Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀO HOẠT ĐỘNG KẾ TOÁN KIỂM TOÁN TẠI CÔNG TY TNHH TƯ VẤN KẾ TOÁN VÀ KIỂM TOÁN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.35 KB, 14 trang )

MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
PHÁP LUẬT VÀO HOẠT ĐỘNG KẾ TOÁN KIỂM TOÁN TẠI CÔNG TY
TNHH TƯ VẤN KẾ TOÁN VÀ KIỂM TOÁN VIỆT NAM
Để nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật vào hoạt động kế toán, kiểm toán tại
Công ty TNHH tư vấn kế toàn và kiểm toán Việt Nam phải triển khai rất nhiều giải
pháp khác nhau, cả về phía nhà nước; phía công ty kế toán, kiểm toán; kiểm toán
viên và phía các đối tượng được kiểm toán và được cung cấp dịch vụ.
I. Những vấn đề cần tiếp tục phải hoàn thiện trong khuôn khổ pháp lý
về kế toán, kiểm toán
Việt Nam là quốc gia có nền kinh tế đang chuyển đổi sang kinh tế thị trường
với những thành tựu tăng trưởng ngày càng cao. Trong những năm qua, hoạt động
kế toán, kiểm toán đã xác lập định hướng cải cách và phát triển trên cơ sở tiếp cận
và hoà nhập với thông lệ quốc tế phổ biến được nhiều quốc gia thừa nhận và áp
dụng. Đến nay, khuôn khổ pháp lý về kế toán, kiểm toán đã ban hành và công bố là
khá hoàn chỉnh, hài hoà ở mức độ khá cao với thông lệ quốc tế. Cùng với việc triển
khai thực hiện Luật kế toán có hiệu lực từ 01/01/2004, việc ban hành các Nghị định,
26 Chuẩn mực kế toán, 38 Chuẩn mực kiểm toán, Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp
và các Thông tư hướng dẫn kế toán để thực hiện các Chuẩn mực kế toán đã góp
phần làm trong sạch và lành mạnh hoá tình hình tài chính của các doanh nghiệp nói
chung, đáp ứng yêu cầu cấp thiết trong quá trình đổi mới, hội nhập và phát triển nền
kinh tế đất nước đã góp phần cho hoạt động kế toán, kiểm toán của Việt Nam phát
triển sẽ theo kịp các nước có nền kinh tế thị trường. Đồng thời tạo điều kiện về môi
trường pháp lý cho hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực ASEAN.
Tuy nhiên, trong những năm tới, khi Việt Nam gia nhập WTO cũng như tiếp
tục thực hiện chính sách hội nhập kinh tế ở mức độ cao hơn, ngành kế toán, kiểm
toán sẽ đứng trước nhiều cơ hội thuận lợi, đồng thời phải đối mặt với nhiều thách
thức, khó khăn. Do đó, tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về kế toán, kiểm toán
là công việc hết sức cần thiết, góp phần tạo môi trường pháp lý lành mạnh và hỗ
trợ cho việc quản lý, kiểm tra, giám sát của Nhà nước về hoạt động kế toán, kiểm
toán bao gồm:
Thứ nhất: Tiếp tục rà soát, cập nhật và hoàn thiện nội dung của 26 Chuẩn


mực kế toán và 38 Chuẩn mực kiểm toán đã ban hành; hoàn chỉnh, bổ sung những
điểm còn chưa phù hợp hoặc chưa thống nhất do các Chuẩn mực được ban hành
thành 5 đợt trong 5 năm khác nhau. Những điểm chưa phù hợp còn do trong thời
gian vừa qua Chuẩn mực kế toán quốc tế đã có những thay đổi, đòi hỏi chúng ta
phải cập nhật đảm bảo sự nhất quán với Chuẩn mực kế toán quốc tế mới nhất.
Thứ hai: Tiếp tục nghiên cứu, soạn thảo, ban hành mới các Chuẩn mực kế
toán Việt Nam cần thiết cho nền kinh tế (do đến nay chúng ta chưa ban hành được)
Tuy nhiên, Chuẩn mực kế toán quốc tế đang trong quá trình bổ sung, sửa đổi, xây
dựng trên cơ sở nền kinh tế thị trường phát triển cao, qui định cho khu vực doanh
nghiệp tư nhận là chủ yếu. ở Việt Nam, nền kinh tế thị trường còn đang trong quá
trình chuyển đổi, khu vực doanh nghiệp Nhà nước còn chiếm vị trí chủ đạo trong
nền kinh tế, mối quan hệ giữa Chuẩn mực kế toán với Luật thuế và cơ chế tài chính
còn mang nhiều nét đặc thù, lại đòi hỏi phải xây dựng, ban hành Chuẩn mực kế
toán không xảy ra xung đột về mặt pháp lý với những qui định trong Luật thuế và
chính sách tài chính trong từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế. Chuẩn mực kế
toán Việt Nam không qui định các nội dung mà nền kinh tế Việt Nam chưa có hoặc
chưa đạt đến trình độ tiếp cận, chưa phát sinh hoặc chưa trở thành phổ biến ở Việt
Nam. Vì thế, chỉ nên đưa vào Chuẩn mực những vấn đề chung, có tính chất bao
trùm và những nội dung mà Việt Nam đã có qui định phù hợp hoặc căn bản phù
hợp với nội dung của IFRS. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, chúng ta sẽ
từng bước nghiên cứu, công bố thêm các Chuẩn mực kế toán cho phù hợp. Đặc
điểm này đã chi phối đến thứ tự ưu tiên trong việc lựa chọn các Chuẩn mực kế toán
để soạn thảo và công bố. Điều đó cũng đã được xác định rõ trong Quyết định số
38/2000/QĐ-BTC ngày 14/03/2000 của Bộ Tài chính về việc ban hành và công bố
áp dụng hệ thống Chuẩn mực kế toán, Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam là dựa trên
cơ sở Chuẩn mực kế toán quốc tế phù hợp với điều kiện phát triển của nền kinh tế
thị trường Việt Nam, phù hợp với hệ thống luật pháp, trình độ, kinh nghiệm kế
toán của Việt Nam.
Thứ ba: Do việc tiếp tục ban hành Chuẩn mực kế toán trong thời gian tới,
đặc biệt là các Chuẩn mực kế toán có quan hệ mật thiết đến Chính sách tài chính

hiện nay và xu hướng đổi mới Chính sách tài chính. Vì vậy, cần phải có định
hướng rõ ràng, chiến lược tài chính làm cơ sở cho việc xây dựng hệ thống Chuẩn
mực kế toán.
Thứ tư: Hoàn thiện Chế độ kế toán cho các lĩnh vực đặc thù: Căn cứ Luật Kế
toán, các văn bản hướng dẫn Luật, các Chuẩn mực kế toán và chế độ ké toán doanh
nghiệp mới ban hành cần phải tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện và Chế độ kế toán
cho từng lĩnh vực đặc thù, cụ thể:
+ Ngân hàng và bảo hiểm là các ngành kinh tế quan trọng và phức tạp.
Từng quốc gia phải có hệ thống văn bản pháp luật riêng, đặc biệt là hệ thống kế
toán để thực hiện thống nhất, để kiểm soát, điều chỉnh, thúc đẩy hoạt động kinh
doanh bảo hiểm, ngân hàng phát triển và giúp Nhà nước quản lý toàn diện và kiểm
tra, giám sát thường xuyên mọi hoạt động của các lĩnh vực kinh tế đặc thù này.
+ Chế độ kế toán doanh nghiệp vừa và nhỏ ban hành theo Quyết định
1177/1996/QĐ-BTC ngày 23/12/1996 và sửa đổi, bổ sung theo Quyết định số
144/2001/QĐ-BTC ngày 21/12/2001 đến nay đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết và
không còn đáp ứng được yêu cầu quản lý do khuôn khổ pháp lý mới về kế toán
được thiết lập, Luật thuế và cơ chế tài chính mới được bổ sung, sửa đổi. Do vậy,
trong thời gian tới, trên cơ sở Chế độ kế toán doanh nghiệp mới ban hành, Bộ Tài
chính đang khẩn trương nghiên cứu, ban hành lại Chế độ kế toán doanh nghiệp vừa
và nhỏ theo hướng đơn giản, gọn nhẹ, dễ hiểu, dễ làm cho phù hợp với đặc điểm tổ
chức hoạt động và trình độ quản lý của doanh nghiệp vừa và nhỏ.Ngoài ra còn phải
nghiên cứu, hoàn thiện Chế độ kế toán áp dụng cho các ngành đặc thù như dầu khí,
điện lực, hàng không, xây lắp, Chế độ kế toán hộ kinh doanh cá thể, tổ chức và văn
phòng đại diện nước ngoài... nhằm đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất.
Thứ năm: Về hệ thống kế toán Nhà nước, đến nay vẫn chưa có một cơ quan
hoặc tổ chức chuyên trách làm kế toán. Mỗi cơ quan, đơn vị còn áp dụng một chế
độ, phương pháp khác nhau. Việc quản lý và kế toán tài sản, vốn, quỹ, thu - chi
Ngân sách Nhà nước còn do nhiều cơ quan cùng đồng thời thực hiện. Do đó, số
liệu kế toán phản ánh chưa thống nhất, kịp thời đặc biệt là số liệu thu - chi Ngân
sách Nhà nước giữa các cấp ngân sách còn trùng lặp. Tài sản quốc gia chưa được

đánh giá và phản ánh đủ vào số liệu kế toán quốc gia, việc tổng hợp tài sản quốc
gia hiện nay chủ yếu vẫn dùng phương pháp thống kê. Có thể nói rằng để phản
ánh, tổng hợp và kiểm tra được tài sản quốc gia (cả bằng tiền và hiện vật) thì hệ
thống kế toán Nhà nước phải được qui về một mối và phải có một tổ chức của Nhà
nước đứng ra thực hiện. Trong những năm tới, việc hoàn thiện hệ thống kế toán
Nhà nước Việt Nam sẽ triển khai thực hiện theo định hướng hợp nhất hệ thồng kế
toán thu, chi Ngân sách, kho bạc với kế toán đơn vị hành chính sự nghiệp để tạo
lập thành một hệ thống Tổng kế toán Nhà nước. Mục tiêu của việc hoàn thiện hệ
thống kế toán Nhà nước là phải xây dựng hệ thống kế toán Nhà nước dựa trên cơ
sở dữ liệu thông tin duy nhất, đầy đủ và áp dụng thống nhất cho tất cả các cơ quan,
đơn vị công quyền và công lập từ trung ương đến địa phương. Hệ thống kế toán đó
phải đảm bảo thông tin tin cậy, thông suốt giữa các đơn vị tham gia vào quá trình
lập, phân bổ, chấp hành và quyết toán Ngân sách Nhà nước. Với mục tiêu đó, Hệ
thống kế toán Nhà nước phải phản ánh được đầy đủ mọi đối tượng của kế toán Nhà
nước gồm: Kế toán quĩ Ngân sách Nhà nước; Kế toán toàn bộ các khoản thu, chi
Ngân sách nhà nước và Ngân sách các cấp; Kế toán tài sản quốc gia, các khoản dự
trữ, các quĩ của Chính phủ và việc sử dụng các quĩ; Kế toán các nghiệp vụ tài
chính đối ngoại, các khoản nợ của Nhà nước; Kế toán quá trình tiếp nhận và sử
dụng kinh phí, kế toán các khoản chênh lệch thu - chi và xử lý chênh lệch thu - chi
của các cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp có sử dụng kinh phí Ngân sách Nhà
nước.
Thứ sáu: Trong quá trình xây dựng hệ thống Tổng kế toán Nhà nước như
trên, một việc không thể không làm là nghiên cứu, ban hành hệ thống Chuẩn mực
kế toán Nhà nước phù hợp với Chuẩn mực quốc tế về kế toán công do IFAC ban
hành. Việc này đang được Bộ Tài chính triển khai, bước đầu là dịch toàn bộ các
Chuẩn mực quốc tế về kế toán công ra tiếng Việt để có cơ sở học tập, nâng cao
nhận thức về nó, làm cơ sở cho việc ban hành trong vài năm tiếp theo.
Thứ bảy: Nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động kế toán, hoạt động kiểm
toán và làm lành mạnh hoá thông tin tài chính trong nền kinh tế quốc dân, trong
thời gian sớm nhất, Bộ Tài chính cần ban hành ngay “Quy chế kiểm soát chất

lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán” để áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp có cung
cấp dịch vụ kế toán, kiểm toán và cá nhân hành nghề kế toán. Nhận thức rõ vai trò
của kiểm soát chất lượng, ngoài Chuẩn mực kiểm toán số 220 “Kiểm soát chất
lượng hoạt động kiểm toán”, Uỷ ban soạn thảo Chuẩn mực kiểm toán quốc tế đã
nghiên cứu và công bố Chuẩn mực quốc tế về kiểm soát chất lượng đối với các
công ty cung cấp dịch vụ kiểm toán và soát xét thông tin tài chính trong quá khứ,
các dịch vụ đảm bảo và các dịch vụ có liên quan (ISQC số 01 có hiệu lực từ ngày
15/6/2005). Do vậy “Quy chế kiểm soát chất lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán” cần
được nghiên cứu, ban hành trên cơ sở Chuẩn mực quốc tế mới ban hành cho phù
hợp với điều kiện của Việt Nam.
Thứ tám: Về hành nghề kế toán ở Việt Nam mới chính thức có từ khi có
Luật kế toán năm 2003. Đến nay mới cấp được 49 Chứng chỉ hành nghề kế toán.

×