng trường hợp cụ thể, đối với cá nhân, tổ chức cụ
thể.
1.1.3.2. Các giai đoạn của quá trình áp dụng pháp luật
áp dụng pháp luật là một quá trình hoạt động rất phức tạp, vì vậy, nó được thực
hiện theo các giai đoạn sau:
- Giai đoạn thứ nhất: phân tích, đánh giá đúng, chính xác mọi điều kiện, hoàn
cảnh, tình huống xảy ra vụ việc và thực chất của vụ việc đã xảy ra để xác định tính
chất pháp lý của nó (tức là xem vụ việc đó có cần đến pháp luật để giải quyết
không). Việc xem xét các tình tiết của vụ việc cũng đòi hỏi phải xác định sự việc đó
có ý nghĩa pháp lý hay không, vì trên thực tế, không phải mọi sự việc đều cần sự
can thiệp của nhà nước. Ví dụ: Đối với việc tranh chấp đất đai, nếu hai bên tự hòa
giải được thì không cần đến sự giải quyết của uỷ ban nhân dân hoặc của tòa án nhân
dân. Nếu xác định vụ việc có tính pháp lý, cần tiếp tục áp dụng thì chuyển sang giai
đoạn hai.
- Giai đoạn thứ hai: lựa chọn qui phạm pháp luật phù hợp để giải quyết và phân
tích làm sáng tỏ nội dung, ý nghĩa của qui phạm pháp luật đó. Yêu cầu trong giai
đoạn này là phải lựa chọn đúng qui phạm pháp luật cụ thể, thích ứng với vụ việc sao


-13cho qui phạm pháp luật đó phải đang còn hiệu lực tại thời điểm cần áp dụng, không
mâu thuẫn với các đạo luật và văn bản qui phạm pháp luật khác. Nếu gặp trường
hợp các văn bản qui phạm pháp luật có qui định khác nhau về cùng một vấn đề, thì
áp dụng văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao hơn hoặc văn bản được ban hành
sau hay văn bản pháp luật chuyên ngành.
Sau khi lựa chọn qui phạm pháp luật phù hợp rồi thì công việc tiếp theo của
người có thẩm quyền áp dụng pháp luật là làm sáng tỏ nội dụng và ý nghĩa của qui
phạm pháp luật lựa chọn. Điều đó có ý nghĩa đảm bảo cho pháp luật được áp dụng
đúng đắn, chính xác. Muốn làm sáng tỏ nội dung và ý nghĩa của qui phạm pháp luật

được lựa chọn đòi hỏi người có thẩm quyền áp dụng pháp luật có trình độ pháp lý
cần thiết để hiểu được nội dung tư tưởng ngôn ngữ của bản thân mỗi qui phạm cũng
như ý tưởng của nhà làm luật và đối chiếu nội dung qui phạm ấy với tình tiết, nội
dung, thực chất của vụ việc xem đã khớp nhau chưa, nếu khớp rồi thì chuyến sang
giai đoạn ba là giai đoạn ra văn bản áp dụng pháp luật.
- Giai đoạn thứ ba: ban hành văn bản áp dụng pháp luật. Đây là giai đoạn quan
trọng nhất, có ý nghĩa quyết định đến toàn bộ quá trình áp dụng pháp luật. Khi ra
các văn bản áp dụng pháp luật, cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách
phải căn cứ vào qui định pháp luật chứ không thể xuất phát từ những động cơ cá
nhân, cục bộ vì hoạt động áp dụng pháp luật liên quan đến quyền và nghĩa vụ pháp
lý của các chủ thể, đặc biệt là áp dụng các biện pháp trách nhiệm pháp lý (có khi là
trách nhiệm hình sự) đối với người vi phạm. Vì vậy, văn bản áp dụng pháp luật đòi
hỏi phải được ban hành đúng thẩm quyền, đúng tên gọi, đúng trình tự và thủ tục do
pháp luật qui định; nội dung rõ ràng, chính xác theo đúng qui định của pháp luật;
nêu rõ trường hợp cụ thể, chủ thể cụ thể và chỉ được thực hiện một lần. Ngoài ra,
văn bản áp dụng pháp luật phải được ban hành trên cơ sở qui phạm pháp luật cụ thể
(cơ sở pháp lý), trong đó thể hiện rõ: căn cứ cho thấy cơ quan nào có thẩm quyền áp
dụng, cơ quan ra văn bản áp dụng dựa trên cơ sở qui định nào của pháp luật (cần chỉ


-14rõ, cụ thể điều, khoản của văn bản qui phạm pháp luật được áp dụng) và việc ra văn
bản áp dụng pháp luật phải có cơ sở thực tế, nghĩa là nó được ban hành căn cứ vào
những sự kiện, những đòi hỏi thực tế đầy đủ, chính xác và có thật (đáng tin cậy).
- Giai đoạn thứ tư: tổ chức thực hiện văn bản áp dụng pháp luật. Đây là giai
đoạn cuối cùng của quá trình áp dụng pháp luật, là một trong những đảm bảo quan
trọng để văn bản áp dụng pháp luật được thực hiện trên thực tế, đảm bảo kỷ cương,
phép nước. Nhưng hoạt động tổ chức nhằm bảo đảm về mặt vật chất, kỹ thuật cho
việc thực hiện đúng văn bản áp dụng pháp luật được tiến hành ở giai đoạn này. Các
cơ quan ra văn bản áp dụng pháp luật phải tạo mọi điều kiện thuận lợi để cá nhân,
cơ quan, tổ chức có liên quan thực hiện đầy đủ và nghiêm chỉnh văn bản đã ban

hành (Ví dụ: người vi phạm trật tự, an toàn giao thông đường bộ có thể nộp phạt tại
chỗ đối với những lỗi nhẹ). Cũng ở giai đoạn này, phải thường xuyên kiểm tra,
giám sát việc thi hành văn bản áp dụng pháp luật và khi cần thiết có thể áp dụng
biện pháp cưỡng chế đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đã không tự
giác và không nghiêm chỉnh chấp hành văn bản áp dụng pháp luật.
Như vậy, trong bốn giai đoạn của quá trình áp dụng pháp luật thì giai đoạn thứ
ba là quan trọng nhất. Hình thức thể hiện chủ yếu của kết quả áp dụng pháp luật là
văn bản áp dụng pháp luật. Văn bản áp dụng pháp luật có một số đặc điểm cơ bản
sau đây:
- Chỉ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục do
pháp luật quy định và được bảo đảm thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước.
- Có tính chất cá biệt và được thực hiện một lần đối với các cá nhân, tổ chức
cụ thể trong những trường hợp xác định.
- Được ban hành hợp pháp và phù hợp với thực tế, có nghĩa là văn bản áp
dụng pháp luật được ban hành theo đúng trình tự, thủ tục luật định, phù hợp với
luật và dựa trên cơ sở những quy phạm pháp luật cụ thể. Nếu không phù hợp với
thực tế thì văn bản đó sẽ khó được thi hành hoặc thi hành kém hiệu quả.
- Được thể hiện trong những hình thức pháp lý xác định, tên và cách trình bày
của mỗi loại văn bản phải theo đúng qui định của pháp luật.


-15- Văn bản áp dụng pháp luật là một yếu tố của sự kiện pháp lý phức tạp, thiếu
nó, nhiều qui phạm pháp luật cụ thể không thể thực hiện được. Nó luôn mang tính
chất bổ sung trong trường hợp khi có các yếu tố khác của sự kiện pháp lý phức
tạp.
Như vậy, văn bản áp dụng pháp luật là văn bản có tính cá biệt mang tính
quyền lực do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành trên cơ sở qui phạm pháp
luật, theo trình tự, thủ tục, hình thức luật định nhằm xác định rõ quyền và nghĩa vụ
pháp lý của các cá nhân, cơ quan, tổ chức cụ thể hoặc xác định những biện pháp
trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể vi phạm pháp luật.

Qua định nghĩa trên có thể thấy có hai loại văn bản áp dụng pháp luật:
1 - Văn bản xác định quyền và nghĩa vụ pháp lý theo hướng tích cực (quyết
định đề bạt cán bộ, quyết định giao quyền sử dụng đất,...)
2 - Văn bản bảo vệ pháp luật trong đó xác định biện pháp cưỡng chế nhà nước
có tính chất trừng phạt đối với chủ thể vi phạm pháp luật (bản án hình sự kết tội,
quyết định xử phạt vi phạm hành chính).
1.1.3.3. Vấn đề áp dụng pháp luật tương tự
Khi xây dựng pháp luật, cơ quan nhà nước đã cố gắng dự liệu hết điều kiện,
hoàn cảnh, tình huống có thể xảy ra trong đời sống để đặt ra các qui phạm pháp luật
điều chỉnh hành vi con người. Tuy nhiên, cuộc sống xã hội hết sức phức tạp, luôn
luôn biến đổi nhanh chóng. Có nhiều sự kiện, quan hệ xảy ra trên thực tế liên quan
đến lợi ích của cá nhân, tổ chức cần phải được pháp luật điều chỉnh nhưng thực tế
chưa có qui phạm pháp luật nào điều chỉnh. Nếu chúng ta không vận dụng pháp
luật để giải quyết, đợi ban hành qui phạm mới để áp dụng pháp luật thì nhiều khi
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức không được bảo đảm. Giải pháp cho
những tình huống trên là áp dụng pháp luật tương tự. Đây chỉ là giải pháp tạm thời
mang tính tình thế.
áp dụng pháp luật tương tự có hai loại: áp dụng tương tự qui phạm pháp luật và
áp dụng tương tự pháp luật.


-16- áp dụng tương tự qui phạm pháp luật là giải quyết một vụ việc cụ thể chưa có
qui phạm pháp luật điều chỉnh trực tiếp trên cơ sở qui phạm pháp luật điều chỉnh
một trường hợp khác có nội dung tương tự với vụ việc đang cần giải quyết.
- áp dụng tương tự pháp luật là giải quyết một vụ việc cụ thể chưa có pháp luật
điều chỉnh trên cơ sở những qui tắc và nguyên tắc chung và ý thức pháp luật (dựa
vào sự công bằng và lẽ phải mà giải quyết). Chỉ khi nào xác định được rằng vừa
không có qui phạm pháp luật điều chỉnh vụ việc đang cần giải quyết, vừa không có
qui phạm pháp luật điều chỉnh vụ việc khác có nội dung tương tự với vụ việc đang
cần giải quyết thì mới được áp dụng tương tự pháp luật.

1.1.4. Quan hệ giữa các hình thức thực hiện pháp luật
- Quan hệ giữa tuân thủ pháp luật với các hình thức thực hiện pháp luật khác
(thi hành (chấp hành) pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật).
Tuân thủ pháp luật là các chủ thể tự kiềm chế mình, không tiến hành những hoạt
động mà pháp luật ngăn cấm. Về thực chất thì tuân thủ pháp luật chính là các chủ thể
thực hiện nghĩa vụ pháp lý là tôn trọng pháp luật. Tuân thủ pháp luật là một hình thức
thực hiện pháp luật mà chủ thể thường sử dụng dưới dạng không hành động, tự kiềm
chế không làm những điều mà pháp luật cấm; ngược lại thi hành (chấp hành) pháp
luật thì các chủ thể thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực.
Nếu tuân thủ pháp luật tốt thì ở chừng mực nào đó, ý thức pháp luật của người
dân đã được nâng cao, do vậy họ sẽ tích cực thực hiện tốt nghĩa vụ của mình tức là
thi hành (chấp hành) pháp luật tốt. Ngược lại, nếu không tuân thủ pháp luật thì việc
không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ với nhà nước có nguy cơ
ngày càng tăng, do họ đã không tự kiềm chế mình trốn tránh nghĩa vụ với nhà nước.
Tuân thủ pháp luật cũng có quan hệ mật thiết với sử dụng pháp luật. Trong quá
trình sử dụng các quyền mà pháp luật cho phép, thường các chủ thể có xu thế lạm
quyền, sử dụng quyền của mình vượt quá giới hạn mà pháp luật cho phép. Do vậy,
nếu chủ thể pháp luật tự kiềm chế mình tốt thì khi sử dụng pháp luật họ sẽ sử dụng
đúng quyền trong phạm vi pháp luật cho phép tránh tình trạng sử dụng quá quyền.
Đồng thời việc sử dụng đúng quyền cũng sẽ tác động trở lại đối với ý thức tự kiềm


-17chế của chủ thể, giúp chủ thể hiểu được giá trị thực tế của việc sử dụng đúng quyền,
từ đó luôn tự kiềm chế không phạm vào những điều mà pháp luật ngăn cấm.
Tuân thủ pháp luật còn có quan hệ chặt chẽ với áp dụng pháp luật. Nếu như
tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật và sử dụng pháp luật là những hình thức mà
mọi chủ thể pháp luật đều có thể thực hiện thì áp dụng pháp luật luôn có sự tham
gia của nhà nước, là hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong
hoạt động áp dụng pháp luật bao hàm tất cả các hình thức thực hiện pháp luật. Việc
các cơ quan nhà nước tổ chức cho các chủ thể thực hiện các qui định của pháp luật,

thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của họ đòi hỏi các cơ quan phải tuyệt đối
tuân thủ pháp luật tức là tự kiềm chế không phạm vào điều cấm trong khi áp dụng
pháp luật; thi hành các nghĩa vụ pháp lý và vận dụng đúng đắn, chính xác các qui
phạm pháp luật trong quá trình áp dụng pháp luật.
- Quan hệ giữa thi hành (chấp hành) pháp luật với các hình thức thực hiện pháp
luật khác.
Quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể luôn luôn đi cùng nhau. Pháp luật
hiếm khi chỉ qui định cho phép chủ thể có quyền mà không thực hiện nghĩa vụ gì
đối với nhà nước, tổ chức, xã hội và cá nhân khác “quyền của công dân không tách
rời nghĩa vụ của công dân” (Điều 51- Hiến pháp năm 1992). Việc thực hiện nghĩa
vụ một cách đầy đủ tạo điều kiện cho việc hưởng quyền tốt. Do vậy, thi hành (chấp
hành) pháp luật có sự liên hệ khăng khít với sử dụng pháp luật. Việc chấp hành
pháp luật tốt giúp cho các chủ thể thấy rõ nghĩa vụ pháp lý của mình mà thực hiện
tốt, để từ đó họ sẽ sử dụng quyền mà pháp luật cho phép một cách chính xác và
hiệu quả. Ngược lại, việc sử dụng pháp luật tốt, hiệu quả sẽ giúp các chủ thể phải có
ý thức hơn trong việc thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình. Việc các chủ thể không
thực hiện tốt các nghĩa vụ pháp lý cũng cần phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế
cần thiết. Khi đó các cơ quan nhà nước phải ra văn bản áp dụng pháp luật mang tính
bảo vệ pháp luật.
- áp dụng pháp luật có quan hệ mật thiết với ba hình thức còn lại của thực hiện
pháp luật. Nếu chỉ có tuân thủ (tuân theo) pháp luật, thi hành (chấp hành) pháp luật


-18và sử dụng pháp luật mà không có áp dụng pháp luật thì nhiều qui phạm pháp luật
không được thực hiện, hoặc được thực hiện nhưng không chính xác, không đầy đủ
và nghiêm minh vì thiếu sự cưỡng chế của nhà nước. Việc áp dụng pháp luật chính
xác, đầy đủ và nghiêm minh đảm bảo cho các qui phạm pháp luật đi vào cuộc sống
góp phần nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân, sống và làm việc theo Hiến
pháp và pháp luật.
1.2. Khái niệm hiệu quả thực hiện pháp luật

1.2.1. Khái niệm hiệu quả thực hiện pháp luật
Khi ban hành các qui phạm pháp luật, nhà nước mong muốn sử dụng chúng để
điều chỉnh các quan hệ xã hội phục vụ lợi ích và mục đích của nhà nước và xã hội.
Điều đó chỉ có thể đạt được khi các qui phạm pháp luật do nhà nước ban hành được
các tổ chức và cá nhân trong xã hội thực hiện một cách tự giác, nghiêm chỉnh, đầy
đủ và thống nhất. Do vậy, vấn đề không phải chỉ là ban hành thật nhiều các văn bản
pháp luật, điều quan trọng là phải thực hiện pháp luật sao cho có hiệu quả.
Vậy hiệu quả thực hiện pháp luật là gì? Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi
xin đưa ra một số ý kiến bước đầu về vấn đề này. Theo chúng tôi, hiệu quả thực
hiện pháp luật và hiệu quả của pháp luật là hai khái niệm gần giống nhau song
không phải là một. Khái niệm hiệu quả của pháp luật rộng hơn hiệu quả thực hiện
pháp luật, hay nói khác đi, hiệu quả thực hiện pháp luật chỉ là một tiêu chí để đánh
giá hiệu quả của pháp luật. Do vậy, một trong những cơ sở để đánh giá hiệu quả của
pháp luật, trước hết phải đánh giá hiệu quả thực hiện pháp luật (các qui phạm pháp
luật đã được hiện thực hoá). Vì pháp luật được nhà nước ban hành không chỉ để
không làm “rung động không khí” mà nhà nước luôn mong muốn đạt được những
mục đích, yêu cầu, định hướng nhất định. Do vậy, nhà nước phải có những biện
pháp đảm bảo sao cho các qui phạm pháp luật được thực hiện trên thực tế có hiệu
quả nhất. Do khái niệm hiệu quả của pháp luật và hiệu quả thực hiện pháp luật có
nhiều điểm tương đồng, cho nên trước khi đưa ra khái niệm về hiệu quả thực hiện
pháp luật, chúng tôi xin nêu ý kiến của một số nhà nghiên cứu về khái niệm hiệu
quả của pháp luật.


-19Theo quan điểm của tiến sỹ Nguyễn Minh Đoan thì “ hiệu quả của pháp luật là
kết quả thực tế đạt được do sự điều chỉnh, tác động của pháp luật mang lại trong
những phạm vi và điều kiện nhất định, biểu hiện ở sự biến đổi trạng thái của các
quan hệ xã hội, phù hợp với mục đích, yêu cầu và định hướng của pháp luật, với
mức chi phí thấp” [10, tr.22]. Còn tiến sỹ Đào Trí úc lại cho rằng hiệu quả của pháp
luật là “khả năng của pháp luật có thể tác động được vào các quan hệ xã hội và ý

thức xã hội để điều chỉnh các quan hệ đó với những tổn thất vật chất và tinh thần ít
nhất và mang lại kết quả theo hướng cần điều chỉnh và cần được xác định của pháp
luật” [23, tr.258]. Trên cơ sở hai định nghĩa hiệu quả pháp luật này, chúng tôi có
thể tiếp cận, xem xét khái niệm hiệu quả thực hiện pháp luật như sau:
Nhà nước ban hành pháp luật không có mục đích nào khác là điều chỉnh các
quan hệ xã hội theo hướng xác định, phù hợp với lợi ích của nhà nước, của xã hội
và công dân. Chẳng hạn, mục đích yêu cầu ban hành Pháp lệnh luật sư năm 2001 là
để bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
các đương sự và đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về tư vấn pháp luật của cá nhân,
tổ chức, góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa...
Những mục đích, yêu cầu đặt ra cho pháp luật không chỉ mang tính chủ quan
mà còn có tính khách quan. Không thể đặt ra mục đích, yêu cầu khi ban hành pháp
luật mà biết chắc rằng trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội hiện tại không thể
thực hiện được hoặc nếu có ban hành thì ít ra các điều kiện để thực hiện chúng
cũng đang được hình thành trên thực tế trong một tương lai gần. Việc xác định mục
đích, yêu cầu của việc ban hành pháp luật là cơ sở để đối chiếu, so sánh với kết quả
thực tế đạt được khi thực hiện văn bản pháp luật đó thông qua bốn hình thức thực
hiện pháp luật như đã phân tích ở trên. Không thể nói hiệu quả thực hiện pháp luật
nói chung hay hiệu quả thực hiện một qui phạm pháp luật, một nhóm qui phạm
pháp luật, một chế định hay cả một ngành luật là cao nếu ta so sánh việc thực hiện
pháp luật các qui phạm pháp luật trên thực tế chưa đạt được so với mục đích hoặc
còn xa mới đạt được so với mục đích mà nhà làm luật đặt ra trước khi ban hành văn
bản pháp luật đó. Xét đến cùng thì mục đích cuối cùng của việc ban hành pháp


-20luật là đảm bảo cho các qui phạm pháp luật được thực hiện trên thực tế, được “vật
chất hoá” bằng những hoạt động cụ thể .
Tuy nhiên, chỉ tìm hiểu mục đích mong muốn đạt được khi ban hành pháp luật
thì chưa thể đánh giá hết được hiệu quả thực hiện pháp luật mà chúng ta phải xem
xét kết quả thực tế thu được khi pháp luật được thực hiện. Nếu kết quả thu được

trong thực tế khi thực hiện pháp luật phù hợp với mục đích ban hành pháp luật thì
việc thực hiện pháp luật có thể được xem là có hiệu quả, ngược lại có thể là “phản
hiệu quả ” khi mà kết quả thu được trái ngược với mục đích, yêu cầu đề ra khi ban
hành pháp luật. Chẳng hạn, để bảo vệ quyền tự do, dân chủ của công dân, nâng cao
trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, góp phần chống oan, sai trong điều
tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã quy định
cho phép người bào chữa được tham gia tố tụng sớm hơn so với quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự năm 1988, cụ thể: người bào chữa được tham gia tố tụng từ khi
khởi tố bị can, đối với trường hợp bắt người trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm
tội quả tang hoặc đang bị truy nã thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có
quyết định tạm giữ (khoản 1 Điều 58). Pháp luật quy định là vậy nhưng trên thực tế
người bào chữa không được thực hiện quyền này do sự cản trở, gây khó khăn của
các cơ quan tiến hành tố tụng. Do vậy, hiệu quả thực hiện pháp luật tố tụng hình sự
trong trường hợp này là thấp, không đạt được mục đích, yêu cầu khi ban hành pháp
luật mà nhà làm luật mong muốn.
Nhìn chung kết quả thực hiện pháp luật thực tế thu được càng lớn thì hiệu quả
thực hiện pháp luật càng cao và ngược lại kết quả thu được càng nhỏ thì hiệu quả
thực hiện pháp luật càng thấp. Đây là hai đại lượng tỷ lệ thuận với nhau. Đánh giá
hiệu quả thực hiện pháp luật không chỉ xem xét đánh giá mục đích, yêu cầu của ban
hành pháp luật và việc so sánh kết quả đạt được của việc thực hiện pháp luật so với
mục đích ban hành pháp luật mà còn phải đánh giá được chất lượng của hoạt động
thực hiện pháp luật, những chi phí thực tế cho việc tổ chức triển khai thực hiện pháp
luật là ít hay nhiều so với chi phí dự kiến ban đầu. Không thể nói hiệu quả thực hiện


-21nghị định 83/1998/NĐ-CP của Chính phủ về đăng ký hộ tịch là cao nếu những chi
phí cho việc đăng ký và quản lý hộ tịch là quá lớn so kết quả thu được.
Qua sự phân tích trên đây, ta thấy thực hiện pháp luật được xem có hiệu quả khi
kết quả đạt được trong thực tế phù hợp với mục đích, yêu cầu khi ban hành pháp
luật, có nhiều biến đổi tích cực các quan hệ xã hội khi pháp luật được thực hiện

nghiêm chỉnh; mức chi phí về vật chất cho việc thực hiện pháp luật là thấp.
Việc đánh giá hiệu quả thực hiện pháp luật cần được tiến hành trong những
phạm vi nhất định. Về không gian, phải giới hạn sự xem xét đánh giá hiệu quả
thực hiện pháp luật ở từng phạm vi lãnh thổ nhất định (ở phạm vi địa phương, một
vùng lãnh thổ nào đó hay trong phạm vi cả nước). Không thể đánh giá hiệu quả
thực hiện pháp luật ở những nơi mà ở đó pháp luật không được thực hiện. Ví dụ:
Nghị quyết của Hội đồng nhân đân thành phố Hải Phòng chỉ có hiệu lực pháp luật
ở Hải Phòng, nó không thể có hiệu lực ở thủ đô Hà Nội hay thành phố Hồ Chí
Minh. Về thời gian, phải giới hạn xem xét đánh giá hiệu quả thực hiện pháp luật
trong khoảng thời gian xác định, thông thường khoảng 1 năm, 5 năm hay 10 năm
sau khi pháp luật được thực hiện. Ví dụ: đánh giá hiệu quả thực hiện Pháp lệnh thi
hành án dân sự năm 1993, Luật đất đai 1993 sau 10 năm thi hành. Về số lượng,
căn cứ vào mục đích, qui mô, mức độ cần thiết, chúng ta có thể đánh giá hiệu quả
thực hiện pháp luật đối với mỗi chế định pháp luật, mỗi ngành luật, mỗi văn bản
pháp luật hoặc hiệu quả thực hiện pháp luật nói chung. Về chất lượng: có thể đánh
giá hiệu quả thực hiện pháp luật ở từng khía cạnh, phương diện nhất định hoặc
đánh giá một cách tổng thể.
Từ những phân tích trên có thể định nghĩa hiệu quả thực hiện pháp luật như
sau: Hiệu quả thực hiện pháp luật là kết quả thực tế tích cực đạt được của tuân
thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật, áp dụng pháp luật so với
mục đích, yêu cầu của việc ban hành văn bản pháp luật trong những phạm vi và
điều kiện nhất định với mức chi phí thấp nhất.
Tóm lại, hiệu quả thực hiện pháp luật chính là hiệu quả của sự tuân thủ pháp
luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật, do đó phải tùy từng


-22trường hợp cụ thể mà xác định hiệu quả thực hiện pháp luật. Hiệu quả thực hiện
pháp luật được xem như là kết quả đạt được tốt nhất của việc chuyển tải các qui
phạm pháp luật trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật.
1.2.2. Những tiêu chí để đánh giá hiệu quả thực hiện pháp luật

Để có thể đánh giá hiệu quả thực hiện pháp luật, theo chúng tôi cần xác định
các tiêu chí sau:
+ Trạng thái ban đầu của các quan hệ xã hội khi pháp luật chưa điều chỉnh và
thực hiện.
+ Mục đích, yêu cầu, định hướng của việc ban hành pháp luật.
+ Kết quả thực tế đạt được so với mục đích được đề ra.
+ Mức chi phí cho việc thực hiện pháp luật.
- Tiêu chí thứ nhất: trạng thái ban đầu của các quan hệ xã hội khi pháp luật chưa
điều chỉnh và thực hiện.
Để đánh giá được hiệu quả thực hiện pháp luật trước hết phải xem xét trạng thái
ban đầu của các quan hệ xã hội khi chưa có pháp luật điều chỉnh và thi hành trên
thực tế. Đây là tiêu chí đầu tiên cần được xem xét vì chỉ có trên cơ sở xem xét trạng
thái các quan hệ xã hội khi pháp luật chưa điều chỉnh thì mới có cơ sở để so sánh
trạng thái của chúng sau khi pháp luật được điều chỉnh và tổ chức thực hiện. Tất
nhiên chúng ta không đi xem xét trạng thái ban đầu của tất cả các quan hệ xã hội mà
chỉ xem xét các quan hệ xã hội có liên quan đến các quy định của pháp luật đang
cần đánh giá hiệu quả. Chẳng hạn, trước khi Luật phá sản có hiệu lực từ ngày
15/10/2004 thay thế Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 quy định tiêu chí để xác
định doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản rất chặt chẽ: “Doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản là doanh nghiệp gặp khó hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh
doanh sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng
thanh toán nợ đến hạn” nên trên thực tế nhiều doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá
sản nhưng toà không thụ lý đơn do không thuộc thẩm quyền, không được nhà nước
tuyên bố phá sản hay “doanh nghiệp chết mà không được chôn”.


-23Trạng thái của các quan hệ xã hội mà ta so sánh trước và sau khi pháp luật điều
chỉnh và được thực thi thường được biểu hiện ở những khía cạnh sau: trật tự và ổn
định tình hình chính trị xã hội, tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hoá, giáo dục hoặc
việc giải quyết các công việc xã hội đến đâu, những gì đạt được, những gì chưa đạt

được, những gì khiếm khuyết, những gì phát sinh trong quá trình thực hiện pháp
luật để từ đó có sự điều chỉnh pháp luật sao cho phù hợp hơn.
Có thể coi việc xác định rõ trạng thái ban đầu của các quan hệ xã hội khi pháp
luật chưa tác động, chưa được tổ chức thi hành là tiêu chí đầu tiên khi xem xét hiệu
quả thực hiện pháp luật. Từ tiêu chí này ta có thể so sánh được sự biến đổi (tích cực
hay tiêu cực) của môi trường xã hội (các quan hệ xã hội cần xem xét) trước và sau
khi pháp luật được thi hành và qua đó ta cũng có thể xem xét mức độ phù hợp của
pháp luật, nguyên nhân làm cho pháp luật hiện hành có hiệu quả hoặc kém hiệu
quả, nghĩa là, pháp luật sau khi được ban hành có tính khả thi hay không, có được
thực tế chấp nhận hay không.
- Tiêu chí thứ hai: Mục đích, yêu cầu và định hướng của việc ban hành pháp luật.
Có thể khẳng định rằng khi nhà nước ban hành bất kỳ một văn bản pháp luật
nào cũng nhằm đạt đến mục đích nhất định. Mục đích ban hành pháp luật của nhà
nước hiểu theo nghĩa rộng là nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phù hợp với lợi
ích của nhà nước và xã hội, thực hiện sự công bằng xã hội và đưa lại hạnh phúc cho
con người. Mục đích cần đạt được khi ban hành pháp luật ở mỗi cấp độ và phạm vi
khác nhau thì khác nhau. Có mục đích đặt ra cho mỗi ngành luật, mỗi chế định luật
hoặc mỗi quy phạm pháp luật. Bên cạnh việc xác định rõ mục đích, pháp luật còn
đề ra những yêu cầu ban hành pháp luật. Thông thường các mục đích, yêu cầu và
định hướng đó được thể hiện ở lời nói đầu của văn bản. Ví dụ: mục đích ban hành
Hiến pháp được thể hiện ở lời nói đầu. Cũng có khi mục đích ban hành văn bản
pháp luật được thể hiện cụ thể trong điều luật như Điều 1 của Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003 qui định: “Bộ luật tố tụng hình sự quy định trình tự, thủ tục ... nhằm
phát hiện chính xác nhanh chóng và xử lý công minh kịp thời mọi hành vi phạm tội,
không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Bộ luật góp phần bảo vệ chế độ


×