Tải bản đầy đủ (.doc) (124 trang)

đề cương ôn tập môn CNXHKH cao cấp chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (412.28 KB, 124 trang )

CÂU HỎI ÔN TẬP MÔN CNXHKH
I. Phần câu hỏi 6 điểm
Câu 1. Bằng lí luận và thực tiễn , đồng chí hãy phân tích rõ những
điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan quyết định đối với sự ra đời của
chủ nghĩa xã hội khoa học vào giũa thế kỷ XIX. Liên hệ thực tiễn thời đại
ngày nay?
1. Nêu khái niệm CNXH và CNXHKH
Khái niệm chủ nghĩa xã hội: là những ước mơ, nguyện vọng của quần
chúng lao động về một xã hội tốt đẹp, không có áp bức bóc lột, con người sống
tự do, bình đẳng và bác ái.
Khái niệm CNXHKH:
Theo nghĩa rộng, chủ nghĩa xã hội khoa học là chủ nghĩa Mác-Lênin nói
chung, với tư cách là sự luận chứng toàn diện về sự diệt vong tất yếu của chủ
nghĩa tư bản và sự thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa xã hội, là biểu hiện khoa học
của những lợi ích cơ bản và nhiệm vụ đấu tranh của giai cấp công nhân.
Theo nghĩa hẹp, chủ nghĩa xã hội khoa học là một bộ phân hợp thành của
chủ nghĩa Mác-Lênin, là lý luận chính trị-xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin, là sự
biểu hiện lập trường của giai cấp công nhân, là sự khái quát các điều kiện giải
phóng giai cấp công nhân, giải phóng con người khỏi chế độ làm thuê.
Vậy CNCNXHKH là một trong 3 bộ phận hợp thành CN Mác Lê nin, là
biểu hiện về mặt lý luận của phong trào CN, là khoa học đấu tranh giai cấp để
giải phóng giai cấp công nhân, giải phóng người lao động và giải phóng xã hội
khỏi tình trạng áp bức bóc lột.
2. Những điều kiện và tiền đề khách quan:
- Điều kiện kinh tế - xã hội
(i) Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa đã phát triển mạnh mẽ gắn liền với sự ra đời và lớn mạnh của nền công
nghiệp lớn. Cùng với sự lớn mạnh của giai cấp tư sản, giai cấp công nhân có sự
gia tăng nhanh chóng về số lượng và sự chuyển đổi về cơ cấu. Tỷ trọng công
1



nhân công nghiệp đã tăng đáng kể và trở thành bộ phận hạt nhân của giai cấp.
Đây là lực lượng công nhân lao động trong khu vực sản xuất then chốt có trình
độ công nghệ và kỹ thuật hiện đại nhất.
(ii) Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại sự thống trị áp bức của
giai cấp tư sản, biểu hiện về mặt xã hội của mâu thuẫn ngày càng quyết liệt giữa lực
lượng sản xuất có tính chất xã hội ngày càng cao với quan hệ sản xuất dựa trên chế
độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Nhiều cuộc khởi nghĩa,
nhiều phong trào đấu tranh đã bắt đầu có tổ chức và trên quy mô rộng khắp. Tuy
nhiên các phong trào đấu tranh thời kỳ này bị thất bại nặng nề.
(iii) Điều kiện kinh tế, xã hội ấy đòi hỏi phải có lý luận tiên phong dẫn
đường, điều mà chủ nghĩa xã hội không tưởng trước đó một vài thập kỷ đã
không thể đảm đương; không chỉ đặt ra yêu cầu đối với các nhà tư tưởng của
giai cấp công nhân mà còn là mảnh đất hiện thực cho sự sinh thành ra lý luận
mới, tiến bộ soi sáng sự vận động đi lên của lịch sử.
- Tiền đề văn hoá và tư tưởng
Đầu thế kỷ XIX, nhân loại đã đạt nhiều thành tựu to lớn trên lĩnh vực
khoa học, văn hoá và tư tưởng.
(i) Trong khoa học tự nhiên, những phát minh vạch thời đại trong vật lý
học và sinh học đã tạo ra bước phát triển đột phá có tính cách mạng: Thuyết tế
baod, thuyết tiến hóa của Đác Uyn, định luật bảo toàn và chuyển hóa năng
lượng. Những phát minh này là cơ sở khoa học cho chủ nghĩa duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử và là cơ sở vững chác cho việc nghiên cứu các vấn đề
chính trị của các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học.
(ii) Trong triết học và khoa học xã hội, phải kể đến sự ra đời của triết học
cổ điển Đức với tên tuổi của các nhà triết học vĩ đại: Hêghen, Phoiơbắc; của
kinh tế chính trị học cổ điển Anh: A. Smít và Đ. Ricácđô; của chủ nghĩa xã hội
không tưởng - phê phán: H. Xanh Ximông, S. Phuriê và R. Ôoen. Những giá trị
khoa học, cống hiến mà các ông để lại đã tạo ra tiền đề cho các nhà tư tưởng,



các nhà khoa học thế hệ sau kế thừa. Vấn đề còn lại là ở chỗ ai là người có đủ
khả năng kế thừa phát triển những di sản ấy và kế thừa, phát triển như thế nào?
3. Nhân tố chủ quan quyết định đối với sự ra đời của chủ nghĩa xã hội
khoa học:
Vai trò của Các Mác và Ph.Ăngghen đối với sự ra đời của chủ
nghĩa xã hội khoa học: C. Mác (1818 - 1883) và Ph. Ăngghen (1820 - 1895) đã
kế thừa các giá trị khoa học trong kho tàng tư tưởng nhân loại, quan sát, phân
tích với một tinh thần khoa học những sự kiện đang diễn ra... đã cho phép các
ông từng bước phát triển học thuyết của mình, đưa các giá trị tư tưởng lý luận
nói chung, tư tưởng xã hội chủ nghĩa nói riêng phát triển lên một trình độ mới về
chất.
Vai trò của Mác và Angghen đối với sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa
học thể hiện ở hai điểm sau:
- Thứ nhất, sự chuyển biến lập trường triết học và lập trường chính trị
Hai ông là thành viên của câu lạc bộ Heghen trẻ. Tuy nhiên, từ những giá
trị của phép biện chứng, tính vô lý của “lý luận suông trừu tượng” của triết học
Heghen cũng như thực tế xã hội Đức, các ông đã chuyển từ:
(i) Lập trường triết học duy tâm sang duy vật: sự tiếp thu phép biện chứng
Heghen và triết học duy vật phoibac;
(ii) Lập trường chính trị dân chủ cách mạng sang lập trường chủ nghĩa
cộng sản.
- Thứ hai, ba phát kiến lớn của Mác và Angghen:
(i) Học thuyết duy vật lịch sử;
(ii) Học thuyết giá trị thặng dư;
(iii) Học thuyết sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân.
Nhờ hai phát kiến vĩ đại: chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết về giá trị
thặng dư, các ông đã luận giải một cách khoa học sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân, (đây được coi là phát kiến lớn thứ ba của C. Mác và Ph. Ăngghen),



khắc phục một cách triệt để những hạn chế có tính lịch sử của chủ nghĩa xã hội
không tưởng.
4. Liên hệ thực tiễn Việt Nam
Câu 2. Bằng lý luận và thực tiễn , đồng chí hãy phân tích rõ vai trò
của các Mác và Ph.Ăngghen trong việc phát triển chủ nghĩa xã hội từ không
tưởng đến khoa học?
1.

Khái niệm CNXH không tưởng, CNXHKH

2.

Vai trò của Mác- Ăngghen

a. Giai đoạn trước khi công bố Tuyên ngôn ĐCS
- C. Mác (1818-1883) và Ph. Ăngghen (1820-1895) đều sinh ra và trưởng
thành ở Đức (Phổ) - một quốc gia có nền triết học cổ điển phát triển rực rỡ, với
những luận điểm nổi bật của những triết gia nổi tiếng.
- Nhờ kiên định lập trường của giai cấp vô sản và bằng thực tiễn đấu tranh
cách mạng, Mác và Ăngghen đã có bước chuyển căn bản từ chủ nghĩa duy tâm
sang chủ nghĩa duy vật, từ lập trường dân chủ cách mạng sang lập trường cộng
sản chủ nghĩa.
- Công lao vĩ đại của hai ông là ở chỗ đã phát hiện ra quan điểm duy vật
về lịch sử và lý luận về giá trị thặng dư, đó là những phát kiến vĩ đại có ý nghĩa
vạch thời đại.
- Những phát kiến đó là những căn cứ khoa học, lý luận vững chắc để
Mác và Ăngghen xây dựng nên học thuyết của mình gồm 3 bộ phận hợp thành.
Sau này, Ăngghen đã xác định: Nhờ hai phát hiện đó của Mác, chủ nghĩa xã hội
từ không tưởng đã trở thành khoa học.

- Những phạm trù và những nguyên lý cơ bản về chủ nghĩa xã hội khoa
học được C. Mác và Ph. Ăngghen lần lượt trình bày trong các tác phẩm đầu tiên
như "Lời nói đầu" của cuốn "Góp phần phê phán triết học pháp quyền của
Hêghel" và "Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844" do Mác viết. Đồng thời với
Mác, khi ở Anh, Ăngghen đã hoàn thành tác phẩm "Tình cảnh của giai cấp lao
động ở Anh". Hai ông còn cộng tác viết chung tác phẩm "Gia đình thần thánh"


và "Hệ tư tưởng Đức". Và với sự ra đời của "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản"
do hai ông viết và hoàn thành vào tháng 2 năm 1848 là tác phẩm đánh dấu sự
hình thành về cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học.
+ Khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là người xoá bỏ chủ
nghĩa tư bản và xây dựng chủ nghĩa xã hội, CNCS.
+ Khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản, nhân tố quyết định việc
thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
+ Chứng minh cách mạng XHCN là điều kiện, con đường tất yếu để giai
cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình.
+ Chỉ rõ sự cần thiết phải liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và các tầng lớp lao động khác trong xã hội.
+ Thực hiện chủ nghĩa quốc tế vô sản…
Tuyên ngôn được thừa nhận là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Tuyên ngôn ra đời, từ đây chủ nghĩa xã hội khoa học - học thuyết khoa
học và cách mạng soi sáng con đường và quá trình chuyển biến cách mạng của
loài người từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Lực
lượng xã hội tiên phong và là động lực cơ bản nhất của quá trình cũng là giai
cấp công nhân, giai cấp có sứ mệnh lịch sử thủ tiêu chủ nghĩa tư bản, xây dựng
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi thế giới.
b. Giai đoạn từ giữa những năm 40 đến 1895: C. Mác và Ph. Ăngghen đặt
nền móng và tiếp tục phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học

Sau Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, C. Mác và Ph. Ăngghen tiếp tục phát
hiện thêm những nội dung của chủ nghĩa xã hội khoa học, trên nhiều khía cạnh:
Khía cạnh thứ nhất, hai ông cho rằng: Để giành được quyền thống trị về
chính trị, giai cấp công nhân cần đập tan bộ máy quan liêu trong nhà nước tư
sản, thiết lập chuyên chính vô sản, xem như công cụ chủ yếu để xây dựng chủ
nghĩa xã hội.


Khía cạnh thứ hai, Mác và Ăngghen nêu lên luận điểm cần phải thực hiện
liên minh công - nông để hình thành lực lượng căn bản của cách mạng
Khía cạnh thứ ba, Mác nêu lên là cần nhận thức rõ mối quan hệ giữa vấn
đề giai cấp và dân tộc, tức quan điểm giải quyết vấn đề dân tộc trên cơ sở lập
trường của giai cấp công nhân, vì tính chất giai cấp và mục đích chính trị của
các cuộc chiến tranh dân tộc khác nhau.
Khía cạnh thứ tư, Mác nêu lên là cần nhận thức rõ giữa xã hội tư bản và xã
hội cộng sản là một thời kỳ "cải biến cách mạng" từ xã hội nọ sang xã hội kia và
thích ứng với thời kỳ đó là một thời kỳ quá độ chính trị, trong đó nhà nước không
phải là gì khác ngoài "chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản ".
Song toàn bộ những nguyên lý cơ bản nhất về chủ nghĩa duy vật lịch sử,
học thuyết về giá trị thặng dư đã được Mác trình bày một cách có hệ thống trong
Bộ Tư Bản. Theo Lênin, Bộ Tư bản cũng là "tác phẩm chủ yếu và cơ bản trình
bày chủ nghĩa xã hội khoa học".
Câu 3 :V.I.lênin viết: “chúng ta không hề coi lý luận như là một cái gì
đó đã xong xuôi và bất khả xâm phạm, traí lại chúng ta tin rằng lý luận đó
chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần
phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu
đối với cuộc sống” (V.I.lênin, toàn tập, tập 4, nxb, mátxcova, 1974, trang
232)
Bằng kiến thức của môn chủ nghĩa xã hội khoa học và thực tiễn công
tác, đồng chí hãy làm rõ luận điểm trên.

Trả lời:
Những quan điểm, học thuyết, phát minh của C.Mác và Ăngghen có vai
trò rất quan trọng trong sự ra đời của CNXH khoa học.
Ba bộ phận cấu thành của CNMLN: Triết học, Kinh tế chính trị,
CNXHKH không chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà còn giúp cho những
người xã hội chủ nghĩa phát triển hơn nữa về mọi mặt
1. Các giai đoạn phát triển :
+ Giai đoạn Mác- Ăngghen (1848-1895):
C.Mác và Ph.Ăngghen phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học


- Thời kỳ từ 1848 đến Công xã Pari (1871)
Thời kỳ này bao quát những sự kiện của cách mạng dân chủ tư sản của
các nước Tây Âu (1848-1851), việc thành lập Quốc tế I (1864). Điều nổi bật
trong thời kỳ này được đánh dấu bằng việc xuất bản tập I bộ Tư bản của Mác
(1867) khẳng định thêm một cách vững chắc địa vị kinh tế - xã hội và vai trò
lịch sử của giai cấp công nhân.
Trong thời kỳ này, lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học được phát triển
phong phú thêm nhờ tổng kết kinh nghiệm đấu tranh của giai cấp công nhân.
Mác đã rút ra kết luận hết sức quan trọng là, để giành lại quyền thống trị về
chính trị, giai cấp công nhân cần đập tan bộ máy nhà nước quan liêu tư sản, xây
dựng một nhà nước mới, nhà nước chuyên chính vô sản. Các nhà sáng lập chủ
nghĩa khoa học đã viết nhiều tác phẩm để bổ sung, phát triển các luận điểm của
chủ nghĩa xã hội khoa học đã được khởi xướng trong tác phẩm Tuyên ngôn:
Ngày mười tám tháng Sương mù của Lui Bônapactơ, Chiến tranh nông dân ở
Đức, Cách mạng và phản cách mạng ở Đức…
Để giành được chính quyền thống trị về chính trị, giai cấp công nhân nhất
thiết phải đập tan bộ máy nhà nước tư sản.
Hai ông bổ sung tư tưởng về cách mạng không ngừng bằng tư tưởng về sự
kết hợp cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản với phong trào đấu tranh của giai cấp

nông dân; xây dựng khối liên minh giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông dân
và xem đó là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho cuộc cách mạng phát triển không
ngừng để đi tới mục tiêu cuối cùng.
- Thời kỳ sau Công xã Pari đến 1895
C. Mác và Ph.Ăngghen phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học trên cơ sở
tổng kết kinh nghiệm Công xã Pari, được thể hiện trong các tác phẩm chủ yếu
Nội chiến ở Pháp, Phê phán Cương lĩnh Gôta, Chống Đuyrinh, Sự phát triển của
chủ nghĩa xã hội từ không tưởng đến khoa học, Nguồn gốc của gia đình, của chế
độ tư hữu và của nhà nước, bộ Tư bản…
Trong các tác phẩm này, các ông đã nêu nhiều luận điểm quan trọng về
phá hủy bộ máy nhà nước tư sản, về một số nguyên lý xây dựng nhà nước mới,
thừa nhận Công xã Pari là một hình thái nhà nước của giai cấp công nhân. Ở


thời kỳ này, chiếm vị trí nổi bật trong việc phát triển lý luận chủ nghĩa xã hội
khoa học của Mác, Ăngghen là tác phẩm "Chống Đuy rinh". Trong tác phẩm
này, tất cả ba bộ phận của chủ nghĩa Mác được nêu lên trong mối quan hệ chặt
chẽ, phụ thuộc vào nhau và thống nhất với nhau một cách hữu cơ. Lý luận về
chủ nghĩa xã hội khoa học đã được trình bày một cách khái quát.
Hai ông phân tích chủ nghĩa xã hội không tưởng, chỉ rõ những điểm tích
cực và tiến bộ chứa đựng trong học thuyết của ba nhà không tưởng vĩ đại của thế
kỷ XIX (Xanh Ximông, Phuriê và O-oen), và đã nhấn mạnh rằng, trong quá
trình xây dựng lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học của mình, hai ông đã kế thừa
những mặt tích cực trên cơ sở phê phán những điểm hạn chế học thuyết của ba
nhà'khhông tưởng này.
Ph.Ăngghen viết: chủ nghĩa xã hội lý luận Đức không bao giờ quên rằng
nó dựa vào Xanh Xi mông, Phuriê và O-oen. Mặc dù các học thuyết của ba nhà
tư tưởng này có tính chất ảo tưởng, nhưng họ vẫn thuộc vào hàng ngũ những bậc
trí tuệ vĩ đại nhất Họ đã tiên đoán được một cách thiên tài rất nhiều chân lý mà
ngày nay chúng ta đang chứng minh sự đúng đắn của chúng một cách khoa học.

Trong tác phẩm này, có một phần sau này tách ra thành tác phẩm "Chủ
nghĩa xã hội phát triển từ không tưởng thành khoa học", trong đó phân tích rất
chi tiết những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và những tiền đề tư tưởng, lý
luận trực tiếp cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học. Đồng thời các ông
cũng nêu lên đối tượng nghiên cứu của chủ nghĩa xã hội khoa học. Theo Ph.Ăng
ghen: Nghiên cứu những điều kiện lịch sử mới của quá trình lật đổ giai cấp tư
sản, thủ tiêu chủ nghĩa tư bản và xây dựng chủ nghĩa xã hội, và làm cho giai cấp
vô sản hiểu rõ sứ mệnh lịch sử phải hoàn thành kỳ công ấy, hiểu rõ được những
điều kiện và bản chất của sự nghiệp của chính họ - đó là nhiệm vụ của chủ nghĩa
xã hội khoa học, biểu hiện về lý luận của phong trào vô sản.
Một nội dung quan trọng khác của tác phẩm này có liên quan đến các
nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học là hai ông đã dự đoán về tương lai của
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Đó là khi tình trạng vô chính phủ trong
nền sản xuất xã hội được thay thế bằng sản xuất có tổ chức, có kế hoạch thì


những điều kiện sống xung quanh con người chi phối và kiểm soát, lúc đó con
người trở thành những người làm chủ thực sự và có ý thức của tự nhiên. Chỉ từ
lúc đó, con người mới bắt đầu sự sáng tạo ra lịch sử của mình một cách hoàn
toàn có ý thức. Đó là bước nhảy vọt của con người từ vương quốc tất yếu sang
vương quốc của tự do.
Như mọi hệ thống khoa học khác, chủ nghĩa Mác nói chung, chủ nghĩa xã
hội khoa học nói riêng là một hệ thống chỉnh thể tri thức. Trong hệ thống ấy, có
các tri thức về các nguyên lý cơ bản phản ánh các quy luật vận động biến đổi
của xã hội là những tri thức phản ánh bản chất của khách thể, chúng tồn tại mãi
mãi với thời gian và không ngừng được bổ sung, hoàn thiện. Các tri thức về
cách thức, biện pháp và phương pháp vận dụng các quy luật ấy có thể thay đổi
và cần phải thay đổi theo những hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Điều này, với tư cách
là những nhà khoa học chân chính, sinh thời chính C. Mác và Ph.Ăngghen cũng
đã căn dặn chúng ta. Điều quan trọng là không thể và không bao giờ được cho

rằng những hạn chế, nhược điểm thậm chí cả sai lầm trong các cách thức, biện
pháp tác động mà các ông nêu ra là những sai lầm của cả các tri thức phản ánh
quy luật đã được nhận thức. Điều này cũng giống như, không thể vì những thất
bại của hàng nghìn thí nghiệm của Êđixơn nhằm sáng chế ra đèn điện mà lại nói
rằng nguyên lý về sự có thể chuyển điện năng thành nhiệt năng là sai lầm.
+ Giai đoạn Lênin (1895-1924)
V.I. Lênin (1870-1924) là người đã kết tục một cách xuất sắc sự nghiệp
cách mạng và khoa học của C. Mác và Ph.Ăngghen. Công lao to lớn nhất của
V.I.Lênin là đã chuyển chủ nghĩa xã hội khoa học từ dạng lý luận sang dạng hiện
thực được đánh dấu bằng sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên
thế giới – nhà nước Xô viết, năm 1917.
Những đóng góp to lớn của Người vào sự vận dụng sáng tạo, phát triển
chủ nghĩa xã hội khoa học có thể được chia thành hai thời kỳ cơ bản: thời kỳ
trước Cách mạng Tháng Mười và thời kỳ từ sau Cách mạng Tháng Mười đến khi
Người từ trần.
+ Giai đoạn sau Lênin (1924-1991)


Sau khi V.I.Lênin mất, Xtalin kế tục là người lãnh đạo cao nhất của đảng
Cộng sản (b) Nga và sau đó là đảng Cộng sản Liên Xô, đồng thời là người ảnh
hưởng lớn nhất đối với Quốc tế III cho đến năm 1943, khi Đi-mi-trốp là chủ tịch
Quốc tế III. Từ năm 1924 đến năm 1953, có thể gọi là “Thời đoạn Xtalin” (trực
tiếp) vận dụng và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học.
Đây cũng là thời đoạn mà chính Xtalin và đảng Cộng sản Liên Xô đã đưa
ra khái niệm ghép “Chủ nghĩa Mác - Lênin”. Sự thật này chứng tỏ thời đoạn
Xtalin” trực tiếp lãnh đạo, về cơ bản vẫn trung thành, vận dụng và phát triển chủ
nghĩa xã hội khoa học, chủ nghĩa Mác - Lênin. Xtalin cũng là một thiên tài chính
trị, kinh tế, quân sự và là lãnh đạo cao nhất của đảng, nhà nước Liên Xô, trong
mấy thập kỷ bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, với những thành quả to lớn và
nhanh chóng về nhiều mặt để Liên Xô trở thành một cường quốc xã hội chủ

nghĩa đầu tiên và duy nhất trên toàn cầu, buộc thế giới phải thừa nhận và nể
trọng.
Nhưng, Liên Xô trong những thập kỷ đó bị nằm trong vòng vây và sự phá
hoại rất thâm hiểm, to lớn và tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc toàn cầu, đứng đầu
là đế quốc Mỹ. Đặc biệt là Liên Xô trong chiến tranh vệ quốc vĩ đại và Đại
chiến thế giới lần thứ hai đã tiêu diệt chủ nghĩa phát xít toàn cầu, kết thúc Đại
chiến vào ngày 07/5/1945 mặc dù chịu hy sinh và tàn phá cực kỳ to lớn! Nhờ
chiến thắng vĩ đại này mà hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới hình thành, hoạt
động và nhanh chóng trở thành một thế lực, một xu thế toàn cầu, khiến cho thế
giới chia thành hai phe: tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa đối lập nhau.
Có thể nêu một cách vắn tắt nhưng đầy đủ những nội dung cơ bản phản
ánh sự vận dụng, phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học trong khoảng 80 năm qua
như sau:
- Mọi thắng lợi cơ bản, quan trọng của nhân dân lao động, của cách mạng
thế giới trong thế kỷ XX đều có phần đóng góp trực tiếp, cơ bản và rất quan
trọng của chủ nghĩa xã hội, của sự vận dụng thành công những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa xã hội khoa học vào thực tiễn phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế ở mỗi nước cũng như của cả hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới. Trong


đó thắng lợi vĩ đại nhất là đã đưa nhân dân thế giới thoát khỏi họa phát xít, là
tiền đề quan trọng nhất dẫn đến sự tan rã của chủ nghĩa thực dân cũ và mới, là
sự hình thành và phát triển của hệ thống xã hội chủ nghĩa… Điều này đã đẩy
nhanh tiến trình vận động của quy luật lịch sử nhân loại về phía trước. Cùng với
những thành tựu trong đấu tranh, cách mạng, trong hòa bình xây dựng, các nước
xã hội chủ nghĩa đã góp phần quan trọng vào đấu tranh vì dân sinh, dân chủ, tiến
bộ xã hội trên toàn thế giới.
- Các đảng Cộng sản và công nhân quốc tế đã tổng kết nêu ra và tiếp tục
phát triển bổ sung nhiều nội dung quan trọng cho chủ nghĩa xã hội khoa học, cả
về lý luận dẫn các vấn đề về phương hướng, giải pháp tác động, chủ trương

chính sách xây dựng chế độ xã hội mới ở mỗi nước, góp phần quan trọng vào
quá trình vận dụng sáng tạo, phát triển bổ sung và hoàn thiện chủ nghĩa xã hội
khoa học. Điều này có thể minh chứng qua các hội nghị quốc tế các đảng Cộng
sản và công nhân quốc tế, các diễn đàn và hội nghị khoa học, lý luận chính trị,
các cuộc viếng thăm trao đổi song phương và đa phương, nhất là các kỳ đại hội
của các đảng cộng sản và công nhân quốc tế ở các nước trong hệ thống xã hội
chủ nghĩa trước đây, các nước đang tiến hành lựa chọn con đường phát triển xã
hội chủ nghĩa hiện nay.
- Sự thắng lợi, phát triển rực rỡ và sau đó là sụp đổ của chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô có thể được coi là minh chứng cho sự thành công
và thất bại của vận dụng, áp dụng các nguyên lý, quy luật của chủ nghĩa xã hội
khoa học vào thực tiễn. Chừng nào và ở đâu, đảng cộng sản nhận thức đúng,
sáng tạo hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà trong đó cách mạng đang vận động, để đề
ra các chủ trương chiến lược và sách lược đúng đắn vì mục tiêu xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội, chừng đó và ở đó, cách mạng phát triển và thu được
những thắng lợi. Trong trường hợp ngược lại, cách mạng sẽ lâm vào thoái trào
và bị thất bại. Vấn đề đặt ra đối với chủ nghĩa xã hội khoa học là từ trong những
thành công và thất bại của chủ nghĩa xã hội hiện thực trong thập kỷ cuối thế kỷ
XX, cần nghiêm túc phân tích, khái quát và rút ra các vấn đề lý luận, những bài


học kinh nghiệm, từ đó có những phương thức, biện pháp chủ trương chiến lược
và sách lược hợp lý trong hoàn cảnh mới, tiếp tục bổ sung và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa xã hội khoa học, tiếp tục thực hiện thắng lợi trên thực tế chế độ xã hội
mới: xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Cũng trong thời đoạn này, vừa do đối phó với chủ nghĩa đế quốc, vừa do
những nhận thức sai lệch, cực đoan về chủ nghĩa xã hội mà Xtalin và đảng Cộng
sản Liên Xô có những biểu hiện chủ quan, nóng vội-“đốt cháy giai đoạn”…
mong xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô nhanh hơn. Xtalin và
đảng Cộng sản Liên Xô đã đưa ra một “mô hình chủ nghĩa xã hội Xô viết”. Mô

hình đó trở thành một lý luận về chủ nghĩa xã hội chung sau này cho cả hệ thống
xã hội chủ nghĩa thế giới…Đặc biệt là đã quá nhấn mạnh “chuyên chính vô
sản”, “Chủ nghĩa xã hội” đến mức như những vấn đề đó đã hoàn thiện ngay từ
khi cách mạng vô sản vừa thắng lợi…cho nên đã rời xa về cơ bản những luận
điểm của V.I.Lênin cả về “ Kinh tế chính trị trong thời đại chuyên chính vô sản”
và “Chính sách kinh tế mới”; đối đầu trực tiếp “địch-ta”, không giao lưu, không
khoang nhượng, không kế thừa bất kỳ một giá trị nào của chủ nghĩa tư bản. Đặc
biệt là sau chiến tranh thế giới lần thứ 2 (1945 đến năm1953 - năm Xtalin mất),
Liên Xô vẫn áp đặt những chủ trương trong hoàn cảnh chiến tranh vào điều kiện
hòa bình để xây dựng kinh tế, xã hội. Thực hiện tập trung quan liêu, hành chính,
bao cấp, tuyệt đối hóa kinh tế toàn dân và tập thể, cắt đứt hoàn toàn quan hệ với
chủ nghĩa tư bản… cho nên đã kìm hãm rất nhiều tiềm năng, động lực ở trong và
ngoài nước có thể khơi dậy, phát triển để xây dựng chủ nghĩa xã hội của Liên
Xô (và phe xã hội chủ nghĩa đến những năm 1990…).
Song, từ bản chất và sức sống của chủ nghĩa xã hội trong bước đầu khí
thế chiến thắng… đã làm cho Liên Xô chỉ sau khoảng 20 năm (1950 - 1970) đã
trở thành “Siêu cường thứ hai” mà Mỹ và thế giới đều thừa nhận và cả hệ thống
xã hội chủ nghĩa trở thành một lực lượng hùng mạnh về mọi mặt và quyết định
việc giữ gìn hòa bình thế giới, giải phóng hoàn toàn “sân sau của chủ nghĩa đế


quốc” (chủ nghĩa thực dân cũ và mới đã qua nhiều thế kỷ): đó là hơn 100 quốc
gia đã giành lại độc lập dân tộc…
Nhưng, chính những hiện thực bước đầu đó đã tạo ra “bệnh kiêu ngạo
cộng sản”, “đốt cháy giai đoạn”… (như Lênin đã cảnh tỉnh), làm cho Liên Xô và
các nước xã hội chủ nghĩa từ thời Xtalin ngày càng có nhiều sai lầm nghiêm
trọng hơn. Về mặt chủ quan: do kéo dài hàng thập kỷ việc áp đặt “mô hình Xô
viết” một cách rập khuôn, máy móc, sơ cứng đã làm cho Liên Xô và hệ thống xã
hội chủ nghĩa thế giới dần dần lâm vào suy thoái, khủng hoảng trầm trọng, đặc
biệt về kinh tế, xã hội. Về lý luận và tư tưởng chính trị đã bị chủ nghĩa cơ hội xét

lại trong cấp cao nhất của nhiều đảng Cộng sản ngày càng lấn át. Mâu thuẫn và
chia rẽ trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là giữa Liên Xô - Trung Quốc
đã tác động ngày càng xấu, làm giảm sức mạnh và vị thế của cả phe xã hội chủ
nghĩa và của mỗi nước. Về mặt khách quan: chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là Mỹ
liên tục có chiến lược, chiến thuật ngày càng thâm hiểm, toàn diện, nhất là “Diễn
biến hòa bình” đã làm cho chủ nghĩa cơ hội xét lại ngày càng biểu hiện công
khai và nặng nề ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. “Cái hích” cuối cùng
để các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô sụp đổ hoàn toàn là sự phản
bội trắng trợn của những cán bộ cấp cao nhất trong Đảng Cộng sản Liên Xô và
một số đảng Cộng sản khác. Tiêu biểu và nguy hại bao quát rộng toàn cầu là sự
phản bội của Mikhaiin Gooc Ba Chốp - Tổng Bí thư kiêm Tổng thống Liên Xô
và Bôrít Enxin - ủy viên Bộ chính trị, Bí thư Thành ủy Mátxcơva đã làm cho hệ
thống xã hội chủ nghĩa thế giới sụp đổ năm 1991.
Đó là thoái trào và thất bại tạm thời nhưng nặng nề nhất của phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế trong lịch sử hình thành và phát triển của nó, do
vậy, cũng là thoái trào và khó khăn nhất của quá trình vận dụng và phát triển chủ
nghĩa xã hội khoa học trên toàn cầu.
+ Giai đoạn từ 1991 đến nay
Sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới sụp đổ, trên thế giới chỉ còn
một vài nước xã hội chủ nghĩa hoặc nước có xu hướng tiếp tục theo chủ nghĩa xã
hội, do vẫn có một đảng Mác - Lênin lãnh đạo. Đó là Việt Nam, Trung Quốc, Cu


Ba, Triều Tiên, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Những đảng Mác -Lênin đang
lãnh đạo các nước này đã chưa bao giờ để chủ nghĩa cơ hội xét lại, bè phái, tiêu
cực nẩy sinh lấn át trong đảng; đồng thời bước đầu thấy được những nguyên
nhân cơ bản làm cho Đông Âu và Liên Xô sụp đổ cho nên vẫn kiên trì hệ tư
tưởng Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học, từng bước giữ ổn định để cải
cách, đổi mới.
Trước hết là Trung Quốc - nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên đã tiến hành cải

cách - “mở của” với thế giới, ngay từ năm 1978. Về mặt tư tưởng - lý luận đã
xác định trước hết là: Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông, Lý
luận Đặng Tiểu Bình và vẫn khẳng định Chủ nghĩa xã hội khoa học để “xây
dựng chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc” có bổ sung về nhận thức qua
những nhiệm kỳ Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc kế tiếp như “Lý thuyết Ba
đại diện” thời Giang Trạch Dân đề xuất; “Chủ nghĩa xã hội hài hòa”, thời Hồ
Cẩm Đào đề xuất… cho đến nay. Những phát triển về lý luận như vậy, dù ta
chưa đánh giá đó có còn với tư cách lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học hay
không, thì cũng đã làm cho Trung Quốc, về mặt kinh tế, đã vươn lên rất nhanh
trở thành “Nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, sau Mỹ” cùng những vấn đề phức
tạp, tiêu cực mới nẩy sinh.
Mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở Cộng hoà Cuba, Cộng hòa dân chủ
nhân dân Lào cũng đã có nhiều nhận thức mới về mô hình xã hội xã hội chủ
nghĩa cần xây dựng. Quan niệm về mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa xuất phát
trước hết từ đặc điểm, nhu cầu của mỗi quốc gia, có tham khảo thêm những bài
học kinh nghiệm đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở một số nước.
Đảng Cộng sản Cuba cũng như Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã từng
bước tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận từng bước hoàn thiện "chủ nghĩa xã
hội mang đặc sắc" của mình về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đối ngoại…
trong đó có những nét nổi bật như: Phát triển kinh tế nhiều thành phần, vận dụng
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vào điều kiện cụ thể của nước
mình; từng bước chuyển đổi kinh tế theo hướng sản xuất hàng hoá; từng bước


công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; tăng cường mở rộng giao lưu hợp tác
kinh tế với các nước trong khu vực và quốc tế. Hoàn thiện chế độ dân chủ nhân
dân, từng bước xây dựng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Đảng lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng xã hội chủ nghĩa làm nền tảng tư tưởng của Đảng.
Tích cực chủ động hội nhập quốc tế; tăng cường quan hệ hợp tác với các nước

trong khu vực và quốc tế.
2.Vận dụng lý luận CNXH ở VN:
+ Kiên định CN Mác trên cơ sở đổi mới tư duy lý luận: Ở Việt Nam, công
cuộc đổi mới từ Đại hội lần thứ VI đảng Cộng sản Việt nam (năm 1986), do
đảng khởi xướng và lãnh đạo cả nước thực hiện. Thành tựu to lớn trước tiên là
đổi mới tư duy lý luận của đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt từ cấp Trung
ương, với phương châm được vận dụng đúng đắn từ quan điểm lý luận thể hiện
tính quy luật và có ý nghĩa về nguyên tắc trong xây dựng, phát triển của đảng
Cộng sản là “Tự phê bình và phê bình”, đó là : “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá
đúng sự thật, nói rõ sự thật”1, trong đó có các vấn đề cơ bản của Chủ nghĩa xã
hội khoa học.
Những đóng góp, bổ sung và phát triển cũng như sự vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa xã hội khoa học của Hồ Chí Minh và Đảng ta có thể được tóm tắt trên
một số vấn đề cơ bản như sau:
- Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một tính quy luật của
cách mạng Việt Nam, trong điều kiện thời đại ngày nay;
- Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy
đổi mới kinh tế làm trung tâm, đồng thời đổi mới từng bước về chính trị, đảm
bảo giữ vững sự ổn định chính trị, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để đổi
mới và phát triển kinh tế, xã hội;
- Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước. Giải quyết đúng đắn mối quan
hệ giữa tăng trưởng, phát triển kinh tế với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội.
Đây được xem như một nội dung cơ bản, thể hiện sự ưu việt của xã hội xã hội
chủ nghĩa ngay từ những chặng đường đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã


hội. Xây dựng phát triển kinh tế phải đi đôi với giữ gìn, phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc, đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái;
- Mở rộng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh

của mọi giai cấp và tầng lớp nhân dân, mọi thành phần dân tộc và tôn giáo, mọi
công dân Việt Nam ở trong nước hay ở nước ngoài, tạo cơ sở xã hội rộng lớn và
thống nhất cho sự nghiệp xây dựng chế độ xã hội mới;
- Tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới,
khai thác mọi khả năng có thể hợp tác nhằm mục tiêu xây dựng và phát triển đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại;
- Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam nhân tố quan trọng hàng đầu bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Khâu then chốt để đảm
bảo tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng là phải coi trọng công tác xây dựng
Đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng.
+ Kiên định mục tiêu, con đường xây dựng CNXH; gắn lý luận với thực
tiễn, bổ sung phát triển lý luận: Từ thực tiễn 20 năm đổi mới, Đảng ta đã rút ra
một số bài học lớn, góp phần phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học.
"Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh…
Hai là, đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và
cách làm phù hợp…
Ba là, đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy
vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái
mới…
Bốn là, phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới…
Năm là, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không
ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân



Câu 4: Khi bàn về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, Lênin viết:
“Điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng tỏ vai trò lịch
sử thế giới của giai cấp vô sản là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa”
(V.I.Lênin toàn tập, tập 23, Nxb, Tiến bộ, Matxcorva, 1980, trang 1).
Bằng lí luận và thực tiễn, đồng chí hãy làm rõ luận điểm trên.
Trả lời:
1. Khái niệm GCCN:
* Theo C. Mác và Ph. Ăngghen, GCCN mang 2 tiêu chí cơ bản sau
- Về phương thức lao động, PTSX: GCCN là lao động trực tiếp hay gián
tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại
và xã hội hóa cao.
- Về vị trí trong QHSX của GCCN.
Dưới chế độ TBCN: GCCN là những người vô sản hiện đại, không có
TLSX, nên buộc phải làm thuê, bán sức lao động cho nhà tư bản và bị toàn thể
giai cấp tư sản bóc lột. Tức là giá trị thặng dư mà GCCN tạo ra bị nhà tư bản
chiếm đoạt. Chính căn cứ vào tiêu chí này mà người công nhân dưới chủ nghĩa
tư bản được gọi là giai cấp vô sản.
Căn cứ vào hai tiêu chí cơ bản nói trên, có thể định nghĩa GCCN như sau:
“GCCN là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với
quá trình phát triển của nền đại công nghiệp hiện đại, là một lực lượng sản xuất
cơ bản tiên tiến trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất và tái sản xuất của
cải vật chất quyết định sự tồn tại xã hội và cải tạo các quan hệ xã hội, là giai cấp
duy nhất có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo và tổ chức quá trình cách mạng XHCN,
xây dựng chế độ XHCN và cộng sản chủ nghĩa”.
2. Nội dung của sứ mệnh lịch sử:
Theo Mác, Ăngghen nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đó
là: Thủ tiêu chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn
thế giới”.



Phát triển tư tưởng đó của Mác- Ăngghen đối với những nước đang phát
triển nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là: Xó bỏ chế độ xã hội
cũ, xây dựng chế độ xã hội mới: “dân giàu, nước mạnh xã hội dân chủ công
bằng, văn minh”
3. Những điều kiện khách quan quy định SMLS của GCCN.
* Xuất phát từ địa vị kinh tế xã hội:
- GCCN là con đẻ của nền đại công nghiệp nên GCCN có tính tổ chức,
tính kỷ luật, và có tri thức.
- GCCN có khả năng đoàn kết với các lực lượng khác: đoàn kết giai cấp
trong cuộc đấu tranh chống lại GCTS và xây dựng XH mới, đoàn kết với các
giai cấp lao động khác chống CNTB, đoàn kết toàn thể GCCN và các dân tộc bị
áp bức trên quy mô quốc tế chống chủ nghĩa đế quốc.
- Nền đại công nghiệp là nền SX quốc tế, do vậy GCCN mang bản chất
quốc tế. GCCN không sở hữu TLSX, có lợi ích cơ bản đối lập với XHTB ngay
từ đầu. GCCN trong XHTB là 1 giai cấp lạc hậu, có đồng lợi ích với các giai cấp
khác. GCCN luôn đứng ở vị trí trung tâm của XH. Vì vậy, GCCN có khả năng
tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân lao động trong quá trình đấu tranh xóa
bỏ sự thống trị của GCTS để giành chính quyền và tập hợp lực lượng để xây
dựng xã hội XHCN.
- GCCN gắn liền với LLSX tiên tiến nhất của 1 phương thức sản xuất mới
(phương thức SX CSCN).
* Vai trò của lý luận cách mạng và khoa học
SMLS của GCCN được quy định một cách khách quan do địa vị KTXH
nhưng người công nhân ko thể tự nhận thức được điều đó. Để phong trào đấu
tranh của công nhân xác định được mục tiêu, điều kiện và các con đường tiến tới
sự nghiệp giải phóng, GCCN phải được giác ngộ về chính trị và có được những
tri thức khoa học và lý luận cách mạng.
Lý luận thâm nhập vào phong trào công nhân, giúp cho GCCN:
- Chuyển đấu tranh từ tự phát lên tự giác



- Hình thành được các tổ chức cộng sản: Xác định được mục tiêu, cương
lĩnh, soi sáng con đường đấu tranh, có được các phương pháp đấu tranh phù hợp
với từng thời kỳ CM
- Giành được chính quyền
- Hình thành được hệ tư tưởng riêng, từ đó có giúp cho giai cấp công
nhân có được sự đoàn kết gắn bó và các tri thức mới và hệ tư tưởng này đóng
vai trò như một triết lý để xây dựng một thể chế chính trị, kinh tế, VHXH.
4. Nhân tố chủ quan để giai cấp công nhân hoàn thành SMLS
+ Sự giác ngộ của GCCN
+ Vai trò của Đản Cộng sản
+ Chính quyền
+ Sự đoàn kết trong phong trào công nhânĐồng chí hãy làm rõ điều kiện
khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân?
5. Liên hệ giai cấp công nhân ở Việt Nam?
* Hoàn cảnh ra đời giai cấp công nhân VN:
Giai cấp CN Việt Nam ra đời vào những năm đầu thế kỷ XX, ở một nước
thuộc địa nửa phong kiến với nền công nghiệp què quặt nghèo nàn và lạc hậu.
Giai cấp công nhân VN ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, được hình thành và
phát triển thông qua 2 lần khai thác thuộc địa của người Pháp. Do vậy giai cấp
công nhân VN đối đầu trực tiếp với thực dân Pháp và tư sản mại bản Pháp.
- GCCNVN ra đời không gắn với nền SX đại công nghiệp. Song nó lại đc
sinh ra trong lòng một dân tộc có truyền thống đấu tranh bất khuất, chống giặc
ngoại xâm. Nó được hình thành và lớn lên trong bầu không khí sôi sục của một
loạt các phong trào yêu nước và các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp. Điều
kiện lịch sử ấy đã giúp cho g/cấp công nhân VN sớm nhận thức được kẻ thù của
g/cấp, của dân tộc để đi tới khẳng định không đấu tranh giải phóng toàn dân tiicj
thì cũng không thể giải phóng được mình. Truyền thống yêu nước đã hình thành
nên ý chí bất khuất, tính cách mạng và lòng quyết tâm phấn đấu vì sự nghiệp
độc lập dân tộc và CNXH trong g/cấp công nhân VN.



Ra đời từ một nước nông nghiệp đại đa số công nhân được hình thành
trực tiếp từ người nông dân. Do đó lợi ích của g/cấp công nhân, g/cấp nông dân
và của cả dân tộc là thống nhất. Đây là điều kiện thuận lợi để g/cấp công nhân
xây dựng nên khối liên minh công nông vững chắc, và khối đại đoàn kết dân tộc
rộng rãi. Tạo ra động lực, tạo ra sức mạnh trong suốt quá trình lãnh đạo cách
mạng ở nước ta.
- GCCNVN ra đời vào thời kỳ mà phong trào cộng sản và công nhân quốc
tế phát triển mạnh. Lý luận CNXHKH đã thức tỉnh niềm tin và sức mạnh ở tất cả
những người nghèo khổ và vô sản khắp nơi trên thế giới. Phong trào giải phóng
dân tộc đã lan rộng với quy mô ngày càng lớn. Cuộc cách mạng Tháng Mười
Nga nổ ra thắng lợi đã ảnh hưởng sâu sắc đến phong trào dân tộc, dân chủ ở các
nước thuộc địa và phụ thuộc. Con đường cứu nước, con đường giải phóng mọi
sự nô dịch và áp bức của các dân tộc đã được mở ra. Đây là điều kiện thuận lợi
để GCCNVN tiếp thu và hiểu được lý luận Chủ nghĩa Mác – Leenin. Thành lập
được Đảng Cộng sản và trở thành giai cấp duy nhất lãnh đạo cách mạng VN.
*Đặc điểm của giai cấp công nhân VN
GCCNVN là một bộ phận của giai cấp công nhân quốc tế. Song nó ra đời
muôn hơn và ra đời trước g/cấp tư sản trong nước. Ra đời không từ cái nôi của
nền đại công nghiệp, g/cấp công nhân VN mang trong mình những đặc điểm
sau:
- Về số lượng và chất lượng: Số lượng ít, chất lượng thấp, tính đến năm
1929 (trước khi thành lập Đảng) cả nước mới có 22 vạn người (chiếm 1,1% tổng
số dân cư cả nước). Không qua Đại công nghiệp, g/c công nhân VN được hình
thành trực tiếp từ người nông dân – trình độ văn hóa thấp, số mù chữ nhiều. Lao
động chân tay là chủ yếu, tính tổ chức, tính kỳ luật và tay nghề kỹ thuật còn
nhiều hạn chế. Công nhân kỹ thuật chiếm tỷ lệ rất ít trong tổng số công nhân.
- Về cơ cấu: Các bộ phận cấu thành g/cấp công nhân VN là khá đa dạng
trong đó công nhân nhà máy là bộ phận tiên tiến nhất có vị trí quan trọng và



trình độ cao trong công nhân VN thì chiếm tỷ trọng rất ít. Đại đa số là công nhân
đồn điền và công nhân dưới dạng phu mỏ.
- Công nhân đồn điền có khoảng 81.188 người, chiếm 36,8%.
- Công nhân mỏ có khoảng 53.240 người, chiếm 24%.
- Công nhân các ngành công nghiệp nhẹ, giao thông vận tải và thương
nghiệp có khoảng 86.622 người, chiếm 39,2%.
Có thể thấy trong hoàn cảnh rất khó khăn, người Pháp đã đặt được nền
thống trị trong cả nước; giai cấp tư sản thì chưa được hình thành: Vì kinh tế
nông nghiệp thì nghèo nàn, nhà nước thì lạc hậu, giai cấp công nhân còn non trẻ,
ít về số lượng và kém về chất lượng, đội ngũ còn đa dạng lực lượng nòng cốt
chưa nhiều). Song g/cấp công nhân VN đã khẳng định được sứ mệnh lịch sử của
mình. Nó đã bước lên vũ đài chính trị - đưa phong trào đấu tranh của dân tộc từ
chủ nghĩa yêu nước truyền thống đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, chủ nghĩa
quốc tế vô sản.
- Về năng lực và hoạt động chính trị: Mặc dù ra đời muôn song giai cấp
công nhân đã sớm tiếp thu được lý luận Chủ nghĩa Mác – Lênin, sớm giác ngộ
được ý thức g/cấp và tinh thần yêu nước của dân tộc. Do đó đã nhanh chóng
hình thành nên chính đảng của mình. G/cấp công nhân và Đảng đã xác định
được mục tiêu và con đường đi của cách mạng. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa XH đã tạo ra động lực, giúp giai cấp công nhân sớm giành được chính
quyền và sớm trở thành giai cấp thống trị về chính trị đối với toàn XH VN. Nó
đã nhanh chóng thực hiện thành công giai đoạn thứ nhất của sứ mệnh lịch sử.
- Giai cấp công nhân VN có được vị lãnh tụ thiên tài đó là Chủ tịch Hồ
Chí Minh.
“Tư tưởng HCM là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng VN, là kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo của Chủ nghĩa Mác – Leenin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế
thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa



văn hóa nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp,
giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với công nhân xã hội...
Tư tưởng HCM soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng
lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản và Chủ tich Hồ Chí Minh, g/cấp
công nhân VN đã thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình trong sự gắn bó chặt chẽ
và hòa quyện với sự nghiệp cách mạng của đất nước của dân tộc và thế giới.
* Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam
Năm 1930, g/cấp công nhân đã hình thành được chính đảng của mình, có
được mục tiêu, đường lối và phương pháp cải tiến cách mạng.
Năm 1945 thông qua đảng cộng sản lãnh đạo giành chính quyền thành
công, thiết lập nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Giai cấp công nhân
thông qua chính đảng của mình lãnh đạo toàn dân tộc tiến hành cuộc kháng
chiến toàn dân, toàn diện đầy khó khăn gian khổ.
Sau năm 1954, chính quyền công nông ở VN đã chuyển thành chính
quyền chuyên chính vô sản – sứ mệnh lịch sử của g/cấp công nhân VN được
thực hiện dưới hai chức năng, đó là tổ chức xây dựng chế độ XHCN và trấn áp
những kẻ thù của chủ nghĩa XH – hai chức năng đó được thể hiện dưới hai
nhiệm vụ chiến lược.
Miền Nam: G/cấp công nhân VN và Đảng CS VN với tinh thần cách
mạng triệt để và kiên quyết đã tạo nên bạo lực cách mạng tiêu diệt kẻ thù của
CNXH, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Miền Bắc: G/cấp CN VN và Đảng CS VN đã tạo lập được tinh thần đoàn
kết thống nhất trông phong trào cộng sản và công nhân Quốc tế đồng thời lãnh
đạo nhân dân VN vừa chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt, vừa xây dựng và
tạo lập cơ sở vật chất, xã hội chi viện cho miềm Nam đảm bảo đánh thắng.
Sau năm 1975 đất nước thống nhất, thông qua vai trò lãnh trò lãnh đạo
của Đảng CS VN, giai cấp công nhân VN đã cùng với toàn thể nhân dân lao

động thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình trên các lĩnh vực kinh tế - chính trị -


văn hóa – xã hội – tư tưởng nhằm xây dựng một nước VN thống nhất giàu
mạnh.
Ngày nay bước vào giai đoạn cách mạng, cơ cấu giai cấp công nhân có
nhiều biến đổi nó trở lên đa dạng và phức tạp hơn. Giai cấp công nhân còn có
nhiều hạn chế nhất định về trí thức, về trình độ văn hóa, về tay nghề,... So với
yêu cầu của sự nghiệp CNH – HĐH. Song giai cấp công nhân VN vẫn đóng vai
trò là lực lượng xã hội tiên tiến nhất trong các tầng lớp dân cư ở nước ta. Bằng
hành động tiên phong và gương mẫu của mình giai cấp công nhân VN đã và
đang tập hợp các tầng lớp nhân dân lao động thực hiện sự nghiệp CNH – HĐH,
phấn đấu cho mục tiêu: dân giàu nước mạnh, XH dân chủ, công bằng và văn
minh.
* Giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam:
Để xây dựng GCCN Việt Nam ngày càng lớn mạnh, đáp ứng yêu cầu của
công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Thứ nhất, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho công nhân lao động,
đặc biệt là người lao động ở các KCN, KCX.
Thứ hai, nâng cao chất lượng đào tạo nghề, phát triển đội ngũ công nhân
có trình độ cao, làm chủ được khoa học công nghệ, có kỹ năng lao động, tác
phong công nghiệp, ý thức kỷ luật. Cần kịp thời bổ sung, sửa đổi, xây dựng
chính sách đào tạo và đào tạo lại công nhân; tạo điều kiện cho họ tự học tập
nâng cao trình độ; điều chỉnh, bổ sung quy hoạch mạng lưới các cơ sở dạy nghề
gắn với các ngành, các vùng kinh tế trọng điểm. Khuyến khích các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế dành kinh phí thích đáng và thời gian cho đào tạo,
đào tạo lại công nhân.
Thứ ba, xây dựng và thực hiện nghiêm hệ thống chính sách, pháp luật
liên quan đến việc đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân.
Thứ tư, tăng cường vai trò của các cấp uỷ Đảng, Đoàn Thanh niên và đặc biệt là

của Công đoàn trong việc nâng cao đời sống, đảm bảo quyền lợi cho công nhân
nhất là công nhân ở các KCN, KCX. Tăng tỷ lệ tham gia của công nhân trong cơ


cấu tổ chức chính trị - đoàn thể ở doanh nghiệp, nhất là tổ chức Công đoàn để
tăng cường tính đại diện cho lợi ích của công nhân.
Câu 5 Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) “Theo quy luật tiến hóa của
lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”.Đảng cộng sản
Việt Nam văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb, chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2011, trang 69)
Bằng kiến thức của môn chủ nghĩa xã hội khoa học và thực tiễn công
tác, đồng chí hãy làm sáng tỏ luận điểm trên.


Trả lời:
- Quan điểm của CNMLN về CNXH
Tổng hợp những luận điểm mang tính dự báo của C.Mác, Ph.Ăngghen về
xã hội xã hội chủ nghĩa và những quan điểm của V.I.Lênin về chế độ xã hội chủ
nghĩa ở nước Nga Xô viết, có thể thấy được những đặc trưng thể hiện bản chất
của xã hội xã hội chủ nghĩa, bao gồm:
Thứ nhất, mục tiêu cao cả của xã hội xã hội chủ nghĩa là giải phóng giai
cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người, là tạo điều kiện để con người phát
triển toàn diện.
Ngay trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
chỉ rõ: "Thay cho xã hội tư bản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của
nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều
kiện phát triển tự do của tất cả mọi người"1.
Luận điểm vừa nêu cho thấy mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
cộng sản đã phản ánh tính nhân văn cao cả của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã

hội, chủ nghĩa cộng sản. Đây cũng chính là giá trị khoa học - thực tiễn bền vững
của học thuyết Mác.
V.I.Lênin, trên cơ sở vận dụng một cách sáng tạo những quan điểm của
C.Mác, Ph.Ăngghen về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, đã
chỉ rõ trong Báo cáo về việc sửa đổi Cương lĩnh và đổi tên Đảng, tại Đại hội VII
bất thường của Đảng Cộng sản (b) Nga: "… Khi bắt đầu những cải tạo xã hội
chủ nghĩa, chúng ta phải đặt rõ cái mục đích mà những cải tạo xã hội chủ nghĩa
đó rút cục nhằm tới, cụ thể là thiết lập một xã hội cộng sản chủ nghĩa, một xã
hội không chỉ hạn chế ở việc tước đoạt các công xưởng, nhà máy, ruộng đất và
tư liệu sản xuất, không chỉ hạn chế ở việc kiểm kê, kiểm soát một cách chặt chẽ
việc sản xuất và phân phối sản phẩm, mà còn đi xa hơn nữa, đi tới việc thực hiện
nguyên tắc: làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu. Vì thế cái tên gọi "Đảng
Cộng sản là duy nhất chính xác về mặt khoa học"1.


×