Chương VII
SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
VÀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
I. SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
1. Giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của nó
a) Khái niệm giai cấp công nhân
Trong nhiều tác phẩm của mình C.Mác và Ph.Ăngghen đã sử dụng nhiều
thuật ngữ như: giai cấp công nhân, giai cấp vô sản, giai cấp vô sản hiện đại,
giai cấp công nhân công nghiệp, giai cấp công nhân hiện đại.... Dù khái niệm
giai cấp công nhân có nhiều tên gọi khác nhau như thế nào đi nữa thì theo
C.Mác và Ph.Ăngghen giai cấp công nhân vẫn chỉ mang hai thuộc tính (tiêu
chí) cơ bản. Đó là:
Thứ nhất, về phương thức lao động, phương thức sản xuất (nghề nghiệp), đó
là những người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có
tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hoá cao. Đây là tiêu chí cơ bản
để phân biệt người công nhân hiện đại với người thợ thủ công thời Trung cổ thay
người thợ trong công trường thủ công. C.Mác viết: “Trong công trường thủ công
và trong nghề thủ công, người công nhân sử dụng công cụ của mình, còn trong
công xưởng thì người công nhân phải phục tùng máy móc”(1); “Công nhân cũng là
phát minh của thời đại mới. Giống như máy móc vậy ... công nhân Anh là đứa con
đầu lòng của nền công nghiệp hiện đại”(2)
Thứ hai, về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân
là những người lao động không có hoặc về cơ bản không có tư liệu sản xuất, làm
thuê cho giai cấp tư sản và bị bóc lột giá trị thặng dư. Đây là đặc trưng cơ bản nhất
của giai cấp công nhân dưới chế độ tư bản chủ nghĩa. Chính vì vậy, C.Mác và
Ph.Ăngghen đều gọi giai cấp công nhân dưới chủ nghĩa tư bản là giai cấp vô sản.
Ngày nay, với sự phát triển không ngừng của cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ, bộ mặt của chủ nghĩa tư bản đã có những thay đổi to lớn và đi cùng
(1) (2)
,
(
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H 2002, t4, tr.605, 610.
với nó là sự thay đổi nhất định của giai cấp công nhân so với trước kia. Cơ cấu
ngành nghề của giai cấp công nhân đã có những thay đổi to lớn: bên cạnh công
nhân của nền công nghiệp cơ khí, đã xuất hiện công nhân của nền công nghiệp tự
động hoá. - Giai cấp công nhân hiện nay không chỉ bao gồm những người lao
động trong công nghiệp, trực tiếp tạo ra các giá trị vật chất cho xã hội mà còn bao
gồm những người lao động trong các bộ phận dịch vụ công nghiệp, gián tiếp tham
gia vào quá trình sản xuất vật chất. Song, dù cho trình độ kỹ thuật có thay đổi như
thế nào đi nữa thì xét theo tiêu chí kinh tế - xã hội, giai cấp công nhân vẫn tồn tại
như một giai cấp đặc thù với cả hai tiêu chí cơ bản nêu trên.
Căn cứ vào hai thuộc tính nói ở trên chúng ta có thể đưa ra định nghĩa như
sau về giai cấp công nhân:
“Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát
triển cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát
triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hoá ngày càng cao; là lực lượng
lao động cơ bản tiên tiến trong các quy trình công nghệ, dịch vụ công nghiệp,
trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải
vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; đại biểu cho lực lượng sản xuất và phương
thức sản xuất tiên tiến trong thời đại hiện nay” (1)
b) Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Trong mỗi thời kỳ chuyển biến cách mạng lên một hình thái kinh tế - xã
hội cao hơn luôn có một giai cấp đứng ở vị trí trung tâm của lịch sử, đóng vai
trò là động lực chủ yếu và là lực lượng lãnh đạo quá trình cách mạng đó. Giai
cấp công nhân là sản phẩm của nền đại công nghiệp, lực lượng sản xuất tiên tiến,
phương thức sản xuất tiên tiến, đại biểu cho xu hướng phát triển của xã hội tương
lai do vậy về mặt khách quan nó có nhiệm vụ xoá bỏ xã hội cũ, tổ chức, lãnh
đạo, xây dựng xã hội mới phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử. Nhiệm
vụ này do chính địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp đó quyết định.
Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
Xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa và tiền tư bản chủ nghĩa; từng bước xây
dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa; xoá bỏ áp
(1)
Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học: Nxb Chính trị quốc gia, HN, 2006, tr.59-60.
bức bóc lột; giải phóng mình đồng thời giải phóng toàn nhân loại .... Đó là nội
dung cơ bản bao trùm sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người chính là lịch sử của đấu tranh
giai cấp, đấu tranh giai cấp chính là động lực phát triển của lịch sử. Để hoàn
thành sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân phải tập hợp các tầng lớp
nhân dân lao động xung quanh mình, tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng xoá bỏ
xã hội cũ và xây dựng xã hội mới về mọi mặt.
Con đường để giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình đó
chính là phải tiến hành cuộc cách mạng không ngừng và triệt để qua hai giai
đoạn: Một là, lật đổ giai cấp tư sản giành lấy chính quyền, thiết lập nền
chuyên chính cách mạng của giai cấp công nhân. Hai là, sử dụng chính quyền
mới làm công cụ cải tạo xã hội cũ, tập hợp quần chúng nhân dân lao động xây
dựng thành công xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa để tiến lên chủ nghĩa
cộng sản.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân vừa mang tính dân tộc vừa mang
tính quốc tế, có nghĩa vụ vừa kết hợp nghĩa vụ dân tộc đồng thời mang nghĩa
vụ quốc tế.
2. Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân
Luận thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được C.Mác và
Ph.Ăngghen trình bày một các sâu sắc trong Tuyên ngông của Đảng Cộng
sản. Trong tác phẩm này các ông đã chỉ rõ các điều kiện khách quan quy định
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
a) Địa vị kinh tế-xã hội của giai cấp công nhân trong xã hội tư bản
chủ nghĩa
Xét một cách tổng quát chúng ta có thể khẳng định rằng, địa vị kinh tế - xã
hội của giai cấp công nhân quy định một cách khách quan vai trò sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân. Bởi vì:
Thứ nhất, giai cấp công nhân là bộ phận quan trọng nhất, cách mạng nhất
trong các bộ phận cấu thành lực lượng sản xuất tiên tiến nhất dưới chủ nghĩa tư
bản. Trong nền sản xuất hiện đại, giai cấp công nhân vừa là chủ thể trực tiếp, vừa
là sản phẩm căn bản nhất của nền sx đó. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và
tiêu vong cùng với đại công nghiệp, còn giai cấp công nhân lại là sản phẩm của
bản thân nền đại công nghiệp. Giai cấp công nhân hiện đại có xu hướng ngày càng
được tri thức hóa. Có điều này là bởi do yêu cầu khách quan của sự phát triển
công nghiệp trong thời đại mà khoa học và công nghệ đã và đang trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp.
Thứ hai, do không có tư liệu sản xuất nên giai cấp công nhân phải bán sức
lao động của mình cho nhà tư bản và bị nhà tư bản chiếm đoạt giá trị thặng dư, họ
bị lệ thuộc hoàn toàn trong quá trình phân phối các kết quả lao động của chính
mình. Do vậy, về mặt lợi ích giai cấp công nhân là giai cấp đối kháng trực tiếp với
giai cấp tư sản. Xét về bản chất, họ là giai cấp cách mạng triệt để nhất chống lại
chế độ áp bức, bóc lột tư bản chủ nghĩa. Điều kiện sinh hoạt khách quan của họ
quy định rằng, họ chỉ có thể tự giải phóng bằng cách giải phóng toàn xã hội khỏi
chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong cuộc cách mạng ấy, họ không mất gì ngoài xiềng
xích và được cả thế giới về mình.
Thứ ba, giai cấp công nhân có lợi ích căn bản thống nhất với lợi ích của
toàn thể nhân dân lao động nên họ có thể tập hợp, đoàn kết, lãnh đạo đông
đảo quần chúng đi theo làm cách mạng, đồng thời họ cũng là người đi đầu
trong cuộc đấu tranh của toàn thể nhân dân lao động và của dân tộc vì sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
b) Đặc điểm chính trị-xã hội của giai cấp công nhân
Địa vị kinh tế - xã hội khách quan còn tạo ra những đặc điểm chính trị - xã
hội của giai cấp công nhân. Chính những đặc điểm này đã tạo khả năng để giai
cấp công nhân hoàn thành thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình. Những đặc điểm
chính trị - xã hội của giai cấp công nhân gồm:
Thứ nhất, giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng.
Giai cấp công nhân là đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến nhất, chế độ
xã hội tiên tiến nhất, do đó, họ đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ hơn
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Giai cấp công nhân luôn phát triển và lớn
mạnh không chỉ về số lượng mà còn về chất lượng cùng với sự phát triển của
khoa học và công nghệ hiện đại. Chính điều kiện làm việc ở thành thị và các khu
công nghiệp giúp cho giai cấp công nhân mở rộng các quan hệ xã hội, mở mang
trí tuệ. Cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột vì dân sinh dân chủ, cải thiện điều
kiện làm việc đã tôi luyện cho giai cấp công nhân có những phẩm chất cần thiết
cho công cuộc đấu tranh. Lợi ích căn bản của giai cấp công nhân thống nhất
với lợi ích căn bản của nhân dân lao động nên họ có đủ khả năng và điều kiện
tập hợp quần chúng nhân dân làm cách mạng.
Thứ hai, giai cấp công nhân là giai cấp có tính cách mạng triệt để.
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ
rõ: “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có
giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng, tất cả các giai cấp khác đều là
những tầng lớp trung đẳng .... Đó là do giai cấp công nhân không gắn với tư
hữu, do vậy, họ kiên định trong cuộc đấu tranh xóa bỏ chủ nghĩa tư bản và
xây dựng xã hội mới”(1).
Thứ ba, giai cấp công nhân có ý thức tổ chức kỷ luật cao.
Môi trường làm việc của giai cấp công nhân là sản xuất tập trung cao
và có trình độ kỹ thuật ngày càng hiện đại, có cơ cấu tổ chức ngày càng chặt
chẽ, làm việc theo dây chuyền buộc giai cấp công nhân phải luôn tuân thủ
nghiêm ngặt kỷ luật lao động. Do yêu cầu của cuộc đấu tranh giai cấp chống
lại giai cấp tư sản - là một giai cấp có tiềm lực về kinh tế - kỹ thuật nên giai
cấp công nhân phải đấu tranh bằng phẩm chất kỷ luật của mình.
Thứ tư, giai cấp công nhân có bản chất quốc tế.
Giai cấp công nhân ở tất cả các nước đều có chung một mục đích là giải
phóng mình đồng thời giải phóng xã hội khỏi áp bức bóc lột và họ đều có
chung một kẻ thù là giai cấp tư sản bóc lột. Và cũng do yêu cầu của cuộc đấu
tranh giai cấp, để chống lại chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư sản khi mà chúng đã
liên kết với nhau thành tập đoàn tư bản, chủ nghĩa đế quốc, vì vậy mà giai cấp
công nhân càng phải nêu cao tinh thần quốc tế của giai cấp mình.
“Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại” (C.Mác - Ph.Ăngghen)
(1)
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H 2002, t4, tr610.
“Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại” (V.I. Lênin)
3. Vai trò của Đảng Cộng sản trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân xuất hiện một cách khách
quan, song, để biến khả năng khách quan đó thành hiện thực thì phải thông
qua những nhân tố chủ quan. Trong những nhân tố chủ quan ấy, việc thành lập
ra Đảng Cộng sản trung thành với sự nghiệp, lợi ích của giai cấp công nhân là
yếu tố quyết định nhất đảm bảo cho giai cấp công nhân có thể hoàn thành sứ
mệnh lịch sử của mình.
a) Tính tất yếu và quy luật hình thành, phát triển chính đảng của
giai cấp công nhân
* Tính tất yếu của việc hình thành và phát triển đảng của giai cấp
công nhân
Trong thực tế lịch sử, phong trào công nhân chống giai cấp từ sản đã
xuất hiện ngay từ khi chủ nghĩa tư bản ra đời. Mặc dù quy mô ngày càng mở
rộng nhưng đều bị thất bại. Khi chưa có đảng lãnh đạo, phong trào đấu tranh của
giai cấp công nhân chỉ mang tính tự phát, rời rạc, chưa có tổ chức và hệ thống,
chưa có lý luận dẫn đường.
Khi Đảng Cộng sản ra đời và trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng và với
tư cách là đội tiên phong chính trị của giai cấp công nhân và toàn xã hội, Đảng
Cộng sản có nhiệm vụ đề ra cương lĩnh, mục tiêu, phương hướng, đường lối,
chiến lược, sách lược, các chính sách đúng đắn, phù hợp với điều kiện thực tiễn
của đất nước, với quy luật vận động khách quan của thế giới; với quyền lợi của
đại đa số nhân dân lao động. Chỉ có Đảng Cộng sản lãnh đạo giai cấp công nhân
mới chuyển từ đấu tranh tự phát lên tự giác, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản trở
thành điều kiện để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Để luôn giữ được vai trò lãnh đạo của mình Đảng phải luôn luôn hướng hoạt
động của mình và lợi ích chung của dân tộc, luôn tổ chức, giáo dục toàn đảng,
toàn dân thực hiện thắng lợi các mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ đặt ra để hoàn thành
sứ mệnh lịch sử của mình. Đảng phải chăm lo xây dựng về tổ chức, nâng cao năng
lực lãnh đạo, vững mạnh về chính trị, gắn bó với nhân dân.
* Quy luật hình thành và phát triển đảng của giai cấp công nhân
Bằng thực tiễn cách mạng ở nước Nga cùng với phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế V.I. Lênin đã khái quát và nêu lên một vấn đề có tính quy luật về sự ra
đời của Đảng Cộng sản, đó là: Chủ nghĩa Mác kết hợp với phong trào công nhân dẫn
tới sự ra đời của Đảng Cộng sản. Đây là vấn đề có tính phổ biến đối với sự ra đời của
Đảng Cộng sản ở nhiều nước trên thế giới, nhất là châu Âu.
Vận dụng một cách sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin vào tình
hình cụ thể của Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt
Nam (03/02/1930), đó là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đây là một sáng tạo,
một đóng góp của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam chính là sự kết hợp một
cách nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước ở Việt Nam.
b) Mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản với giai cấp công nhân
Giai cấp công nhân là cơ sở giai cấp của Đảng Cộng sản, là nguồn bổ
sung lực lượng cho Đảng, nói cách khác Đảng trước hết bao gồm những
người ưu tú nhất trong giai cấp công nhân.
Đảng Cộng sản là đội tiên phong chiến đấu, là lãnh tụ chính trị, là bộ
tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân. Vai trò của đảng đối với giai cấp
công nhân thể hiện ở chỗ: Một là, không có một tổ chức chính trị nào hoạt động
được mà lại không thông qua chính đảng của giai cấp mình. Giai cấp công nhân
cũng vậy, họ hoạt động, làm cách mạng thông qua đội tiên phong của mình, đó là
Đảng Cộng sản (đảng mang bản chất giai cấp công nhân). Hai là, để hoàn thành
sứ mệnh lịch sử của mình thì giai cấp công nhân cần phải có một chính đảng
chính trị vững vàng kiên định, sáng suốt, có đường lối chiến lược sách lược đúng
đắn thể hiện lợi ích của giai cấp hay toàn thể phong trào. Ba là, với một Đảng
Cộng sản chân chính thì sự lãnh đạo của Đảng chính là sự lãnh đạo của giai cấp.
Đảng với giai cấp là thống nhất nhưng Đảng có trình độ lý luận và tổ chức cao
nhất để lãnh đạo giai cấp và dân tộc; vì thế không thể lẫn lộn Đảng với giai cấp.
II. CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Cách mạng xã hội chủ nghĩa và nguyên nhân của nó
a) Khái niệm cách mạng xã hội chủ nghĩa
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng nhằm thay thế chế độ
tư bản chủ nghĩa lỗi thời bằng chế độ xã hội chủ nghĩa, trong cuộc cách mạng đó,
giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo và cùng với quần chúng nhân dân lao động
xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Theo nghĩa hẹp: Cách mạng xã hội chủ nghĩa được hiểu là một cuộc cách
mạng chính trị, được kết thúc bằng việc giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao
động giành được chính quyền, thiết lập nên nhà nước chuyên chính vô sản – nhà
nước của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động.
- Theo nghĩa rộng: Cách mạng xã hội chủ nghĩa bao gồm cả hai thời kỳ:
cách mạng về chính trị nhằm thiết lập nhà nước chuyên chính vô sản và thời kỳ sử
dụng nhà nước của mình để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới về mọi mặt
kinh tế, chính trị, văn hóa tư tưởng…
b) Nguyên nhân của cách mạng xã hội chủ nghĩa
- Nguyên nhân kinh tế (đây là nguyên nhân sâu xa của cách mạng xã
hội chủ nghĩa ): Đó chính là mâu thuẫn trong phương thức sản xuất giữa lực
lượng sản xuất mang tính chất xã hội hoá cao với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ
chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Mâu thuẫn trên lĩnh vực
kinh tế trên được biểu hiện trên lĩnh vực xã hội đó là phương thức sản xuất mới ra
đời thay thế phương thức sản xuất cũ, quan hệ sản xuất cũ sẽ được thay thế bằng
quan hệ sản xuất mới, đồng thời giai cấp công nhân và nhân dân lao động sẽ trở
thành người làm chủ đất nước.
- Nguyên nhân về xã hội: Đó là mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị với giai
cấp bị trị, cụ thể là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Mâu
thuẫn trên lĩnh vực kinh tế trên được biểu hiện trong lĩnh vực xã hội chính là
phương thức sản xuất mới ra đời thay thế phương thức sản xuất cũ, quan hệ sản
xuất cũ sẽ được thay thế bằng quan hệ sản xuất mới, đồng thời giai cấp công nhân
và nhân dân lao động sẽ trở thành người làm chủ đất nước.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa có nguyên nhân sâu xa là do mâu thuẫn giữa
lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hoá cao với tính chất tư hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất dưới chủ nghĩa tư bản, cho nên chừng nào quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa vẫn được duy trì thì nguyên nhân của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa
vẫn còn tồn tại.
2. Mục tiêu, động lực và nội dung của cách mạng xã hội chủ nghĩa
a) Mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa
Giải phóng giai cấp bị áp bức, bóc lột, các dân tộc bị nô dịch đồng thời
giải phóng xã hội khỏi sự trì trệ để tiếp tục phát triển trên con đường tiến bộ,
văn minh là mục tiêu chung và là mục tiêu cao cả nhất của cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Đúng như C.Mác và Ph.Ăngghen đã từng chỉ rõ “sự phát triển tự
do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”(1).
Để thực hiện được mục tiêu cao cả nêu trên, cách mạng xã hội chủ
nghĩa phải từng bước được hiện thực hoá qua từng chặng đường, từng bước
đi, thông qua quá trình lao động đầy nhiệt huyết và sáng tạo của quần chúng
nhân dân lao động, bằng công tác tổ chức xã hội một cách khoa học trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội, của một chế độ xã hội mới đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản.
Mục tiêu trong giai đoạn đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa là giành
chính quyền, thiết lập nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Tiếp đến, ở giai đoạn sau của cách mạng xã hội chủ nghĩa là, sử dụng chính quyền
để xoá bỏ chế độ người bóc lột người, đưa lại đời sống ấm no cho toàn dân.
b) Động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa
Động lực chủ yếu của cách mạng xã hội chủ nghĩa là các giai cấp và
tầng lớp mà lợi ích của họ có liên quan đến cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết: “Tất cả
những phong trào lịch sử từ trước đến nay đều do thiểu số thực hiện, hoặc là
mưu lợi ích cho thiểu số. Phong trào vô sản là phong trào độc lập của khối đại
đa số, mưu lợi ích cho khối đại đa số”(1).
Cách mạng xã hội chủ nghĩa với mục đích giải phóng giai cấp công
nhân và nhân dân lao động khỏi tình trạng áp bức, bóc lột, đem lại cuộc sống
(1)
(1)
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, HN 2002, t4, tr628.
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, HN 2002, t4, tr611.
hạnh phúc cho nhân dân, do vậy thu hút được sự tham gia của đông đảo nhân
dân lao động trong suốt quá trình cách mạng.
Giai cấp công nhân vừa là giai cấp lãnh đạo vừa là động lực chủ yếu
của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Là con đẻ của nền đại công nghiệp, giai cấp
công nhân ngày càng lên tăng về số lượng, nâng cao về chất lượng, nhất là
trong thời đại của nền kinh tế tri thức trong giai đoạn hiện nay, công nhân
ngày càng được tri thức hoá, vị trí và vai trò của họ ngày càng được khẳng
định trong cuộc đấu tranh vì một xã hội tiến bộ và văn minh.
Giai cấp nông dân có nhiều lợi ích căn bản thống nhất với lợi ích của
giai cấp công nhân, do đó cũng trở thành động lực to lớn của cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong dân cư,
nhất là đối với các quốc gia chậm và đang phát triển. Bởi vậy, trong tiến trình
cách mạng xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân muốn hoàn thành sứ mệnh
lịch sử của mình thì nhất thiết phải lôi kéo được giai cấp nông dân đi theo
mình nhằm tạo thành liên mình công – nông vững chắc để giành và giữ chính
quyền cách mạng. “Nguyên tắc của chuyên chính vô sản là duy trì khối liên
minh giữa giai cấp vô sản và giai cấp nông dân”(2).
Đội ngũ trí thức cũng là lực lượng quan trọng của cách mạng xã hội
chủ nghĩa đặc biệt trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội đội ngũ trí thức
càng trở nên quan trọng. Trí thức là những người góp phần nâng cao dân trí,
đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước, tham gia xây dựng đường lối của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước. Trí thức là những người sáng tạo ra các
giá trị khoa học, kỹ thuật, tiếp thu những thành tựu khoa học kỹ thuật mới của
nhân loại. Ngày nay, trong thời đại của cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ, lượng giá trị lao động chấy xám ngày càng chiếm tỷ lệ cao trong sản
phẩm hàng hoá thì vai trò động lực của đội ngũ trí thức ngày càng tăng trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Ngoài những động lực trên, khối đại đoàn kết dân tộc, tinh thần yêu
nước, truyền thống văn hóa, đường lối cách mạng đúng đắn cũng là những
động lực quan trọng của cách mạng xã hội chủ nghĩa .
(2)
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H 2002, t44, tr57.
c) Nội dung của cách mạng xã hội chủ nghĩa
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng toàn diện trên tất cả
các mặt của đời sống xã hội.
- Trên lĩnh vực chính trị: cách mạng xã hội chủ nghĩa đưa nhân dân lao
động từ địa vị bị áp bức, bóc lột lên địa vị làm chủ Nhà nước, làm chủ xã hội để từ
đó họ hoạt động như chủ thể tự giác để xây dựng xã hội mới.
Để nâng cao hiệu quả trong việc tập hợp, tổ chức nhân dân tham gia vào
công việc của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội
chủ nghĩa phải thường xuyên chăm lo, nâng cao kiến thức về mọi mặt cho người
dân, đặc biệt là những kiến thức về chính trị, pháp quyền. Bên cạnh đó, Đảng và
Nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng phải thường xuyền quan tâm tới việc xây dựng
và hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế, có những chính sách phù hợp để nhân
dân lao động tham gia hoạt động quản lý xã hội, quản lý nhà nước.
- Trên lĩnh vực kinh tế: cách mạng xã hội chủ nghĩa sẽ làm thay đổi vị trí,
vai trò của người lao động trên cơ sở thay đổi chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất là chủ yếu bằng chế độ sở hữu công hữu là chủ yếu, và dưới những hình
thức thích hợp; thay đổi điều kiện sống và điều kiện làm việc của người lao động.
Cùng với việc cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới
xã hội chủ nghĩa, nhà nước xã hội chủ nghĩa phải tìm mọi cách phát triển lực
lượng sản xuất, không ngừng nâng cao năng suất lao động, trên cơ sở đó từng
bước cải thiện đời sống của nhân dân.
Dưới chủ nghĩa xã hội, nguyên tắc phân phối theo lao động được xem là
nguyên tắc chủ yếu nhất, do vậy, năng suất lao động, hiệu quả công tác là thước
đo đánh giá hiệu quả của mỗi cá nhân đóng góp cho xã hội. Đồng thời, phải chú ý
kết hợp hài hoà giữa lợi ích cá nhân với lợi ích của tập thể.
- Trên lĩnh vực văn hoá - tư tưởng: cách mạng xã hội chủ nghĩa tạo ra sự
thay đổi căn bản trong phương thức sinh hoạt tinh thần của xã hội theo xu
hướng tiến bộ trên cơ sở kế thừa và nâng cao những giá trị truyền thống của
dân tộc, tiếp thu những giá trị tiên tiến của thời đại, từng bước xây dựng thế
giới quan, nhân sinh quan mới, xây dựng nền văn hoá mới, những con người
mới mang tính chất xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, cách mạng xã hội chủ nghĩa diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội, từ chính trị đến kinh tế và văn hoá – tư tưởng. Tất cả các lĩnh
vực trên đều có mối quan hệ, tác động qua lại với nhau, thúc đẩy nhau cùng
phát triển.
3. Liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân trong cách
mạng xã hội chủ nghĩa
a) Tính tất yếu và cơ sở khách quan của liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân
Tính tất yếu khách quan của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân.
Liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân là điều kiện cơ bản để
tăng cường lực lượng và nếu không có liên minh này thì giai cấp công nhân
không thể dành chính quyền và giữ vững chính quyền. Kinh nghiệm lịch sử
cho thấy nếu giai cấp công nhân không liên minh với nông dân thì không thể
giành được thắng lợi trong cách mạng xã hội.
Để xây dựng xã hội mới, giai cấp công nhân cũng nhất thiết phải liên
minh với nông dân vì đó là lực lượng đông đảo, là một động lực quan trọng
của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Cơ sở khách quan của việc xây dựng khối liên minh giữa giai cấp công
nhân với nông dân.
Giai cấp nông dân cũng là giai cấp bị bóc lột do đó là người gần gũi với
giai cấp công nhân. Liên minh công – nông là do mối liên hệ tự nhiên, gắn bó và
thống nhất về lợi ích cơ bản của công nhân, nông dân.
Liên minh công – nông là do sự gắn bó giữa công nghiệp, nông nghiệp, đó là
hai ngành sản xuất chính của xã hội. Công nghiệp tạo ra những sản phẩm phục vụ
cho nông nghiệp. Ngược lại, nông nghiệp tạo ra lương thực, thực phẩm phục vụ
cho nhu cầu của toàn xã hội, đồng thời nó cũng tạo ra nông sản phục vụ cho sản
xuất công nghiệp.
Liên minh công - nông là yêu cầu khách quan của quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội; đó là lực lượng chính trị xã hội cơ bản của cách mạng, là nền tảng
vững chắc của khối đại đoàn kết toàn dân, của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trên
cơ sở đó, nông dân trở thành người bạn tự nhiên, tất yếu của giai cấp công nhân.
b) Nội dung và nguyên tắc cơ bản của liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân
Nội dung của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân.
Liên minh về chính trị giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền là nhằm giành chính quyền về tay
giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động. Trong thời kỳ xây dựng chủ
nghĩa xã hội, liên minh công - nông chính là việc cùng tham gia vào chính
quyền nhà nước, bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội. Tuy nhiên, liên minh về chính trị giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân không phải là sự dung hoà về lập trường tư tưởng mà giai cấp nông
dân phải đứng trên lập trường chính trị của giai cấp công nhân.
Liên minh về kinh tế giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân. Đây
là nội dung liên minh quan trọng nhất, chủ yếu trong thời kỳ xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Thực hiện liên minh về kinh tế giữa công nhân và nông dân là
kết hợp đúng đắn lợi ích của hai giai cấp, vừa đảm bảo lợi ích của nhà nước,
của xã hội vừa quan tâm tới lợi ích của nông dân, có chính sách phù hợp với
nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
Nội dung về văn hóa, xã hội của liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân.
Khi nói đến nội dung về văn hoá, xã hội của liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân, chúng ta phải nhấn mạnh rằng, đây là một trong
những vấn đề quan trọng của tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thực hiện
tốt được những nội dung về văn hoá, xã hội của khối liên minh công – nông
chúng ta mới có thể phát huy hết được động lực của từng giai cấp cũng như
sức mạnh của khối liên minh. Muốn thực hiện tốt những nội dung của liên
minh công – nông trên lĩnh vực văn hoá, xã hội chúng ta cần phải: Một là,
thường xuyên chăm lo, nâng cao trình độ văn hóa của công nhân và nông dân.
Hai là, xây dựng quan hệ xã hội nhân văn, nhân đạo, hữu nghị hợp tác giữa
các dân tộc. Ba là, tạo điều kiện cho quần chúng lao động tham gia quản lý
kinh tế, quản lý xã hội, quản lý nhà nước.
Nguyên tắc cơ bản của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân
Một là, phải đảm bảo vai trò lãnh đạo của giai cấp trong khối liên minh
công - nông. Xây dựng khối liên minh công – nông không có nghĩa là chia
quyền lãnh đạo của hai giai cấp này, mà phải đi theo đường lối của giai cấp
công nhân. Giai cấp nông dân là giai cấp gắn với phương thức sản xuất nhỏ,
cục bộ, phân tán, không có hệ tư tưởng độc lập. Do đó, giai cấp nông dân chỉ
có đi theo hệ tư tưởng của giai cấp công nhân mới có thể tiến lên nền sản xuất
lớn của xã hội mới.
Hai là, đảm bảo nguyên tắc tự nguyện. Có thực hiện được tinh thần tự
nguyện thì khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân mới
bền vững và lâu dài.
Ba là, kết hợp đúng đắn các lợi ích của giai cấp công nhân và giai cấp
nông dân. Đây là hai giai cấp có lợi ích căn bản thống nhất với nhau. Sự
thống nhất về mặt lợi ích là điều kiện quan trọng để thực hiện liên minh.
III. HÌNH THÁI KINH TẾ-XÃ HỘI CỘNG SẢN CHỦ NGHĨA
1. Xu thế tất yếu của sự ra đời hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ
nghĩa
Phương pháp luận cơ bản của việc dự báo xu thế tất yếu của sự ra đời
hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa: C.Mác và Ph.Ăngghen đã vận
dụng quan điểm duy vật về lịch sử đề nghiên cứu xã hội loài người. Các ông
coi sự vận động phát triển và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế-xã
hội là quá trình phát triển lịch sử - tự nhiên, điều đó là do quy luật quan hệ sản
xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
quy định.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã phân tích một cách khoa học phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa và chỉ rõ mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất ngày càng xã hội
hóa cao với quan hệ sản xuất dựa trên sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư
liệu sản xuất dẫn tới sự kìm hãm lực lượng sản xuất. Nhu cầu phát triển của
lực lượng sản xuất tất yếu đòi hỏi phải thay thế quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển. Mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và nhu
cầu tất yếu của sự thay thế hình thái kinh tế-xã hội tư bản chủ nghĩa bằng hình
thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Tính mâu thuẫn gay gắt trong lĩnh vực kinh tế được biểu hiện trên lĩnh
vực chính trị xã hội là mâu thuẫn giai cấp công nhân, nhân dân lao động với giai
cấp tư sản. Sự phát triển của cuộc đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn tới chuyên chính
vô sản và sự xác lập hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa.
C.Mác và Ph.Ăngghen dự báo sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa từ những nước tư bản phát triển nhưng căn cứ vào những
điều kiện thực tế cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, V.I.Lênin đã dự báo sự xuất
hiện của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ở các nước có trình độ
phát triển trung bình và những dân tộc thuộc địa. Những điều kiện cơ bản của
sự ra đời hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa từ các nước tư bản chủ
nghĩa trung bình và các nước chưa qua chủ nghĩa tư bản phải hội tụ đủ các điều
kiện sau đây:
Một là, khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, các
nước đế quốc không ngừng xâm lược, khai thác thuộc địa, gây ra chiến tranh…Do
đó, đã làm xuất hiện những mâu thuẫn cơ bản và gay gắt của thời đại như: Mâu
thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân; mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế
quốc với các dân tộc thuộc địa; mâu thuẫn giữa các nước tư bản với nhau; mâu
thuẫn giữa địa chủ và nông dân…. Ở các nước nông nghiệp lạc hậu và là thuộc địa
mâu thuẫn cơ bản nhất là mâu thuẫn giữa thực dân đế quốc cùng bọn phong kiến
tay sai, với một bên là cả dân tộc đang bị nô dịch, bị áp bức, b`óc lột.
Hai là, có sự tác động toàn cầu của phong trào cộng sản và công nhân quốc
tế, hệ tư tưởng Mác-Lênin, đặc biệt là những luận điểm về chủ nghĩa đế quốc và
các dân tộc bị áp bức…, làm thức tỉnh nhiều dân tộc, dấy lên phong trào yêu
nước, giành độc lập dân tộc, trong đó có Việt Nam. Phải có sự ra đời của Đảng
Cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân và theo hệ tư tưởng của chủ
nghĩa Mác-Lênin.
Như vậy, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa khi ra đời ở các nước
tư bản chủ nghĩa phát triển trung bình và các nước chưa qua chủ nghĩa tư bản
không phải là ngẫu nhiên mà nó phải có những điều kiện lịch sử nhất định.
2. Các giai đoạn phát triển của hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa
a) Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Tính tất yếu và hai loại hình quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến
cách mạng sâu sắc trên toàn bộ các mặt của đời sống xã hội, tạo ra những tiền đề
vật chất và tinh thần cần thiết để hình thành một xã hội mà trong đó những nguyên
tắc căn bản của chủ nghĩa xã hội sẽ được thực hiện. Tính tất yếu của thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội là do: Một là, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội khác
nhau về bản chất, dựa trên chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Hai là,
chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên nền đại công nghiệp có trình độ cao. Chủ
nghĩa tư bản đã tạo ra nền đại công nghiệp nhưng nó chưa phải là cơ sở vật chất
kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Muốn có cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội cần phải có thời gian để tổ chức lại, sắp xếp, cải tạo nền đại công nghiệp tư
bản chủ nghĩa thành cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Ba là, các quan
hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát nảy sinh từ chủ nghĩa tư bản, mà chỉ
có thể là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa. Bốn là, công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là công việc mới mẻ, khó khăn phức tạp và đòi
hỏi phải có thời gian.
Đặc điểm và thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự tồn tại của xã hội cũ
đan xen với những nhân tố mới của chủ nghĩa xã hội trong mối quan hệ vừa thống
nhất vừa đâu tranh với nhau trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội như: chính trị,
kinh tế, văn hoá, tư tưởng, v.v…và phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trên lĩnh vực kinh tế là sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong hệ
thống kinh tế quốc dân thống nhất vận động theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nền kinh tế có nhiều thành phần được xác lập trên cơ sở khách quan của sự tồn tại
nhiều loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất với những hình thức tổ chức kinh tế đa
dạng, đan xen hỗn hợp với nhau, nhiều hình thức phân phối thu nhập khác nhau.
Trên lĩnh vực chính trị là sự tồn tại kết cấu giai cấp xã hội đa dạng, phức
tạp do đó ý thức chính trị của các bộ phận khác nhau cũng có sự khác nhau.
Trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa-xã hội là sự tồn tại nhiều tư tưởng và văn
hóa khác nhau. Bên cạnh tư tưởng xã hội chủ nghĩa, tư tưởng Mác-Lênin giữ vai
trò thống trị vẫn tồn tại các tư tưởng tư sản, tiểu tư sản, tâm lý tiểu nông…
Thực chất của thời kỳ quá độ
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội về thực chất là thời kỳ đấu tranh quyết
liệt về chính trị, tư tưởng, văn hoá, kinh tế, xã hội giữa một bên là giai cấp công
nhân liên minh cùng giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác đã
giành được chính quyền nhà nước, tổ chức xây dựng xã hội mới, với một bên là
giai cấp bóc lột, các thế lực phản động mới bị đánh đổ và vẫn còn nuôi hy vọng
giành lại được thiên đường đã mất.
Nội dung kinh tế, chính trị và văn hóa, xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
Trong lĩnh vực kinh tế:
Sắp xếp, bố trí lại lực lượng sản xuất hiện có của xã hội, cải tạo quan hệ sản
xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới theo hướng tạo ra sự phát triển cân đối
của nền kinh tế, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của nhân dân. Quá trình này
phải tuân thủ những đòi hỏi khách quan của quy luật kinh tế, nhất là quy luật quan
hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Đối với những nước chưa trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tất yêu phải tiến
hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa để tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội, đó là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ. Quá trình này cũng đòi
hỏi phải tuân thủ quy luật kinh té khách quan và tùy thuộc điều kiện lịch sử cụ thể
của mỗi nước và bối cảnh quốc tế để xác định chiến lược, bước đi và nội dung
thích hợp.
Trong lĩnh vực chính trị:
Đấu tranh chống lại các thế lực thù địch, chống phá sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội.
Xây dựng, củng cố nhà nước và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa .
Đảm bảo quyền làm chủ trong hoạt động kinh tế - văn hóa - xã hội của
nhân dân lao động.
Xây dựng các tổ chức chính trị-xã hội.
Xây dựng Đảng Cộng sản trong sạch, vững mạnh ngang tầm nhiệm vụ
lịch sử.
Trong lĩnh vực xã hội:
Khắc phục tệ nạn do xã hội cũ để lại.
Khắc phục trình độ phát triển chệnh lệch giữa các vùng, miền, các tầng lớp
dân cư để thực hiện mục tiêu bình đẳng xã hội.
b) Chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa xã hội là giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản có các đặc
trưng sau:
1. Cơ sở vật chất - kỹ thuật là nền sản xuất công nghiệp với trình độ
công nghệ hiện đại
Xã hội xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa là hai chế độ xã hội mà ở
đó có sự khác nhau về chế độ sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu. Ở xã hội xã hội
chủ nghĩa đó là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu còn trong xã hội
tư bản chủ nghĩa đó là chế độ tư hữu.
Với các nước tư bản chủ nghĩa đi lên chủ nghĩa xã hội, với lực lượng
sản xuất phát triển, đây là điều kiện thuận lợi để tiếp tục xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội. Với các nước không phát triển qua chế độ tư bản chủ nghĩa
thì tất yếu phải thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng từng bước
cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
2. Xã hội xã hội chủ nghĩa đã xoá bỏ chế độ chiếm hữu tư bản chủ nghĩa,
thiết lập chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ rõ, chủ nghĩa xã hội
không xoá bỏ chế độ tư hữu nói chung mà chủ yếu xoá bỏ chế độ tư hữu tư
bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu. Vì đây chính là nguồn gốc của áp
bức, bóc lột giá trị thặng dư.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kết cấu xã hội còn đan xen
nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội; cơ cấu kinh tế nhiều thành phần vận hành theo
cơ chế thị trường, và vẫn tồn tại những quan hệ kinh tế cụ thể như thuê mướn
lao động, nhân công,…cá nhân người này vẫn có thể còn bóc lột những cá
nhân khác. Đây chỉ là những quan hệ bóc lột cụ thể chứ không phải xem xét
trên bình diện của toàn xã hội, giai cấp này bóc lột giai cấp khác, tầng lớp khác.
3. Xã hội xã hội chủ nghĩa tạo ra cách thức tổ chức lao động và kỷ luật
lao động mới. Đây là một vấn đề đấu tranh tự hoàn thiện về cách thức lao
động và kỷ luật lao động theo tiến trình từng bước của chủ nghĩa xã hội
4. Xã hội xã hội chủ nghĩa thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao
động – nguyên tắc phân phối cơ bản nhất. Đây là nguyên tắc phân phối cơ bản
nhất trong chủ nghĩa xã hội nhưng không phải là nguyên tắc duy nhất.
Nguyên tắc phân phối này nó phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất trong chủ nghĩa xã hội.
5. Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất của giai cấp công nhân,
tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc; thực hiện quyền và lợi ích của
nhân dân
6. Xã hội xã hội chủ nghĩa là chế độ xã hội mà con người giải phóng,
và thoát khỏi chế độ áp bức bóc lột; thực hiện công bằng, bình đẳng, tiến bộ
xã hội tạo ra những điều kiện cơ bản để con người phát triển toàn diện. Mục
tiêu cao nhất của xã hội xã hội chủ nghĩa là giải phóng con người, đây là một
quá trình lâu dài và được thực hiện từng bước trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội như: kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng….
Tóm lại, chủ nghĩa Mác-Lênin đã đưa ra những dự báo khoa học về
những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang định
hướng để xây dựng, và những dự báo này chỉ đạt được sau khi kết thúc thời
kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tổng kết quá trình
cách mạng Việt Nam, nhất là trong hai mươi năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã hình thành một quan niệm tổng quát về chủ nghĩa xã hội. Điều này được
thể hiện rõ trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ X:
- “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây dựng là
một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh;
- Do nhân dân lao động làm chủ;
- Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan
hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất;
- Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc;
- Con người được giải phóng khỏi áp bức bất công, có cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc, phát triển toàn diện;
- Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ,
giúp đỡ nhau cùng tiến bộ;
- Có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì nhân dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản;
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới;
Có thể xem đây là mô hình chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Những đặc
trưng trong mô hình đó vừa phản ánh tính phổ biến theo tinh thần học thuyết MácLênin về xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa thể hiện tính đặc thù dân tộc, có tính đến
các đặc điểm của thời đại. Tuy nhiên ở đây vẫn còn nhiều vấn đề cần được tiếp tục
nghiên cứu sâu và cụ thể.
c) Giai đoạn cao của Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
Trên cơ sở nghiên cứu quá trình phát triển của lực lượng sản xuất,
C.Mác dự báo về sự xuất hiện giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa:
Về mặt kinh tế: Lực lượng sản xuấtphát triển vô cùng mạnh mẽ, của cải
xã hội tuôn ra dào dạt, ý thức con người được nâng lên, khoa học phát triển,
lao động của con người được giảm nhẹ, thực hiện phân phối theo nhu cầu.
Trrong tác phẩm Phê phán Cương lĩnh Gôta, C.Mác đã viết: “Khi nào lao
động troẻ thành không những là một phương tiện để sing sống mà bản thân nó
còn là một nhu cầu bậc nhất của đời sống, khi mà cùng với sự phát triển toàn
diện của các cá nhân, sức sản xuất của họ ngày càng tăng lên và tất cả các
nguồn của cải xã hội đều tuôn ra dồi dào - chỉ khi đó người ta mới có thể vượt
hẳn ra khỏi giới hạn chật hẹp của pháp quyền tư sản và xã hội mới có thể ghi
lên lá cờ của mình: làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”(1).
Về mặt xã hội: Trình độ xã hội phát triển nagỳ càng cao, con người có
điều kiện phát triển năng lực của mình, trí thức con người được nâng cao,
không còn sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn, giai cấp và nhà nước sẽ
tiêu vong. Chỉ lúc đó nhà nước mới tiêu vong, một nền dânchủ thực sự hoàn
bị, thực sự không hạn chế mới có thể có và được thực hiện.
Kế thừa những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã tiếp
tục đưa ra những luận giải về mô hình xã hội trong tương lai. Ông cho rằng,
khi xã hội đạt được trình độ phát triển cao như vậy, thì dân chủ mới thực hiện
đầy đủ, dân chủ cho mọi người, không còn đối tượng bị hạn chế dân chủ, do
vậy dân chủ cũng không còn; nhà nước luật pháp tự tiêu vong, vì lúc này
không cần tới sự chấn áp của nhà nước, pháp luật trở thành phong tục, tập
quán, thành quan niệm đạo đức mọi người tự giác thực hiện.
Cũng theo V.I.Lênin, tới giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa, con người được giải phóng hoàn toàn, chuyển từ vương
quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do, có điều kiện phát triển toàn diện
năng lực và mang hết tài năng, trí tuệ cống hiến cho xã hội....
V.I.Lênin cũng cho rằng, không phải nhà nước tiêu vong ngay một lúc,
mà là một quá trình: “Chúng ta chỉ có quyền nói rằng, nhà nước tất nhiên sẽ
tiêu vong đồng thời nhấn mạnh vào tính chất lâu dài của quá trình ấy, sự phụ
thuộc của quá trình ấy vào tốc độ phát triển của giai đoạn cao của chủ nghĩa
cộng sản”(1).
Qua phân tích của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về gia đoạn cao
của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản, các ông đều nêu lên những điều kiện
kinh tế - xã hội đảm bảo cho sự xuất hiện của giai đoạn này. Các điều kiện đó
là:
Một là, C.Mác. Ph.Ăngghen và V.I.Lênin dự báo về giai đoạn cao của
hình thái kinh tế - cộng sản chủ nghĩa khi có những điều kiện kinh tế - xã hội
cho sự xuất hiện của giai đoạn này.
(1)
(1)
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, HN.1995, t19, tr36.
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, HN.1976, t33, tr118.
Hai là, sự xuất hiện giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng
sản chủ nghĩa là một quá trình lâu dài, bằng việc không ngừng phát triển lực
lượng sản xuất, tổ chức xã hội về mọi mặt, giáo dục nâng cao tinh thần tự giác
của con người. Nếu không có quá trình đó cũng không thể xuất hiện được giai
đoạn đó.
Ba là, quá trình xuất hiện giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội
hội cộng sản chủ nghĩa ở các nước khác nhau diễn ra với những quá trình
khác nhau, tuỳ thuộc vào sự nỗ lực phấn đấu về mọi phương diện. Khi chưa
xuất hiện giai đoạn cao thì “trong một thời gian nhất định, dưới chế độ cộng
sản, không những vẫn còn pháp quyền tư sản, mà vẫn còn cả nhà nước kiểu tư
nhưng không có giai cấp tư sản:”(1). Khi chưa đạt đến giai đoạn cao của hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, trong điều kiện vẫn còn chủ nghĩa tư
bản, chủ nghĩa đế quốc trên thế giới thì những vấn đề lý luận của chủ nghĩa
mác về nhà nước, về dân chủ vẫn còn nguyên giá trị. Tính giai cấp của nhà
nước, của dân chủ vẫn tồn tại.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đưa ra các dự báo và luận
giải về sự ra đời, phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
trên cơ sở phân tích quy luật phát triển khách quan của xã hội, đặc biệt là quy
luật kinh tế của sự vận động của xã hội tư bản chủ nghĩa. Thế nhưng, lịch sử
phát triển của xã hội luôn luôn chịu tác động của nhiều nhân tố khách quan và
chủ quan trong những điều kiện xác định, từ đó tạo nên tính phong phú đa
dạng của tiến trình lịch sử phát triển của mỗi cộng đồng người cũng như của
toàn bộ lịch sử nhân loại. Do vậy, tiến trình phát triển của lịch sử không bao
giờ là con đường thẳng, trái lại nó có thể phải trải qua những bước thăng trầm
với những con đường vòng, thậm chí phải trải qua những bước khủng hoảng
và thụt lùi tạm thời trên con đường phát triển của nó. Đó là biện chứng của
lịch sử. Hay nói như C.Mác “tôi coi sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã
hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”.
IV. CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN THỰC VÀ TRIỂN VỌNG
(1)
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, HN.1976, t33, tr121.
Với sự ra đời của chủ nghĩa mác, chủ nghĩa xã hội đã từ những lý
thuyết không tưởng trở thành một lý luận khoa học. Qúa trình thâm nhập lý
luận khoa học đó vào đời sống thực tiễn phong trào đấu tranh của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động đã dẫn đến sự ra đời và phát triển của chủ
nghĩa xã hội hiện thực: từ một nước đến nhiều nước và trở thành một hệ thống
các nước xã hội chủ nghĩa hùng mạnh trên phạm vi quốc tế ở thế kỷ XX với
nhiều thành tựu vĩ đại, in đậm dấu ấn không thể phai mờ trong lịch sử phát
triển của xã hội loài người.
Thế nhưng, vào những thập niên cuối của thế kỷ XX, do nhiều nguyên
nhân khách quan và chủ quan đã dẫn đến sự khủng hoảng và sụp đổ mô hình
chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu. Chủ nghĩa xã hội hiện thực đã tạm
thời lâm vào tình trạng thoái trào. Các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, đã tiến
hành cải cách, mở cửu, đổi mới và tiếp tục phát triển. Thực tế lịch sử đó đã
đặt ra một vấn đề lớn về tương lai của chủ nghĩa xã hội. Lời giải đáp chân
chính cho câu hỏi này chỉ có thể có được trên cơ sở nắm vững những nguyên
lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và vận dụng sáng tạo những nguyên lý đó
vào việc phân tích bối cảnh cụ thể của thời đại ngày nay.
1. Chủ nghĩa xã hội hiện thực
a) Cách mạng Tháng Mười Nga và mô hình chủ nghĩa xã hội hiện
thực đầu tiên trên thế giới
* Cách mạng Tháng Mười Nga (1917)
Ngày 7 tháng 11 năm 1917 dưới sự lãnh đạo của Đảng bônsêvích Nga,
đứng đầu là V.I.Lênin đã lãnh đạo quần chúng nhân dân khởi nghĩa thắng lợi,
giành chính quyền xây dựng nhà nước xô viết đầu tiên trên thế giới.
Cách mạng Tháng Mười Nga là thắng lợi vĩ đại nhất của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức, đánh đổ giai cấp tư sản
và địa chủ phong kiến, lập nên chính quyền của những người lao động, xây
dựng xã hội mới không có người bóc lột người. Sau cuộc cách mạng Tháng
Mười thì chủ nghĩa xã hội từ lý luận đã trở thành thực tiễn, lịch sử phát triển
của xã hội loài người xuất hiện hình thái kinh tế - xã hội mới đối lập với hình
thái kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Chiều hướng phát triển chủ yếu, trục chuyển động xuyên suốt của lịch sử
từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga là đấu tranh xoá bỏ trật tự tư bản chủ
nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga, các
nước xã hội chủ nghĩa, phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế trở thành
lực lượng nòng cốt, đi đầu trong cuộc đấu tranh vì hoà bình, dân chủ và tiến
bộ xã hội trên phạm vi thế giới.
* Mô hình chủ nghĩa xã hội đầu tiên trên thế giới
Ngày 25 tháng 10 năm 1917 (theo lịch Julius), tức ngày 7 tháng 11 theo
lịch Gregory, Lenin và các đảng viên Bolshevik lãnh đạo các Xô viết làm Cách
mạng tháng Mười lập chính quyền Xô viết của công, nông, binh. Chính quyền lập
tức ban hành sắc lệnh về hòa bình, sắc lệnh về ruộng đất và ra khỏi chiến tranh
với các điều kiện rất ngặt nghèo của phía Đức.
Ngay sau Cách mạng tháng Mười, nước Nga rơi vào thời kỳ nội chiến cực
kỳ đẫm máu (1918-1922). Phía cách mạng là công nhân, binh sỹ cách mạng và
một bộ phận nông dân, bên kia là các lực lượng phản cách mạng gồm bảo hoàng,
thành phần trí thức, trung lưu thành thị, sỹ quan, một bộ phận nông dân, người Cô
Dắc... Phe phản cách mạng còn nhận được sự giúp đỡ của các quốc gia châu Âu.
Đặc trưng của cuộc nội chiến là tính ác liệt không khoan nhượng. Đến cuối năm
1920 về cơ bản các lực lượng phản cách mạng đã thất bại, chính quyền Xô viết
được thành lập trên toàn lãnh thổ còn lại của Đế quốc Nga.
Ngay sau nội chiến kết thúc, nền kinh tế Liên Xô đứng trước nguy cơ
phá sản: ở nông thôn, nạn đói hoành hành, cướp bóc thổ phỉ nổi lên khắp nơi,
hàng đoàn dân chết đói chạy vào thành phố ăn xin; còn ở thành phố, công
nghiệp đình đốn, thất nghiệp cực điểm, tiền không còn giá trị, nguyên liệu, tài
chính cạn kiệt – và tình hình xã hội lúc đó cực kỳ căng thẳng. Đứng trước tình
hình đó, V.I.Lênin cho tiến hành chính sách kinh tế mới, hay NEP, để thay thế
cho chính sách cộng sản thời chiến đã được áp dụng trong nội chiến. NEP là
chính sách dùng cơ chế kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, kêu gọi đầu
tư tư bản dưới sự định hướng kiểm soát của nhà nước. Đối với nông nghiệp,
thay vì trưng thu mọi nông sản của nông dân như trong thời chiến, NEP dùng
cơ chế thuế để điều tiết, nông dân sau khi làm nghĩa vụ thuế có thể mua bán
nông sản trên thị trường tự do. Tại thành phố chính sách mới khuyến khích
đầu tư của tư bản trong nước và nước ngoài, nhà nước chỉ kiểm soát những
ngành quan trọng sống còn với quốc gia. NEP của Lenin đã nhanh chóng cho
kết quả rất tốt: nạn đói nhanh chóng bị đẩy lùi, công nghiệp, thương mại được
phục hồi, tình hình nông thôn và thành thị được ổn định, xã hội có tích luỹ và
đời sống người dân tốt lên nhanh chóng.
Sau khi V.I.Lênin qua đời, đường lối và những chính sách của Người đã
không được quá triệt và thực hiện một cách đầy đủ. Trong những năm 30 và
nữa đầu những năm 40 của thế kỷ XX Liên Xô lại trở thành trung tâm chống
phá của các nước đế quốc, không chỉ vậy, Hồng quân Liên Xô cũng chính là
lực lượng chủ yếu nhất trong Thế chiến II. Trước những bối cảnh ngặt nghèo
như vậy nhưng Liên Xô vẫn đạt được những thành công rực rỡ trên tất cả các
mặt của đời sống xã hội. Trong vòng hơn 20 năm (1924 – 1941) Liên Xô đã
tiến hành thành công sự nghiệp công nghiệp hoá để đưa đất nước từ một nước
đứng ở vị trí thứ 6 về kinh tế (trước Cách mạng Tháng Mười), vươn lên trở
thành một siêu cường quốc cả về kinh tế lẫn quân sự, trở thành đối trọng với
Mỹ trên nhiều lĩnh vực.
b) Sự ra đời của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa và những
thành tựu của nó
Sự ra đời và phát triển của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa
Ngày 30 tháng 12 năm 1922 những vùng lãnh thổ còn lại của Đế quốc
Nga (trừ Ba Lan, Phần Lan và vùng Baltic giành được độc lập) tuyên bố thành
lập một quốc gia mới là Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết (bao
gồm Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga, Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Xô viết Ukraina, Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô viết Belorussia, Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Ngoại Kavkaz (từ 1936 ở Ngoại Kavkaz
đã thành lập các nước cộng hoà liên bang riêng rẽ), Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Xô viết Azerbaidjan, Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô viết Armenia và Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Xô viết Gruzia; năm 1925 – Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô viết
Uzbekistan, Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô viết Turkmenia; năm 1929 – Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Xô viết Tadjikistan; năm 1936 – Cộng hoà xã hội chủ