Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Vận dụng nội dung quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.16 KB, 15 trang )

Nguồn: - Theza

Tiểu luận:

Vận dụng nội dung quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành sự thay đổi
về chất và ngược lại trong hoạt động thực tiễn ở Việt Nam.
==================================================================

Mở đầu
1.Lý do chọn đề tài
Trong cuộc sống hằng ngày, đằng sau các hiện tượng muôn màu muôn vẻ, con người dần
dần nhận thức được tính trật tự và mối liên hệ có tính lặp lại của sự vật hiện tượng, từ đó
hình thành khái niệm “quy luật”. Với tư cách là phạm trù của lý luận nhận thức, khái niệm
“quy luật” là sản phẩm của tư duy khoa học phản ánh sự liên hệ của các sự vật, hiện tượng
và tính chỉnh thể của chúng. Các quy luật của tự nhiên, xã hội cũng như của tư duy con
người đều mang tính khách quan. Con người không thể tạo ra hoặc xóa bỏ được quy luật
mà chỉ có thể nhận thức và vận dụng vào thực tế. Quy luật “chuyển hóa từ những sự thay
đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại” là một trong ba quy luật của
phép biện chứng duy vật, nó cho biết phương thức của sự vận động và phát triển. Việc
nhận thức quy luật này có ý nghĩa to lớn trong thực tiễn khi chúng ta xem xét các sự vật,
hiện tượng. Nếu nhận thức không đúng quy luật này dễ dẫn đến hiện tượng “tả khuynh”
hoặc “hữu khuynh”. “Tả khuynh” có thể hiểu là tư tưởng chủ quan nóng vội, muốn sớm có
sự thay đổi về lượng nhưng lại không tính đến việc tích lũy về chất. “Hữu khuynh” là tư
tưởng bảo thủ, trì trệ, không dám thực hiện “bước nhảy” (sự thay đổi về chất) khi đã có sự
tích lũy đủ về lượng.
Ở bài tiếu luận này tôi sẽ phân tích đề tài “Vận dụng nội dung quy luật chuyển hóa từ
những sự thay đổi về lượng thành sự thay đổi về chất và ngược lại trong hoạt động thực
tiễn ở Việt Nam” để có thể hiểu rõ hơn về sự vận động và phát triển của mọi sự vật, hiện
tượng
2.Tổng quan đề tài
Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành sự thay đổi về chất và ngược lại


là một đề tài hay và mang tính cấp thiết hiện nay. Đã có rất nhiều những bài bái, trang thông
tin, thậm chí là các bài luận nói tới vấn đề này. Hầu hết đều được phân tích rất cụ thể và chi
tiết. Song việc vận dụng nó trong các hoạt động thực tiễn ở Việt Nam thì vẫn chưa được đi
vào tìm hiểu nhiều.
3.Mục đích nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu một cách hệ thống vấn đề biến đổi lượng-chất. Đánh giá tình đất nước hiện
nay và vận dụng quy luật trên vào thực tiễn Việt Nam.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, bài tiểu luận có nhiệm vụ:
+Phân tích về quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành sự thay đổi về chất
và ngược lại
+Đánh giá tình hình Việt Nam, đưa ra các biện pháp vận dụng quy luật biến đổi trên vào các
hoạt động thực tiễn.
4.Phạm vi nghiên cứu:
Với bài tiểu luận này, chúng tôi mong muốn tiếp cận và làm sáng tỏ phần nào nội dung và
ý nghĩa của quy luật quan trọng này và từ đó rút ra được những bài học bổ ích trong học tập
và cuộc sống. Bằng việc tiếp cận vấn đề thông qua việc làm sáng tỏ ba ví dụ cụa thể trong


thực tế, chúng tôi mong muốn có thể cung cấp cho người đọc cách nhìn nhận dễ dàng và
chân thực nhất về quy luật này.
5.Phương pháp nghiên cứu
Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mac-Leenin, Chính sách của Nhà nước, của
Đảng Cộng Sản Việt Nam là cơ sở phương pháp luận định hướng nghiên cứu.
Ngoài các phương pháp luận, bài tiểu luận sử dụng các phương pháp cụ thể, chú trọng
phương pháp lịch sử kết hợp với logic, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kế, khảo sát và
tổng kết thực tiễn,...
6.Đóng góp của tiểu luận
Góp phần làm hiểu sâu và rõ hơn sự biến đổi và phát triển của mọi sự vật hiện tượng từ
quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành sự thay đổi về chất và ngược lại.
Qua đó vận dụng nó vào các hoạt động thực tiễn ở Việt Nam.

7.Kết cấu bài tiểu luận
Bài tiểu luận được chia làm 2 chương với việc tìm hiểu và phân tích về vấn đề biến đổi
lượng và chất, mối liên hệ tới các hoạt động thực tiễn hiện nay.


Chương I
Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành sự thay
đổi về chất và ngược lại
1.Các khái niệm
1.1.Khái niệm về chất
Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự
vật, hiện tượng, đó là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính, những yếu tố cấu
thành sự vật, hiện tượng, nói lên sự vật, hiện tượng đó là gì, phân biệt nó với các sự
vật, hiện tượng khác. Mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều có những chất vốn
có, làm nên chính chúng. Nhờ đó chúng mới khác với các sự vật, hiện tượng khác.
Chất có tính khách quan, là cái vốn có của sự vật, hiện tượng, do những thuộc tính,
những yếu tố cấu thành quy định. Thuộc tính của sự vật là những tính chất, những
trạng thái, những yếu tố cấu thành sự vật. Đó là những cái vốn có của sự vật từ khi
sự vật được sinh ra hoặc được hình thành trong sự vận động và phát triển của nó.
Tuy nhiên những thuộc tính vốn có của sự vật, hiện tượng chỉ được bộc lộ ra thông
qua sự tác động qua lại với các sự vật, hiện tượng khác.
Mỗi sự vật có rất nhiều thuộc tính trong đó mỗi thuộc tính lại biểu hiện một chất của
sự vật. Do vậy, mỗi sự vật có rất nhiều chất. Chất và sự vật có mối quan hệ chặt
chẽ, không tách rời nhau. Trong hiện thực khách quan không thể tồn tại sự vật
không có chất và không thể có chất nằm ngoài sự vật. Chất của sự vật được biểu
hiện qua những thuộc tính của nó. Nhưng không phải bất kỳ thuộc tính nào cũng
biểu hiện chất của sự vật. Thuộc tính của sự vật có thuộc tính cơ bản và thuộc tính
không cơ bản.



Những thuộc tính cơ bản được tổng hợp lại tạo thành chất của sự vật. Chính chúng
quy định sự tồn tại, sự vận động và sự phát triển của sự vật, chỉ khi nào chúng thay
đổi hay mất đi thì sự vật mới thay đổi hay mất đi. Những thuộc tính của sự vật chỉ
bộc lộ qua các mối liên hệ cụ thể với các sự vật khác. Sự phân chia thuộc tính thành
thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản cũng chỉ mang tính chất tương đối, tùy
theo từng mối quan hệ. Chất của sự vật không những quy định bởi chất của những
yếu tố tạo thành mà còn bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành, nghĩa
là bởi kết cấu của sự vật. Trong hiện thực các sự vật được tạo thành bởi các yếu tố
như nhau, song chất của chúng lại khác nhau.
Mỗi sự vật có vô vàn chất: vì sự phân biệt giữa chất và thuộc tính chỉ có ý nghĩa
tương đối, song sự vật có vô vàn thuộc tính nên có vô vàn chất. Chất và sự vật
không tách rời nhau: chất là chất của sự vật, còn sự vật tồn tại với tính quy định về
chất của nó. Chất biểu hiện trạng thái tương đối ổn định của sự vật, là sự kết hợp
tương đối trọn vẹn, hoàn chỉnh, bền vững các thuộc tính của sự vật, làm cho sự vật
này không hòa lẫn với sự vật khác mà tách biệt cái này với cái khác. Chất luôn gắn
liền với lượng của sự vật.
1.2. Khái niệm về lượng
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt
số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các
thuộc tính của sự vật, biểu hiện bằng con số các thuộc tính, các yếu tố cấu thành
nó. Lượng là cái khách quan, vốn có của sự vật, quy định sự vật ấy là nó. Lượng
của sự vật không phụ thuộc vào ý chí, ý thức của con người. Lượng của sự vật biểu


thị kích thước dài hay ngắn, số lượng nhiều hay ít, quy mô lớn hay nhỏ, trình độ cao
hay thấp, nhịp điệu nhanh hay chậm…
“Những lượng không tồn tại mà những sự vật có lượng hơn nữa những sự vật có vô
vàn lượng mới tồn tại”
Trong thực tế lượng của sự vật thường được xác định bởi những đơn vị đo
lượng cụ thể như vận tốc của ánh sáng là 300.000 km trong một giây hay một phân

tử nước bao gồm hai nguyên tử hydrô liên kết với một nguyên tử oxy,… bên cạnh
đó có những lượng chỉ có thể biểu thị dưới dạng trừu tượng và khái quát như trình
độ nhận thức tri của một người ý thức trách nhiệm cao hay thấp của một công
dân,... trong những trường hợp đó chúng ta chỉ có thể nhận thức được lượng của
sự vật bằng con đường trừu tượng và khái quát hoá.
Có những lượng biểu thị yếu tố kết cấu bên trong của sự vật (số lượng nguyên tử
hợp thành nguyên tố hoá học, số lượng lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội) có
những lượng vạch ra yếu tố quy định bên ngoài của sự vật (chiều dài, chiều rộng,
chiều cao của sự vật). Bản thân lượng không nói lên sự vật đó là gì, các thông số về
lượng không ổn định mà thường xuyên biến đổi cùng với sự vận động biến đổi của
sự vật, đó là mặt không ổn định của sự vật.
1.3.Khái niệm về độ
Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà tại đó sự thay đổi về lượng đã làm
thay đổi căn bản chất của sự vật.


1.4.Khái niệm nút
Điểm nút là một phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà tại đó sù thay đổi về
lượng lam thay đổi căn bản về chất của sự vật.
1.5.Khái niệm bước nhảy
Nhảy vọt là phạm trù triết học dùng để chi sù chuyển hoá sự vật do sù thay đổi về
lượng của sự vật vượt quá độ tới điểm nút gây ra.
_ Các hình thức bước nhảy:
+ Bước nhảy đốt biến : là bước nhảy được thực hiện trong mét thời gian rất ngắn
làm thay đổi về chất của toàn bộ kết cấu cơ bản của sự vật.
+ Bước nhảy dần dần: là bước nhảy được thực hiện từ từ , từng bước bằng cách
tích luỹ dần dần những nhân tố của chất mới và những nhân tố của chất cũ dần dần
mất di.
+ Bước nhảy toàn bộ: là bước nhảy làm thay đổi chất của toàn bộ các mặt, các yếu
tố cấu thành sự vật.

+ Bước nhảy cục bộ: là bươc nhảy lam thay đổi chất của những mặt , những yếu tố
riêng lẻ của sự vật.
2. Nội dung quy luật
2.1.Mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất
2.1.1.Từ sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất
Trong mối quan hệ giữa chất và lượng thì chất là mặt tương đối ổ định, còn
lượng là mặt biến đổi hơn. Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng bắt
đầu từ sự thay đổi về lượng. Song không phải bất kỳ sự thay đổi nào về lượng cũng


dẫn đến sự thay đổi về chất ngay tức khắc, mặc dù bất kỳ sự thay đổi nào về lượng
cũng ảnh hưởng đến trạng thái tồn tại của sự vật. So với lượng thì chất thay đổi
chậm hơn. Chỉ khi nào lượng biến đổi đến một giới hạn nhất định (độ) thì mới dẫn
đến sự thay đổi về chất, sự vật không còn là nó nữa, một sự vật mới ra đời thay thế
nó.
Tại thời điểm lượng đạt đến một giới hạn nhất định để vật thay đổi về chất gọi là
điểm nút. Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà tại đó sự thay đổi
về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật. Ví dụ: 0c, 100c là điểm nút, tại
những điểm nút đó nước từ thể lỏng chuyển sang thể rắn và thể hơi (thay đổi về
chất).
Khi có sự thay đổi về chất diễn ra gọi là bước nhảy. Bước nhảy là sự kết thúc
một giai đoạn biến đổi về lượng, là sự đứt đoạn trong liên tục, nó không chấm dứt
sự vận động nói chung mà chỉ chấm dứt một dạng vận động cụ thể, tạo ra một bước
ngoặt mới cho sự thống nhất biện chứng giữa chất và lượng trong một độ mới.
Các hình thức cơ bản của bước nhảy. Bước nhảy để chuyển hoá về chất của
sự vật hết sức đa dạng và phong phú với những hình thức rất khác nhau. Những
hình thức bước nhảy khác nhau được quyết định bởi bản thân của sự vật, bởi
những điều kiện cụ thể trong đó sự vật thực hiện bước nhảy.
Căn cứ vào quy mô thực hiện bước nhảy của sự vật có bước nhảy toàn bộ, có
bước nhảy cục bộ. Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của toàn bộ

các mặt, các yếu tố cấu thành sự vật. Bước nhảy cục bộ là bước nhảy làm thay đổi
chất của từng mặt, những yếu tố riêng lẻ của sự vật
.


2.1.2.Chất mới ra đời quyết định lượng mới
Chất mới ra đời quy định lượng mới nó thể hiện ở quy mô mới, mức độ, nhịp
điệu mới của sự vật.
Những chất mới lại tiếp tục biến đổi đến một mức độ nào đó phá vỡ chất cũ chất
mới lại được hình thành.
Quá trình đó lặp đi lặp lại không ngừng tạo nên cách thức, cơ chế, hình thái của
sự phát triển làm rõ sự thay đổi dần dần về lượng dẫn đến thay đổi về chất và
ngược lại.
Cứ như vậy, quá trình vận động, phát triển của sự vật diễn ra theo cách thức từ
những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất một cách vô tận. Đó là quá
trình thống nhất giữa tính tuần tự, tiệm tiến, liên tục với tính gián đoạn, nhảy vọt
trong sự vận động, phát triển.
2.1.3.Tác động ngược
Sự thay đổi về chất tác động trở lại đối với sự thay đổi về lượng. Lượng thay đổi
luôn luôn trong mối quan hệ với chất, chịu sự tác động của chất. Song sự tác động
của chất đối với lượng rõ nét nhất khi xảy ra bước nhảy về chất, chất mới thay thế
chất cũ, nó quy định quy mô và tốc độ phát triển của lượng mới trong một độ mới. Khi
chất mới ra đời, nó không tồn tại một cách thụ động, mà có sự tác động trở lại đối với
lượng, được biểu hiện ở chỗ: chất mới sẽ tạo ra một lượng mới phù hợp với nó để có
sự thống nhất mới giữa chất và lượng. Sự quy định này có thể được biểu hiện ở quy
mô, nhịp độ và mức độ phát triển mới của lượng.


2.2.Ý nghĩa phương pháp luận
- Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải chú ý tích lũy dẫn những thay đổi về

lượng, đồng thời phải biết thực hiện kịp thời những bước nhảy khi có điều kiện chín
muồi.
- Chống lại quan điểm tả khuynh: chủ quan, nóng vội, duy ý chí, khi lượng chưa biến
đổi đến điểm nút đã thực hiện bước nhảy.
- Chống lại quan điểm hữu khuynh: bảo thủ, trì trệ, khi lượng đã biến đổi đến điểm
nút nhưng không thực hiện bước nhảy.
- Phải thấy được tính đa dạng của các bước nhảy, nhận thức được từng hình thức
bước nhảy, có thái độ ủng hộ bước nhảy, tạo mọi điều kiện cho bước nhảy được
thực hiện một cách kịp thời.
- Phải có thái độ khách quan và quyết tâm thực hiện bước nhảy khi hội đủ các điều
kiện chin muồi.


Chương II
Vận dụng quy luật trên vào hoạt động thực tiễn ở Việt Nam
Chúng ta sẽ xem xét việc nhận thức và vận dụng nội dung quy luật này trong thực
tiễn của đất nước ta qua hai khía cạnh đó là:
1. Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Ở nước ta, lịch sử đã đặt ra vấn đề lựa chọn con đường phát triển bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa từ những năm 20 của thế kỷ XX, khi chủ nghĩa yêu nước truyền
thống Việt Nam bắt gặp con đường Cách mạng tháng Mười Nga, hoà nhập vào xu
hướng tiến hoá chung của nhân loại: quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa. Qua thực tiễn đấu tranh cách mạng Và nhất là từ khi tiếp cận với bản
Sơ thảo luận cương của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, Hồ Chí Minh đã đi
đến kết luận: Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản; rằng chỉ có chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và
những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ. Để có một bước nhảy cách mạng
đó đưa đất nước Việt Nam sang một chế độ khác ( “chất” khác) là đất nước xã hội
chủ nghĩa, cương lĩnh đầu tiên (1930) của Đảng ta cũng đã khẳng định : Sau khi

hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, nước ta sẽ tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Đó là sự lựa chọn dứt khoát và đúng đắn của Đảng, đáp ứng nguyện vọng thiết
tha ngàn đời của dân tộc, phản ánh đáng xu thế của thời đại, phù hơp với quan
điểm cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Cả một quá trình tích luỹ về đủ lượng để có một sự biến đổi về chất, chất mới
được tạo nên nhưng đồng thời nó lại tạo nên lượng mới. Chúng ta cứ tưởng rằng
sau khi chiến thắng đế quốc Mỹ thì chúng ta sẽ có một nước xã hội chủ nghĩa đích
thực; thắng đé quốc, thực dân được thì thắng nghèo nàn, lạc hậu cũng chỉ là vấn đề
thời gian; rằng chúng ta có thể dễ dàng tiến thẳng lên xã hội chủ nghĩa bỏ qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Có thể nói, nhận thức đó của chúng ta về sự phát
triển qúa độ lên chủ nghĩa xã hội là ấu trĩ, sai lạc và duy ý chí. Vấn đề đặt ra là
chúng ta phải hiểu lượng mới ở đây là chúng ta cần phải có một thời kỳ quá độ lên
xã hội chủ nghĩa chính trong thời kỳ này chúng ta sẽ có những thay đổi phát triển về
mọi mặt kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục. Chính vì nhận thức được điều đó Đảng ta
đã có chủ trương xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra
sự biết đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn,phức
tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều
hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời
sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ.
Với tinh thần đổi mới tư duy, đổi mới nhưng không làm thay đổi mục tiêu xã
hội chủ nghĩa mà trái lại, làm cho mục tiêu đó thực hiện một cách có kết quả hơn
trên cơ sở nhân thức đúng về chủ nghĩa xã hội, đề ra những hình thức và bước đi


thích hợp, thấm nhuần quan điểm thực tiễn, lịch sử cụ thể và phát triển, chúng ta
cần chủ động khắc phục những cách hiểu sai, cách nghĩ, cách làm giản đơn, siêu
hình, giáo điều, duy ý chí, trái quy luật. Trên cơ sở quan niệm đúng về
chủ nghĩa xã hội, với tinh thân phê phán cách mạng, với sự kiên định mục tiêu lý
tưởng và một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đẩm đà bản sắc dân tộc, turong lai
tươi sáng của sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công

bằng, dân chủ, văn minh đã và sẽ từng bước được thực hiện hớ một cách sinh động
trên đất nước ta.
2. Về sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta
Bên cạnh việc nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước
ta một cách đúng đắn cũng là việc nhận thức thấu đáo về sự phát triển đất nước
nên nước ta trong năm qua đã có những đổi mới và phát triển rõ rệt.
Giữa thập niên bảy mươi, với nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lại bị chiến
tranh kéo dài tàn phá nặng nề, chủ yếu bằng việc cải tạo xã hội chủ nghĩa, tổ chức
lại sản xuất và mở rộng quy mô hợp tác xã, áp dụng mô hình chủ nghĩa xa hội của
Liên Xô, với hy vọng nhanh chóng vó nhiều chủ nghĩa xã hội hơn, chúng ta đã bộc lộ
tư tưởng chủ quan, nóng vộ, duy ý chí cả về trong lý luận lẫn trong chỉ đạo thực tiễn.
Điều đó đã làm cho các mục tiêu của Đại Hội IV của Đảng đề ra đề ra đều không
đạt. Và tiếp đó Đại Hội V đề ra những chủ trương lớn: tập trung phát triển nông
nghiệp, nông nghiệp được xem là mặt trận hàng đầu; ra sức đẩy mạnh sản xuất tiêu
dùng; tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng... Tuy vậy, Đại
Hội V vẫn tiếp tụcđường lối do Đại Hội TV đã vạch ra, không phản ánh được đầy đủ
tạo nên sự thay đổi. Điều đó làm cho tình hình kinh tế xã hội của Việt Nam vào
những thập niên 80 dường như càng lao nhanh vào khủng hoảng. Từ đầu năm 1985
đến cuối năm 1986, tình hình trở nên nghiêm trọng hơn. Sản xuất nông nghiệp vẫn
tiếp tục trì trệ, lương thực không đủ dùng. Các xí nghiệp luông trong tình trạng “ lãi
giả lỗ thật “. Nhà nước bao cấp tràn lan. Lưu thông, phân phối ách tắc. Đời sống
nhân dân khó khăn đến cùng cực. Tiêu cực xã hội có điều kiện sinh sôi, nẩy nở.
Nhan dan bất bình; họ cảm thấy không htể tiếp tục sống như cũ được nữa. Đảng và
Nhà nước cũng thấy không thể duy trì những chính sách và cơ chế cũ. Khủng hoảng
kinh tế xã hội đã đến độ nguy hiểm. Chính thời điểm này là điểm nút của sự biến đổi
về “chất” (kinh tế xã hôị) sau một quá trình dài thay đổi và tích luỹ đủ về “lượng”. Và
bước nhảy của sự biến đổi này được tạo nên do sự sáng tạo và nhận thức đúng đắn
của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta khi thực hiện công cuộc đổi mới. Việc đó được
nêu rõ trong Đại Hội VI tháng 12 năm 1986 đó là : chuyển đổi nền kinh tế của nước
ta từ mô hình kế hoạch hoá tâpọ trung, quan liêu, bao cấp, dựa trên ché độ công

hữu về tư liệu sản xuất Sang nền kinh tế thị trường có
Sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đổi mới là đường lối sáng tạo độc đáo, độc lập, tự chủ của Việt Nam, phù hợp
với hoàn cảnh lịch sử cụ thể của dân tộc Việt Nam. Và cũng vì nhận thức đúng đắn


việc thực hiện thành công quá trình đổi mới trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội
sẽ mang lại bước nhảy về chất trong các phạm vi tương ứng đó. Việc thực hiện
thành công quá trình đổi mới toàn diện tất cả các mặt của đời sống xã hội sẽ tạo ra
bước nhảy về chất của toàn bộ xã hội ta nói chung. Cũng như trong bất kỳ một sự
thay đổi về chất nào khác, những bước nhảy trong quá trinh đổi mới cũng chỉ có thể
là quá trình thay đổi về lượng thích hợp nên Đảng, Nhà nứoc và nhân dân ta đã năm
bắt được những thách thức trong công cuộc đổi mới này để từ đó đã có những bứoc
đi đúng đắn thể hiện qua việc thực hiện các chỉ tiêu của các kỳ Đại Hội VII, VII, DX.
Công cuộc 15 năm đổi mới của đất
nước ta qua đã tạo được những thành tựu to lớn:
Kinh tế tăng trưởng khá, GDP tăng bình quân hàng năm 7%. Nông nghiệp
phát triển mạnh, giá trị sản lượng công nghiệp bình quân hàng năm 13,5%. Hệ
thống kết cấu hạ tầng, bưu chính viễn thông, đường sá... được tăng cường. Các
nganh dịch vụ và xuất khẩu đều phát triển.
Văn hoá xã hội có những tiến bộ, đời sống nhân dân tiếp tục được cải
thiện.
Tình hình kinh tế chính trị xã hội cơ bản ổn định; quốc phong an ninh
được tăng cường.
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được chú trọng, hệ thống chính trị được
củng cố...
Với những thành tựu đạt đựơc nước ta sẽ có những tiền đề để bứoc vào giai
đoạn mới đó là giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá đắt nước, xây
dựng nên kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu
tiên phát triển lực lượng sản xuât, đồng thởi xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp

theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực đồng thời tranh thủ
nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có
hiệu quả và bề vững, tăng trưởng kinh tê đi liến với phát triển văn hoá, từng bước
cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện tiến độ và cбng bắng xã hội,bảo vệ và cải
thiện môi trường, kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cuờng quốc phòng an
ninh.
3. Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu
Qua những thức tế chứng minh chúng ta dễ dàng thấy rằng việc nhận thức
được mối quan hệ biện chứng giữa thay đổi về lượng và thay đổi về chất sẽ
mang lại cho chúng ta ý nghĩa phương pháp luận quan trọng mà việc Vân dụng
chúng sẽ cho phép chúng ta nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động nhận
thức cũng như thực tiễn.
Vì sự thay đổi về lượng và thay đổi vè chất có mối quan hệ biện chứng với
nhau, nen trong hoạt động thực tiễn phải dựa trên sự hiểu biết về mối quan hệ đó;


phải dưa trên viẹc hiểu đúng đắn vị tré, vai trò và ý nghĩa cảu mỗi loại thay đổi nói
trên trong sự phát triển xã hội; phải biết kịp thời chuyển từ sự thay đổi về lượng
thành thay những thay đổi về chất, từ những thay đổi thay đổi mang tính tiến hoá
sang mang tính cách mạng. Xem xét tiến hoá và cácnh mạng trong mối quan hệ
biện chứng là một trong những nguyên tắc phương pháp luận trong việc xây dựng
chiến lược và sách lược của Đảng nhằm cải tạo xã hội bằng cách mạng. Hiểu đúng
đắn mối quan hệ đó là tạo cơ sở chống lại chủ nghĩa cải
lương, chủ nghĩa xét lại hữu khuynh cũng như chủnghĩa vô chính phủ tả khuynh.
Việc nắm vững nội dung của quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa những
thay đổi về chất và những thay đổi về lượng cũng như những ý nghĩa phương pháp
luân của nó có vai trò to lớn trong việc xem xét và giải quyết những vấn đề đặt ra do
công cuộc đổi mới vì chủ nghĩa xã hội hiện nay của nước
ta.



Kết Luận
Nhận thức là cả một quá trình, thông qua hoạt động thực tiễn, những yêu cầu và đòi
hỏi của cuộc sống nảy sinh và cùng với đó những phương thức giải quyết cũng sẽ xuất
hiện. Việc nhận thức và vận dụng nội dung quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến sự
thay đổi về chất và ngược lại cũng như vậy. Từ những nhận thức về quy luật trên, chúng ta
phải biết vận dụng nó một cách sáng tạo phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất nước
ta thì lúc đó chúng ta mới nắm bắt được sự chuyển hoá của một sự vật hay một hiện tượng
trong sự phát triển của nó một cách rõ ràng và triệt để.
Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng điều đó cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân
tộc, xây dựng, phát triển và bảo vệ tổ quốc trong những thập kỉ qua đã tạo lên những thành
tựu to lớn. Chính vì vậy chúng ta càng thơngrằng những quan điểm cách mạng và khoa học
của Mác - Lênin luôn là những tư tưởng đúng đắn để chúng ta vận dụng cho sự phát triển
của đát nước. Đặc biệt, đó là quy luât về mối quan hệ biện chứng giữa sự thay đổi về chất
và giữa sự thay đổi về lượng, đó là những sự chuyển hoá tạo sự nên phát triển của sự vật
hay hiện tượng .
Trong những năm đổi mới, trong hoạt động nhận thức cũng như thực tiễn
Đảng ta đã vận dụng tổng hợp tất cả các quy luật một cách đầy đủ, sâu sắc,
năng động, sáng tạo phù hợp với điều kiện cụ thể của dân tộc đưa đất nước
thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, củng cố địa vị trên trường quốc tế và bước đầu
đã gặt hái được những thành quả đáng mừng như: gia nhập phiên chợ toàn cầu
WTO, Thành viên không thường trực Đại hội đồng Liêp hợp quốc... và phấn đấu
đến năm 2020 nước ta sẽ cơ bản là một nước công nghiệp.
Đất nước có nở hoa hay không là do tay tôi, tay bạn vun trồng. "Đừng hỏi
Tốc quốc đã làm gì cho ta, mà cần hỏi ta đã làm gì cho tổ quốc hôm nay".


Danh mục tài liệu tham khảo
1. Bộ giáo dục và đào tạo. Giáo trình những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa
Mac-Lenin, NXB. CTQG. Hà Nội, 2009

2. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình kinh tế chính trị Mác- Lênin,
NXB.CTQG, Hà Nội. 2002-2007
3.



×