Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

QUYỀN tác GIẢ đối với tác PHẨM VIẾT TRONG PHÁP LUẬT dân sự VIỆT NAM – một số vấn đề lý LUẬN và THỰC TIỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (594.94 KB, 83 trang )

BỘ TƯ PHÁP

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN THỊ THANH BÌNH

QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM
VIẾT TRONG PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM –
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Chuyên ngành : Luật Dân sự
Mã số

: 60 38 30

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS. ĐINH VĂN THANH

HÀ NỘI - 2005


MỤC LỤC
TRANG
Lời nói đầu ..................................................................................................... 1
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý về quyền tác giả đối với tác phẩm viết
ở Việt Nam ..................................................................................................... 5
1.1.


Khái niệm quyền tác giả và tác phẩm viết................................................ 5

1.1.1. Quyền tác giả.......................................................................................... 5
1.1.2. Tác phẩm viết ......................................................................................... 9
1.2. đặc điểm và quá trình hình thành, phát triển của pháp luật việt nam về quyền
tác giả đối với tác phẩm viết............................................................................ 21
1.2.1. Các đặc điểm của quyền tác giả đối với tác phẩm viết .............................. 21
1.2.2. Sơ lược quá trình hình thành, phát triển của pháp luật Việt Nam về
quyền tác giả đối với tác phẩm viết ......................................................... 23
1.3. quyền tác giả đối với tác phẩm viết theo quy định của một số công ước, hiệp
ước về quyền tác giả....................................................................................... 26
1.3.1 Công ước Berne bảo hộ tác phẩm văn học nghệ thuật ............................... 26
1.3.2. Công ước UCC - Công ước toàn cầu về quyền tác giả ........................ 29
1.3.3. Công ước Rome về bảo hộ quyền của người biểu diễn, nhà sản
xuất bản ghi âm, tổ chức phát sóng (1961) ............................................ 29
1.3.4. Công ước Benera về bảo hộ các nhà sản xuất bản ghi âm chống việc sao
chép không được phép bản ghi âm của họ .............................................. 30
1.3.5. Công ước Brussels về việc phổ biến các tín hiệu mang chương trình
được truyền qua vệ tinh (1974) ............................................................. 30
1.3.6 Thoả ước TRIPs về những khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở
hữu trí tuệ ...................................................................................................... 30
1.3.7. Hiệp ước WCT - Hiệp ước của WIPO về quyền tác giả (1996) ................ 31
1.3.8. Hiệp định giữa Việt Nam và Hoa Kỳ về thiết lập quan hệ quyền tác giả
(1997) ........................................................................................................... 31


1.3.9. Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ (2000) .................................. 32
1.3.10 Hiệp định Việt Nam –Thụy Sỹ về sở hữu trí tuệ (1999) .......................... 33
Chương 2: Một số nội dung cơ bản của quyền tác giả đối với tác phẩm viết 34
2.1. Đối tượng bảo hộ ..................................................................................... 34

2.1.1. Tác phẩm viết được bảo hộ .................................................................... 34
2.1.2. Tác phẩm viết không được bảo hộ.......................................................... 36
2.2 Các chủ thể của quyền tác giả đối với tác phẩm viết .................................... 38
2.2.1 Các chủ thể trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm viết ......................................... 38
2.2.2 Các chủ thể không trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm viết ............................... 41
2.3. Nội dung bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm viết .................................. 43
2.3.1. Quyền nhân thân ................................................................................... 44
2.3.2. Quyền tài sản ........................................................................................ 48
Chương 3: Tình hình thực thi các quy định pháp luật dân sự về quyền tác giả
đối với tác phẩm viết và những kiến nghị ..................................................... 55
3.1 Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự về quyền tác giả đối với tác
phẩm viết ...................................................................................................... 55
3.1.1. Quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút
danh khi tác phẩm được công bố, phổ biến, sử dụng bị xâm phạm........................ 56
3.1.2 Sử dụng tác phẩm viết không được sự đồng ý của tác giả, chủ sở hữu
tác phẩm........................................................................................................ 56
3.1.3. Quyền bảo vệ toàn vẹn tác phẩm viết của tác giả, chủ sở hữu bị bên sử
dụng tác phẩm xâm phạm .................................................................... 58
3.1.4 Tình trạng vi phạm quyền cho phép khai thác, sử dụng tác phẩm viết
của tác giả, chủ sở hữu........................................................................... 60
3.2. Một số giải pháp và kiến nghị hoàn thiện các quy định trong bộ luật dân sự về
quyền tác giả đối với tác phẩm viết.................................................................. 67
3.2.1. Một số giải pháp để áp dụng hiệu quả hơn nữa các quy định về quyền tác giả
đối với tác phẩm viết ...................................................................................... 67


3.2.2. Kiến nghị hoàn thiện các quy định của Bộ luật dân sự về quyền tác giả
đối với tác phẩm viết ............................................................................. 68
Kết luận ....................................................................................................... 74
Danh mục tài liệu tham khảo ....................................................................... 75



NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

WIPO - World Intellectual Property Organization (Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới)
WCT – WIPO copyright treaty (WCT Treaty – Hiệp ước của WIPO về quyền tác
giả).
WPPT – WIPO Performances and Phonograms Treaty (ƯPPT treaty – Hiệp ước
của WIPO về biểu diễn và bản ghi âm).
UCC – Universal copyright convention (ucc Convention – Công ước toàn cầu về
bản quyền).
TRIPs – Agreement on trate-related aspect of intellectual property rights (TRIPs
Agreement – Thỏa thuận về những khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền
sở hữu trí tuệ).


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

Với chiều dài lịch sử văn học, nghệ thuật của Việt Nam từ cuối thế kỷ XX
trở về trước, các tác giả - những người cầm bút nói riêng - chưa khi nào ý thức hết
được các quyền lợi của mình đối với tác phẩm. Trên thực tế, họ chưa được hưởng
đầy đủ những quyền lợi mà pháp luật quy định, họ đáng được hưởng. Việc bảo hộ
quyền tác giả đối với tác phẩm văn học - nghệ thuật nói chung và tác phẩm viết nói
riêng sẽ tạo ra được những thói quen về quyền và nghĩa vụ đối với tác phẩm. Điều
đó, thực sự trở thành một hoạt động quan trọng ở Việt Nam trong bối cảnh hội
nhập rộng rãi nhiều lĩnh vực giữa các nước trên thế giới chuyển dần sang nền kinh
tế tri thức.

Quyền tác giả đối với tác phẩm viết đang là vấn đề mới và bức xúc ở nước
ta. Nhà nước đã có quy định bảo hộ quyền tác giả trong Điều 60 của Hiến pháp
1992 sửa đổi, bổ sung: "Công dân có quyền nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, phát
minh, sáng chế, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuấ,t sáng tác, phê bình văn học,
nghệ thuật và tham gia các hoạt động văn hoá khác. Nhà nước bảo hộ quyền tác
giả, quyền sở hữu công nghiệp". Khi cụ thể hoá quy định của Hiến pháp, Bộ luật
dân sự 1995 cũng đã dành riêng chương I, phần thứ 6 quy định về quyền tác giả,
đánh dấu một bước phát triển về pháp luật quyền tác giả ở Việt Nam.
Những quy định pháp luật về quyền tác giả trong Bộ luật dân sự là cơ sở
pháp lý để các tác giả có ý thức hơn về quyền của mình với những sáng tạo tinh
thần và bảo vệ được tác phẩm trước các hành vi vi phạm. Trong giai đoạn vừa qua,
đối với tác phẩm viết việc vi phạm bản quyền như ghi tên sai tác giả, "đạo" văn của
người khác, trích đoạn không phù hợp và không đảm bảo tính trung thực của tác
phẩm gốc, tự ý sửa đổi tác phẩm mà không có sự chấp thuận trước tác giả... xảy ra
một cách tràn lan. Với xu hướng hội nhập về kinh tế, Việt Nam trở thành một bộ
phận của thế giới và cùng với xu thế đó, tác phẩm viết Việt Nam cũng là một bộ
phận tác phẩm của thế giới. Trong hoàn cảnh đó, các nhà cầm bút Việt Nam, chủ
sở hữu tác phẩm viết buộc phải xác lập quyền bảo hộ cho tác phẩm của mình.


2
Quan hệ quốc tế với các nước về lĩnh vực này, Việt Nam đã ký với Hoa Kỳ Hiệp
định về thiết lập quan hệ quyền tác giả ngày 27/6/1997, có hiệu lực ngày
23/12/1998; ký với Thụy Sĩ Hiệp định về bảo hộ sở hữu trí tuệ ngày 7/7/1999 có
hiệu lực từ ngày 8/6/2000. Gần đây nhất, Việt Nam đã chính thức trở thành thành
viên của Công ước Berne bảo hộ tác phẩm văn học và nghệ thuật từ ngày
26/10/2004. Việt Nam cần có những phương hướng thể chế hoá các quy định của
Công ước Berne và các Hiệp định trong quá trình xây dựng Luật sở hữu trí tuệ.
Trong quá trình phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay,
Đảng và Nhà nước ta "từng bước phát triển nền kinh tế tri thức" (Văn kiện Đại hội

Đảng lần IX, trang 91, năm 2001), đồng thời thực hiện một trong các nhiệm vụ
trọng tâm là "làm tốt công tác bảo hộ quyền tác giả" như Nghị quyết Trung ương 5
khoá VIII của Đảng cộng sản Việt Nam đề ra.
Với điều kiện đó, việc nghiên cứu đề tài "Quyền tác giả đối với tác phẩm
viết trong pháp luật dân sự Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" sẽ góp
phần nhỏ bé làm sáng tỏ thêm về mặt lý luận và kinh nghiệm thực tiễn các quy
định pháp luật về quyền tác giả ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Quyền tác giả là một lĩnh vực còn mới mẻ ở Việt Nam. Cho đến nay, có rất
ít công trình nghiên cứu, trong đó đáng chú ý là luận án của Tiến sĩ Lê Xuân Thảo
năm 1996 đề cập chủ yếu tới cơ chế điều chỉnh pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu
trí tuệ trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam [18]. Sau đó, năm 1999, có luận án
thạc sĩ luật học về đề tài "Một số vấn đề về quyền tác giả trong luật dân sự Việt
Nam" của tác giả Kiều Thị Thanh [19]; năm 2002 có luận văn thạc sĩ “Hợp đồng
sử dụng tác phẩm theo quy định của Bộ luật dân sự” của tác giả Lê Đình Nghị [3].
Việc tìm hiểu quyền tác giả mới dừng lại ở một số hội thảo quốc gia và quốc tế do
Bộ Văn hoá - thông tin tổ chức.
Gần đây, đặc biệt là khi Việt Nam tham gia Công ước Berne ngày
26/10/2004, đã có một số bài viết trên các tạp chí về quyền tác giả. Nhưng chủ yếu


3
xoay quanh vấn đề tác giả yêu cầu khởi kiện hành vi vi phạm quyền tác giả và
quyền tác giả với một số hoạt động nhất định trong lĩnh vực văn hoá - thông tin.
Bởi vậy, chưa có một công trình khoa học nghiên cứu riêng về quyền tác giả một
cách có hệ thống ở Việt Nam, đặc biệt là quyền tác giả đối với tác phẩm viết theo
quy định của pháp luật quốc gia để hội nhập với pháp luật thế giới về lĩnh vực này.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài


Quyền tác giả đối với tác phẩm văn học và nghệ thuật có phạm vi rộng lớn.
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu mảng quyền tác giả đối với tác phẩm viết, từ đó
có những đề xuất góp phần hoàn thiện pháp luật về quyền tác giả trong lĩnh vực
này, khi Việt Nam vừa là thành viên chính thức của Công ước Berne, đã và đang
tích cực hội nhập với đời sống kinh tế - pháp luật trong khu vực và trên thế giới.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài

Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử là cơ sở phương
pháp luận để nghiên cứu đề tài và luận văn rất coi trọng việc sử dụng các phương
pháp như phân tích, tổng hợp, so sánh giúp làm sáng tỏ những vấn đề nghiên cứu.
5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài

Trong luận văn, tác giả đã cố gắng làm sáng tỏ các quy định pháp luật dân
sự về quyền tác giả đối với tác phẩm viết, chú trọng là các quy định trong Bộ luật
dân sự 1995. Đồng thời, tác giả cũng cố gắng nghiên cứu một cách có hệ thống
những quy định về quyền tác giả trong các Công ước và Hiệp ước, đặc biệt là
Công ước Berne, các quy định của pháp luật Việt Nam trước khi có Bộ luật dân sự
1995 về quyền tác giả để từ đó rút ra những so sánh, kết luận cần thiết; tìm ra các
đề xuất để góp phần hoàn thiện quy định pháp luật về quyền tác giả đối với tác
phẩm viết ở Việt Nam hiện nay.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau
đây:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và pháp lý về quyền tác giả đối với tác phẩm viết
như khái niệm quyền tác giả, tác phẩm viết, sự phát triển hệ thống pháp luật quy
định về vấn đề này.


4
- Phân tích và lý giải những nội dung trọng tâm quy định về quyền tác giả
đối với tác phẩm viết trong Bộ luật dân sự 1995 và các văn bản hướng dẫn thi

hành, có đối chiếu với các quy định của một số Công ước, Hiệp ước về quyền tác
giả.
- Xem xét tình hình thực thi các quy định pháp luật về quyền tác giả trong
Bộ luật dân sự 1995 qua một số năm và những vấn đề về quyền tác giả với tác
phẩm viết trong Công ước Berne khi Việt Nam chính thức là thành viên của Liên
hiệp bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học và nghệ thuật.
6. Những đóng góp của luận văn

- Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên ở Việt Nam chuyên sâu về
mảng pháp luật quyền tác giả đối với tác phẩm viết.
- Luận văn đã đề xuất một số kiến nghị về các quy định pháp luật và việc áp
dụng hiệu quả các quy định pháp luật quyền tác giả đối với tác phẩm viết trong tiến
trình Việt Nam thực thi Công ước Berne, hội nhập với nền kinh tế - pháp luật khu
vực và thế giới.
7. Cơ cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn bao gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý về quyền tác giả đối với tác phẩm viết ở Việt
Nam
Chương 2: Một số nội dung cơ bản của quyền tác giả đối với tác phẩm viết
Chương 3: Tình hình thực thi các quy định pháp luật dân sự về quyền tác giả
đối với tác phẩm viết ở Việt Nam và những kiến nghị.


5
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC
PHẨM VIẾT Ở VIỆT NAM
1.1.


KHÁI NIỆM QUYỀN TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM VIẾT

1.1.1. Quyền tác giả
Quyền tác giả chỉ thực sự ra đời vào cuối thế kỷ thứ XV. Khi đó, con người
đã có thể sao chép các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học của mình bằng máy
in một cách dễ dàng. Sự thuận lợi đó đem lại lợi nhuận lớn cho các ông chủ nhà in.
Sau đó không lâu người ta cũng ý thức được rằng nếu không có các tác giả tạo ra
những tác phẩm thì không có tác phẩm để in. Nên vậy, việc ban hành đạo luật về
quyền tác giả đầu tiên đã ra đời. Đó là đạo luật Anmo của nước Anh năm 1970.
Lần đầu tiên tác giả đã được thừa nhận có một số quyền đối với sách của mình quy
định trong văn bản luật. Nhưng đạo luật này chỉ liên quan đến quyền tái bản sách
nên người ta gọi là quyền tác giả (copyright). Thuật ngữ “quyền tác giả” đã tồn tại
cho đến ngày nay và đã được mở rộng phạm vi bảo hộ với nhiều lĩnh vực khác
không chỉ riêng với sách [18].
Cùng với sự phát triển của pháp luật về quyền tác giả, thuật ngữ “quyền tác
giả” càng được hiểu rộng hơn về nội dung. Vào cuối thế kỷ thứ XVIII, các nhà bác
học trong đó có Kant đã đưa ra quan điểm quyền tác giả không chỉ là quyền về tài
sản mà rộng hơn thế nó còn là quyền về nhân cách. Tác phẩm được tác giả sáng
tạo không chỉ đơn thuần là một thứ hàng hoá mà nó là nhân cách của tác giả, là sự
kéo dài chính bản thân con người tác giả. Và đó cũng là nguồn gốc sản sinh ra
quyền tinh thần của tác giả. Nội hàm của thuật ngữ “quyền tác giả” đã được hiểu
hoàn chỉnh hơn. Cho đến nay, nội dung của thuật ngữ đó được giữ nguyên và ngày
càng được cụ thể hoá, chi tiết hơn.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, khái niệm quyền tác giả cũng không
được định nghĩa trực tiếp trong Pháp lệnh quyền tác giả 1994 cũng như trong Bộ
luật dân sự.


6
Xét ở góc độ nội hàm của khái niệm, tại Điều 2 của Pháp lệnh quyền tác

giả quy định: “Quyền tác giả là quyền về tinh thần và vật chất của tác giả”. Khi
một tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học ra đời là đồng thời xuất hiện quyền tác
giả của người sáng tạo ra tác phẩm đó. Tác giả có quyền về tinh thần và vật chất.
Thuật ngữ gọi hai nhóm quyền này đến Bộ luận dân sự 1995 được thay bằng thuật
ngữ khác, nhưng ý niệm không thay đổi. Đó là “quyền nhân thân” (quyền tinh
thần) và “quyền tài sản” (quyền vật chất). Điều 750 Bộ luật dân sự quy định:
“Quyền của tác giả bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả đối với
tác phẩm do mình sáng tạo”. Như vậy một cá nhân, tổ chức được xác định tư cách
tác giả của tác phẩm thì có quyền nhân thân và có quyền tài sản đối với tác phẩm
đó. Bộ luật dân sự đã dành riêng Điều 26 để quy định thế nào là quyền nhân thân.
Đó là quyền dân sự gắn liền với mỗi chủ thể, không thể chuyển giao cho người
khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Việc xác nhận một giá trị nhân
thân là quyền nhân thân phải được pháp luật thừa nhận như một quyền dân sự tuyệt
đối của một cá nhân, tổ chức và mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền nhân thân
của người khác. Tại Điều 751, Điều 752, Điều 753 của Bộ luật dân sự đã liệt kê
những giá trị nhân thân được coi là quyền nhân thân của tác giả, chủ sở hữu tác
phẩm. Theo đó, có thể hiểu: quyền nhân thân trong quyền tác giả là những quyền
xác lập mối liên hệ giữa bản thân tác giả với tác phẩm, gắn liền trực tiếp với tác
giả, không được chuyển giao cho chủ thể khác, trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác.
Về quyền tài sản là những quyền khi được thực hiện làm phát sinh lợi ích
vật chất nhất định. Trong quyền tác giả: quyền tài sản được hiểu là quyền của tác
giả, chủ sở hữu tác phẩm cho phép người khác sử dụng tác phẩm và hưởng các lợi
ích vật chất từ việc sử dụng đó.
Theo quy định của Điều 750, Điều 751 của Bộ luật dân sự có thể hiểu rằng:
quyền tác giả bao gồm các quyền nhân thân và các quyền tài sản. Quyền nhân
thân luôn gắn liền với tác giả, quyền tài sản đối với tác phẩm thuộc về tác giả hoặc
thuộc về người khác theo tính chất quan hệ lao động tạo ra tác phẩm.



7
Với ý nghĩa là một quan hệ pháp luật dân sự, quyền tác giả bao gồm ba yếu
tố: chủ thể, khách thể và nội dung. Chủ thể của quyền tác giả là những người tham
gia vào quan hệ pháp luật về quyền tác giả. Đó là tác giả, chủ sở hữu tác phẩm,
người sử dụng tác phẩm. Trong đó, tác giả theo quy định của Bộ luật dân sự tại
Điều 751, Điều 752 bao gồm: tác giả đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm và tác giả
không đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm. Tác giả là người trực tiếp sáng tạo toàn
bộ hoặc một phần tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học. Với tác giả đồng thời là
chủ sở hữu tác phẩm, khi tác giả sáng tạo ra tác phẩm không phụ thuộc vào bất cứ
một mệnh lệnh hành chính nào, cũng không phụ thuộc vào khinh phí được cấp để
sáng tạo hoặc hợp đồng sáng tạo thuê. Với tác giả không đồng thời là chủ sở hữu
tác phẩm thì tác phẩm được sáng tạo ra theo nhiệm vụ được giao cho tác giả hoặc
theo hợp đồng thuê tác giả sáng tác. Tác giả, chủ sở hữu tác phẩm có các quyền
nhân thân và quyền tài sản quy định tại Điều 751, Điều 752, Điều 753 của Bộ luật
dân sự. Người sử dụng tác phẩm là người trực tiếp hưởng các lợi ích từ việc khai
thác tác phẩm. Họ có các quyền tác giả đối với tác phẩm theo thoả thuận trong hợp
đồng sử dụng tác phẩm với tác giả hoặc với chủ sở hữu tác phẩm. Quan hệ này
luôn gắn liền với mục đích thương mại của việc sử dụng tác phẩm. Chủ thể của
quan hệ pháp luật về quyền tác giả còn là những người được sử dụng tác phẩm
không phải xin phép, không phải trả thù lao cho tác giả, chủ sở hữu tác phẩm. Việc
sử dụng tác phẩm trong trường hợp ở đây không nhằm mục đích thương mại. Và
phạm vi của hình thức sử dụng trên được quy định tại Điều 761 của Bộ luật dân sự.
Khách thể của quan hệ pháp luật về quyền tác giả là những tác phẩm văn
học, khoa học, nghệ thuật đã được tác giả sáng tạo thể hiện dưới hình thức vật chất
nhất định. Điều 747 Bộ luật dân sự quy định các loại tác phẩm được coi là khách
thể của quan hệ pháp luật về quyền tác giả. Tuy nhiên, pháp luật không quy định
mọi tác phẩm đều được bảo hộ theo pháp luật về quyền tác giả. Điều 749 Bộ luật
dân sự quy định những tác phẩm có nội dung vi phạm pháp luật, trái với đạo đức
xã hội không được Nhà nước bảo hộ, nên cũng không là khách thể của quan hệ
pháp luật về quyền tác giả.



8
Khoản 1 Điều 747 Bộ luật dân sự quy định các tác phẩm văn học, nghệ
thuật, khoa học, được nhà nước bảo hộ quyền tác giả bao gồm:
a. Tác phẩm viết ;
b. Các bài giảng, bài phát biểu;
c. Tác phẩm sân khấu và các loại hình biểu diễn nghệ thuật khác;
d. Tác phẩm điện ảnh, vi-đi-ô;
đ. Tác phẩm phát thanh truyền hình;
e. Tác phẩm báo chí;
g. Tác phẩm âm nhạc;
h. Tác phẩm kiến trúc;
i. Tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng;
k. Tác phẩm nhiếp ảnh;
l. Công trình khoa học, sách giáo khoa, giáo trình;
m. Các bức hoạ đồ, bản vẽ, sơ đồ, bản đồ có liên quan đến địa hình, kiến
trúc, công trình khoa học;
n. Tác phẩm dịch, phóng tác cải biên, chuyển thể, biên soạn, chú giải, tuyển
tập, hợp tuyển;
o. Phần mềm máy tính;
p. Các tác phẩm khác do pháp luật quy định.
Nội dung quan hệ pháp luật về quyền tác giả là các quyền và nghĩa vụ của
các chủ thể. Quyền tác giả được phát sinh từ thời điểm tác phẩm được thể hiện
dưới một hình thức vật chất nhất định. Đó cũng là thời điểm chủ thể quan hệ pháp
luật này được hưởng quyền tác giả đối với tác phẩm của mình.
Tiếp cận quyền tác giả dưới góc độ là quyền và nghĩa vụ của chủ thể, có thể
hiểu: quyền tác giả là cách thức xử sự mà pháp luật cho phép hoặc bắt buộc tác
giả, chủ sở hữu tác phẩm, người sử dụng tác phẩm tiến hành bảo đảm quyền của
mình hoặc đáp ứng việc việc thực hiện quyền của chủ thể khác đối với tác phẩm.

Hiểu theo nghĩa khách quan thì quyền tác giả là một chế định pháp luật:
Quyền tác giả là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành xác


9
định các quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm văn
học, nghệ thuật, khoa học; quy định trình tự xác lập và bảo vệ các quyền đó khi
được thực hiện và khi có hành vi vi phạm. Như vậy, quyền tác giả không chỉ bao
gồm các quyền cụ thể mà còn mở rộng các vấn đề khác như giới hạn quyền tác giả,
thừa kế quyền tác giả, hợp đồng sử dụng tác phẩm, các chế tài quyền tác giả.
Tóm lại, quyền tác giả được pháp luật xác lập, bảo vệ để bảo đảm quyền và
lợi ích chính đáng của những người sáng tạo, những người tham gia các hoạt động
văn hoá, nghệ thuật, khoa học; khuyến khích sự sáng tạo nghệ thuật của mọi công
dân, xây dựng niềm tin cho tác giả, chủ sở hữu tác phẩm khi truyền bá tác phẩm
rộng rãi trong công chúng; bảo đảm hoạt động sử dụng tác phẩm lành mạnh, hợp
pháp.
1.1.2. Tác phẩm viết
Sơ lược về lịch sử bảo hộ quyền tác giả có thể thấy tác phẩm viết là đối
tượng được luật quyền tác giả bảo hộ sớm nhất. Đồng thời với sự xuất hiện ghề in
ấn là hoạt động in sách để thu lợi nhuận. Để bảo đảm thu lợi nhuận cao thì chủ nhà
in phải được độc quyền in tác phẩm nào đó, mà tác phẩm chỉ có thể được tác giả
sáng tạo ra. Nên đạo luật đầu tiên về quyền tác giả đã ra đời, đạo luật Anmo của
Anh năm 1710, quy định việc tái bản sách. Đây là đạo luật sớm nhất thừa nhận tác
giả có một số quyền như: 21 năm đối với sách đã in trước ngày ban bố đạo luật và
hết 14 năm nữa nếu tác giả còn sống thì hết hạn đầu tiên. Nhưng để được hưởng
những quyền đó, tác giả phải đăng ký tác phẩm và tên tác giả với cơ quan có thẩm
quyền, phải nộp lưu chiểu 9 bản tác phẩm cho các trường Đại học và thư viện [18].
Quyền tác giả chỉ riêng với sách đã được pháp luật điều chỉnh trước tiên ở nước
Anh. Sau đó, Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787, trong mục 8 của Điều 1 cho phép quốc
hội quyền quy định “cách bảo đảm trong một thời gian nhất định cho các tác giả

và người sáng chế độc quyền về những bản viết và phát minh của họ”. Khái niệm
“những bản viết” được bảo hộ quy định rõ hơn trong Đạo luật liên bang đầu tiên
về quyền tác giả năm 1770. Luật này bảo hộ tác phẩm viết như: sách, bản đồ, đồ án
với thời hạn là 14 năm và có thể được gia hạn nếu tác giả còn sống khi thời hạn lần


10
thứ nhất đã hết. Như vậy từ năm 1770, khái niệm “tác phẩm viết” đã chính thức
xuất hiện, là một đối tượng được bảo hộ theo luật quyền tác giả. Và Đạo luật liên
bang của Hoa Kỳ đưa ra khái niệm đó bằng cách liệt kê các dạng tồn tại của tác
phẩm viết [18].
Tác phẩm viết cũng là đối tượng bảo hộ quyền tác giả theo pháp luật Việt
Nam được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 747 của Bộ luật dân sự. Trong Bộ luật
dân sự cũng không có điều khoản nào giải thích thuật ngữ “tác phẩm viết”. Nghị
định 76/CP ngày 29/11/1996 hướng dẫn thi hành một số quy định về quyền tác giả
trong Bộ luật dân sự, tại Điều 4 khoản 1 có quy định: “Tác phẩm viết thể hiện dưới
hình thức chữ viết hoặc ký tự như: tiểu thuyết, truyện ngắn, bút ký, ký tự, tuỳ bút,
hồi ký, thơ, trường ca, kịch bản, bản nhạc, công trình nghiên cứu văn hóa, văn học,
nghệ thuật và các bài viết khác”.
Trước khi tìm hiểu loại hình tác phẩm viết, chúng ta cần xem xét thế nào là
một tác phẩm được bảo hộ theo luật quyền tác giả.
Khái niệm tác phẩm theo định nghĩa của “Từ điển tiếng Việt thông dụng”
do tác giả Như ý chủ biên được hiểu: tác phẩm là sản phẩm của các nhà khoa học
viết ra, tạo ra. Đó là tác phẩm do chính các nhà khoa học viết ra hoặc tạo ra bằng
tài năng trí tuệ của mình. Bộ luật dân sự cũng như các văn bản pháp luật về quyền
tác giả hiện hành không định nghĩa khái niệm này. Nhưng để một tác phẩm được
bảo hộ theo luật quyền tác giả thì tác phẩm được hiểu với các nội dung cơ bản sau:
- Tác phẩm phải là kết quả hoạt động sáng tạo trí tuệ, phải thể hiện ý tưởng
người tạo ra tác phẩm bằng một hình thức cụ thể: chữ viết, ký tự,...người khác có
thể hiểu được;

- Tác phẩm không chỉ thể hiện ý tưởng mà phải là sự diễn đạt, biểu hiện ý
tưởng hoàn chỉnh;
- Để được bảo hộ theo luật quyền tác giả thì một tác phẩm phải được ổn
định một cách hữu hình. Việc biểu hiện tác phẩm bằng cách thức hữu hình đó phải
đủ lâu hoặc ổn định để cho phép mọi người nhận thức được nó, tái tạo hoặc truyền
đạt nó bằng cách khác trong một khoảng thời gian nhất định chứ không phải chớp


11
nhoáng. Điều đó cũng có nghĩa là phương tiện, cách thức hoặc phương thức xác
định tác phẩm không có ý nghĩa quyết định [49, tr.32].
Pháp luật về quyền tác giả không bảo hộ ý tưởng của tác phẩm mà bảo hộ
sự thể hiện các ý tưởng của tác giả trong tác phẩm. Người không giữ quyền tác giả
hoàn toàn có quyền sử dụng ý tưởng của tác phẩm này để tạo ra một tác phẩm
khác, tức là sáng tạo ra cách thể hiện khác của ý tưởng đó, mà không bị coi là xâm
phạm quyền đối với tác phẩm thứ nhất. Một tác phẩm khoa học có thể chứa đựng
các thông tin về một sáng kiến khoa học, nhưng không phải vì thế tác giả có quyền
ngăn cấm người khác thể hiện ý tưởng đó, cũng không có quyền ngăn cấm người
khác tạo ra tác phẩm khác về sáng kiến này. Bởi vậy, phát minh khoa học không
được coi là đối tượng quyền tác giả, nhưng tác phẩm về phát minh đó lại thuộc
phạm vi quyền này [13, tr.318].
Trở lại với khái niệm tác phẩm viết, khoản 1 Điều 4 của Nghị định 76/CP
không trực tiếp đưa ra định nghĩa tác phẩm viết mà liệt kê các dạng của tác phẩm
viết. Các tác phẩm này được thể hiện dưới dạng các thể loại văn học; công trình
nghiên cứu văn hóa, văn học, nghệ thuật; bản nhạc và các bài viết khác. Tìm hiểu
các đối tượng của quyền tác giả đối với tác phẩm viết giúp chúng ta hiểu rõ nội
hàm thuật ngữ “tác phẩm viết”.
1.1.2.1 Tác phẩm viết được thể hiện dưới dạng các thể loại văn học
Đó là những tác phẩm thể hiện dưới dạng các thể loại văn học nghệ thuật
được bảo hộ theo luật quyền tác giả. Tác phẩm văn học là sự thống nhất trọn vẹn

của các yếu tố đề tài, chủ đề, tư tưởng, nhân vật, kết cấu, cốt truyện, lời văn. Nhưng
sự thống nhất ấy lại được thực hiện theo những quy luật nhất định. Thể loại tác
phẩm văn học là khái niệm chỉ quy luật loại hình của tác phẩm, trong đó ứng với
mỗi loại nội dung nhất định có một loại hình thức nhất định, tạo cho tác phẩm hình
thức tồn tại chỉnh thể. Hình thức này được pháp luật về quyền tác giả bảo hộ.
Hình thức thể hiện của các tác phẩm văn học nghệ thuật được bảo hộ chủ
yếu là các thể loại văn học hiện đại. Các thể loại này phải bắt đầu từ những năm 20
của thế kỷ XX mới xuất hiện đầy đủ. Dưới góc độ lý luận văn học Việt Nam, các


12
thể loại văn học được chia một cách quy ước làm năm loại: tự sự, trữ tình, kịch, ký
và văn chính luận. Phân loại như trên là nấc thang thứ nhất để tiến lên nhận thức
thể loại của tác phẩm. Các thể loại này phân biệt nhau bởi hình thức lời văn: thơ
(văn vần) hay văn xuôi [21].
Nhóm các tác phẩm văn học nghệ thuật thuộc thể loại tác phẩm văn học tự
sự được xếp là tác phẩm viết, có đặc điểm chung phản ánh đời sống trong tính
khách quan của nó qua con người, hành vi. Về hình thức của tác phẩm tự sự có tiểu
thuyết, truyện vừa, truyện ngắn, trường ca là các tác phẩm viết được bảo hộ quyền
tác giả.
Tiểu thuyết là hình thức tự sự cỡ lớn đặc biệt phổ biến trong thời cận đại và
hiện đại với những giới hạn rộng lớn trong hình thức trần thuật. Tiểu thuyết có thể
chứa đựng lịch sử của nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục, đạo đức, xã hội
miêu tả cụ thể các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng. Đó
là thể loại chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống thể loại văn học cận đại, hiện đại.
Tiểu thuyết có những đặc điểm riêng so với các thể loại văn học khác. Thứ nhất là
tiểu thuyết có quy mô lớn với cái nhìn cuộc sống từ góc độ đời tư. Đặc điểm thứ
hai làm cho tiểu thuyết khác với truyện thơ, trường ca là chất văn xuôi, tức là một
sự tái hiện cuộc sống không thi vị hoá, lãng mạng hoá, lý tưởng hoá. Miêu tả cuộc
sống của một thực tại bản thân nó, bao gồm cái cao cả lẫn tầm thường, nghiêm túc

và buồn cười, bi và hài, cái lớn lẫn cái nhỏ. Thứ ba, nhân vật tiểu thuyết khác với
các nhân vật sử thi, nhân vật kịch ở chỗ: nhân vật tiểu thuyết là con người nếm trải
trong khi các nhân vật kia thường là các nhân vật hành động. Tiểu thuyết miêu tả
con người đang trưởng thành, biến đổi trong hoàn cảnh, không tách nó khỏi hoàn
cảnh một cách nhân tạo, không cô lập cũng như cường điệu sức mạnh của nó. Vì
vậy, miêu tả thế giới bên trong, phân tích tâm lý là một phương diện rất đặc trưng
cho tiêủ thuyết. Thứ tư, điều làm cho tiểu thuyết khác với truyện ngắn trung cổ,
truyện vừa, là ở chỗ trong các chuyện ấy cốt truyện đóng vai trò chủ yếu cùng với
nhân vật. Mọi yếu tố tác phẩm được tổ chức sát với sự vận động của cốt truyện và
tính cách hầu như không có gì thừa. Nhưng tiểu thuyết chứa bao nhiêu cái thừa so


13
với truyện vừa và truyện ngắn trung cổ, mà đó lại là cái chính yếu trong thành phần
tiểu thuyết như suy tư của nhân vật về thế giới và đời sống, sự phân tích cặn kẽ các
diễn biến tình cảm...Thứ năm là không có khoảng cách giữa người trần thuật và nội
dung trần thuật. Điều này làm cho tiểu thuyết trở thành một thể loại dân chủ cho
phép người trần thuật có thái độ thân mật với nhân vật của mình. Kết cấu của tiểu
thuyết cũng thường là kết cấu để ngỏ [21]. Những yếu tố hình thức thể hiện nội
dung của tiểu thuyết đó được bảo hộ quyền tác giả.
Tóm lại tiểu thuyết là thể loại văn học có khả năng tổng hợp nhiều nhất các
khả năng nghệ thuật của các loại văn học khác. Đó là thể loại tự sự dân chủ, năng
động và giàu khả năng phản ánh đời sống nhiều mặt bậc nhất trong các thể loại
văn học.
Truyện vừa: là thể loại văn xuôi tự sự cỡ trung bình. Belinxki phân biệt tiểu
thuyết và truyện vừa chủ yếu theo dung lượng, tuy nhiên không nên hiểu dung
lượng chỉ là độ dài ngắn của văn bản. Các truyện ngắn trung đại của nước ta như
“Truyền kỳ mạn lục”, “Truyền kỳ tân phả” tuy là ngắn nhưng lại gần truyện vừa
hơn truyện ngắn. Dung lượng truyện vừa thể hiện ở bình diện trần thuật nhưng
không nên hiểu truyện vừa như là sự thu hẹp phạm vi tái hiện đời sống. So với tiểu

thuyết, trần thuật của truyện vừa thường hàm xúc hơn, bám sát sự phát triển của cốt
truyện và đặc điểm nhân vật hơn. Thế giới truyện vừa được tái hiện trong một
khoảng cách xa hơn tiểu thuyết. Vì vậy, phương diện đồ vật, tâm lý, ý nghĩ, ngôn
ngữ...của đời sống không được tái hiện chi tiết cụ thể như tiểu thuyết. Cách trần
thuật của truyện vừa trầm tĩnh, ít xoáy sâu vào các tình thế bi thảm mang tính kịch
gay gắt. Các truyện vừa nổi tiếng như: “Con đầm bích” của Puskin, “A-Quy chính
truyện” của Lỗ Tấn.
So với tiểu thuyết, câu văn truyện vừa thường giản dị, gọn gàng, sáng rõ, ít
trang sức làm cho sự trần thuật nói chung nhanh hơn. Điều đó gắn liền với đối
tượng tái hiện của truyện vừa là các sự kiện, các cuộc đời thường đặc sắc, khác
thường hoặc các hiện tượng đời sống nổi bật. Truyện vừa ít miêu tả quá trình vận
động của tính cách nhân vật, của quan hệ hơn tiểu thuyết. Nên truyện vừa có phạm


14
vi miêu tả đời sống khác với tiểu thuyết và điều đó quyết định đặc trưng của thể
loại này. Các tác phẩm của nước ta ghi là “truyện” thường có đặc điểm gần với
truyện vừa hơn là tiểu thuyết. Ví dụ: các tiểu thuyết của ta như : “Đất nước đứng
lên”, “Vùng mỏ” đều gần với truyện vừa hơn là tiểu thuyết xét về dung lượng. Với
các đặc điểm riêng đó tạo nên hình thức thể hiện của truyện vừa khác với tiểu
thuyết.
Truyện ngắn: là hình thức ngắn của tự sự. Truyện gắn có thể kể về một cuộc
đời hoặc một đoạn đời, một sự kiện hay một chốc lát trong cuộc sống nhân vật,
nhưng cái chính của truyện ngắn là cái nhìn tự sự của cuộc đời. Truyện ngắn trung
đại cũng là truyện ngắn nhưng gần với truyện vừa. Truyện ngắn hiện đại là một
kiểu tư duy mới nên truyện ngắn đích thực xuất hiện muộn trong lịch sử văn học.
Ví dụ: Các truyện ngắn của L.Tônxtôi, Gorki, Lỗ Tấn hay các truyện ngắn của
Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Nam Cao...
Truyện ngắn nói chung không phải vì “truyện” của nó “ngắn” mà vì cách nắm bắt
cuộc sống của thể loại. Tác giả truyện ngắn thường hướng tới phác hoạ một hiện

tượng, phát hiện nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay tâm hồn con người. Vì
vậy, truyện ngắn thường rất ít nhân vật, ít sự kiện phức tạp. Điểm khác biệt cơ bản
giữa tiểu thuyết và truyện ngắn là nếu nhân vật chính của tiểu thuyết thường là một
thế giới thì nhân vật chính của truyện ngắn là một mảnh nhỏ của thế giới. Truyện
ngắn thường không nhằm hướng tới việc khắc hoạ những tính cách điển hình, có
cá tính đầy đặn nhiều mặt trong tương quan với hoàn cảnh. Cốt truyện của truyện
ngắn có thể là nổi bật, hấp dẫn nhưng chức năng của nó nói chung là để nhận ra
một điều gì, gây một ấn tượng sâu đậm về cuộc đời, tình người. Kết cấu của truyện
ngắn thường là một sự liên tưởng tương phản, bút pháp trần thuật thường là chấm
phá. Và yếu tố đặc trưng bậc nhất của truyện ngắn là chi tiết có dung lượng lớn,
hành văn mang ẩn ý tạo cho tác phẩm những chiều sâu chưa thể hiện hết.
Tựu chung lại, truyện ngắn là một thể loại dân chủ gần gũi với đời sống
hàng ngày, súc tích dễ đọc, gắn liền với hoạt động báo chí có tác dụng, ảnh hưởng
kịp thời trong đời sống.


15
Trường ca: là thể loại tự sự bằng thơ. Phương Tây thường gọi là “trường
ca”, người Trung Quốc gọi là “tự sử thi” hay “trường thiên tự sử thi”. Trường ca là
loại tác phẩm mà yếu tố cốt truyện và yếu tố trữ tình kết hợp hài hoà.
Đặc điểm chung của trường ca là quan tâm đến con người và những tình cảm của
nó nên nhân vật trong trường ca thường là những nhân vật bình thường, những cá
nhân với những lợi ích thuần tuý của con người. Xung đột trong trường ca thường
mang tính cục bộ gắn với số phận những con người. Trường ca hiện đại có cốt
truyện kết cấu tự do, nhiều trường hợp sự kiện, cốt truyện không được miêu tả mà
được nhắc đến để làm nền cho trữ tình, trong khi ở tiểu thuyết và truyện thì yếu tố
đó là đối tượng miêu tả chính. Trường ca có thể viết dưới dạng kịch thơ như “Nhà
thông thái” của Letxing, “Tiếng địch sông ô” của Phạm Huy Thông, “Người thợ
ảnh” của Huy Cận.
Nhóm tác phẩm văn học, nghệ thuật thuộc thể loại trữ tình được liệt kê là

đối tượng tác phẩm viết để bảo hộ quyền tác giả gồm có thơ và tuỳ bút. Đặc điểm
chung của tác phẩm thuộc loại trữ tình là thế giới chủ quan của con người, cảm
xúc, tâm trạng, ý nghĩ được trình bày trực tiếp và làm thành nội dung chủ yếu. Sự
biểu hiện trực tiếp những cảm xúc, suy tưởng của con người cũng là cách phản ánh
thế giới của tác phẩm trữ tình làm sống dậy cái thế giới chủ thể của hiện thực
khách quan, giúp chúng ta đi sâu vào thế giới suy tư tâm trạng, nỗi niềm.
Thơ: tiểu thuyết trữ tình tiêu biểu nhất là thơ. Theo đinh nghĩa của “Từ điển
tiếng Việt thông dụng” do tác giả Như ý chủ biên: “Thơ là hình thức nghệ thuật
dùng ngôn ngữ giàu hình ảnh, có nhịp điệu, vần điệu để thể hiện ý tưởng và cảm
xúc nào đó của tác giả một cách hàm xúc”. Hình thức thể hiện ý tưởng thơ của tác
giả là vấn đề quyền tác giả bảo hộ. Với thơ chủ yếu là ngôn ngữ thơ ca và bố cục
bài thơ. Về ngôn ngữ thơ là hình thức của tác phẩm văn học nên đều mang tính
hình tượng, gợi cảm, hàm xúc. Tuy nhiên, ngôn ngữ thơ không bao giờ là ngôn
ngữ khách quan yên tĩnh của tác phẩm tự sự mà thường là lời đánh giá trực tiếp thể
hiện một quan hệ chủ yếu với cuộc đời. Lời thơ trữ tình còn mang tính chất “mê
hoặc”- điểm khác hẳn so với tự sự, kịch hoặc lời của đời thường. Xuân Diệu đã có


16
những lời thơ như thế “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” trong bài “Vội
vàng”. Hơn nữa, ngôn ngữ thơ còn giàu nhạc tính. Đó là âm thanh, nhịp điệu của
từ ngữ. Không thể nói hết về tổ chức một bài thơ - một tác phẩm hoàn chỉnh- gồm
đề thơ, dòng thơ, câu thơ, thể thơ và đoạn thơ. Đề thơ thâu tóm tinh thần cơ bản
của nội dung bài thơ, nhưng có những bài thơ không đề (vô đề). Dòng thơ cũng là
câu thơ khi nó diễn đạt trọn vẹn một ý, cũng có khi hai ba dòng mới thành một câu
trọn nghĩa: “Những đêm dài hành quân nung nấu – Bỗng bồn chồn nhớ mắt người
yêu” (Nguyễn Đình Thi). Một số dòng thơ phối hợp với nhau tạo thành khổ thơ.
Mỗi khổ thơ cũng có thể là một đoạn thơ trong bài thơ ngắn. Nhưng thường dùng
chữ “đoạn thơ” để nói đến một số đoạn thơ, một số dòng thơ thể hiện một ý tưởng
tương đối trọn vẹn. Và tác giả của những bài thơ có quyền bảo vệ chỉnh thể nghệ

thuật của mình, không ai được phép thay đổi cấu tứ bài thơ nếu không được sự
đồng ý của người sáng tác.
Tuỳ bút: là thể loại văn xuôi phóng khoáng. Theo ngọn bút, nhà văn suy
tưởng, trần thuật, nhưng thực chất là thả mình theo dòng liên tưởng xúc cảm để tả
người, tả sự việc. Cái hay của tuỳ bút là qua sự bộc lộ những cảm xúc, nhận xét,
suy tưởng của tác giả làm hiện nên nhân cách một chủ thể giàu có về tâm tình, sắc
sảo về trí tuệ, các sự vật hiện tượng con người hiện lên để làm cơ sở, nguyên cớ,
gợi thức một cái “tôi” suy nghĩ trữ tình.
Tuỳ bút có nhiều thông tin sự thật, nhưng sự thật chỉ là cái cớ để chủ thể bộc
lộ nội tâm. Sự thật trong tuỳ bút ít ỏi và tản mạn, tác giả dùng nhiều liên tưởng,
tưởng tượng để dẫn dắt bạn đọc đi rất xa trong không gian và thời gian, lại dùng
những biện pháp tu từ độc đáo, sáng tạo, những hình ảnh liên hệ bất ngờ, giàu chất
thơ [21, tr.362]. Những bài tuỳ bút như “Dòng kinh quê hương” của Nguyễn Thi,
“Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân. Toàn bài tuỳ bút đó của Nguyễn Tuân
là hình ảnh người lái đò trên Sông Đà ở góc nhìn nghệ thuật điện ảnh rất dũng cảm,
kiên cường trinh phục thiên nhiên.
Kịch bản: về thể loại kịch văn học, tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả là
kịch bản, không nên đánh đồng kịch bản với nghệ thuật sân khấu nói chung. Về


17
một phương diện nào đó, kịch bản được xem như chương trình kế hoạch sẽ được
thực hiện, được biểu diễn trên sân khấu, nghĩa là bất cứ loại kịch nào, kể cả kịch
câm cũng có kịch bản. Nhưng chỉ có kịch hát, kịch nói mới có kịch bản văn học.
Trong phần viết này, chỉ tìm hiểu riêng về kịch bản văn học với tư cách là tác
phẩm viết được bảo hộ theo luật quyền tác giả.
Vì vậy không nên nhầm lẫn kịch bản với nghệ thuật sâu khấu, nhưng nếu
hoàn toàn tách rời thì không hiểu được kịch bản văn học. Kịch bản văn học tự nó
đã là một tác phẩm độc lập và hoàn chỉnh. Xét đến cùng, kịch bản viết ra chủ yếu
không phải là để đọc mà là để diễn. Vì thế mà kịch bản văn học tuy cũng có cốt

truyện, hệ thống nhân vật như tiểu thuyết, nhưng phải mang những đặc điểm khác,
để có thể biểu diễn một cách liền mạch trên sân khấu phục vụ cùng lúc cho một tập
thể công chúng. Tất cả các đặc điểm của kịch bản văn học từ đề tài, chủ đề, nhân
vật, cốt truyện, kết cấu và ngôn ngữ đều bắt nguồn từ đó [21, tr.399-400]. Trong
đó, nhân vật, cốt truyện, kết cấu và ngôn ngữ là hình thức thể hiện đề tài, chủ đề
của kịch bản được bảo hộ quyền tác giả.
Kịch diễn trên sân khấu là phải thông qua hành động. Hành động hiểu theo
nghĩa rộng bao gồm cả ngôn ngữ, cử chỉ, thái độ, quan hệ của diễn viên. Từng
hành động của diễn viên bắt nguồn từ những tình tiết trong kịch bản và hành động
phải dựa vào cốt truyện. Cốt truyện và hành động kịch phải thống nhất tập trung,
đòi hỏi chi tiết, tình tiết, sự kiện không những phải cô đúc, gãy gọn mà còn phải
liên đới nhau một cách chặt chẽ, logic, tự nhiên.
Trong kịch bản chỉ có nhân vật, những lời chỉ dẫn về cảnh vật không thật
cần thiết. Nhưng số lượng nhân vật không nhiều như tiểu thuyết được. Đặc biệt,
kịch bản viết ra để trình diễn trên sân khấu nên không có nhân vật kể chuyện. Nhân
vật trong kịch bản phổ biến chứa đựng cuộc đấu tranh nội tâm. Những nhân vật
như Hămlét, Rômêo, Giutliét của Sêcxpia và nhiều nhân vật trong kịch của Gorki...
đều chứng thực điều đó. Ngôn ngữ trong kịch phải có tính hành động, tính khẩu
ngữ, tính hàm súc, tính tổng hợp và phải phù hợp với tính cách nhân vật. Ngôn ngữ
kịch có tính chất tổng hợp, nghĩa là mang cả yếu tố trữ tình và tự sự.


18
Với thể loại ký văn học, nghệ thuật - đối tượng tác phẩm viết được bảo hộ
quyền tác giả - là loại tác phẩm bút ký, kí sự, hồi ký.
Kí là một biến thể của loại tự sự. Đặc trưng của kí là loại văn xuôi tự sự trần
thuật những người thật, việc thật với những đặc điểm riêng biệt trong mức độ và
tính chất hư cấu, trong vai trò của người trần thuật cũng như mối liên hệ giữa nó
với đặc điểm của kết cấu và cốt truyện. Nhân vật trần thuật trong ký, đa số trường
hợp là tác giả - bộc lộ cảm xúc trữ tình của mình. Và vấn đề kết cấu của tác phẩm

kí được phân làm hai loại: những loại lí có cốt truyện theo lối kết cấu cốt truyện
khai đoạn, phát triển, thắt nút, đỉnh điểm, mở nút; những loại kí không có cốt
truyện thì theo kết cấu - liên tưởng có xen kẽ giữa sự kiện, con người với những
đoạn nghị luận, trữ tình dung lượng lớn của nhân vật trần thuật. Nhìn chung, kết
cấu của kí chủ yếu mang tính chất ghi chép và tự do hơn rất nhiều so với tiểu
thuyết và truyện vừa. ở Việt Nam, các tác phẩm kí nổi tiếng cũng đã xuất hiện từ
sớm như “Thượng kinh ký sự”, “Vũ trung tùy bút”... Trong văn học cách mạng,
thể loại ký bắt đầu từ những năm 20 với sáng tác của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc. Sau
cách mạng Tháng Tám đến nay có nhiều tác phẩm ký có giá trị như “ở rừng” của
Nam Cao, “Người mẹ cầm súng” của Nguyễn Thi...
Xuất phát từ thi pháp, những đặc điểm hình thức mang tính nội dung, phân
kí ra thành nhiều loại.
Bút ký: là loại ký phi cốt truyện theo lối kết cấu liên tưởng. Bút ký tái hiện
con người và sự việc phong phú, nhưng qua đó biểu hiện khá trực tiếp khuynh
hướng cảm nghĩ của tác giả. Do vậy, bút ký mang màu sắc trữ tình. Những yếu tố
trữ tình luôn được xen kẽ với sự việc, vì thế rất dễ phát triển bút ký thành tuỳ bút.
Kí sự: là loại ký có cốt truyện hoàn chỉnh hoặc tương đối hoàn chỉnh, ít
nhiều có yếu tố trữ tình và chính luận nhưng khuynh hướng của tác giả toát ra từ
tình thế và hành động. Yếu tố phi cốt truyện ở loại tác phẩm này không nhiều. Ký
sự ghi chép khá hoàn chỉnh một sự kiện, một phong trào, hay một giai đoạn lịch
sử...Kí sự là bức tranh toàn cảnh, trong đó sự việc và con người đan chéo với nhau,
nhưng gương mặt của nhân vật không thật rõ nét.


19
Hồi kí: là loại ký ghi lại những điều đã trải qua hoặc đã chứng kiến, trong đó
chủ thể trần thuật phải là người trong cuộc kể lại sự việc quá khứ. Hồi kí có thể
nặng về người hay việc, có thể theo dạng kết cấu - cốt truyện hoặc dạng kết cấu liên tưởng.
1.1.2.2. Công trình nghiên cứu văn học, văn hoá, nghệ thuật
Đó là những sản phẩm sáng tạo công phu của tác giả trong lĩnh vực văn hoá,

văn học, nghệ thuật. Tuy nhiên, theo quy định điểm l khoản 1 Điều 747 của Bộ luật
dân sự thì “công trình khoa học, sách giáo khoa, giáo trình” và điểm n khoản 1
của Điều 747 cũng quy định “tác phẩm dịch, phóng tác, cải biên, chuyển thể, biên
soạn, chú giải, tuyển tập, hợp tuyển” được bảo hộ độc lập với “tác phẩm viết” tại
điểm a khoản 1 Điều luật này. Việc xác định căn cứ hay tiêu chí để phân loại các
tác phẩm được bảo hộ như vậy dẫn đến sự chồng chéo, trùng lặp trong việc phân
loại tác phẩm. Với quy định như trên dẫn tới cách hiểu công trình khoa học, sách
giáo khoa, giáo trình và tác phẩm dịch, phóng tác, cải biên, chuyển thể, biên soạn,
chú giải, tuyển tập, hợp tuyển không phải là tác phẩm viết. Mặc dù các tác phẩm
này đều được thể hiện dưới hình thức chữ viết hoặc ký tự.
1.1.2.3. Bản nhạc
Là loại tác phẩm viết được bảo hộ quyền tác giả. Sáng tạo của người nhạc sĩ
trong việc thể hiện lời của bài hát, nốt nhạc, không ai có quyền được sửa đổi, sử
dụng với mục đích kinh doanh mà không được tác giả cho phép.
1.1.2.4. Các bài viết khác
Cũng là tác phẩm viết được bảo hộ. Quy định pháp luật này dự liệu điều
chỉnh các quan hệ xã hội mới về quyền tác giả phát sinh – khi có những đối tượng
bảo hộ mới - cũng được gọi là tác phẩm viết. Ngày 13 tháng 7 năm 2000 Việt Nam
và Hoa kỳ đã ký Hiệp định thương mại song phương và Hiệp định chính thức có
hiệu lực từ ngày 10 tháng 12 năm 2001. Tại khoản 1 điều 4 Chương II của Hiệp
định có quy định: “Mọi loại chương trình máy tính đều được coi là các tác phẩm
viết theo nghĩa quy định tại Công ước Berne và mỗi bên bảo hộ các đối tượng này
như tác phẩm viết”. Pháp luật Việt Nam chưa có quy định nào về chương trình


20
máy tính được coi là tác phẩm viết được bảo hộ. Tiếp đó, tại Điều luật này của
Hiệp định còn ghi: “Mọi sưu tập dữ liệu hoặc sưu tập tư liệu khác, bất kể dưới
dạng đọc bằng máy hoặc dưới dạng khác, mà việc lựa chọn và sắp xếp nội dung là
sự sáng tạo trí tuệ, đều được bảo hộ như tác phẩm”. Đó cũng là đối tượng pháp

luật quyền tác giả ở Việt Nam chưa bảo hộ. Đồng thời với sự kiện Việt Nam chính
thức là thành viên của Công ước Berne bảo hộ tác phẩm văn học nghệ thuật; nên
pháp luật nước ta nhanh chóng ban hành các điều khoản tương ứng với các tiêu
chuẩn của Hiệp định về bảo hộ chương trình máy tính và sưu tập dữ liệu, sưu tập tư
liệu; và để phù hợp với quy định của Công ước đã tham gia.
Như vậy, từ việc phân tích các đối tượng là tác phẩm viết được bảo hộ theo
luật quyền tác giả trên đây, rút ra một số nhận xét sau:
Thứ nhất: Bộ luật dân sự cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành pháp
luật về quyền tác giả chưa quy định trực tiếp khái niệm tác phẩm viết.
Thứ hai: Khoản 1 Điều 4 của Nghị định 76/1996/CP đã liệt kê các loại hình
tác phẩm văn học, văn hoá, nghệ thuật là các tác phẩm viết. Tuy nhiên, tiêu chí để
phân biệt rất nhiều như hình thức thể hiện, nguồn gốc tác phẩm... dẫn đến sự phân
loại chồng chéo, chưa thống nhất.
Thứ ba: sự liệt kê các loại hình tác phẩm viết được bảo hộ theo khoản 1
Điều 4 của Nghị định 76/1996/CP có ưu điểm giúp nhận dạng nhanh các loại tác
phẩm viết; nhưng quy định như thế, vô hình chung lại co hẹp phạm vi tác phẩm
viết được bảo hộ. Ví dụ tác phẩm viết thể hiện dưới hình thức điện tử chưa được
quy định.
Thứ tư: dựa trên tiêu chí các thể loại văn học nghệ thuật và tính chất sáng
tạo tác phẩm để liệt kê tác phẩm viết là chưa có tính ổn định, bền vững. Bởi xét đến
cùng, các loại hình văn học nghệ thuật phát triển phụ thuộc vào sự phát triển nền
kinh tế – xã hội quốc gia. Khi nền kinh tế – xã hội phát triển kéo theo căn cứ, quan
niệm về loại hình văn học nghệ thuật thay đổi theo. Nên vậy, sự liệt kê trên chưa có
tính tổng quát và khách quan cao. Qua việc nghiên cứu sơ lược sự phát triển của


×