Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

TỰ ý nửa CHỪNG CHẤM dứt VIỆC PHẠM tội TRONG LUẬT HÌNH sự VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (546.1 KB, 81 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÙI ĐỨC LỢI

TỰ Ý NỬA CHỪNG CHẤM DỨT VIỆC PHẠM TỘI
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Hình sự
Mã số: 60 38 40

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TSKH. PGS. Lê Văn Cảm

HÀ NỘI - 2005


LỜI CẢM ƠN
Với lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành
cảm ơn TSKH. PGS, thầy giáo Lê Văn Cảm đã
nhiệt tình hướng dẫn, giúp đỡ, động viên trong
suốt quá trình làm luận văn. Tôi xin chân thành
cảm ơn các thầy cô giáo, cán bộ Trường Đại
học Luật Hà Nội, các đồng nghiệp, gia đình,
bạn bè đã động viên, giúp đỡ, tạo điều kiện cho
tôi hoàn thành bản luận văn này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN



Bùi Đức Lợi


Mục lục
Trang
Mở đầu

1

Chương 1: Một số vấn đề chung về chế định tự ý nửa

6

chừng chấm dứt việc phạm tội

1.1.

Khái niệm và các đặc điểm của việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm

6

tội
1.1.1

Khái niệm tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội

6

1.1.2


Các đặc điểm của chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội

12

1.2.

Một số quy định tương ứng với chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm

13

tội trong luật hình sự của một số nước trên thế giới
1.2.1

Về kháI niệm tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội

14

1.2.2

Về điều kiện của tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội

16

1.3.

Tránh nhiệm hình sự đối với người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội

18


1.3.1

Trách nhiệm hình sự của người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội đối

23

với tội định phạm
1.3.2

Trách nhiệm hình sự đối với tội phạm khác trong trường hợp tự ý nửa

26

chừng chấm dứt việc phạm tội
Chương 2: Căn cứ, những điều kiện của tự ý nửa chừng

26

chấm dứt việc phạm tội và thực tiễn áp dụng

2.1.

Căn cứ của tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội

26

2.1.1

Căn cứ vào hành vi phạm tội


26

2.1.2

Căn cứ vào yếu tố chủ quan của chủ thể

27

2.2.

Các điều kiện của tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội

28

2.2.1

Các điều kiện của tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội

28

2.2.2

Các điều kiện thuộc về chủ quan của người phạm tội

37

2.3.

Vấn đề tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong đồng phạm


55

2.3.1

KháI quát chung về đồng phạm

55

2.3.2

Vấn đề tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong đồng phạm

62

Kết luận và một số kiến nghị

70

Danh mục tài liệu tham khảo

75


B¶ng tõ viÕt t¾t
BLHS

Bé luËt H×nh sù

CTTP


CÊu thµnh téi ph¹m

TNHS

Tr¸ch nhiÖm h×nh sù


1

mở đầu

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Tội phạm và hình phạt là hai phạm trù cơ bản và quan trọng nhất của
Luật hình sự.
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định
trong Bộ luật hình sự, do người có có năng lực trách nhiệm thực
hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ
kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội,
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp
pháp khác của công dân xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa (Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1999).
Vì vậy, người thực hiện tội phạm phải chịu trách nhiệm pháp lý
nghiêm khắc nhất đó là trách nhiệm hình sự.
Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp người thực hiện tội phạm đều
phải chịu trách nhiệm hình sự, nhằm đáp ứng công tác đấu tranh phòng chống
tội phạm, thể hiện tinh thần nhân đạo vốn có từ rất lâu trong luật hình sự của
Nhà nước ta, đó là truyền thống tốt đẹp "đánh kẻ chạy đi chứ không đánh kẻ
chạy lại", khoan hồng đối với người tự thú, thành khẩn, khai báo, tố giác

người đồng phạm, lập công chuộc tội, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc
bồi thường thiệt hại gây ra. Vì vậy, thể hiện truyền thống tốt đẹp đó ngay sau
khi Nhà nước ta mới ra đời trong những văn bản pháp luật hình sự đầu tiên đã
ghi nhận trường hợp "Tự nguyện đình chỉ tội phạm" được giảm nhẹ hoặc được
miễn hình phạt và cho đến Bộ luật hình sự đầu tiên và Bộ luật hình sự hiện
hành chúng ta đều ghi nhận chính thức thành một chế định "Tự ý nửa chừng


2

chấm dứt việc phạm tội" và đều ghi nhận trường hợp này được miễn trách
nhiệm hình sự.
Chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là chế định có ý
nghĩa rất lớn trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Việc quy định
chế định này trong Bộ luật hình sự thể hiện chính sách hình sự của Nhà nước
ta đối với người biết ăn năn hối cải, mặt khác khuyến khích người chuẩn bị và
đang thực hiện tội phạm tự nguyện chấm dứt không thực hiện hành vi phạm
tội của mình, từ đó tránh được những hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành
vi phạm tội gây ra đồng thời qua đó cũng thức tỉnh người đã thực hiện hành vi
phạm tội, cho họ một cơ hội để chuộc lại lỗi lầm. Tuy nhiên, hiện nay chúng
ta vẫn chưa quan tâm đúng mức đối với chế định này ở cả góc độ luật thực
định, áp dụng và nghiên cứu. Luật thực định của chúng ta mới chỉ qui định có
một trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội duy nhất đó là trường
hợp của người thực hành, còn các dạng người đồng phạm khác mới chỉ được
đưa ra trong Nghị quyết số 01 ngày 19/4/1989 của Hội đồng thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao, các quy định này còn chung chung khó áp dụng. Mặt
khác, trong thực tiễn các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng chế định này một
cách rất hạn chế, máy móc và cũng không tránh khỏi một thực tế là các cơ
quan tiến hành tố tụng thường hay bỏ qua việc xác định các tình tiết thể hiện
người phạm tội tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Vì vậy, cần phải có sự

đầu tư nghiên cứu sâu hơn nữa về chế định này, nhằm góp phần đưa chế định
này nên đúng với ý nghĩa to lớn vốn có của nó. Vì lẽ đó tôi đã chọn đề tài
"Chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong luật hình sự Việt
Nam" làm đề tài cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong Luật hình sự
Việt Nam là một chế định có ý nghĩa quan trọng. Vì vậy, cần có sự nghiên
cứu, phân tích một cách toàn diện, có hệ thống về mặt lý luận cũng như đánh


3

giá thực tiễn việc áp dụng chế định này. Hiện nay, đã có một số bài viết về vấn
đề này trong các giáo trình, các sách Bình luận khoa học luật hình sự, các sách
chuyên khảo luật hình sự, trong các tạp chí chuyên ngành như: "Tự ý nửa
chừng chấm dứt việc phạm tội" của tác giả Kim Dung, đăng trên tạp chí Kiểm
sát số 4 năm 1999; "Về chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội" của
tác giả Phạm Mạnh Hùng - Tạp chí Tòa án nhân dân số 8 năm 1995; "Tự ý
nửa chừng trong đồng phạm" của tác giả Trần Quang Tiệp - Tạp chí Công an
nhân dân số 10, năm 2000; "Một số vấn đề về giai đoạn phạm tội chưa đạt"
của tác giả Trịnh Quốc Toản - Chuyên san Kinh tế Luật, số 4 năm 2002;
"Hoàn thiện chế định liên quan đến tội phạm trong Luật hình sự Việt Nam
hiện nay" của tác giả Trần Quang Tiệp - Tạp chí Tòa án nhân dân số 5 năm
1998;... Các công trình này nghiên cứu chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc
phạm tội từ những góc độ khác nhau. Vì vậy, việc nghiên cứu còn tản mạn, rời
rạc chưa toàn diện và không có tính hệ thống, đòi hỏi cần phải có sự đầu tư
nghiên cứu sâu hơn nữa về vấn đề này.
3. Phạm vi nghiên cứu
Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam
là chế định có mối quan hệ sâu rộng tới các chế định khác được quy định

trong Bộ luật hình sự. Trong phạm vi luận văn này chúng tôi tập trung nghiên
cứu: Khái niệm, các đặc điểm, lịch sử hình thành và phát triển của chế định tự
ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội; nghiên cứu các quy phạm của chế định
tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong Bộ luật hình sự một số nước trên
thế giới; nghiên cứu căn cứ và những điều kiện của tự ý nửa chừng chấm dứt
việc phạm tội cũng như trách nhiệm hình sự đối với người tự ý nửa chừng
chấm dứt việc phạm tội.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu vấn đề này tác giả dựa trên cơ sở phương pháp luận
khoa học của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử của


4

triết học Mác - Lênin. Bên cạnh đó tác giả còn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu khoa học cụ thể như: Phương pháp phân tích, tổng hợp, quy nạp,
diễn dịch, so sánh,... để nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống các vấn
đề được đặt ra trong luận văn nhằm đạt được mục đích đặt ra.
5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của luận văn là làm rõ một số vấn đề lý luận chung có liên
quan tới đề tài: Khái niệm, các đặc điểm của tự ý nửa chừng chấm dứt việc
phạm tội; khái quát lịch sử hình thành và phát triển của chế định này, nghiên
cứu một số quy định tương ứng với chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc
phạm tội trong Bộ luật hình sự của một số nước trên thế giới; nghiên cứu làm
rõ căn cứ và các điều kiện của tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội và việc
áp dụng trong thực tiễn, từ đó đưa ra một số kiến nghị để hoàn thiện các quy
định của pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả của việc áp dụng chế định này
trong thực tiễn, nhằm khuyến khích người đang thực hiện tội phạm đình chỉ
việc thực hiện hành vi của mình.
Nhằm đạt được mục đích nêu trên và mở rộng phạm vi chủ thể được

hưởng chế định nhân đạo này Luận văn có các nhiệm vụ sau:
(1) Phân tích làm rõ khái niệm, các đặc điểm của tự ý nửa chừng chấm
dứt việc phạm tội;
(2). Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của chế định này trong
Luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến khi có Bộ luật hình sự năm 1999.
(3) Nghiên cứu các quy định tương ứng với chế định này trong Pháp
luật hình sự của một số nước trên thế giới: Liên Bang Nga, Thụy Điển, Nhật
Bản, Trung Quốc.
(4) Nghiên cứu làm rõ cơ sở cũng như căn cứ, vấn đề trách nhiệm hình
sự đối với người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội,
(5) Nghiên cứu, làm rõ cơ sở cũng như các điều kiện của tự ý nửa
chừng chấm dứt việc phạm tội, có sự liên hệ với với thực tiễn áp dụng các điều
kiện này của các cơ quan tư pháp hình sự.


5

(6) Trên cơ sở nghiên cứu lý luận cũng như thực tiễn áp dụng, căn cứ
vào chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước, tác giả đưa ra một số kiến nghị
nhằm hoàn thiện chế định này.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Luận văn nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống và tương đối
toàn diện về chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, qua đó góp phần
làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về chế định này.
- Nghiên cứu các trường hợp có dấu hiệu của tự ý nửa chừng chấm dứt
việc phạm tội, nhưng chưa được quy định trong Bộ luật hình sự.
- Đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy phạm của chế
định này.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và kiến nghị, Mục lục, Danh mục tài

liệu tham khảo, luận văn bao gồm 2 chương.


6

Chương 1
Một số vấn đề chung về chế định
tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội

1.1. Khái niệm và các đặc điểm của việc tự ý nửa chừng
chấm dứt việc phạm tội

1.1.1. Khái niệm tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội
Cũng như các chế định miễn trách nhiệm hình sự (TNHS) khác, chế
định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là một chế định nhân đạo trong
luật hình sự Việt Nam, nhằm động viên, khuyến khích tạo cơ hội cho người
chuẩn bị và đang thực hiện hành vi phạm tội có cơ hội chuộc lại lỗi lầm bằng
cách tự nguyện đình chỉ hành vi phạm tội của mình, qua đó hạn chế, loại trừ
được những hậu quả xấu cho xã hội do hành vi phạm tội gây ra. Với ý nghĩa to
lớn đó, chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được ghi nhận tương
đối sớm trong luật hình sự Việt Nam.
Chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội lần đầu tiên được quy
định trong Pháp lệnh "Trừng trị các tội phản cách mạng" ngày 30/10/1967 tại
Điều 20, theo đó tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được hiểu là: "Có âm
mưu phạm tội nhưng đã tự nguyện không thực hiện tội phạm". Như vậy, theo
quy định này thì tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được hiểu là tự
nguyện không thực hiện âm mưu phạm tội.
Tại Bản tổng kết số 452-HS2 ngày 10/8/1970 của Tòa án nhân dân tối
cao về tổng kết thực tiễn xét xử một số tội giết người có nêu:
Trường hợp mặc dù đã rõ ràng can phạm có ý định giết người

hoặc khi không xác định được rõ ràng ý thức của y nhưng nếu được
nửa chừng hành động can phạm thấy nạn nhân đã bị thương tích, chủ
động tự mình chấm dứt tấn công tuy biết rằng còn có thể hành động,


7

chỉ nên định là tội cố ý gây thương tích, không nên định là tội cố ý
giết người chưa đạt.
Như vậy, theo hướng dẫn này thì tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm
tội được ghi nhận cụ thể trong trường hợp người thực hiện tội phạm khi đã tấn
công và gây thương tích cho nạn nhân tức là giết người ở giai đoạn chưa đạt.
Việc can phạm đã tự mình chấm dứt tấn công xuất phát từ nguyên nhân đó là
thấy nạn nhân bị thương tích, ở đây có thể xuất phát từ lòng thương của người
phạm tội đối với nạn nhân. Trong hướng dẫn cũng chỉ rõ "tuy biết rằng còn có
thể hành động", cũng giống như Bộ luật hình sự (BLHS) hiện hành quy định
"Tuy không có gì ngăn cản" tức là việc chấm dứt là hoàn toàn do ý chí của
người phạm tội. Về TNHS của người phạm tội trong trường hợp này, tại Bản
tổng kết cũng hướng dẫn là "không nên định là tội giết người chưa đạt" tức là
miễn TNHS về tội định phạm theo quy định của BLHS năm 1999 mà định là
tội cố ý gây thương tích, quy định này cũng gần với quy định trong BLHS hiện
nay nhưng có điểm khác là BLHS hiện hành quy định họ chỉ phải chịu TNHS
khi hành vi của họ đã cấu thành một tội khác, tức là trong trường hợp này
hành vi của họ phải cấu thành tội cố ý gây thương tích thì họ mới phải chịu
TNHS về tội này. Ngoài các quy định trên, tại Báo cáo tổng kết công tác xét
xử về hình sự năm 1976 của Tòa án nhân dân tối cao có viết:
Trường hợp ngăn chặn những hậu quả thiệt hại của một tội
phạm đã bắt đầu nhưng chưa kết thúc là trường hợp tự nguyện nửa
chừng chấm dứt tội phạm. Nhiều Tòa án đã giải quyết đúng đắn
trường hợp này, không xử người có hành vi phạm tội mà họ đã đình

chỉ thực hiện mà chỉ xét TNHS của họ đối với hậu quả thực tế mà họ
đã gây ra...
Như vậy, theo hướng dẫn này thì tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm
tội được hiểu là trường hợp một người đã thực hiện tội phạm và hành vi của họ
đã đe dọa gây ra hậu quả hoặc đã gây ra hậu quả, tội phạm chưa kết thúc,


8

người phạm tội đã ngăn chặn được hậu quả của hành vi phạm tội. Như vậy, ở
đây, thời điểm được coi là chấm dứt việc phạm tội được tính tới thời điểm kết
thúc tội phạm chứ không chỉ là thời điểm tội phạm chưa đạt chưa hoàn thành
như quy định trong BLHS hiện hành.
Như vậy, qua nghiên cứu các văn bản trên quy định về trường hợp tự ý
nửa chừng chấm dứt việc phạm tội chúng ta có thể đưa ra một số nhận xét sau:
- Các quy định này còn hết sức tản mạn và chỉ được quy định trong các
văn bản pháp lý đơn hành.
- Các quy phạm này mới chỉ quy định về từng trường hợp cụ thể và
mang tính chất tổng kết thực tiễn xét xử.
- Việc dùng thuật ngữ để chỉ khái niệm "tự ý nửa chừng" là không
thống nhất và chưa rõ ràng, đầy đủ.
- Về khái niệm "tự ý nửa chừng", chúng ta thấy ở các văn bản ngày
càng có sự thể hiện rõ ràng và đầy đủ hơn. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần thấy
rằng tại Bản báo cáo tổng kết công tác xét xử hình sự năm 1976 đã nêu trên
thì so với BLHS hiện hành, thời điểm để được coi là tự ý nửa chừng được ghi
nhận là muộn hơn hay nói cách khác theo hướng dẫn này thì khi tội phạm
chưa kết thúc mà người thực hiện tội phạm ngăn chặn hậu quả của hành vi
phạm tội và ở đây về tên gọi trong bản tổng kết có dùng đó là "chấm dứt tội
phạm" so với "chấm dứt việc phạm tội" trong BLHS hiện nay.
Để đáp ứng yêu cầu của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm

trong tình hình mới, nhằm đưa chế định tự ý nửa chừng nên đúng với ý nghĩa
của nó. BLHS năm 1985 đã quy định trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc
phạm tội thành một chế định riêng được quy định tại Điều 16, theo đó khái
niệm tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được quy định như sau: "... tự
mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản". Đến
BLHS năm 1999 chế định tự ý nửa chừng được quy định tại Điều 19, theo đó
khái niệm tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được giữ nguyên như quy
định tại Điều 16 BLHS năm 1985.


9

Hiện nay, trong khoa học Luật hình sự cũng có nhiều quan điểm khác
nhau xung quanh khái niệm này cụ thể:
- "... Đây là trường hợp chủ thể đã tự mình chủ động đình chỉ hành vi
phạm tội, mặc dù không có gì ngăn cản người đó thực hiện tội phạm đến
cùng" [15, tr. 245].
- "Chủ thể đã tự mình chủ động đình chỉ hành vi phạm tội, mặc dù
không có gì ngăn cản người đó thực hiện tội phạm đến cùng" [12, tr. 132].
- "Tự ý nửa chừng chấm dứt tội phạm là trường hợp mà trong đó mặc
dù người phạm tội có đầy đủ điều kiện khách quan thực hiện được tội phạm
đến cùng nhưng đã tự mình đình chỉ hành vi chuẩn bị phạm tội hoặc hành vi
cố ý để thực hiện tội phạm, tuy không có gì ngăn cản [6, tr. 122].
- "Tự mình không thực hiện tiếp tội phạm khi tội phạm chưa hoàn
thành tuy không có gì ngăn cản" [23, tr. 130].
- "Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là một chế định nhân đạo của
Luật hình sự Việt Nam, thể hiện sự tự nguyện dứt khoát của một người không
thực hiện ý định hoặc hành vi phạm tội của mình đến cùng mặc dù họ có khả
năng thực hiện và điều kiện khách quan không có gì ngăn cản" [25, tr. 55].
- "Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là sự tự kiềm chế của một

người để không thực hiện đến cùng hành vi phạm tội mà họ đã bắt đầu mặc dù
họ biết là có khả năng làm việc đó và không có gì ngăn cản" [11, tr. 2].
- "Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là trường hợp người
phạm tội tự nguyện ngừng hẳn việc thực hiện tội phạm mà không có gì ngăn
cản" [21, tr. 191].
- "Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện
tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản" [1, tr. 64].
Các khái niệm về tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trên đây, mặc
dù còn có một số điểm khác nhau nhưng đều có một số điểm chung sau:


10

- Các khái niệm này đều nêu lên được điều kiện khách quan và chủ
quan của tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là hoàn toàn do ý chí của chủ
thể và về khách quan không có gì ngăn cản chủ thể thực hiện hành vi phạm tội.
- Về thời điểm được coi là chấm dứt việc phạm tội là "không thực hiện
tội phạm đến cùng" tức là ở các giai đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa
đạt chưa hoàn thành.
Tuy nhiên, qua xem xét các quan điểm trên, chúng ta thấy có một số
tác giả sử dụng thuật ngữ "tự nguyện đình chỉ" thay cho thuật ngữ "tự ý nửa
chừng chấm dứt việc phạm tội" theo chúng tôi sử dụng thuật ngữ "tự ý nửa
chừng chấm dứt việc phạm tội" là chính xác hơn, bởi lẽ nếu sử dụng cụm từ
"tự nguyện đình chỉ" thì chưa thể hiện được người thực hiện hành vi phạm tội
dừng lại ở giai đoạn nào. Hơn nữa, sử dụng cụm từ "tự ý" thay vì "tự nguyện"
thể hiện đầy đủ hơn việc chủ thể từ bỏ hẳn ý định phạm tội mà không có gì
ngăn cản. Điều đó cũng thể hiện được rằng ngay cả khi điều kiện và hoàn
cảnh khách quan tác động vào người phạm tội (như hoàn cảnh của nạn nhân
tác động làm người phạm tội thấy thương hại...) làm thay đổi ý chí của người
phạm tội, từ đó họ đã không thực hiện đến cùng hành vi phạm tội của mình.

Trong BLHS và phần lớn các quan điểm trên đều sử dụng cụm từ "việc
phạm tội" theo chúng tôi sử dụng cụm từ này là chưa hoàn toàn chính xác, vì
nó dễ dẫn đến cách hiểu theo hướng là chỉ áp dụng chế định này đối với người
trực tiếp thực hiện tội phạm (người thực hành), mà chưa thể hiện được việc tự
ý nửa chừng chấm dứt hành vi nguy hiểm cho xã hội của các dạng người đồng
phạm khác, vì họ không phải là người trực tiếp thực hiện tội phạm mà hành vi
của họ gián tiếp tác động đến khách thể của tội phạm thông qua hành vi của
người thực hành như: Người tổ chức, người xúi giục, giúp sức. Hơn nữa, bản
thân thuật ngữ "việc phạm tội" cũng chưa có một khái niệm rõ ràng và thống
nhất cả trong các quy định của Pháp luật hình sự, trong khoa học Luật hình sự
cũng như trong thực tiễn áp dụng. Việc quy định trong BLHS một khái niệm
như vậy dẫn đến có nhiều cách hiểu khác nhau, việc áp dụng cũng không


11

thống nhất và khó khăn. Mặt khác, việc chấm dứt ở đây cần thiết phải thể hiện
đó là chấm dứt hành vi nguy hiểm cho xã hội được coi là tội phạm. Vì vậy,
theo chúng tôi nên sử dụng thuật ngữ "tội phạm" thay cho "việc phạm tội"
trong tên gọi cũng như trong nội dung khái niệm của chế định này, sử dụng
thuật ngữ "tội phạm" không chỉ bao hàm được cả trường hợp tự ý nửa chừng
của các dạng người đồng phạm mà đây lại còn là một khái niệm được quy
định cụ thể tại Điều 8 BLHS từ đó có cách hiểu thống nhất và đầy đủ hơn.
Tại Điều 19 BLHS năm 1999 và phần lớn các quan điểm trên đều dùng
dùng cụm từ "Tuy không có gì ngăn cản" để thể hiện sự ý chí tự nguyện không
thực hiện tội phạm đến cùng của người phạm tội, theo chúng tôi việc sử dụng
như vậy là không chính xác và không đúng với bản chất của chế định này. Vì
đây là chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, việc xem xét chủ thể
có thực sự tự ý hay không, chúng ta không thể chỉ căn cứ vào thực tế khách
quan để đánh giá, mà phải xem xét thực tế khách quan đó có được chủ thể

nhận thức được hay không, trở ngại khách quan chỉ tác động đến quyết tâm
thực hiện tội phạm đến cùng của một người khi họ nhận thức được điều đó. Vì
vậy, theo chúng tôi nên thay cụm từ trên bằng cụm từ "mặc dù họ ý thức được
khả năng thực hiện tội phạm đến cùng".
Xung quanh khái niệm về tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, có
quan điểm cho rằng cần mở rộng khái niệm này đối với cả trường hợp phạm
tội mà chủ thể đã thực hiện hết những hành vi cho là cần thiết để đạt được
mục đích đã được định trước, nhưng hậu quả của tội phạm không xảy ra vì chủ
thể đã có hành động tích cực ngăn chặn. Trong trường hợp này chế định tự ý
nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được mở rộng cả tới trường hợp tội phạm ở
giai đoạn chưa đạt đã hoàn thành. Theo chúng tôi, để khuyến khích hơn nữa
người phạm tội từ bỏ ý định phạm tội và có những hành động tích cực ngăn
chặn hậu quả của tội phạm khi nó chưa xảy ra là cần thiết. Vì vậy, chúng ta
nên coi đây cũng là một trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội
(về giải thích cụ thể chúng tôi xin được nêu cụ thể ở chương sau).


12

Từ sự phân tích trên và căn cứ vào thực tiễn áp dụng cũng như những
đòi hỏi của công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm theo chúng tôi tên gọi
của chế định "tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội" cần được sửa là "tự ý
nửa chừng chấm dứt tội phạm" và với khái niệm như sau: Tự ý nửa chừng
chấm dứt tội phạm là trường hợp người phạm tội tự mình từ bỏ dứt khoát và
vĩnh viễn hành vi phạm tội mặc dù họ ý thức được khả năng thực hiện tội
phạm đến cùng hoặc người phạm tội đã có hành vi tích cực ngăn chặn được
hậu quả của tội phạm.
1.1.2. Các đặc điểm của chế định tự ý nửa chừng chấm dứt tội phạm
- Đây là một chế định nhân đạo trong luật hình sự Việt Nam, với chế
định này luật hình sự Việt Nam đã tạo điều kiện cho người đã bắt tay vào

thực hiện tội phạm có cơ hội tự chuộc lại lỗi lầm của mình ngay cả khi họ
đã thực hiện một phần hành vi nguy hiểm cho xã hội, bằng việc miễn TNHS
về tội định phạm cho người phạm tội khi họ đã tự nguyện chấm dứt hành vi
phạm tội của mình một cách tự nguyện và dứt khoát, từ đó hạn chế hoặc
loại trừ hậu quả xấu cho xã hội do tội phạm gây ra. Điều này thể hiện chính
sách hình sự nhất quán của Nhà nước ta đó là khoan hồng đối với người đã
ăn năn hối cải, lập công chuộc tội, tự nguyện sửa chữa những thiệt hại do
mình gây ra.
- Đây là một trường hợp miễn TNHS sự đặc biệt, ngoài việc quy định
miễn TNHS trong trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, luật
hình sự Việt Nam còn quy định ba trường hợp miễn TNHS khác tại Điều 25
BLHS và một số trường hợp được miễn TNHS trong phần các tội phạm: Khoản
3 Điều 80, quy định về miễn TNHS cho người phạm tội gián điệp; Đoạn 2
Khoản 6 Điều 289, quy định về miễn TNHS cho người đưa hối lộ; Khoản 6
Điều 290, quy định về miễn TNHS cho người phạm tội làm môi giới hối lộ và
Khoản 3 Điều 314, quy định về miễn TNHS cho người phạm tội không tố giác
tội phạm.


13

Qua nghiên cứu một số trường hợp miễn TNHS hoặc có thể được miễn
TNHS trên chúng ta thấy so với các trường hợp được miễn TNHS khác, trường
hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội có một số điểm đặc biệt sau:
Thứ nhất, điều kiện để được miễn TNHS là xuất phát từ ý chí của chủ
thể, thể hiện đó là sự từ bỏ dứt khoát và vĩnh viễn hành vi phạm tội mà không
phải do yếu tố khách quan nào chi phối, còn các trường hợp trên là do các
điều kiện khách quan, có một số điều kiện chủ quan nhưng các trường hợp đó
thể hiện sự ăn năn hối cải, nỗ lực của chủ thể và đó chỉ là trường hợp có thể
được miễn TNHS chứ không phải là một trường hợp miễn TNHS bắt buộc.

Thứ hai, Trường hợp miễn TNHS do tự ý nửa chừng chấm dứt việc
phạm tội thì tội phạm phải "chưa được thực hiện đến cùng", tức là ở giai đoạn
chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành, còn các trường
hợp khác tội phạm đã hoàn thành và có thể đã kết thúc.
Từ sự so sánh với các trường hợp miễn TNHS khác chúng ta thấy rõ
ràng đây là một trường hợp miễn TNHS đặc biệt.
- Người phạm tội không được miễn TNHS toàn bộ, mà họ vẫn phải
chịu TNHS về tội phạm khác nếu hành vi của họ đã thực hiện thực tế có đầy
đủ dấu hiệu của tội này, điều này cũng hoàn toàn khác so với các trường hợp
được miễn TNHS trên.
- Vấn đề tự ý nửa chừng chỉ được đặt ra đối với một người khi họ thực
hiện hành vi cố ý, còn các trường hợp khác có thể đặt ra với cả tội phạm với
lỗi vô ý.
1.2. Một số quy định tương ứng với chế định tự ý nửa
chừng chấm dứt việc phạm tội trong luật hình sự của một số
nước trên thế giới

Cũng như Pháp luật hình sự Việt Nam, Pháp luật hình sự của các nước
trên thế giới đều có các quy định tương ứng với các quy định về chế định tự ý
nửa chừng chấm dứt việc phạm tội và đều được ghi nhận trong chương quy


14

định về các giai đoạn thực hiện tội phạm, hoặc được ghi nhận tại một điều luật
ngay sau các quy định về chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt. Chúng ta có
thể xem xét các quy định này trong Pháp luật Hình sự của một số nước trên
thế giới dưới các góc độ khác nhau.
1.2.1. Về khái niệm tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội
Trong Pháp luật hình sự một số nước có quy định cụ thể khái niệm

này, nhưng cũng có nước không quy định cụ thể trực tiếp mà quy định gián
tiếp thông qua việc quy định về chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt.
BLHS Liên bang Nga (Điều 32) quy định về tội phạm chưa thành, có
quy định khái niệm tự đình chỉ tội phạm như sau: "Tự đình chỉ tội phạm là
chấm dứt việc chuẩn bị phạm tội hoặc chấm dứt hành động (không hành
động) trực tiếp nhằm thực hiện tội phạm, nếu người tự đình chỉ tội phạm ý
thức được khả năng thực hiện tội phạm đến cùng" [5, tr. 59]. Như vậy, theo
quy định này thì tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được gọi là tự đình
chỉ tội phạm và khái niệm được quy định khá cụ thể, đó là trường hợp một
người ý thức được khả năng thực hiện tội phạm đến cùng nhưng đã tự chấm
dứt việc chuẩn bị phạm tội hoặc chấm dứt hành động (không hành động) trực
tiếp nhằm thực hiện tội phạm. Đây là một khái niệm khoa học và hoàn chỉnh,
thể hiện rõ được bản chất đây là trường hợp phải căn cứ vào ý chí của người
thực hiện hành vi phạm tội, luật hình sự Nga không quy định việc khách quan
có gì ngăn cản hay không mà quy định rõ là chủ thể có nhận thức được khả
năng thực hiện tội phạm đến cùng hay không? Theo chúng tôi quy định như
vậy là hợp lý và khoa học hơn cả, vì bản chất của trường hợp tự ý nửa chừng là
chúng ta phải xác định rõ ý chí của chủ thể, việc chủ thể có nhận thức được trở
ngại khách quan hay không là điều quan trọng chứ không chỉ là việc có khó
khăn khách quan ngăn cản hay không? trong thực tế có trường hợp mặc dù có
trở ngại khách quan ngăn cản nhưng người phạm tội không nhận thức được
hoặc mặc dù không có trở ngại nhưng chủ thể lại tưởng là có trở ngại và đã


15

không tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Đây là điểm hợp lý mà chúng ta
cũng cần phải ghi nhận.
Trong BLHS của Thụy Điển, chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc
phạm tội được quy định tại Điều 3, quy định về chuẩn bị phạm tội, phạm tội

chưa đạt và đồng phạm, theo đó khái niệm về trường hợp này được quy định
gián tiếp thông qua việc quy định về chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt như
sau: "Hình phạt đối với hành vi chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và đồng
phạm không áp dụng đối với người không tiếp tục thực hiện tội phạm hoặc đã tự
nguyện ngăn chặn không cho tội phạm được thực hiện đến cùng"[2, tr. 128].
Như vậy, khác với luật hình sự của Nga, luật hình sự của Thụy Điển quy định
đây là trường hợp tương tự như chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt chỉ
khác là lý do của việc không thực hiện tiếp tội phạm là chủ thể đã tự nguyện
không thực hiện. Chúng ta cũng thấy, PLHS Thụy Điển cũng coi trường hợp
tội phạm đã hoàn thành nhưng người phạm tội đã ngăn chặn không cho tội
phạm được thực hiện đến cùng thuộc trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt tội
phạm. Ngoài ra, việc tự ý nửa chừng của các dạng người đồng phạm cũng
được quy định như sau: "Người nào, thậm chí trong trường hợp tội phạm đã
hoàn thành mà phải tạo ra một cách bất hợp pháp các điều kiện vật chất hoặc
tinh thần cho việc hoàn thành tội phạm nhưng đã tự nguyện ngăn chặn người
phạm tội sử dụng các điều kiện đó" [2, tr. 128].
Trong BLHS của Nhật Bản thì trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt
việc phạm tội được quy định tại Điều 43, quy định về phạm tội chưa đạt như
sau: "Đối với người đã bắt tay thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện tội
phạm đến cùng thì có thể được giảm nhẹ hình phạt, đối với người người tự ý
nửa chừng chấm dứt việc phạm tội thì giảm nhẹ hoặc miễn trừ hình phạt".
Như vậy, theo quy định này thì khái niệm tự ý nửa chừng chấm dứt tội phạm
được quy định thông qua quy định về trường hợp phạm tội chưa đạt, nên
chúng ta cũng có thể hiểu đây là trường hợp phạm tội chưa đạt nhưng do tự ý
của chủ thể.


16

Tại Điều 21 BLHS của Trung Quốc quy định: "Tự ý nửa chừng chấm

dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện đến cùng hoặc dùng biện pháp
hữu hiệu ngăn ngừa việc xảy ra những hậu quả của tội phạm". Như vậy, theo
quy định này thì tự ý nửa chừng trong luật hình sự của Trung Quốc còn được
mở rộng, bao gồm cả trường hợp mặc dù tội phạm đã hoàn thành nhưng giữa
hành vi và hậu quả của tội phạm có một khoảng cách về thời gian và người
phạm tội đã ngăn chặn làm cho hậu quả của tội phạm không xảy ra. So với
luật hình sự của chúng ta và một số nước khác rõ ràng BLHS Trung Quốc đã
quy định rộng hơn.
1.2.2. Về điều kiện của tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội
Về thời điểm: Nghiên cứu các quy định về tự ý nửa chừng chấm dứt
việc phạm tội trong luật hình sự của một số nước trên đây, chúng ta thấy các
nước đều quy định về thời điểm đó là khi tội phạm chưa hoàn thành, hay nói
cách khác vấn đề tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội chỉ được đặt ra trong
giai đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt. Tuy nhiên, luật hình sự
Trung Quốc quy định trong trường hợp hậu quả của tội phạm chưa xảy ra và
người thực hiện hành vi phạm tội đã dùng những biện pháp hữu hiệu để ngăn
ngừa hậu quả của hành vi phạm tội, tức là vấn đề tự ý nửa chừng chấm dứt
việc phạm tội được đặt ra ngay cả khi người phạm tội đã thực hiện những hành
vi cho là cần thiết để đạt được mục đích, nhưng hậu quả của tội phạm vẫn
chưa xảy ra.
BLHS của cộng hòa Liên bang Nga còn quy định các điều kiện cụ thể
của từng dạng người đồng phạm tại Khoản 4 Điều 32 như sau: "Người tổ chức
và người xúi giục tội phạm không phải chịu TNHS nếu họ kịp thời thông báo
cho cơ quan chính quyền hoặc có những biện pháp khác ngăn cản người thực
hành thực hiện tội phạm đến cùng. Người giúp sức không phải chịu TNHS nếu
đã có các biện pháp để có thể ngăn cản việc thực hiện tội phạm." và theo quy
định tại Khoản 5 Điều 32 thì ngoài các điều kiện tại Khoản 4 Điều 32, đòi hỏi


17


kết quả của biện pháp đó phải ngăn chặn được tội phạm, tuy nhiên điều kiện
này lại chỉ được đặt ra với người tổ chức và người xúi giục mà không được đặt
ra đối với người giúp sức. Như vậy, với việc quy định cụ thể các điều kiện đối
với từng dạng người đồng phạm, chúng ta thấy PLHS của nga đã quy định rất
đầy đủ về vấn đề này.
Điều kiện chủ quan: Qua các quy định tại Điều 32 BLHS của Nga,
Điều 43 BLHS Nhật Bản, Điều 3 BLHS Thụy Điển và Điều 21 BLHS Trung
Quốc cho thấy luật hình sự của các nước cũng đều quy định việc không thực
hiện tiếp tội phạm là do ý chí chủ quan của người phạm tội, họ đã tự nguyện
không thực hiện tội phạm một cách dứt khoát và vĩnh viễn. Tuy nhiên, sự thể
hiện cụ thể trong PLHS của mỗi nước có sự khác nhau, trong PLHS của Thụy
Điển quy định: "Không tiếp tục thực hiện tội phạm hoặc đã tự nguyện ngăn
chặn không cho tội phạm được thực hiện đến cùng". BLHS của Trung Quốc
cũng quy định tương tự như của Thụy Điển "tự mình không thực hiện tội phạm
đến cùng hoặc dùng biện pháp hữu hiệu ngăn ngừa việc xảy ra những hậu quả
của tội phạm". BLHS của Nhật Bản chỉ nêu nên tên gọi của trường hợp này
mà không nêu cụ thể. BLHS của Nga quy định: "Tự giác và dứt khoát", ý chí
của người thực hiện tội phạm còn được thể hiện rõ hơn trong việc quy định
"nếu người tự đình chỉ tội phạm ý thức được khả năng thực hiện tội phạm đến
cùng.", khả năng ở đây chúng ta có thể hiểu đó là các điều kiện bên ngoài và
nó phải được chủ thể đánh giá xem có thực hiện được tội phạm tiếp hay không?
Các điều kiện khách quan: Pháp luật hình sự của các nước không quy
định cụ thể các điều kiện khách quan mà nó được thể hiện thông qua điều kiện
chủ quan.
Qua nghiên cứu các quy định tương ứng về chế định tự ý nửa chừng
chấm dứt việc phạm tội của một số nước trên thế giới, chúng ta thấy các nước
đều ghi nhận chế định này trong chương quy định về các giai đoạn thực hiện
tội phạm và nếu so sánh với các quy định trong luật hình sự của nước ta,



18

chúng ta thấy về cơ bản là giống nhau. Tuy nhiên, chúng ta cần thiết có sự tham
khảo pháp luật của các nước đặc biệt là pháp luật hình sự của Liên bang Nga.
1.3. Trách nhiệm hình sự đối với người tự ý nửa chừng
chấm dứt việc phạm tội

Vấn đề TNHS đối với người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội
được quy định tại đoạn 2 của Điều 19 BLHS năm 1999, theo đó: "Người tự ý
nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định
phạm, nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội
khác thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này".
Như vậy, khi nghiên cứu TNHS của người tự ý nửa chừng chấm dứt việc
phạm tội, chúng ta phải xem xét TNHS của họ đối với tội định phạm và đối
với tội phạm khác mà hành vi thực tế của họ đã có đủ yếu tố cấu thành tội này.
1.3.1. Trách nhiệm hình sự của người tự ý nửa chừng chấm dứt
việc phạm tội đối với tội định phạm
Điều 19 BLHS năm 1999 quy định: "Người tự ý nửa chừng chấm dứt
việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm".
Như vậy, theo quy định trên đây thì người tự ý nửa chừng chấm dứt
việc phạm tội mặc dù hành vi của họ đã thỏa mãn đầy đủ dấu hiệu của một
cấu thành tội phạm (CTTP) (cấu thành tội phạm của hành vi chuẩn bị phạm tội
và phạm tội chưa đạt), tuy nhiên họ không buộc phải chịu TNHS về tội định
phạm nếu họ đã tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Theo quy định của Bộ
luật Tố tụng hình sự Việt Nam thì khi có căn cứ chứng tỏ người phạm tội tự ý
nửa chừng chấm dứt việc phạm tội thì tùy thuộc vào từng giai đoạn tố tụng mà
các cơ quan Tư pháp hình sự ra một trong các quyết định sau: Quyết định đình
chỉ điều tra (Điều 164 - Bộ luật Tố tụng hình sự) nếu ở giai đoạn điều tra,
Quyết định đình chỉ vụ án (Điều 169 - Bộ luật Tố tụng hình sự) nếu ở giai

đoạn truy tố hoặc ở giai đoạn chuẩn bị xét xử (Điều 180 và Điều 181 - BLHS).
Khi các cơ quan Tư pháp hình sự ra một trong các quyết định trên thì cũng có


19

nghĩa vụ án kết thúc, tức là người phạm tội không phải chịu các biện pháp
cưỡng chế do các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng nữa, họ không bị đưa ra
xét xử và cũng không bị kết án, mang án tích,... hay nói cách khác, người
phạm tội được miễn TNHS về tội họ định phạm.
Khi nghiên cứu TNHS của người tự ý nửa chừng, chúng ta cần lý giải
tại sao họ lại được miễn TNHS về tội định phạm, tức là nghiên cứu các căn cứ,
cơ sở quy định TNHS của họ. Qua nghiên cứu bản chất của trường hợp tự ý
nửa chừng chấm dứt việc phạm tội cũng như các điều kiện của trường hợp này,
chúng tôi xin đưa ra một số căn cứ sau:
a) Căn cứ và tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi, so với các hành vi
vi phạm pháp luật khác thì một trong những điểm thể hiện rõ nét nhất về bản
chất của tội phạm đó là tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, đây
là dấu hiệu quan trọng nhất của tội phạm, nó thể hiện nội dung chính trị xã hội
của tội phạm.
Tính nguy hiểm cho xã hội là: "Dấu hiệu phản ánh tính gây thiệt hại
về khách quan và tính có lỗi thuộc về chủ quan của tội phạm" [23, tr. 119].
Như vậy, khi xem xét tính nguy hiểm cho xã hội, chúng ta có thể xem
xét dưới hai góc độ:
+ Về khách quan, đó là sự gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho
các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, thể hiện thông qua các yếu tố:
- Tính chất của quan hệ xã hội bị xâm hại hoặc bị đe dọa xâm hại.
- Tính chất của hành vi khách quan, trong đó bao gồm cả tính chất của
phương pháp, thủ đoạn, công cụ và phương tiện phạm tội.
- Mức độ thiệt hại gây ra hoặc đe dọa gây ra cho các quan hệ xã hội bị

xâm hại.
Trong các yếu tố trên thì yếu tố thứ ba là yếu tố quan trọng nhất, vì
suy cho cùng thì mục đích của hành vi phạm tội là xâm hại đến khách thể
được luật hình sự bảo vệ và mức độ gây thiệt hại, đe dọa gây thiệt hại cho các


20

quan hệ xã hội thể hiện rõ nét, cụ thể nhất thông qua sự thiệt hại của khách
thể. Hơn nữa, đây là yếu tố mà trong các tội cố ý nó là sự cụ thể hóa mục đích
của người phạm tội và đây cũng là dấu hiệu thể hiện tập trung nhất các yếu tố
khách quan của tội phạm, từ việc người phạm tội chuẩn bị công cụ, phương
tiện, thủ đoạn, phương pháp,... đều thể hiện mức độ đe dọa gây thiệt hại, và
mức độ gây thiệt hại cho khách thể.
Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là trường hợp mà tội phạm mới
chỉ ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành hay nói
cách khác là hành vi phạm tội mới ở mức độ đe dọa hoặc bắt đầu xâm hại tới
khách thể được luật hình sự bảo vệ. Tuy nhiên, ở đây do tội phạm mới chỉ ở giai
đoạn phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành, nên hành vi phạm tội có thể chưa gây
ra thiệt hại cho các quan hệ xã hội hoặc đã gây ra nhưng chưa thể hiện được đầy
đủ sự nguy hiểm của hành vi so với trường hợp tội phạm đã hoàn thành.
Trong giai đoạn chuẩn bị phạm tội, người phạm tội mới chỉ tạo ra các
điều kiện thuận lợi về vật chất cũng như về tinh thần cho việc phạm tội như:
chuẩn bị công cụ, phương tiện, kế hoạch,... cho việc thực hiện tội phạm. Trong
trường hợp này, rõ ràng tội phạm chưa thể xâm hại tới các quan hệ được luật
hình sự bảo vệ.
Trong giai đoạn phạm tội chưa đạt, người phạm tội mặc dù đã bắt tay
vào thực hiện hành vi khách quan của tội phạm và hành vi của họ có thể đã
xâm hại tới khách thể của luật hình sự, nhưng nó vẫn chưa thể hiện hết hậu
quả của tội phạm, chưa cụ thể hết ý định của người phạm tội. Vì vậy, trong

trường hợp này thì rõ ràng hậu quả của hành vi phạm tội chưa thể hiện hết tính
nguy hiểm đối với tội định phạm.
Như vậy, nếu xét về khách quan thì tính nguy hiểm là chưa đáng kể
hoặc vẫn chưa đầy đủ so với trường hợp tội phạm hoàn thành.
+ Về chủ quan: Khi nghiên cứu mặt chủ quan của người phạm tội,
chúng ta thường xem xét các yếu tố:
- Tính chất và mức độ lỗi.


21

- Mục đích, động cơ của người có hành vi phạm tội.
Trong các yếu tố trên thì lỗi là yếu tố quan trọng và phản ánh thái độ tiêu
cực của chủ thể đối với xã hội. "Lỗi trong tội phạm là trạng thái tâm lý của
chủ thể được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý đối với hành vi trái pháp
luật hình sự do mình thực hiện và đối với hậu quả của hành vi đó"[7, tr. 926].
Trong trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội rõ ràng chỉ đặt ra đối
với trường hợp lỗi cố ý, trong trường hợp này, chủ thể đã lựa chọn xử sự
không phù hợp với xã hội mặc dù họ hoàn toàn có thể lựa chọn xử sự phù hợp.
Tuy nhiên, người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội cũng đã tự mình từ
bỏ hay nói cách khác đình chỉ xử sự tiêu cực của mình một cách tự nguyện và
dứt khoát. Thể hiện của việc từ bỏ này ra bên ngoài, đó là việc chấm dứt tội
phạm. Như vậy, từ việc lựa chọn xử sự sai lầm đến việc từ bỏ dứt khoát và
vĩnh viễn xử sự đó cho thấy người phạm tội đã tự mình vô hiệu hóa sự nguy
hiểm trong hành vi của mình.
Như vậy, qua xem xét yếu tố khách quan và chủ quan của trường hợp
tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, chúng ta thấy về biểu hiện khách
quan, nó gần giống với trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt,
điểm khác biệt ở đây là việc chấm dứt tội phạm trong trường hợp chuẩn bị
phạm tội và phạm tội chưa đạt là do nguyên nhân ngoài ý muốn của chủ thể.

Vì vậy, nếu không có gì ngăn cản chắc chắn hành vi đó sẽ tiếp diễn tức là tội
phạm sẽ hoàn thành và hậu quả sẽ xảy ra đúng như mục đích của người phạm
tội. Còn nguyên nhân trong trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội
đó là do tự bản thân chủ thể hay nói cách khác trong trường hợp này, hậu quả
tương ứng với mục đích của người phạm tội đã xác định không bao giờ xảy ra.
Rõ ràng tính nguy hiểm cho xã hội ở hai trường hợp này hoàn toàn khác nhau.
Từ sự phân tích trên chúng ta có thể kết luận rằng trong trường hợp tự
ý nửa chừng chấm dứt tội phạm, thì tính nguy hiểm cho xã hội của loại tội
định phạm đã được loại trừ hoặc hạn chế rất lớn.


×