Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Tiểu luận Thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.54 KB, 13 trang )

Học viện báo chí và tuyên truyền
Bài tập môn Triết
Thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn
thế giới.
Bài làm.
Cuối thế kỷ thứ XX, sau khi mô hình chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Liên Xô
và Đông Âu sụp đổ, Việt Nam và một số nước XHCN tiếp tục tiến hành đổi
mới, không ít vấn đề liên quan đến CNXH được xem xét lại, trong đó có vấn
đề về thời kỳ quá độ (TKQĐ) lên CNXH. Sự thay đổi nhanh chóng của thế
giới trong mấy thập niên qua đã làm cho những quan điểm tiếp cận về
TKQĐ lên CNXH thay đổi.
Là những người có may mắn được hưởng niềm vui lớn lao ấy trong cuộc đời
con người, chúng ta hoàn toàn có quyền tự hào rằng thế kỷ XX là thế kỷ phát
triển rực rỡ nhất của loài người trong thiên niên kỷ thứ hai. Đó là thế kỷ mà
khoa học và công nghệ phát triển với tốc độ vũ bão, đời sống vật chất và tinh
thần của con người được nâng lên gấp bội. Nhưng đó cũng là thế kỷ có nhiều sự
kiện đau buồn như đã diễn ra hai cuộc chiến tranh thế giới và hàng loạt các cuộc
xung đột vũ trang khiến cho cả cộng đồng nhân loại phải hứng chịu biết bao tôÌ
‰n thất nặng nề. Dấu ấn nổi bật và đậm nét của thế kỷ này là những thắng lợi
trong cuộc đấu tranh cách mạng kiên cường, giành độc lập dân tộc, giải phóng
giai cấp, giải phóng con người trên phạm vi toàn thế giới, được mở đầu bằng
Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại - cuộc cách mạng mà "trong lịch sử loài
người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế".
Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại đã "mở đầu một thời đại
mới trong lịch sử thế giới" và như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Cách
mạng Tháng Mười đã mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc và cả loài
người, mở đầu một thời đại mới trong lịch sử thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên CHXH trên toàn thế giới".


Vào các năm 1957 và 1960, Hội nghị quốc tế các Đảng Cộng sản và Công nhân


xác định: Nội dung cơ bản của thời đại chúng ta là sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội, mở đầu bằng Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại.
Tuy nhiên, kể từ đó, việc nghiên cứu, nhận thức nội dung cơ bản ấy của thời đại
chúng ta đã không tránh khỏi bị chi phối bởi sự thăng trầm của phong trào cộng
sản, công nhân quốc tế và của hệ thống XHCN. Những năm 80 về trước, thắng
lợi không thể phủ nhận được trong công cuộc xây dựng CHXH ở hàng loạt nước
trong hệ thống các nước XHCN, trước hết là Liên Xô, đã xuất hiện một khuynh
hướng tuyệt đối hóa những thành quả đạt được trong công cuộc xây dựng
CHXH, đã hình thành một quan niệm về thời đại dựa trên những ảo tưởng có thể
nhanh chóng thủ tiêu chủ nghĩa tư bản và thúc đẩy một cách chủ quan quá trình
cách mạng XHCN, không phù hợp với quy luật khách quan của sự phát triển xã
hội. Ngược lại, vào những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, khi chế độ
XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, khiến phong trào cách mạng
XHCN thế giới tạm thời lâm vào thoái trào, đã có không ít người vấn nuôi hy
vọng đi tới CHXH bằng con đường bằng phẳng, êm ả rốt cuộc lại nhanh chóng
rơi vào tâm trạng bi quan, thất bại chủ nghĩa, nên đã vội vàng phủ nhận nội đung
và tính chất cơ bản của thời đại hiện nay.
Đương nhiên là chúng ta không được phép dửng dưng trước sự khủng hoảng, đổ
vỡ ở hàng loạt nước trong hệ thống XHCN. Chẳng lẽ, sự khủng hoảng, đổ vỡ
của chế độ XHCN không đưa ra lời cảnh tỉnh nào đối với những người cách
mạng hay sao? Song, nếu vì thế mà đã vội vàng đi đến kết luận rằng nội dung và
tính chất của thời đại đã thay đổi thì thật là một sai lầm lớn.
Nhiều năm đã qua, sau sự biến động nói trên, thực tiễn đã và đang diễn ra trên
thế giới cho phép chúng ta khẳng định rằng, sự sụp đổ đó không có nghĩa là sự
sụp đổ của CHXH với tư cách là một học thuyết khoa học và cách mạng, kim
chỉ nam cho sự nghiệp giải phóng hoàn toàn và triệt để giai cấp công nhân, nhân
dân lao động, các dân tộc bị áp bức và giải phóng con người, xây dựng XHCN
và cộng sản chủ nghĩa. Sự sụp đổ ấy cũng không phải là sự sụp đổ của phong



trào XHCN thế giới, vì hiện nay các nước XHCN ở Châu Á và châu Mỹ Latinh
vẫn tiếp tục giành được nhưng thắng lợi to lớn, không những trụ vững mà còn có
bước phát triển mới rất quan trọng. Ngay ở các nước trước đây là XHCN, tuy
Nhà nước XHCN không còn, nhưng ý thức hệ XHCN và các lực lượng XHCN
vẫn tồn tại và tất yếu sẽ tìm ra phương thức phù hợp với thực tiễn của mỗi nước
để tổ chức lại và tiến bước theo tiến trình phát triển lịch sử của nhân loại.
Phong trào XHCN thế giới đang ở một khúc quanh lịch sử, một bước thụt lùi
lớn, song chắc chắn rằng "loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã
hội vì đó là quy luật tiến hoá của lịch sử". Dù cho hiện nay có những đảo lộn rất
lớn, nhưng những đảo lộn ấy không làm bánh xe lịch sử quay ngược lại, không
hề làm thay đổi tính chất và nội dung căn bản của thời đại hiện nay được mở đầu
bằng Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917. Khẳng định đó của Đảng
Cộng sản Việt Nam là hoàn toàn đúng và có cơ sở vững chắc. Bởi lẽ, thời đại là
một phạm trù lịch sử có tầm bao quát rộng lớn và phản ánh tổng quát một giai
đoạn lớn của lịch sử, mang ý nghĩa cơ bản về sự vận động của thế giới, cũng
như của mỗi cộng đồng quốc gia dân tộc. Một thời đại cụ thể, suy đến cùng, là
tổng hoà những nhân tố lịch sử cấu thành, là sự xác nhận của lịch sử với tính
hợp quy luật đối với sự tồn tại của một chế độ xã hội nhất định.
Khi phân tích mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản thông qua những biến
đổi về kinh tế và chính trị của nó, C.Mác đã chỉ ra logic khách quan tất yếu dẫn
tới sự phủ định của chính CNTB và sự ra đời của CHXH - giai đoạn đầu của
hình thái kinh tế xã hội mới, hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Quan niệm đầy đủ về một thời đại mang tính quá độ đòi hỏi chúng ta phải có sự
nhận thức đúng đắn về địa vị của cả CHXH lẫn CNTB trong thế giới thực tại.
Điều đó không hề làm mất đi trong nhận thức và quan điểm của chúng ta sự cần
thiết phải phê phán tính chất phản động về chính trị của các thế lực tư bản, đế
quốc. Hơn nữa, nó không làm mất đi tính cảnh giác trước âm mưu và hành động
"diễn biến hoà bình" của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch nhằm xoá bỏ
chủ nghĩa xã hội, bóp nghẹt các phong trào giải phóng dân tộc. Với tư duy biện



chứng, trước sau như một, chúng ta tuyên bố sự diệt vong không thể tránh khỏi
của CNTB thế giới và sự ra đời tất yếu của CHXH trên toàn thế giới
CNTB vẫn mang trong mình những mâu thuẫn đối kháng vốn có, những nhân tố
chứa đựng sự bùng nổ xã hội sâu sắc, song nó hiện nay vẫn là một chế độ xã hội
đang tồn tại CHXH với nhưng thành tựu đã đạt được trong gần một thế kỷ đã,
đang và vẫn chứng tỏ trước loài người khả năng và triển vọng phát triển của
mình. Với tư cách là một sự kiện lịch sử vừa mới xác lập và đang còn là những
thử nghiệm ban đầu, sự đổ vỡ mất mát của CHXH đầu là hiện thực, song đó chỉ
là tạm thời. Phong trào XHCN thế giới đầu đang ở giai đoạn thoái trào, song rồi
đây nó sẽ phục hồi và phát triển. Lịch sử luôn luôn là một chuỗi liên tục của quá
trình phát triển. Ph.Ăngghen đã từng nói không có chế độ nô lệ cổ đại thì không
có CNXH hiện đại. Lịch sử vừa đòi hỏi con người hành động sáng tạo, lại vừa
tạo ra những tiền đề cho quá trình sáng tạo mới của con người. Lịch sử chứng tỏ
rằng, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới
không diễn ra trong một thời gian ngắn và theo một con đường thẳng tắp. Cũng
như mọi thời đại khác trong lịch sử, nó có tiến, có thoái, quanh co khúc khuỷu,
nhưng cuối cùng loài người nhất định sẽ đi đến một xã hội tốt đẹp, văn minh,
dân chủ, tiến bộ hơn chế độ TBCN đó chính là chế độ XHCN và cộng sản chủ
nghĩa. Sự phát triển xã hội diễn ra theo tiến trình lịch sử tự nhiên như các nhà
sáng lập CHXH khoa học đã khẳng định. Đó là xu thế tất yếu không thể đảo
ngược được của lịch sử.
Mặc dù đã có biết bao biến cố lớn lao diễn ra trong hơn một thập kỷ qua mà biến
cố lớn nhất là sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu,
song thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ CNTB lên CHXH trên phạm vi
toàn thế giới, mở đầu bằng Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Đó là thời đại
đấu tranh cho thắng lợi của hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và CHXH gắn
liền với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, tạo ra những tiền đề
vật chất - kỹ thuật ngày càng đầy đủ cho việc chuyển lên CHXH.
Để đi tới mục tiêu ấy của thời đại, hơn bao giờ hết, trong giai đoạn hiện nay,



nhân dân các nước càng phải ra sức cùng nhau đoàn kết đấu tranh chống các thế
lực thù địch của hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và CHXH càng phải tỉnh táo
trước âm mưu và hành động diễn biến hòa bình" của chúng hòng duy trì vĩnh
viễn sự thống trị của CNTB trên hành tinh này.
Lịch sử Việt Nam hơn 70 năm qua với sự lựa chọn con đường giải phóng dân
tộc đi vào quỹ đạo cách mạng vô sản, đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác.Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, thắng lợi của hai cuộc kháng chiến
chống thực dân, đế quốc nhằm giải phóng và thống nhất Tổ quốc Việt Nam, đặc
biệt là thắng lợi của con công cuộc đổi mới toàn diện đất nước là thắng lợi của
cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Cách mạng nước ta vừa thể hiện, vừa góp phần thúc đẩy trào lưu chính của thời
đại ngày nay - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CHXH trên phạm vi toàn
thế giới.
Khúc quanh hiện nay của lịch sử cách mạng thế giới, dù có làm cho sự quá độ từ
CNTB lên CHXH trên toàn thế giới bị kéo dài thêm, song không thể đảo ngược
được xu thế của thời đại. Con đường của thời đại, con đường mà nhân loại đang
đi tới chính là con đường thắng lợi của hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
CHXH.
Nhận thức đúng và làm rõ nội dung, tính chất của thời đại ngày nay là cơ sở
quan trọng để chúng ta hoạch định đúng đắn đường lối và sách lược của chúng
ta và "chỉ có dựa trên cơ sở hiểu biết những đặc điểm cơ bản của một thời đại,
chúng ta mới có thể tính đến những đặc điểm chi tiết của nước này hay nước
nọ"như V.I.Lênin đã từng khẳng định
Qua phân tích ở trên chúng ta cùng đi sâu vào từng chi tiết cụ thể.
1. Về tính tất yếu và lâu dài của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Khi xây dựng học thuyết của mình, C.Mác và những nhà kinh điển mácxít đã chỉ
rõ rằng, cuộc cách mạng XHCN khác với tất cả các cuộc cách mạng trước đó ở
chỗ: đây là cuộc cách mạng sâu sắc nhất, triệt để nhất. Nó đem lại quyền lực

chính trị cho giai cấp công nhân và lợi ích cho tất cả những người lao động


khác. Khi cách mạng XHCN nổ ra, việc chuyển chính quyền vào tay giai cấp
công nhân cách mạng chỉ là sự bắt đầu. Vì nền tảng kinh tế, kỹ thuật của CNXH
chưa hình thành đầy đủ trong lòng chủ nghĩa tư bản (CNTB), do vậy, giành
chính quyền chưa phải là sự kết thúc của cách mạng. Giai cấp công nhân phải
dùng chính quyền chuyên chính của mình để tiếp tục trấn áp giai cấp tư sản vừa
bị đánh đổ, song chưa bị tiêu diệt và thủ tiêu sự chống phá của liên minh giai
cấp tư sản trong nước với giai cấp tư sản quốc tế, ngăn chặn sự phục hồi của
CNTB.
Hơn thế nữa, để xoá bỏ nền tảng kinh tế - xã hội của CNTB, giai cấp công nhân
phải tiến hành công cuộc cải tạo cách mạng sâu rộng cả về kinh tế và xã hội.
Đây là cuộc đấu tranh giai cấp phức tạp và lâu dài. Trong đó, biến tư liệu sản
xuất thuộc sở hữu tư nhân, tư sản thành sở hữu toàn dân mà giai cấp công nhân
là đại diện; đồng thời cải tạo nền sản xuất nhỏ, kỹ thuật thủ công, hàng ngày,
hàng giờ đẻ ra quan hệ tư bản và giai cấp tư sản. Nhiệm vụ này không thể hoàn
thành trong một sớm, một chiều. Do vậy, thời kỳ quá độ trở thành một tất yếu
lịch sử.
Với Cách mạng Tháng Mười năm 1917, V.I.Lênin và đảng Bônsêvic Nga đã tiến
hành cuộc Cách mạng XHCN đầu tiên trên thế giới. Chính quyền Xô viết đã
thực hiện chính sách cộng sản thời chiến từ năm 1918 đến năm 1920 trong thời
kỳ đặc biệt của cuộc nội chiến cách mạng và đấu tranh chống sự bao vây, phá
hoại của chủ nghĩa đế quốc quốc tế. Nhưng chính sách này đã không còn thích
hợp với nước Nga sau nội chiến. Chính sách kinh tế mới được V.I Lênin thực
hiện ngay sau đó, đã đưa nước Nga Xô viết trở lại với những quy luật phát triển
kinh tế tự nhiên mà điều kiện, hoàn cảnh của nước Nga đòi hỏi. Điều này đã
khẳng định tính đúng đắn của những tư tưởng mác xít về cách mạng XHCN và
TKQĐ lên CNXH. Đây phải là một TKQĐ dài.
Những cuộc cách mạng nổ ra sau đó ở Việt Nam, Trung Quốc, Cu Ba... và nhiều

nước khác đã chứng thực rằng, những nước càng lạc hậu, cơ sở vật chất kỹ thuật


càng thấp, thì quá độ lên CNXH càng phải trải qua thời gian dài. Tuy nhiên,
TKQĐ phải kéo dài bao lâu? Nó phải trải qua những giai đoạn nào, với những
bước đi nào? Nội dung kinh tế xã hội và hình thức tổ chức hệ thống chính trị của
từng giai đoạn phát triển ra sao? Từ chính lịch sử xây dựng và phát triển mô
hình CNXH ở Liên Xô, Đông Âu và các nước kém phát triển hơn như: Trung
Quốc, Việt Nam, Cu Ba,... đã cho những lời giải khác nhau. Ở Liên Xô, vào cuối
những năm 30 của thế kỷ XX, Đảng Cộng sản Liên Xô đã tuyên bố chuyển sang
thời kỳ xây dựng CNXH. Thậm chí vào những năm 70 của thế kỷ XX, Liên Xô
đã chuyển sang thời kỳ xây dựng CNXH phát triển - giai đoạn đầu của chủ nghĩa
cộng sản. Nhưng thực chất Liên Xô cũng chỉ mới bước những bước đầu tiên của
thời kỳ xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của CNXH.
Đảng Cộng sản Trung Quốc, vào cuối thập kỷ 80 thế kỷ trước tuyên bố, thời kỳ
quá độ ở nước này phải kéo dài hàng trăm năm.
Như vậy, điều cần khẳng định trước tiên về nhận thức mới về TKQĐ lên CNXH
là: đây là thời kỳ lâu dài và trải qua nhiều giai đoạn, với nhiều bước đi thích hợp
với quá trình xây dựng và phát triển nền tảng kinh tế - xã hội cần thiết. Điều này
đã được Đảng ta khẳng định trong Cương lĩnh 1991. Song nền tảng kinh tế - xã
hội cần thiết cho CNXH là gì thì phải tùy thuộc vào thời đại. Với thời đại công
nghiệp cơ khí của Mác - Lênin thì đó là nền tảng công nghiệp cơ khí. Còn ngày
nay, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ lần thứ hai phát triển, thì cơ sở vật
chất kỹ thuật cho CNXH là nền kinh tế tri thức với trình độ phát triển cao của
công nghệ thông tin và các thành tựu mới của các cuộc cách mạng trong hóa
học, lý học, sinh học, vật liệu mới... Đây là điều cần bổ sung thứ hai vào nhận
thức về TKQĐ lên CNXH
Như vậy, nếu cuộc cách mạng XHCN nổ ra ở những nước đã có nền kinh tế tri
thức thì giai cấp công nhân - trí thức chỉ việc giành lấy chính quyền từ tay giai
cấp tư sản, tiếp thu và tổ chức lại nền kinh tế tri thức theo cách của mình. Cuộc

cách mạng XHCN sẽ nhanh chóng kết thúc. Thời kỳ quá độ sẽ ngắn.


Ở những nước chưa có nền kinh tế tri thức, nếu nổ ra cách mạng XHCN, thời kỳ
quá độ chắc chắn sẽ kéo dài. Ở đây, giai cấp công nhân không chỉ phải giành lấy
chính quyền mà còn phải dùng chính quyền ấy làm cuộc cải biến cách mạng sâu
rộng để xây dựng nền kinh tế tri thức. Thời gian kéo dài đến mức nào phụ thuộc
vào điều kiện, quyết tâm và khả năng của giai cấp công nhân - trí thức trong
nước và quốc tế. Đây chính là bổ sung thứ ba vào nhận thức của chúng ta về
TKQĐ lên CNXH.
2. Về tính chất, đặc điểm của thời kỳ quá độ
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin và nhiều nhà lãnh đạo khác của
các đảng cộng sản và công nhân quốc tế đều đã khẳng định rằng: nội dung cơ
bản của TKQĐ lên CNXH chính là giải quyết cuộc đấu tranh giữa hai con
đường - TBCN và XHCN. Trong đó, về chính trị, phải thiết lập nền chuyên
chính của giai cấp công nhân - giai cấp vô sản. Về kinh tế, phải tiến hành cuộc
cách mạng về quan hệ sản xuất và cách mạng khoa học - kỹ thuật, xây dựng cơ
sở vật chất kỹ thuật của CNXH và về tư tưởng - văn hóa là tiến hành cách mạng
văn hóa, tư tưởng, xác lập hệ tư tưởng Mác - Lênin, xây dựng hệ giá trị, chuẩn
mực và lối sống của giai cấp công nhân hiện đại.
Gần một thế kỷ xây dựng mô hình CNXH ở Liên Xô, Đông Âu và nhiều nước
khác, xã hội XHCN đã được xây dựng theo những chỉ dẫn có tính định hướng
này. Tuy nhiên, kết quả có được từ thực tế lại đặt trước chúng ta nhiều vấn đề lý
luận và thực tiễn cần phải suy ngẫm.
Sau khi CNXH ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, những kinh nghiệm thực tiễn của
cải cách và đổi mới ở một số nước cho thấy: trong thời kỳ quá độ lên CNXH,
chính đảng của giai cấp công nhân khi đã nắm được chính quyền, muốn xây
dựng CNXH, phải khuyến khích, sử dụng và phát huy nguồn lực vật chất và
năng lực trí tuệ của giai cấp tư sản nhằm CNH, HĐH phát triển sản xuất, tăng
năng suất lao động, phát triển nền kinh tế tri thức. Nhiều đảng viên cộng sản đã

trở thành nhà “tư bản đỏ”. Trong quá trình này, ở một mức độ nào đó, sự bóc lột


và những hệ quả tiêu cực khác như phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội
vẫn tồn tại. Quá độ lên CNXH khác với phát triển CNTB chỉ ở chỗ, với quyền
lực của giai cấp công nhân - trí thức, những mặt tiêu cực mà việc phát triển kinh
tế thị trường gây ra được hạn chế. Phân tầng xã hội không đưa đến phân cực và
xung đột xã hội. Sự bất bình đẳng xã hội được nhà nước XHCN điều tiết thông
qua hàng loạt những chính sách xã hội, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất tác
động tiêu cực của kinh tế thị trường. Những quan hệ nhân văn giữa con người
với con người như là mục đích tối cao của CNXH được định hướng phát triển.
Mâu thuẫn xã hội được điều chỉnh, giảm bớt. Trong quá trình xây dựng nền tảng
kinh tế - xã hội của CNXH phù hợp trình độ lực lượng sản xuất mới, giai cấp
công nhân và chính đảng của nó phải thực hiện những nhiệm vụ mà CNTB phải
làm và đang làm; những người cộng sản có lúc phải trở thành nhà tư bản. Đây
chính là những thay đổi đáng chú ý trong quan niệm về thời kỳ quá độ lên
CNXH mà nhiều mô hình định hướng phát triển CNXH trong nửa cuối thế kỷ
XX, đầu thế kỷ XXI đã thực hiện.
Về xây dựng hệ thống chính trị. Vấn đề đặt ra là, trong TKQĐ, chính quyền
chuyên chính là của ai? Nó được xây dựng trên những nguyên tắc và mô hình tổ
chức quyền lực nào? Đây là điều đã có không ít ý kiến bàn luận và giải quyết
thực tế. Theo các nhà kinh điển mácxít, sau cách mạng XHCN, nền chuyên
chính chỉ có thể là của giai cấp công nhân - chuyên chính vô sản. Nhiệm vụ chủ
yếu của nền chuyên chính này là tước đoạt tư liệu sản xuất của giai cấp tư sản và
cải tạo nền kinh tế sản xuất nhỏ, hàng ngày, hàng giờ đẻ ra quan hệ tư bản.
Nhưng thực tiễn diễn ra ở nhiều nước lại không hoàn toàn như vậy. Ngay chính
ở nước Nga - quê hương của Cách mạng Tháng Mười, sau cách mạng, Nhà nước
công nhân không thể trực tiếp xây dựng CNXH chỉ bằng tước đoạt và cải tạo
thông qua chính sách cộng sản thời chiến mà phải tiến hành các cuộc cải biến từ
từ thông qua Chính sách kinh tế mới. Chính V.I.Lênin đã từng dạy rằng, để tiến

tới CNXH cần phải “bắc những chiếc cầu nhỏ, vững chắc đi xuyên qua CNTB”;
sử dụng các chuyên gia tư sản, áp dụng các mô hình tổ chức kinh tế - xã hội tư


bản để phát triển sức sản xuất, tăng năng suất lao động, nâng cao đời sống nhân
dân.
Để trả lời câu hỏi trong TKQĐ lên CNXH, chúng ta cần thiết lập nền chuyên
chính của ai xuất phát từ việc làm rõ câu hỏi lực lượng cách mạng và đối tượng
cách mạng trong TKQĐ là ai? Với những nước đã kinh qua giai đoạn phát triển
TBCN, nền công nghiệp đại cơ khí đã được thiết lập, nền kinh tế tri thức đang
dần được hình thành, nền chuyên chính cách mạng phải là nền chuyên chính của
giai cấp công nhân - trí thức. Tư liệu sản xuất chính yếu lúc này không chỉ đơn
thuần là máy móc của nền đại công nghiệp cơ khí mà là khoa học, công nghệ với
trí tuệ bậc cao hàm chứa trong hệ thống máy móc ấy. Nền chuyên chính của giai
cấp công nhân - trí thức không chỉ làm công việc tước đoạt mà chủ yếu là tìm
kiếm những hình thức tổ chức thích hợp cho việc phát triển kinh tế - xã hội trong
thời đại toàn cầu hóa và kinh tế tri thức. Trong quá trình này, một bộ phận của
giai cấp tư sản sẽ chuyển hóa dần thành trí thức quản lý bậc cao. TKQĐ lên
CNXH sẽ gắn bó chặt chẽ với quá trình hình thành và phát triển của giai cấp
công nhân - trí thức. Trong đó, sự chuyển biến dần của các trí thức tư sản, tư sản
trí thức và công nhân, nông dân thành giai cấp công nhân - trí thức sẽ được bắt
đầu. Quá trình này gắn chặt với việc phát triển khoa học - công nghệ hiện đại.
Đó chính là nội dung kinh tế cơ bản của TKQĐ lên CNXH ở những nước đã
phát triển. Như vậy, nền chuyên chính cần phải thiết lập trong TKQĐ lên CNXH
ở những nước này chính là nền dân chủ của giai cấp công nhân trí thức - giai cấp
đã được phát triển từ những phần tử trí thức tiên tiến nhất trong tất cả các giai
tầng xã hội.
Ở những nước chưa qua giai đoạn phát triển TBCN, giai cấp công nhân thường
còn ít về số lượng. Đảng công nhân tuy xây dựng trên nền tảng tư tưởng mácxít
song thành phần chủ yếu là trí thức và tầng lớp tiểu tư sản cùng với công nhân

và nông dân được giác ngộ. Nhiệm vụ của Đảng là thực hiện cách mạng dân tộc,
dân chủ nhân dân, đánh đổ phong kiến, đánh đuổi thực dân, đế quốc, định hướng


đến CNXH. Nội dung chính yếu của TKQĐ ở những nước này là giải quyết
cuộc đấu tranh giữa hai con đường phát triển: XHCN hay TBCN. Về nguyên
tắc, nền chuyên chính được thiết lập là nền chuyên chính của giai cấp công nhân
với hai nhiệm vụ cải tạo và xây dựng. Ở Trung Quốc, Việt Nam, dưới chuyên
chính “vô sản”, công cuộc cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới đã mắc
không ít những sai lầm nghiêm trọng như: chủ quan, duy ý chí, bất chấp quy luật
khách quan và hành chính quan liêu trong tổ chức, điều hành nền kinh tế, xã hội.
Điều này được thể hiện rõ nhất trong các cuộc cải cách ruộng đất, trong cải tạo
nông nghiệp, cải tạo công, thương nghiệp và trong quá trình công nghiệp hóa.
Động lực cá nhân bị triệt tiêu, năng suất lao động cao - yếu tố cơ bản, quyết định
thắng lợi của chế độ xã hội mới với chế độ xã hội cũ đã không được tạo ra. Nền
dân chủ mới - dân chủ cho đa số chưa được thực hiện đầy đủ trên thực tế. Hạ
tầng kinh tế - xã hội thấp kém ở những nước chưa kinh qua giai đoạn phát triển
TBCN chậm được cải thiện.
Cần phải xây dựng mô hình quyền lực nào trong TKQĐ lên CNXH? Đây là vấn
đề mà cả hệ thống XHCN thế giới đã tìm tòi hướng giải quyết trong suốt thế kỷ
XX. Song lời giải vẫn chưa thật hiệu quả. Thực hiện chuyên chính vô sản trong
điều kiện kinh tế nhiều thành phần, xã hội đa giai cấp và tầng lớp, nhất là tầng
lớp tư sản còn vai trò quan trọng trong cả kinh tế và xã hội là rất khó khăn. Thực
tế lịch sử phát triển xã hội trong thế kỷ XX cho thấy rằng, kinh tế đa thành phần,
xã hội đa giai cấp và tầng lớp, thì nền dân chủ cần thiết lập phải là nền dân chủ
nhân dân. Ở đây, mô hình tổ chức nhà nước không thể hoàn toàn theo mô hình
dân chủ tư sản, song cũng chưa thể là nền dân chủ XHCN như mong muốn của
các nhà kinh điển mác xít. Để phát triển xã hội, phải tìm một hình thức tổ chức
nhà nước đặc thù, trung gian. Trong đó, những gì còn tiến bộ của nền dân chủ tư
sản phải được kế thừa, những gì là ưu việt của nền dân chủ XHCN đang định

hướng xây dựng, cần được nghiên cứu và thử nghiệm thận trọng, phù hợp với
điều kiện và hoàn cảnh của từng quốc gia, dân tộc. Quyền lực chính trị về danh
nghĩa thuộc giai cấp công nhân - trí thức, nhưng giai cấp này chưa hình thành


đầy đủ. Đội tiền phong của nó - Đảng cộng sản - cần phải bao gồm những phần
tử ưu tú nhất không chỉ của giai cấp công nhân, trí thức mà còn gồm cả những
thành phần ưu tú của giai cấp nông dân, tầng lớp tiểu tư sản và tư sản. Điều này
thể hiện tính nhân dân của quyền lực xã hội mà nguyên tắc tổ chức quyền lực ít
nhiều phải mang tính pháp quyền mà nền dân chủ tư sản đã tạo ra. Chính tính
phức hợp của cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã hội tồn tại trong TKQĐ lên CNXH đã
quyết định tính phức hợp của cơ cấu quyền lực xã hội. Nền chuyên chính - như
là hình thức tổ chức nhà nước đã được thiết lập ở hệ thống XHCN cũ trong thế
kỷ XX, nên được coi là cần thiết trong thời kỳ cách mạng và chiến tranh. Kéo
dài hình thức tổ chức nhà nước này trong thời kỳ hòa bình đã tạo ra tình trạng
hành chính hóa, quan liêu hóa. Hệ thống quyền lực này chẳng những không mở
đường cho sự phát triển sản xuất, kích thích tính tích cực lao động và tính tích
cực xã hội của con người mà nhiều khi đã thủ tiêu cả động lực cá nhân. Như vậy
là, trong TKQĐ, quyền lực chính trị thuộc về những lực lượng xã hội tiên tiến
của cả giai cấp công nhân, trí thức, nông dân và tầng lớp tư sản - những người
đại diện được cho lợi ích dân tộc, quốc gia. Đây thực chất là nền dân chủ nhân
dân - một hình thức tổ chức quyền lực chính trị đặc thù của TKQĐ lên CNXH.
Về văn hoá, tư tưởng, TKQĐ lên CNXH có đặc trưng gì? Trước hết, cần phải
thấy rằng, ngay sau mỗi cuộc cách mạng xã hội, dù là cách mạng XHCN hay
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, trong xã hội vẫn tồn tại nhiều hệ tư tưởng
mâu thuẫn, đấu tranh nhau. Trong đó có hệ tư tưởng tư sản, hệ tư tưởng vô sản
và chủ nghĩa dân tộc dưới nhiều màu sắc khác nhau. Quá độ lên CNXH là làm
cho hệ tư tưởng vô sản xác lập. Chủ nghĩa yêu nước phải là chủ nghĩa yêu nước
mang lập trường vô sản - yêu nước XHCN.
Tuy nhiên, vì CNXH đang là mục tiêu cần hướng tới, do vậy, thực chất của chủ

nghĩa yêu nước trong TKQĐ lên CNXH là tinh thần dân tộc chân chính. Đây là
nền tảng tư tưởng, tinh thần để đoàn kết dân tộc, tạo điều kiện để phục hưng dân
tộc. Thực tế xây dựng các mô hình CNXH trong thế kỷ XX đã chứng minh rằng,


trong tất cả các giai đoạn phát triển của TKQĐ lên CNXH, dù muốn hay không,
vấn đề dân tộc, quốc gia vẫn phải đặt lên hàng đầu. Ở các nước đang phát triển
và chậm phát triển, đây càng là vấn đề phải quan tâm, chú ý hơn. Lợi ích giai
cấp phải phụ thuộc vào lợi ích tối cao của dân tộc. Đây chính là một trong những
đặc trưng có tính quy luật về văn hóa - tư tưởng trong TKQĐ ở các nước định
hướng XHCN.



×