Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

Tài liệu full đường lối thi cao cấp lý luận chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (556.56 KB, 109 trang )

ĐƯỜNG LỐI CHÍNH SÁCH
A. Đường lối của ĐCSVN về phát huy các nguồn lực và xây chiến lược phát
triển kinh tế
Câu hỏi 1: Tại sao nói khoa học và công nghệ là động lực của sự phát triển?
Trả lời
1. Khái niệm:
a. Khoa học là hệ thống những tri thức về tự nhiên, xã hội và tư duy, về những quy
luật khác quan của tự nhiên, xã hội và tư duy, hẹ thống tri thức này được hình thành trong
lịch sử và không ngừng phát triển trên cơ sở thực tiễn xã hội.
Đối tượng của khoa học là những hình thức tồn tại khác nhau của vật chất đang vận
động và những hình thức phản ánh chúng vào ý thức của con người. hay nói cách khác,
đối tượng của khoa học là thế giới khách quan và những phương pháp nhận thức thế giới.
b. Công nghệ
Theo từ điển Thuật ngữ khoa học- kỹ thuật của Liên Xô trước đây thì khoa học công
nghệ là tập hợp các quá trình, quy tắc, kỹ năng được áp dụng khi sản xuất một loại hình
sản phẩm nào đó trong bất kỳ lĩnh vực hoạt động nào. Thành phần quan trọng nhất của
công nghệ là quy trình công nghệ, đó là trình tự các thao tác công nghẹ nhằm tạo ra một
đối tượng nhất định mà mỗi tác động lại dựa vào các quá trình tự nhiên nào đó và hoạt
dộng của con người. Công nghệ là sản phẩm, đồng thời là nguồn phát triển của nền văn
minh.
Như vậy, có thể hiểu công nghệ là tập hợp những kiến thức, kỹ năng, công cụ,
phương tiện dùng để biến đổi các nguồn lực sản xuất thành những sản phẩm hàng hóa và
dịch vụ theo một mục đích nhất định.
Về bản chất, công nghệ là kết quả của quá trình áp dụng các thành tựu khoa học
vào sản xuất. Công nghệ là sản phẩm của hoạt động trí tuệ sáng tạo của con người trong
lĩnh vực sản xuất. Công nghệ là tổ hợp nhiều công đoạn của quy trình ứng dụng kiến thức
khoa học vào sản xuất nhằm tạo ra sản phẩm hàng hóa, dịch vụ phục vụ cho con người.
2. Vai trò của khoa học công nghệ với tăng trưởng và phát triển kinh tế :
- Thứ nhất: Khoa học- công nghệ làm biến đổi cơ sở vật chất kỹ thuật của nền sản
xuất xã hội.
Trong thời gian đầu của cách mạng công nghiệp, cơ sở vật chất kỹ thuật của nền sản


xuất xã hội chủ yếu dựa trên các yếu tố như: nguồn năng lượng, hệ thống máy móc và
nguyên liệu sẵn có trong tự nhiên. Vào những thập kỷ cuối thế kỷ XX, với sự bùng nổ
của công nghệ vi điện tử- tin học, tự động hóa, vật liệu, sinh học…nền sản xuất của xã
hội công nghiệp đã chuyển sang sử dụng nguồn nguyên liệu phi tập trung, có thể tái sinh
và nhân tạo. Hệ thống máy móc được chuyển sang tự động hóa phi đồng bộ, dùng ít năng
lượng và nhiên liệu. Tiêu chuẩn của sản phẩm được chuyển sang nhỏ, bền, đẹp và chứa
hàm lượng khoa học cao. Phương thức sản xuất xã hội hiện nay đang có xu hướng đi
ngược lại với những tính chất của xã hội công nghiệp như: phi tiêu chuẩn hóa, phi chuyên
môn hóa, phi tập chung hóa, phi tối đa hóa..Như vậy , khoa học công nghệ đã làm biến
đổi cơ sở vật chất- kỹ thuật của nền sản xuất xã hội và nhờ đó đua nền kinh tế từ phát
triển theo chiều rông sang phát triển kinh tế theo chiều sâu.
-Thứ hai: Khoa học- công nghệ đẩy nhanh quá trình tăng trưởng kinh tế.
1


Trong mô hình tăng trưởng kinh tế cổ điển, vai trò của đất đai, lao động, vốn được
đề cao vì khi đó khoa học công nghệ chưa giữ vai trò then chốt trong việc tăng trưởng
kinh tế. Cùng với quá trình phát triển của xã hội, vị trí của khoa học công nghệ càng được
khẳng định. Khoa học- công nghệ đã tham gia trực tiếp vào quá trình tăng trưởng kinh tế,
chuyển nền kinh tế từ tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng sang tăng trưởng theo chiều
sâu, nhờ đó khắc phục được sự thiếu hụt về các nguồn lực khác.
-Thứ ba, khoa học- công nghệ làm thay đổi cơ cấu kinh tế. Sự phát triển của khoa
học công nghệ đã làm cơ cấu kinh té của quốc gia thay đổi theo hướng tăng tỷ trọng
ngành dịch vụ và giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp và công nghiệp.
Trong nội bộ từng ngành sản xuất, cơ cấu cũng thay đổi theo hướng văn minh, tiến
bộ.
Sự phát triển khoa học- công nghệ đã làm thay đổi thứ tự ưu tiên của quốc gia trong
chính sách phát triển các nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế.
Tiến bộ khoa học- công nghệ làm thay đổi cơ cấu ngành kinh tế kéo theo sự thay
đổi mạnh mẽ trong cơ cấu lao động

-Thứ tư: Khoa học- công nghệ làm biến đổi sâu sắc về mặt xã hội và con người. Sự
phát triển của khoa học- công nghệ đã làm biế đổi sâu sắc trong cơ cấu tầng lớp xã
hội.
Đối với nguồn lao động, khoa học- công nghệ phát triển đòi hỏi người lao động
phải được đào tạo cho phù hợp với tiêu chuẩn và tính chất của phương thức sản xuất mới.
Sự giao lưu văn hóa ngày càng được mở rộng ra khỏi phạm vi quốc gia nhờ có sự
phát triển của các xa lộ thông tin. Các giá trị văn hóa của các dân tộc được giàu lên thông
qua việc tiếp cận với những cái mới, cái hiện đại.
Tuy nhiên, khi chúng ta không đáp ứng được hoặc chưa thích nghi kịp với những
biến đổi của khoa học- công nghẹ thì cũng gặp phải những hậu quả khó lường như: tình
trạng thất nghiệp gia tăng do người lao động không đáp ứng được yêu càu của công việc,
những giá trị đạo đức văn hóa xói mòn…
Câu 2: phân tích những hạn chế của mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam dưới
góc độ sử dụng các nguồn lực.
Trả lời:
1. Khái niệm
Mô hình tăng trưởng kinh tế là cách diễn đạt cơ bản nhất về sự phát triển kinh tế
thông qua các biến số kinh tế và các mối quan hệ giữa chúng, để từ dó hiểu rõ hơn các xu
hướng vận động của nền kinh tế.
Tùy theo mức độ đóng góp khác nhau của các nhân tố vào tăng trưởng kinh tế đã hình
thành nên các mô hình tăng trưởng kinh tế khác nhau: tăng trưởng theo chiều rộng, theo
chiều sâu và kết hợp chiều rộng với chiều sâu.
2. Những hạn chế của mô hình phát triển kinh tế Việt Nam dưới góc độ sử dụng
các nguồn lực là:
Mô hình tăng trưởng kinh tế chủ yếu ở Việt Nam trong thời gian qua là tăng trưởng
theo chiều rộng. Mô hình đó có những hạn chế trong sử dụng nguồn lực là:
Thứ nhất , về sử dụng nguồn lực tài nguyên

2



Tăng trưởng của nước ta chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên nhưng chưa tạo được
lợi thế cạnh tranh. Các ngành tăng trưởng thuần túy nhờ khai thác, sử dụng tài nguyên
như các ngành nông, lâm, ngư nghiệp, khai mỏ… luôn chiếm tỷ trọng lớn, khoảng 30%
trong GDP giai đoạn 1991 – 2008. Động lực của tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh
tế là các ngành gia công, chế biến có chi phí trung gian cao, lệ thuộc vào nhập khẩu, dễ
gây ô nhiễm môi trường và tiêu tốn ngoại tệ.
Việc khai thác không hợp lý tài nguyên ở nước ta đã dẫn đến tình trạng nhiều loại tài
nguyên thiên nhiên bị suy giảm nghiêm trọng.
Thực trạng khai thác tài nguyên ở Việt Nam rất khác nhau. Trong khi tài nguyên biển
chưa sử dụng được bao nhiêu thì nhiều loại tài nguyên khác lại bị khai thác quá mức.
Tài nguyên rừng bị tàn phá nghiêm trọng nhất. Nhiều hệ sinh thái rừng, nhất là ở khu
vực ven biển, đầu nguồn và cửa sông bị phá hoại nặng nề. Nguồn gen động vật, thực vật
bị giảm sút mạnh.
Sự suy giảm tài nguyên thiên nhiên trước hết là hậu quả trực tiếp của việc khai thác
bừa bãi, không theo một chiến lược nhất định. Sau nữa là trình độ công nghệ khai thác
của nước ta còn lạc hậu. Vì thế, tài nguyên bị lãng phí mà chi phí khai thác lại cao.
Thứ hai, về sử dụng nguồn lực vốn
Mô hình TTKT nước ta trong những năm qua dựa nhiều vào tăng vốn đầu tư mà phần
lớn là từ ngân sách nhà nước (NSNN) và từ các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Những
năm gần đây, vốn đầu tư lên tới trên 40% - 41,9% GDP, cao hơn nhiều so với các nước
Đông Nam Á khác, hiện chỉ ở mức 15-20%. Trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện
năm 2010, vốn khu vực nhà nước chiếm 38,1%(2). Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm
2011, doanh nghiệp nhà nước chiếm 70% vốn đầu tư của toàn xã hội, 50% vốn đầu tư nhà
nước, 60% tín dụng của các ngân hàng thương mại, 70% nguồn vốn ODA nhưng chỉ
đóng góp vào GDP ở mức khoảng 37-38%. Hiệu quả đầu tư thấp, hệ số ICOR có xu
hướng tăng lên, năm 2005 là 4,6; năm 2006 là 5,01; năm 2007 là 5,20, năm 2008 là 6,66,
năm 2010 là 6,19, cao hơn đáng kể so với các nước khác: Trung Quốc là 4,1; Hàn Quốc
là 3,2.
Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu ngành, vùng kinh tế ngày càng dựa vào vốn đầu

tư trực tiếp nước ngoài nhưng nguồn vốn này phân bổ không đồng đều, chất lượng chưa
cao và cũng chưa đóng góp được nhiều vào việc nâng cao chất lượng tăng trưởng.
Thứ ba, về sử dụng nguồn lực khoa học công nghệ
Trình độ công nghệ của nền kinh tế nước ta thấp và lạc hậu. Theo đánh giá của Diễn
đàn Kinh tế thế giới (WEF), trình độ công nghệ của nước ta xếp thứ 92/117 nước được
điều tra. Nhóm các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất thuộc các ngành công nghệ cao mới
chiếm 20,6%, công nghệ trung bình chiếm 20,7% và công nghệ thấp chiếm 58,7%
Thứ tư, về sử dụng nguòn lực lao động
Lực lượng lao động tuy đông về số lượng nhưng chủ yếu là lao động phổ thông, ít qua
đào tạo. Theo đánh giá năm 2010, khoảng 65% lực lượng lao động Việt Nam có kỹ năng
rất thấp và khoảng 78% dân số trong độ tuổi 20-24 không được đào tạo hoặc thiếu các kỹ
năng cần thiết. Chương trình đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động;
học sinh học lý thuyết nhiều, nhưng khả năng vận dụng thực tế rất yếu. Theo kết quả
khảo sát của Hội Liên hiệp sinh viên Việt Nam, khoảng 50% sinh viên Việt Nam ra
3


trường không tìm được việc làm trong lĩnh vực chuyên môn của mình, tỷ lệ sinh viên
phải đào tạo lại sau khi ra trường rất lớn.
Từ tình hình trên cho thấy, mô hình tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều rộng ở
Việt Nam đã đạt tới giới hạn, thể hiện rõ qua mức năng suất lao động (NSLĐ) thấp và
tính lạc hậu của cơ cấu nền kinh tế. NSLĐ của Việt Nam năm 2009 chỉ tương đương
14,9% của Xingapo, 9% của Mỹ, 40% của Thái Lan và 52,6% của Trung Quốc(3). Cơ
cấu kinh tế chuyển dịch chậm và lạc hậu. Trong giai đoạn từ năm 2000 - 2010, tỷ trọng
nhóm ngành sản xuất sản phẩm vật chất trong GDP hầu như không đổi, chiếm khoảng 61
- 62%, nhóm ngành dịch vụ dao động trong khoảng 38 - 39%, thấp hơn các nước khác (tỷ
trọng của nhóm ngành dịch vụ trong GDP năm 2001 của Malaixia là 41,9%; Thái Lan là
49,8%; và Hàn Quốc là 54,1%...)(4). TTKT của Việt Nam vẫn chủ yếu tập trung ở một số
ngành và sản phẩm truyền thống có công nghệ không cao như dệt may, thủy sản, nông
sản chưa qua chế biến... Tỷ trọng của ngành công nghiệp chế biến trong GDP còn thấp.

Công nghiệp khai thác vẫn chiếm một tỷ trọng khá ổn định trong GDP.
Vì vậy, để vượt qua mức thu nhập trung bình thấp, Việt Nam cần phải “Chuyển đổi
mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa
chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu
quả, tính bền vững”
Để chuyển đổi mô hình TTKT ở Việt Nam cần thực hiện đồng bộ các giải pháp
sau:
Một là, đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ vào các ngành, lĩnh
vực của nền kinh tế. Tạo điều kiện để các doanh nghiệp có đủ năng lực ứng dụng công
nghệ mới bằng cách tạo môi trường đầu tư lành mạnh, làm cho yếu tố công nghệ trở
thành điều kiện quyết định giành thắng lợi trong cạnh tranh, giảm các ưu tiên, ưu đãi cho
một số loại hình doanh nghiệp; có chính sách thúc đẩy ứng dụng khoa học - công nghệ,
khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện đầu tư đổi mới công nghệ; có các giải pháp
quyết liệt để bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cho các doanh nghiệp đi đầu trong ứng dụng
công nghệ mới; thúc đẩy tăng tốc chuyển giao công nghệ vào các ngành, lĩnh vực bằng
cách thúc đẩy phát triển thị trường khoa học và công nghệ, phát triển doanh nghiệp khoa
học - công nghệ để tăng nguồn cung sản phẩm công nghệ mới cho thị trường. Thu hút
vốn đầu tư cho khoa học và công nghệ từ nhiều nguồn, chọn các nhà khoa học đầu đàn
làm chủ các công trình nghiên cứu khoa học. Quy định mức thù lao, mức thưởng thỏa
đáng đối với những người có năng lực sáng tạo, có công trình khoa học được áp dụng vào
thực tiễn. Tăng cường chuyển giao công nghệ tiên tiến, hiện đại trong các dự án FDI.
Hai là, đổi mới chính sách tài chínhđể góp phần thực hiện chuyển đổi quá trình tăng
trưởng từ chỗ chủ yếu dựa vào tăng vốn đầu tư mà phần lớn là từ NSNN và các tập đoàn,
tổng công ty nhà nước, sang quá trình tăng trưởng dựa trên cơ sở tăng mạnh vốn đầu tư
của khu vực dân doanh để khai thác tiềm năng của đất nước. Kinh nghiệm của các nước
Đông Nam Á cho thấy, cần phải tìm cách tăng tỷ trọng tích lũy đầu tư của khu vực dân
doanh trong tổng số vốn tích lũy đầu tư của toàn xã hội. Ở Việt Nam, đây là khu vực đầu
tư đang có hiệu quả cao gấp đôi so với khu vực kinh tế nhà nước. Giảm tỷ lệ vốn đầu tư
từ NSNN, vì hiệu quả đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước thấp và có xu hướng giảm.


4


Ba là, phát triển nguồn nhân lực đủ về số lượng, không ngừng nâng cao chất lượng.
Thực hiện các giải pháp quyết liệt nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, chú trọng đào
tạo công nhân kỹ thuật, trung cấp để thay đổi cơ cấu lao động hiện nay. Đổi mới nội
dung, chương trình và phương pháp giáo dục - đào tạo theo hướng tăng cường đào tạo
các kỹ năng chuyên sâu, giảm tải thời gian học lý thuyết, tăng cường thời gian thực hành
cho học sinh, sinh viên. Xây dựng đội ngũ giáo viên, giảng viên đáp ứng sự đổi mới của
chương trình giáo dục - đào tạo. Tăng cường nâng cấp chất lượng cơ sở vật chất - kỹ
thuật cho các cơ sở đào tạo, chú trọng xây dựng mới và củng cố các phòng thí nghiệm,
xưởng thực nghiệm của các cơ sở đào tạo, đặc biệt là đối với cơ sở đào tạo các chuyên
ngành mũi nhọn, các ngành nghề mới. Mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, khuyến khích và mở rộng cơ chế để các cơ sở đào tạo trong nước hợp tác với các
cơ sở đào tạo của các nước phát triển. Đổi mới chính sách sử dụng, đánh giá và đãi ngộ
nhân lực theo hướng dựa trên năng lực chuyên môn và hiệu quả thực hiện công việc.
Câu 3: Phân tích những tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với nước
tiếp nhận đầu tư.
Trả lời
KHÁI NIỆM ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
Theo khái niệm của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 : Đầu tư trực tiếp
nước ngoài là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước
ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính Phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh
doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp Liên doanh hoặc doanh nghiệp 100%
vốn nước ngoài theo quy định của luật này.
Theo quan điểm về đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam theo quy định tại khoản
1 điều 2 , Luật đầu tư nước ngoài được sửa đổi bổ sung năm 2000 “Đầu tư trực tiếp nước
ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất
kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của luật này”.
Theo quan điểm của Hoa Kỳ - một trong những nước tiến hành đầu tư và tiếp nhận
đầu tư lớn nhất thế giới cho rằng “ Đầu tư trực tiếp nước ngoài là bất kỳ dòng vốn nào

thuộc sở hữu đa phần của công dân hoặc công ty của nước đi đầu tư có được từ việc cho
vay hoặc dùng để mua sở hữu của doanh nghiệp nước ngoài
Theo Quỹ tiền tệ Quốc tế IMF, đầu tư trực tiếp nước ngoài được xem như là một
khoản đầu tư với những quan hệ, theo đó một tổ chức trong một nền kinh tế (nhà đầu tư
trực tiếp) thu được lợi ích lâu dài từ một doanh nghiệp đặt tại nền kinh tế khác.Mục đích
của nhà đầu tư trực tiếp là muốn có nhiều ảnh hưởng trong việc quản lý doanh nghiệp đặt
tại một nền kinh tế khác đó.
Từ những khái niệm trên có thể hiểu một cách khái quát về đầu tư trực tiếp nước
ngoài như sau : Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tại một quốc gia là việc nhà đầu tư ở một
nước khác đưa vốn bằng tiền hoặc bất cứ tài sản nào vào quốc gia đó để được quyền sở
hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát một thực thể kinh tế tại quốc gia đó với mục tiêu tối
đa hoá lợi ích của mình.Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
VAI TRÒ

5


Trong thời đại và bối cảnh thế giới hiện nay, trên cơ sở đem lại lợi ích cho cả hai bên,
vai trò của hoạt động FDI được hiểu là do sự tác động đồng thời của bản thân hoạt động
đầu tư đối với cả nước đi đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư.
Đối với nước đi đầu tư.
Thứ nhất, nước đi đầu tư có thể tận dụng được lợi thế so sánh của nước nhận đầu tư.
Đối với các nước đi đầu tư, họ nhận thấy tỷ suất lợi nhuận đầu tư ở trong nước có xu
hướng ngày càng giảm, kèm theo hiện tượng thừa tương đối tư bản. Bằng đầu tư ra nước
ngoài, họ tận dụng được lợi thế về chi phí sản xuất thấp của nước nhận đầu tư (do giá lao
động rẻ, chi phí khai thác nguyên vật liệu tại chỗ thấp bởi các nước nhận đầu tư là các
nước đang phát triển, thường có nguồn tài nguyên phong phú, nhưng do có hạn chế về
vốn và công nghệ nên chưa được khai thác, tiềm năng còn rất lớn) để hạ giá thành sản
phẩm, giảm chi phí vận chuyển đối với việc sản xuất hàng thay thế nhập khẩu của nước
nhận đầu tư, nhờ đó mà nâng cao hiệu quả của vốn đầu tư.

Thứ hai, kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm thông qua chuyển giao công nghệ. Thông
qua đầu tư trực tiếp, các công ty của các nước phát triển chuyển được một phần các sản
phẩm công nghiệp (phần lớn là các máy móc thiết bị) ở giai đoạn cuối của chu kỳ sống
của chúng sang nước nhận đầu tư để tiếp tục sử dụng chúng như là sản phẩm mới ở các
nước này hoậc ít ra cũng như các sản phẩm đang có nhu cầu trên thị trường nước nhận
đầu tư, nhờ đó mà tiếp tục duy trì được việc sử dụng các sản phẩm này, tạo thêm lợi
nhuận cho các nhà đầu tư. Với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật như ngày
nay thì bất cứ một trung tâm kỹ thuật tiên tiến nào cũng cần phải luôn luôn có thị trường
tiêu thụ công nghệ loại hai, có như vậy mới đảm bảo thường xuyên thay đổi công nghệ,
kỹ thuật mới.
Thứ ba, thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, các nhà đầu tư có thể mở rộng thị
trường, tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của nước nhận đầu tư khi xuất khẩu sản
phẩm là máy móc thiết bị sang đây (để góp vốn) và xuất khẩu sản phẩm tại đây sang các
nước khác (do chính sách ưu đãi của các nước nhận đầu tư nhằm khuyến khích đầu tư
trực tiếp nước ngoài, chuyển giao công nghệ và sản xuất hàng xuất khẩu của các cơ sở có
vốn đầu tư nước ngoài), nhờ đó mà giảm được giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh
với hàng nhập từ các nước.
Thứ tư, đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ khuyến khích xuất khẩu của nước đi đầu tư.
Cùng với việc đem vốn đi đầu tư sản xuất ở các nước khác và nhập khẩu sản phẩm đó về
nước với một số lượng lớn sẽ làm cho đồng nội tệ tăng. Điều này sẽ ảnh hưởng đến tỷ giá
hối đoái của đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ có xu hướng giảm dần. Sự giảm tỷ giá hối
đoái này sẽ có tác dụng khuyến khích các nhà sản xuất trong nước tăng cường xuất khẩu,
nhờ đó tăng thu ngoại tệ cho đất nước.
Đối với nước nhận đầu tư.
Thứ nhất, FDI là một trong những nguồn vốn quan trọng để bù đắp sự thiếu hụt vốn
đầu tư góp phần tạo ra động lực cho sự tăng trưởng và phát triển. Đối với các nước đang
phát triển, việc tiếp nhận số lượng lớn vốn đầu từ nước ngoài sẽ vừa tác động đến tổng
cầu, vừa tác động đến tổng cung của nền kinh tế. Về mặt cầu, vì đầu tư là một bộ phận
lớn và hay thay đổi chủ chi tiêu nên những thay đổi bất thường về đầu tư có ảnh hưởng
lớn đến sản lượng và thu nhập về mặt ngắn hạn. Về mặt cung, khi thành quả của đầu tư

6


phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung đặc biệt là tổng cung
dài hạn tăng lên, kéo theo sản lượng tiềm năng tăng theo, do đó giá cả sản phẩm giảm
xuống. Sản lượng tăng, giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt
mình lại kích thích sản xuất hơn nữa. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích
lũy, phát triển kinh tế - xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống cho
mọi thành viên trong xã hội.
Thứ hai, đầu tư sẽ tác động đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. Theo mô hình của
NUSKSE, đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ góp phần phá vỡ cái “vòng luẩn quẩn” của các
nước đang phát triển. Bởi chính cái vòng luẩn quẩn đó đã làm hạn chế quy mô đầu tư và
đổi mới kỹ thuật trong điều kiện nền khoa học kỹ thuật cũng như lực lượng sản xuất trên
thế giới đang phát triển mạnh mẽ. Đồng thời qua đó cho chúng ta thấy chỉ có “mở cửa” ra
bên ngoài mới tận dụng được tối đa lợi thế so sánh của nước mình để từ đó phát huy và
tăng cường nội lực của mình. Các nước NICs trong gần 30 năm qua nhờ nhận được trên
50 tỷ USD đầu tư nước ngoài cho phát triển kinh tế cùng với một chính sách kinh tế năng
động và có hiệu quả đã trở thành những con rồng Châu Á .
Thứ ba, đầu tư sẽ làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Kinh nghiệm của các nước trên thế
giới cho thấy, con đường tất yếu có thể tăng trưởng nhanh với tốc độ mong muốn (910%) là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và
dịch vụ. Đầu tư sẽ góp phần giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng
lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng nghèo đói. Phát huy tối đa
những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa lý, kinh tế, chính trị, … Cơ cấu ngành, cơ cấu
công nghệ, cơ cấu sản phẩm và lao động, cơ cấu lãnh thổ sẽ được thay đổi theo chiều
hướng ngày càng đáp ứng tốt hớn các nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Thứ tư, đầu tư sẽ làm tăng cường khả năng khoa học công nghệ của quốc gia. Thông
qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, các công ty (chủ yếu là các công ty đa quốc gia) đã
chuyển giao công nghệ từ nước mình hoặc từ nước khác sang nước nhận đầu tư. Mặc dù
còn nhiều hạn chế do những yếu tố khách quan và chủ quan chi phối, song điều không
thể phủ nhận được là chính nhờ sự chuyển giao này mà các nước chủ nhà nhận được

những kỹ thuật tiên tiến (trong đó có những công nghệ không thể mua được bằng quan hệ
thương mại đơn thuần) cùng với nó là kinh nghiệm quản lý, đội ngũ lao động được đào
tạo, rèn luyện về nhiều mặt (trình độ kỹ thuật, phương pháp làm việc, kỷ luật lao động …
).
Câu 4: Phân tích các điều kiện để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững. liên
hệ thực tiễn Việt nam.
Trả lời:
1. Các điều kiện để nền kinh tế Việt Nam phát triển nhanh và bền vững
Ở nước ta, quan điểm phát triển nhanh và bền vững đã được nhận thức rất sớm và thể
hiện trong nhiều chủ trương, nghị quyết của Đảng với nội dung ngày càng hoàn thiện và
đã trở thành một chủ trương nhất quán trong lãnh đạo, quản lý, điều hành tiến trình phát
triển của đất nước trong nhiều thập kỷ qua. Nhà nước ta cũng đã có những cam kết mạnh
mẽ về phát triển bền vững. Ngay từ Đại hội III năm 1960 và Đại hội IV năm 1976, Đảng
ta đã đặt mục tiêu “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”. Đại hội
7


VII thông qua Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội 1991 – 2000, nhấn mạnh “Tăng
trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hoá, bảo vệ
môi trường”. Đại hội VIII nêu bài học “Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công
bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái”. Chiến
lược Phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 thông qua tại Đại hội IX khẳng định “Phát
triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công
bằng xã hội và bảo vệ môi trường”. Đại hội X nêu bài học về phát triển nhanh và bền
vững, trong đó ngoài các nội dungphát triển kinh tế, xã hội, môi trường còn bổ sung yêu
cầu phát triển toàn diện con người, thực hiện dân chủ và xác định mục tiêu tổng quát của
Kế hoạch 5 năm 2006 - 2010 là “Phấn đấu tăng trưởng kinh tế với nhịp độ nhanh, chất
lượng cao và bền vững hơn, gắn với phát triển con người”.
Phát triển bền vững là sự phát triển bảo đảm duy trì mức tăng trưởng kinh tế cao và
liên tục, giải quyết tốt vấn đề môi trường, bảo đảm an sinh và công bằng xã hội trong một

thể chế chính trị vững mạnh, trong đó có sự minh bạch, rõ ràng, có tính hiệu lực của hệ
thống luật pháp, chính sách, sự đồng thuận của xã hội, sự ổn định về chính trị.
Phát triển kinh tế nhanh là chỉ thời gian gia tăng quy mô kinh tế ngắn, tức là tốc độ
tăng trưởng kinh tế cao (7% - 10%), tỷ trọng các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ tăng
cao. Những nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững đều có chính trị và kinh tế vĩ mô
ổn định, tỷ lệ lạm phát thấp, quản lý nhà nước tốt, môi trường thuận lợi cho sản xuất,
kinh doanh của doanh nghiệp, mọi tầng lớp xã hội được thụ hưởng thành quả của tăng
trưởng.
Đối với Việt Nam, PTN gắn với PTBV có nhiều ý nghĩa sâu sắc. Thứ nhất, nước ta có
điểm xuất phát thấp, nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và
trên thế giới vẫn rất lớn, vì thế đòi hỏi bức thiết là phải rút ngắn khoảng cách, nên phải
tăng trưởng nhanh. Thứ hai, về mô hình chế độ xã hội, với 8 đặc trưng của xã hội XHCN
mà nhân dân ta xây dựng; trong đó, đặc trưng bao trùm là “dân giầu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”3 đòi hỏi trong từng chặng đường phát triển phải gắn kết chặt
chẽ giữa PTN với PTBV. Thứ ba, những kinh nghiệm của các nước trong quá trình phát
triển đòi hỏi Việt Nam phải biết tận dụng lợi thế của thời đại mà lựa chọn cho mình con
đường đi đúng đắn.
* Các điều kiện
PTN gắn với PTBV là mô hình tăng trưởng xuyên suốt trong thời kỳ quá độ lên
CNXH với nhiều cấp độ khác nhau; giai đoạn phát triển trước là tiền đề của giai đoạn
phát triển sau, tạo thành một chỉnh thể thống nhất có tính kế thừa, sự nhất quán, có cơ sở
khoa học và thực tiễn.
Về yếu tố thời đại, Việt Nam hoàn toàn có thể thực hiện được mô hình này khi biết
tận dụng những lợi thế của nước đi sau. Cách mạng khoa học-công nghệ đã tạo ra những
điều kiện để các nước đi sau nhanh chóng đi ngay vào hiện đại, tiếp cận những văn minh,
tiến bộ của nhân loại, lựa chọn những thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến, phù hợp
với tiềm năng của mỗi quốc gia để thúc đẩy tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động,
sức cạnh tranh của nền kinh tế, lựa chọn những công nghệ thân thiện với môi trường. Bên
cạnh đó, quá trình toàn cầu hoá và phát triển kinh tế tri thức không chỉ gắn kết mỗi quốc
gia tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế, mà còn làm cho nền kinh tế mỗi

8


nước trở thành những mắt khâu bổ trợ cho nhau, tạo thành nền kinh tế thế giới thống
nhất. Đó là cơ sở khách quan mang tính thời đại, đảm bảo cho Việt Nam PTN gắn với
PTBV trong chặng đường tới.
Về yếu tố nội sinh, Việt Nam hoàn toàn có thể thực hiện PTN gắn với PTBV.
Trước hết, mục tiêu phấn đấu của Đảng Cộng sản Việt Nam là lãnh đạo đất nước xây
dựng thành công một xã hội “dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Mục tiêu đó đã bao hàm các mặt của phát triển bền vững, gắn phát triển kinh tế với
công bằng và tiến bộ xã hội. Vì vậy, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm giải quyết các vấn đề
xã hội, dành hơn 1/3 tổng vốn đầu tư của toàn xã hội cho các nhiệm vụ xoá đói giảm
nghèo, phát triển nguồn nhân lực, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế, văn
hoá... Đời sống mọi mặt của người dân Việt Nam từ nông thôn đến thành thị, từ đồng
bằng đến miền núi đã được cải thiện nhanh chóng
Thứ hai, trong gần 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới và hơn 20 năm thực hiện
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Việt Nam liên tục đạt tốc
độ tăng trưởng kinh tế cao, tạo cơ sở để tiếp tục PTN gắn với PTBV.
Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện và có ý nghĩa lịch sử, thay
đổi đời sống mọi mặt của người dân: kinh tế tăng trưởng ở mức tương đối cao, đời sống
của nhân dân không ngừng được cải thiện, tình hình chính trị và xã hội ổn định, quan hệ
đối ngoại được mở rộng và vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường
quốc tế.
Thành tựu nổi bật nhất là Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao
trong nhiều năm liên tục (đứng thứ hai châu Á). Trong vòng 10 năm từ 1991 đến 2000,
GDP của Việt Nam đã tăng gấp đôi, với tỷ lệ tăng bình quân hàng năm là 7,5%. Từ năm
2001 đến nay, GDP tăng trưởng trung bình trên 7%/năm. Riêng năm 2004, GDP tăng
7,6% so với năm 2003. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tiến bộ, tỷ trọng
công nghiệp và dịch vụ trong GDP tăng dần, tỷ trọng nông nghiệp giảm dần: nông, lâm
thủy sản giảm từ 40,2% năm 1985 xuống còn 21,76% năm 2004; tương ứng nhóm ngành

công nghiệp-xây dựng đã tăng từ 27,4% lên 40,09%, nhóm ngành dịch vụ đã tăng từ
32,5% lên 38,15%..
Môi trường đầu tư nước ngoài của Việt Nam ngày càng thông thoáng. Luật Đầu tư
Nước ngoài tại Việt Nam cùng hàng loạt các văn bản pháp luật khác từng bước tạo lập
một hệ thống pháp luật minh bạch và hấp dẫn đối với các doanh nghiệp nước ngoài. Xuất
khẩu Việt Nam cũng tăng liên tục trong nhiều năm, Việt Nam là một trong những nước
xuất khẩu hàng đầu thế giới về một số mặt hàng nông sản như gạo, cà phê, hồ tiêu…
Những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu đạt hơn là dầu thô, hàng dệt may, giày dép. ..
Thứ ba, tiềm năng và lợi thế của đất nước cũng như những thành quả đạt được trên
nhiều lĩnh vực đã tạo đà thực hiện mục tiêu này cho những chặng đường tiếp theo.
- Tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên
- Về lao động
- Về thể chế chính trị, môi trường đầu tư
2. Liên hệ thực tiễn Việt Nam
Trong những năm qua, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch
sử. Giai đoạn 1991-2000 bình quân tăng trưởng kinh tế đạt khoảng 7%/năm; giai đoạn
9


2001-2010 bình quân tăng trưởng kinh tế đạt 7,26%/năm, nước ta ở vào nhóm nước có
tốc độ tăng trưởng cao trên thế giới. Đến năm 2010, tổng lực kinh tế Việt Nam đã đạt
101,6 tỷ USD, bình quân GDP theo đầu người đạt 1.168 USD; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn
định; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực; tỷ trọng công nghiệp và xây dựng
trong cơ cấu GDP tăng từ 36,7% năm 2000 lên 41,1% năm 2010; tỷ trọng nông, lâm, ngư
nghiệp giảm còn khoảng 21,6% và tỷ trọng dịch vụ giữ ở mức 38,3%; tỷ lệ lao động nông
nghiệp giảm từ 65,1% năm 2000 còn 48,2% năm 2010. Môi trường pháp lý đã được quan
tâm tốt hơn, tạo điều kiện cho sản xuất, kinh doanh thông thoáng hơn: từ năm 2001 đến
tháng 7-2009, Nhà nước đã ban hành 133 luật, 337 nghị quyết, 46 pháp lệnh, 1.141 nghị
định và hàng chục nghìn các văn bản quy phạm pháp luật khác; quan hệ sản xuất ngày
càng phù hợp hơn, nền kinh tế đa sở hữu, nhiều thành phần kinh tế đan xen có bước phát

triển mạnh. Khu vực kinh tế tư nhân, tập thể và các hộ gia đình tạo ra 45% GDP; môi
trường sống được quan tâm và từng bước được nâng lên...
Tuy đạt được nhiều thành tựu, nhưng so với yêu cầu PTN gắn với PTBV vẫn còn tồn
tại nhiều hạn chế, yếu kém: chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh
của nền kinh tế còn thấp, chậm được cải thiện, các cân đối vĩ mô chưa thật sự vững chắc.
Công tác quy hoạch, kế hoạch và việc huy động, sử dụng các nguồn lực còn hạn chế, kém
hiệu quả. Tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào yếu tố phát triển theo chiều rộng, chậm
chuyển sang phát triển theo chiều sâu, chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên, công nghệ
thấp, tiêu hao vật chất cao và sử dụng nhiều vốn. Năng suất lao động và khả năng cạnh
tranh của nền kinh tế thấp và chậm được cải thiện; tiêu hao năng lượng lớn: để tạo ra 1
USD GDP, Việt Nam phải tiêu tốn một lượng điện năng gấp 2,1 lần của Hàn Quốc, 3,12
lần của Xin-ga-po, khoảng 1,37 lần của Thái Lan; kết cấu hạ tầng phát triển chậm, chất
lượng thấp, thiếu đồng bộ;… Nền tảng để Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại chưa được hình thành đầy đủ, vẫn tiềm ẩn nhiều yếu tố mất ổn định, thiếu
bền vững; thể chế kinh tế thị trường chưa theo kịp yêu cầu phát triển; sức sản xuất chưa
được giải phóng triệt để, môi trường kinh doanh chưa thật sự bình đẳng, thông thoáng.
Trong lúc đó, hệ thống pháp luật còn nhiều bất cập; hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
nhà nước còn thấp, việc hình thành các loại thị trường còn chậm và chưa đồng bộ; các
lĩnh vực văn hóa, xã hội có một số mặt yếu kém, chậm được khắc phục (nhất là về giáo
dục-đào tạo và y tế); đạo đức và lối sống trong một bộ phận xã hội xuống cấp; chênh lệch
thu nhập giữa các nhóm dân cư còn lớn (2001-2002 là 8,14 lần, đến 2008 là 8,9 lần)5.
Môi trường tiếp tục bị xuống cấp, nhưng chúng ta chưa có các giải pháp đồng bộ khắc
phục triệt để; ở nhiều nơi đang bị ô nhiễm nặng nề; tài nguyên đất đai, rừng chưa được
quản lý, sử dụng có hiệu quả. Hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước còn có mặt bất
cập, chậm được cải thiện... Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém ảnh hưởng tới
PTN gắn với PTBV của nước ta có cả chủ quan và khách quan. Về khách quan, do thiên
tai, lũ lụt, biến đổi khí hậu làm cho hạ tầng kinh tế, đời sống nhân dân ở những vùng bị
tác động của thời tiết xấu đã khó khăn, càng khó khăn hơn; xuất phát điểm của nền kinh
tế thấp, nhiều vấn đề xã hội đặt ra cần sớm được giải quyết, như: xóa đói, giảm nghèo,
đảm bảo an sinh xã hội, lao động, việc làm... Cùng với đó là những vấn đề mới nảy sinh

chưa có tiền lệ trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN;
đặc biệt là sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch… Về chủ quan, đó là tư duy
10


phát triển KT-XH chậm được đổi mới, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển của đất
nước; tồn tại quá lâu mô hình tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng, bệnh thành tích còn
nặng; phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong điều kiện Đảng cầm quyền
chậm đổi mới; hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên nhiều mặt còn hạn chế, nhất là
những khâu đột phá, then chốt, những vấn đề xã hội còn bức xúc; sức mạnh toàn dân tộc
chưa được phát huy tốt nhất... Thực tiễn trên cho thấy, nước ta hội tụ đủ các yếu tố để
PTN gắn với PTBV trong giai đoạn mới; trong đó, phải PTN để rút ngắn trình độ phát
triển giữa nước ta với các nước trên thế giới. Nhưng, nếu chỉ chú ý PTN mà không quan
tâm đến vấn đề an sinh xã hội, môi trường sinh thái thì không đạt được mục tiêu “dân
giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Để đảm bảo PTN gắn với PTBV, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong
chặng đường từ nay đến năm 2020, cần thực hiện tốt một số vấn đề sau: Một là, phát huy
sức mạnh tổng hợp của đất nước, kiên quyết bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, đảm bảo giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã
hội; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, là đối tác và là thành viên có trách nhiệm
trong cộng đồng quốc tế, tạo môi trường hòa bình và điều kiện thuận lợi cho phát triển
đất nước. Hai là, tiếp tục giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, nhất là các cân đối lớn của nền
kinh tế, đảm bảo an ninh lương thực, an ninh năng lượng, an toàn và hiệu quả trong hoạt
động của nền tài chính quốc gia. Ba là, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
bên trong và bên ngoài bảo đảm cho tốc độ tăng trưởng cao; chú trọng nâng cao chất
lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Bốn là, thực hiện tốt việc phát triển các
lĩnh vực văn hóa-xã hội hài hòa với phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước
và từng chính sách phát triển. Năm là, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hành
dân chủ rộng rãi, nhất là dân chủ trực tiếp; hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo nền tảng để

xây dựng một xã hội đồng thuận, cởi mở. Sáu là, thực hiện nghiêm túc chủ trương tăng
trưởng kinh tế gắn với bảo vệ môi trường, đảm bảo khả năng chủ động đối phó với biến
đổi khí hậu trong các giai đoạn sau của nền kinh tế
Câu 5: Đồng chí hãy bình luận nhận định: “Việt Nam đang mất dần lợi thế về giá
nhân công rẻ trong quá trình phát triển”.
Trả lời:
Cách đây 20 năm, Việt Nam là mảnh đất màu mỡ cho đầu tư nước ngoài vì lao động
rất rẻ, tài nguyên nhiều và ưu đãi lớn, thậm chí chúng ta bỏ tiền ra để giải phóng mặt
bằng cho họ. Nhưng bây giờ những lợi thế đó dần mất đi và chúng ta phải thắt chặt lại,
chọn những dự án công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn, ít ô nhiễm môi trường hơn, khiến
thu hút FDI trở nên khó khăn. Trong khi đó, hạ tầng của Việt Nam không tốt, thủ tục hành
chính chưa được cải thiện nhiều, dẫn đến môi trường của chúng ta giảm xuống.
Nhân công giá rẻ cũng không còn là lợi thế nữa vì kinh tế Việt Nam đã có tăng
trưởng, thu nhập bình quân đầu người tăng lên nên mức lương tối thiểu cũng tăng lên.
Việt Nam là nước có lợi thế nhân công thấp để thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhưng
lợi thế đó không bền vững, nhất là trong tương lai không xa, khi lợi thế cạnh tranh về chi
phí thấp của Việt Nam không còn, khi các nhà đầu tư nước ngoài tìm được những điểm
đầu tư có thể đem lại nhiều giá trị gia tăng hơn cho sản phẩm của họ.
11


Một trong những lợi thế thu hút vốn FDI vào Việt Nam đó là chi phí sản xuất thấp với
nhân công giá rẻ. Song, thời gian tới, "lao động rẻ" không còn là sự hấp dẫn để thu hút
đầu tư vì các nhà đầu tư nước ngoài hầu như có thể sử dụng lao động với chất lượng cao
hơn tại nước sở tại của mình để cạnh tranh.
Công cuộc tìm kiếm các điểm chế tạo chi phí thấp đã thúc đẩy các nhà đầu tư nước
ngoài trong những năm 90 của thế kỷ trước (Trung Quốc như là công xưởng của thế
giới). Giờ đây, các nhà đầu tư nước ngoài tìm kiếm những địa điểm có thể giúp họ tiếp
cận với nhân tài và sáng tạo.
Các nước chế tạo chi phí thấp mới (như Lào, Campuchia, Myanmar, Bangladesh) sẽ

cạnh tranh về chi phí nhân công và sẽ ngày càng làm suy giảm thị phần chế tạo chi phí
thấp của Việt Nam.
Trên thực tế, theo thống kê, chi phí nhân công chế tạo của Việt Nam chưa bằng một
nửa của Trung Quốc nhưng lại cao hơn nhiều so với chi phí nhân công của Campuchia,
Myanmar hay Sri Lanka. Do đó, Việt Nam phải đối mặt với việc không cạnh tranh được
với các hoạt động sản xuất giá trị gia tăng thấp mà cũng không đáp ứng được yêu cầu của
những hoạt động sản xuất giá trị gia tăng cao..
Trong bối cảnh gia nhập TPP, theo các chuyên gia, Việt Nam có thế mạnh trong lao
động giá rẻ nhưng cần xem xét chuyển đổi vì khi gia nhập TPP, có thể thu nhập bình quân
đầu người của Việt Nam sẽ tăng, dẫn đến chi phí lao động tăng và như thế, các nhà đầu tư
sẽ chuyển hướng sang các nước khác như Lào, Campuchia để tận dụng lao động giá rẻ tại
đây.
Bên cạnh đó, thời gian qua, FDI vào Việt Nam không tạo được tác động lan tỏa như
mong đợi đối với nền kinh tế trong nước. Vốn FDI của Việt Nam đã tạo ra nhiều việc làm
và góp phần tăng trưởng xuất khẩu. Tuy nhiên, lợi ích đối với nền kinh tế trong nước như
tăng kỹ năng, tăng lương và cơ sở hạ tầng còn hạn chế.
Trong khi đó, khoảng cách năng suất lao động của Việt Nam so với các nước trong
khu vực ngày càng lớn. Năm 2013, năng suất lao động (theo lao động và theo giờ) của
Việt Nam đều bằng 1/2 của Philippnes, 1/3 của Thái Lan và Indonesia, 1/6 của Malaysia
và 1/5 của Singapore.
Số liệu của Tổ chức Năng suất Châu Á cũng chỉ ra rằng từ năm 1990 đến nay, tăng
trưởng kinh tế của Việt Nam chủ yếu dựa vào đầu tư, trong khi năng suất lao động không
được cải thiện nhiều, điều này được thể hiện qua chỉ số ICOR có xu hướng tăng liên tục
qua các năm trong khi đóng góp của TFP (năng suất các yếu tố tổng hợp) vào tăng trưởng
GDP không ổn định và giảm nhiều so với những năm 1990.
Chi phí nhân công của Việt Nam rẻ nhưng nguồn nhân lực Việt Nam lại thiếu kỹ
năng. Theo điều tra, nếu các công ty quốc tế muốn đào tạo người lao động thì tính trung
thành của người lao động Việt Nam vẫn thấp và sự trì trệ lại cao. Nếu không cải thiện
được tình trạng trên, Việt Nam muốn thu hút được nguồn vốn FDI chất lượng tốt hơn thì
cũng khó có khả năng thu được nhiều lợi ích với lực lượng lao động không tinh nhuệ.

Điều này cho thấy rằng Việt Nam hiện nay đang đứng trước các thách thức lớn như
giá trị gia tăng thấp, mất dần lợi thế cạnh tranh, dẫn đến cả Việt Nam và các nhà đầu tư
nước ngoài cùng thua ngay tại nơi có tiềm năng, lợi thế hiện nay, trong bối cảnh toàn cầu
hóa mạnh và hội nhập quốc tế sâu rộng.
12


• Các giải pháp thu hut vốn đầu tư nước ngoài
Xây dựng và thực hiện cơ chế, chính sách khuyến khích để thu hút các dự án đầu
tư hình thành mạng lưới liên kết sản xuất, kinh doanh, các ngành công nghiệp hỗ trợ
để hình thành chuỗi giá trị. Có chính sách thu hút công ty đa quốc gia, có chính sách
ưu đãi đối với các công ty đa quốc gia có kế hoạch liên kết với các doanh nghiệp
trong nước về tiêu thụ, cung ứng sản phẩm để hình thành các cụm công nghiệp - dịch
vụ.
Rà soát, sửa đổi, bổ sung thể thế và triển khai áp dụng nghiêm hệ thống quy định
các yêu cầu bắt buộc về công nghệ, chuyển giao công nghệ, thu hút, đào tạo kỹ năng
cho người lao động. Quy định yêu cầu bắt buộc về chất lượng của các dự án FDI tùy
theo lĩnh vực và địa bàn đầu tư. Quy định về trình độ công nghệ dự án FDI cho từng
ngành theo địa bàn đầu tư. Đối với các đô thị có mật độ công nghiệp cao, những địa
bàn phát triển du lịch sinh thái sẽ hạn chế tối đa thu hút FDI có hàm lượng công nghệ
thấp, gây ô nhiễm ở mức độ nhất định và tỷ trọng gia công cao.
Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào những ngành cần tăng tỷ trọng đầu tư
nước ngoài như đầu tư vào kết cấu hạ tầng giao thông, nông nghiệp và nông thôn, điện,
nước, tài chính, tín dụng, giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao, hoạt động phục vụ cá nhân và
cộng đồng; các ngành sản xuất có yếu tố hàm lượng công nghệ, đào lạo lao động và
chuyển giao công nghệ, kỹ năng, hoạt động R&D. Hỗ trợ các hoạt động đầu tư có hiệu
quả, đồng thời giảm thiểu những mặt hạn chế, tiêu cực như nhập khẩu nhiều nhưng
không chú trọng sản xuất mà chỉ tập trung vào gia công, lắp ráp và khai thác thị trường
nội địa là chủ yếu; lợi dụng kẽ hở về chính sách, pháp luật của Việt Nam để thực hiện
hành vi chuyển giá, kê khai lỗ hoặc lợi nhuận thấp để chuyển lợi nhuận về nước, không

có đóng góp hoặc đóng góp rất thấp nguồn ngân sách nhà nước của Việt Nam. Không tiếp
nhận hoặc hạn chế tối đa những dự án ĐTNN sử dụng công nghệ thấp, có khả năng tiêu
hao nhiều năng lượng, gây ô nhiễm môi trường, sinh thái.
Có các chính sách, quy định về thuế, phí, đất đai, quản lý ngoại hối... để thu hút,
khuyến khích đầu tư nhiều hơn vào lĩnh vực sản xuất, chế biến sử dụng đầu vào trong
nước thay vì nhập khẩu, gia công, lắp ráp, chú trọng vào kinh doanh thương mại, nhất là
tại thị trường nội địa. Tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài vào các vùng khó khăn,
vùng sâu, vùng xa.
Ban hành văn bản pháp quy nhằm điều chỉnh và quản lý thống nhất hoạt động xúc
tiến đầu tư trên cả nước; xây dựng Chiến lược xúc tiến đầu tư điều phối tổng thể các hoạt
động xúc tiến ở bình diện quốc gia; xây dựng và công bố danh mục dự án kêu gọi vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn 2011-2015 và giai đoạn 2016-2020.
Để nâng cao chất lượng và hiệu quả thu hút vốn ĐTNN, cần có sự kết hợp chặt chẽ
chính sách ĐTNN với các chính sách điều chỉnh ngành khác, bao gồm chính sách đầu tư
chung, chính sách KCN theo hướng hình thành cụm công nghiệp có tính chuyên môn hóa
và chính sách phát triển kinh tế vùng. Các chính sách này cần xây dựng trên nguyên tắc
tiếp cận tổng thể quốc gia để tạo tín hiệu chung dẫn dắt FDI tới ngành, vùng cần khuyến
khích phát triển; hạn chế các địa phương thu hút các ngành nghề như nhau, thiếu sự phối
hợp và bổ sung cho nhau giữa các ngành dẫn đến tình trạng phát triển tràn lan mà vẫn
thiên lệch, thiếu chuyên môn hóa.
13


Rà soát và sửa đổi, bổ sung quy chế phân cấp quản lý đầu tư nước ngoài, bảo đảm
tính chủ động của các địa phương nhưng cần gắn với trách nhiệm giải trình, hoàn thiện hệ
thống chế tài để tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát, điều chỉnh của các Bộ, cơ quan
Trung ương trong trường hợp cần thiết.
Câu 6: Phân tích những hạn chế về mô hình tăng trưởng kinh tế và nội dung tái
cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế Việt nam trong giai
đoạn hiện nay.

Trả lời:
1. Khái niệm
Mô hình tăng trưởng kinh tế là cách diễn đạt cơ bản nhất về sự phát triển kinh tế
thông qua các biến số kinh tế và các mối quan hệ giữa chúng, để từ dó hiểu rõ hơn các xu
hướng vận động của nền kinh tế.
Tái cơ cấu kinh tế là quá trình hoàn thiện thể chế, chính sách, đòn bẩy kinh tế nhằm
điều chỉnh cơ cấu kinh tế trên một quy mô lớn, toàn diện, trong một thời gian tương đối
ngắn để hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lý, năng động, hiệu quả.
2. Những hạn chế của mô hình phát triển kinh tế Việt Nam:
2.1. Cơ cấu kinh tế lạc hậu và chuyển dịch chậm
Thời gian qua, cơ cấu kinh tế nước ta còn lạc hậu và chuyển dịch chậm.
- Từ 1986 đến 2005: cơ cấu kinh tế chuyển dịch dần theo hướng tích cực. Tỷ trọng
ngành nông nghiệp giảm từ 38,1% (1986) xuống 20,87% (2005), tỷ trọng ngành công
nghiệp, xây dựng tăng từ 28,9% (1986) lên 41,2% (2005)
- Giai đoạn 2006-2010: cơ cấu kinh tế gần như không có sự thay đổi. Năm 2010,
nông nghiệp là 20,58%, công nghiệp xây dựng là 41,09%, dịch vụ là 38,33%
Mặt khác, tỷ trọng ngành dịch vụ không tăng lên kể từ năm 1992, thậm cchí năm
2010, tỷ trọng ngành này còn thấp hơn giai đoạn 1993-1999. Ngoài ra, cơ cấu ngành kinh
tế nước ta còn lạc hậu xa so với các nước khác trong khu vực.
Bên cạnh đó, cơ cấu vùng kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế và cơ cấu lao động cũng
chậm thay đổi: Các vùng kinh tế trọng điểm chưa phát huy được thế mạnh của vùng để đi
nhanh vào cơ cấu kinh tế hiện đại; các thành phần kinh tế phát triển chưa tương xứng
tiềm năng; tỷ trọng lao động trog nông nghiệp tuy giảm nhưng vẫn ở mức cao; tỷ lệ lao
động qua đào tạo còn thấp.
2.2. Kinh tế tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng
Tăng trưởng kinh tế nước ta chủ yếu vẫn dựa vào chiều rộng, vào các gành truyền
thống sử dụng nhiều tài nguyên, vốn, lao động chất lượng thấp và trình độ công nghệ
thấp.
Trong 3 nhân tố đóng góp cho tăng trưởng kinh tế là vốn đầu tư, lao động và năng
suất các nhân tố tổng hợp , thì ở nước ta nhân tố vốn đầu tư đóng góp lớn nhất.

2.3 Đầu tư bất hợp lý, hiệu quả thấp
Hoạt động đầu tư ở nước ta thời gian qua còn nhiều bất cập, đầu tư dàn trải, hiệu quả
thấp. Tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội so với GDP ở nước ta luôn ở mức cao và tăng nhanh
trong những năm đầu thế kỷ XXI: Cuối thế kỷ XX, tỷ lệ vốn đầu tư ở nước ta so với GDP
là trên 30%, đầu thế kỷ XXI là trên 40%, năm 2007 lên đến trên 46,5%. Trong khi đó,
cùng tốc độ tăng trưởng kinh tế, các nước trong khu vực chỉ đầu tư 20-30% so với GDP.
14


Trong tổng số vốn đầu tư thì đầu tư của khu vực nhà nước luôn chiếm tỷ trọng cao: từ
2006 đến 2010 chiếm 44,7%. Tuy nhiên, hiệu quả đầu tư của khu vực này lại thấp nhất
trong toàn bộ nền kinh tế.
Đầu tư công là lĩnh vực gây nhiều thất thoát, lãng phí, hiệu quả thấp. Thời gian qua,
đầu tư công ở nước ta thường chiếm 20-25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội- là mức đầu tư
khá cao so với các nước khác trong khu vực. Tuy nhiên, do đầu tư thiếu hợp lý, quản lý
đầu tư công kém dẫn đến hiệu quả đầu tư xã hội thấp và tăng gánh nặng nợ nần của đất
nước
2.4. Động lực trọng tâm của nền kinh tế là doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kém
hiệu quả
Thời gian qua, việc lấy doanh nghiệp nhà nước làm động lực trung tâm của nền kinh
tế với những kỳ vọng to lớn như: đảm bảo định hướng XHCN, trụ cột thực hiện CNH,
HĐH; công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô...vì vậy doanh nghiệp nhà nước đã nhận được sự ưu
đãi rất lớn về chính sách, vốn đầu tư, tài nguyên thiên nhiên...Tuy nhiên, thực tế hoạt
động của doanh nghiệp nhà nước hết sức thấp kém. Giai đoạn 2006-2010, doanh nghiệp
nhà nước chiếm 44,7% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội nhưng chỉ tạo ra 27,8% GDP, đóng
góp cho tăng trưởng GDP chỉ 19%; đóng góp cho ngân sách 17%, tỷ trọng lao động là
23,1%.
2.5. Thể chế điều hành của nền kinh tế còn nhiều bất cập, chậm đổi mới
Sau 30 năm đổi mới, mặc dù xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang
KTTT định hướng XHCN, song trên thực tế Việt Nam vẫn gần như duy trì một "hệ điều

hành" cho một nền kinh tế hoàn toàn mới. Vai trò quản lý Nhà nước đối với nền kinh tế
vẫn mang nặng tính hành chính, thiếu nhất quán, thiếu đồng bộ. Sự ưu ái quá mức đối với
khu vực doanh nghiệp nhà nước đã làm mất động lực của nền kinh tế, gây méo mó cơ chế
thị trường và môi trường kinh doanh. Bên cạnh đo, chính sách vĩ mô điều hành nền kinh
tế thiếu ổn định và nhất quán. Đây là những nguyên nhân chính dẫn đến những yếu kém
trong điều hành nền kinh tế.
3. Nội dung tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế ở
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 1/2011) đã
thông qua chủ trương đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế :
Chuyển đổi mô hình tăng trưởng là quá trình chuyển “….từ chủ yếu phát triển theo
chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô, vừa
chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả và tính bền vững”.Nói cách khác, chuyển đổi mô
hình tăng trưởng hiện nay về bản chất là thay đổi động lực của tăng trưởng kinh tế; năng
suất lao động, hiệu quả sử dụng các nguồn lực phải được cải thiện để dần thay thế số
lượng đầu tư, lao động , tài nguyên thiên nhiên và trở thành động lực của tăng trưởng
kinh tế.
Tái cơ cấu kinh tế là quá trình phân bố lại nguồn lực (trước hết là vốn đầu tư) trên
phạm vi quốc gia nhằm cải thiện và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực nói riêng
và của tòan bộ nền kinh tế nói chung của nền kinh tế (bao gồm hiệu quả kỹ thuật và hiệu
quả phân bố). Để làm được điều đó, về chính sách, cần cải thiện và nâng cao chất lượng
môi trường kinh doanh (ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển hạ tầng, phát triển nguồn nhân
15


lực và cải cách thể chế,v.v…) để cơ chế thị trường được vận hành tốt và phát huy đầy đủ
hiệu lực trong huy động và phân bố nguồn lực. Khởi động của tái cơ cấu kinh tế phải là
đổi mới hệ thống đòn bẩy khuyến khích, thúc đẩy nguồn lực phân bố đến những nơi sử
dụng có hiệu quả cao hơn, đồng thời, buộc các doanh nghiệp, các nhà đầu tư phải đổi mới
cách thức sử dụng nguồn lực, đổi mới cách thức quản lý,v.v.. để nâng cao hiệu quả, năng

cao năng suất và nâng cao năng lực cạnh tranh. Như vậy, thay đổi thể chế, thay đổi tạo
lập hệ thống đòn bẩy phù hợp chính là khởi đầu của quá trình tái cơ cấu kinh tế.
Về nội dung tái cơ cấu, ba lĩnh vực trọng tâm được xác định bao gồm tái cơ cấu đầu
tư công; tái cơ cấu hệ thống tài chính-ngân hàng, trọng tâm là các ngân hàng thương mại
và tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước.
Về tái cơ cấu đầu tư công, các biện pháp triển khai bao gồm cắt giảm các khoản
chi chưa cần thiết, thực hành tiết kiệm; theo đó, sẽ huy động hợp lý các nguồn lực cho
đầu tư phát triển, bảo đảm tổng đầu tư xã hội khoảng 30 - 35% GDP, duy trì ở mức hợp lý
các cân đối lớn của nền kinh tế như: tiết kiệm, đầu tư và tiêu dùng, ngân sách nhà nước,
cán cân thương mại, cán cân thanh toán quốc tế, nợ công và nợ nước ngoài quốc gia...
Về tái cơ cấu hệ thống tài chính - ngân hàng, trong giai đoạn 2013 – 2015 các biện
pháp tập trung vào lành mạnh hóa tình trạng tài chính của các tổ chức tín dụng, trước hết
tập trung xử lý nợ xấu của cả hệ thống các tổ chức tín dụng và từng tổ chức tín dụng, tập
trung phát triển các hoạt động kinh doanh chính, bảo đảm khả năng thanh toán, chi trả và
phát triển ổn định, bền vững, tập trung xử lý tình trạng sở hữu chéo và tăng tính minh
bạch trong hoạt động của các tổ chức tín dụng. Một nội dung quan trọng khác là cơ cấu
lại căn bản, triệt để và toàn diện hệ thống các tổ chức tín dụng để đến năm 2020 phát
triển được hệ thống các tổ chức tín dụng đa năng theo hướng hiện đại, hoạt động an toàn,
hiệu quả vững chắc với cấu trúc đa dạng về sở hữu, quy mô và loại hình...
Về tái cơ cấu doanh nghiệp, trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước: sẽ
thực hiện phân loại, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, tập trung vào các lĩnh vực
chính gồm công nghiệp quốc phòng, các ngành, lĩnh vực công nghiệp độc quyền tự nhiên
hoặc cung cấp hàng hóa, dịch vụ thiết yếu và một số ngành công nghiệp nền tảng, công
nghệ cao có sức lan tỏa lớn; đẩy mạnh cổ phần hóa, đa dạng hóa sở hữu các doanh nghiệp
nhà nước mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% sở hữu... Tiếp tục đẩy mạnh tái cơ cấu,
nâng cao chất lượng, hiệu quả, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp tư nhân;
khuyến khích hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế tư nhân có tiềm lực mạnh, có
khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước.
Các giải pháp chủ đạo đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn
2011-2020

1. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo đảm ổn
định kinh tế vĩ mô; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
2. Phát triển mạnh công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng và
sức cạnh tranh
3. Phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững
4. Phát triển mạnh các ngành dịch vụ, nhất là các dịch vụ có giá trị cao, tiềm năng lớn và
có sức cạnh tranh
5. Phát triển nhanh kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông
16


6. Phát triển hài hoà, bền vững các vùng, xây dựng đô thị và nông thôn mới
7. Phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội hài hoà với phát triển kinh tế
8. Phát triển mạnh sự nghiệp y tế, nâng cao chất lượng công tác chăm sóc sức khoẻ nhân
dân
9. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới toàn diện và phát triển nhanh giáo dục
và đào tạo
10. Phát triển khoa học và công nghệ thực sự là động lực then chốt của quá trình phát
triển nhanh và bền vững
11. Bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường, chủ động ứng phó có hiệu quả với biến
đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai12. Giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội; mở rộng quan hệ đối
ngoại, chủ động hội nhập, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế
Câu 7: Phân tích tác động của việc khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên đối
với phát triển bền vững ở Việt Nam.
Trả lời:
Việt Nam là một trong những quốc gia có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và
đa dạng trên thế giới. Tuy nhiên, do quản lý thiếu đồng bộ, công nghệ khai thác lạc hậu,
nhất là việc khai thác, sử dụng nhiều nhóm tài nguyên chưa hợp lý… đang là những
nguyên nhân dẫn đến lãng phí nguồn lực quốc gia, tài nguyên bị suy thoái, cạn kiệt, đe

dọa sự phát triển bền vững của đất nước.
Tác động của khai thác tài nguyên thiên nhiên
* Tác động tích cực
-Khai thác TNTN là nguồn lực quan trọng để tăng trưởng kinh tế:
+Tài nguyên thiên nhiên là nguồn lực đầu vào quan trọng của bất kỳ nền kinh tế nào.
Đặc biệt đối với các nước đang phát triển, tài nguyên thiên nhiên là yếu tố thúc đẩy sản
xuất phát triển và góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
+Tài nguyên thiên nhiên chỉ trở thành sức mạnh kinh tế khi chúng ta biết khai thác và
sử dụng một cách hiệu quả. Thực tế cho thấy, một số quốc gia nghèo tài nguyên thiên
nhiên nhưng là những nước có trình độ phát triển cao ( Nhật Bản, Pháp, Anh, Hàn Quốc,
Singapo…). NHưng cũng có những quốc gia nhờ có điều kiện tự nhiên thuận lợi, tài
nguyên thiên nhiên phong phú nên góp phần vào sự phát triển đất nước một cách mạnh
mẽ.
- Khai thác tài nguyên thiên nhiên là yếu tố quan trọng tạo điều kiện thuận lợi cho quá
trình tích lũy vốn và tăng trưởng ổn định.
+Nhiều quốc gia được thiên nhiên ưu đãi nguồn tài nguyên phong phú, nhờ đó họ có
thể rút ngắn quá trình tích lũy vốn bằng cách xuất khẩu sản phẩm thô. Thông qua đó tạo
nguồn vốn tích lũy ban đầu cho sự nghiệp công nghiệp hóa. Đặc biệt những quốc gia này
có điều kiện để thu hút các vốn đầu tư từ nước ngoài tạo tiền đề để có thể tăng trưởng
kinh tế nhanh.
+Nguồn tài nguyên là cơ sở để phát triển một số ngành công nghiệp khai thác, công
nghiệp chế biến và cung cấp nguyên liệu vho nhiều ngành kinh tế khác. Sụ giàu có và đa
dạng của nguồn tài nguyên thiên nhiên cho phép một số các quốc gia có thể tăng trưởng
và phát triển kinh tế một cách ổn định, không bị quá lệ thuộc vào thị trường nguồn
17


nguyên liệu đầu tư và vốn đầu tư, cũng như không chịu ảnh hưởng của những bất ổn trên
thị trường thế giới.
* Tác động tiêu cực của khai thác TNTN

Ảnh hưởng tiêu cực đối với môi trường:
Quá trình khai thác tài nguyên thiên nhiên là quá trình bắt môi trường cung cấp những
yếu tố cần thiết đáp ứng nhu cầu của con người. Đó cũng là bước 1 con người làm biến
dạng tự nhiên, tàn phá tự nhiên. Bước 2 là quá trình chế biến, con người lại tiếp tục đưa
chất thải vào môi trường. Bước 3 là quá trình tiêu dùng, một lần nữa con người lại đưa
chất thải vào môi trường.
• Tác động tới thạch quyển- môi trường đất:
Đất là một nguồn tài nguyên quý giá của con người, con người sử dụng đất vào
những hoạt động sản xuất và đời sống.
Khi khai thác tài nguyên khoáng sản, con người đã làm thay đổi cấu trúc bề mặt của
môi trường đất, thường làm cho môi trường đất thay đổi đặc tính ban đầu
Các hoạt động của con người làm thay đổi các nhân tố sinh thái vượt qua được
những giới hạn sinh thái của các quần xã sống trong đất. Đây là hậu quả các loại chất thải
rắn từ hoạt động sản xuất và khai thác khoáng sản
• Tác động tới khí quyển- môi trường không khí:
Sự tác động đến môi trường không khí là tạo ra những chất khí thải độc hại, không
có lợi hoặc nguy hiểm đén sự sống trên trái đất, làm biến đổi thành phần của khí quyển.
Các hoạt động khái thác tài nguyên và sản xuất thải vào khí quyển một khối lượng
khổng lồ các chất độc hại và bụi công nghiệp.
Hiện nay, ô nhiễm khí quyển là vấn đề nóng bỏng của cả thế giới. Môi trường khí
quyển đang có nhiều biến đổi khác biệt và có ảnh hưởng xấu đến con người và các sinh
vật. Ô nhiễm môi trường khí quyển tạo nên sự ngột ngạt và “sương mù” , khí độc,gây
nhiều bệnh cho con người, nó còn tạo ra các cơn mưa ãits làm hủy diệt cánh đồng và các
khu rừng.
• Tác động tới thủy quyển:
Sụ tác động làm cho môi trường nước thay đổi các tính chất vật lý- hóa học- sinh học
của nước, với sự xuất hiện các vật lạ ở thể lỏng, rắn làm cho nguồn nước trở lên độc hại
với con người và sinh vật. Làm giảm dộ đa dạng sinh vật trong nước.
Hoạt động sản xuất của con người đã thải một lượng lớn muối khoáng và hàm lượng
chất hữu cơ. Những chất này quá dư thừa làm cho các quần thể sinh vật trong nước

không thể đồng háo được. Kết quả làm cho hàm lượng ôxi trong nước giảm đột ngột, các
khí độc tăng lên, tăng độ đục của nước,gây suy thoái nguồn nước. Ở các đại dương xuất
hiện hàng loạt các sự cố tràn dầu làm cho môi trường nước bị ô nhiễm nặng, môi trường
bị phá hủy trầm trọng. Các loại chất thải và nước thải công nghiệp được thải ra các lưu
vực các con sông mà chưa qua xử lý đúng mức, các loại phân bón hóa học và thuốc trừ
sâu ngấm vào nguồn nước ngầm và nước ao hồ, nước thải sinh hoạt được thải ra từ các
khu dân cư ven sông làm thay đổi trầm trọng thành phần của vùng nước, làm cho môi
trường nước bị ô nhiễm và suy thoái.
• Tác động tới sinh quyển:

18


Sự khai thác bừa bãi đã làm mất cân bằng sinh thái cục bộ tại một số vùng lãnh thổ.
Sự mất cân bằng này đã làm cho hàng loạt hệ thống thực vật mất đi. Đặc biệt là những
thảm thực vật tại vùng khai khoáng bị biến đổi hoàn toàn và đánh mất vai trò của nó.
Nhiều loại động vật quý hiếm bị tiệt chủng do săn bắt quá mức phục hồi tái tạo tự nhiên.
Tại những vùng bị ảnh hưởng của các chất thải công nghiệp hóa và phóng xạ xuất
hiện nhiều quần thể động thực vật biến đổi gen. Các hiện tượng “thủy triều đỏ”, “thủy
triều xanh” ngày càng nhiều.
Ngày nay, môi trường tự nhiên ngày càng bị ô nhiễm, vấn đề ô nhiễm môi trường
được sự quan tâm trên phạm vi toàn cầu. Nguyên nhân ô nhiễm chủ yếu là do việc khai
thác và sử dụng tài nguyên với công nghệ còn ở trình độ thấp và còn tập trung phục vụ
nhu cầu trước mắt. Do vậy, song song với phát triển kinh tế- xã hội mỗi quốc gia cần phải
khai thác và sử dụng hiệu qủa nguồn tài nguyên thiên nhiên của quốc gia mình.
Làm cạn kiệt, lãng phí TNTN
Các nguồn tài nguyên không thể phục hồi, một khi đã bị khai thác chỉ có thể trở nên
suy thoái, cạn kiệt.Nguồn lực tài nguyên bị sử dụng lãng phí, kém hiệu quả, hạn chế khả
năng đóng góp cho phát triển kinh tế - xã hội. Đất đã được giao, cho thuê chậm được sử
dụng; sử dụng đất nông, lâm trường kém hiệu quả; tình trạng thoái hóa đất, đất bị hoang

mạc hóa ngày càng gia tăng. Khoáng sản còn bị khai thác manh mún, nhỏ lẻ, trái phép;
xuất khẩu khoáng sản dưới dạng nguyên liệu thô; công nghệ khai thác, chế biến còn lạc
hậu, chậm được đổi mới... dẫn đến tổn thất, lãng phí nguồn tài nguyên không tái tạo quan
trọng này. Tài nguyên nước chưa được khai thác tổng hợp, phục vụ đa mục tiêu dẫn đến
hiệu quả thấp; tình trạng thiếu nước theo mùa, cục bộ theo vùng còn nghiêm trọng. Diện
tích che phủ của rừng có tăng nhưng chất lượng rừng giảm, rừng tự nhiên xuống cấp
mạnh. Nguồn lợi thủy sản ngày càng suy giảm, năng suất, hiệu quả khai thác thấp. Tài
nguyên vì thế chưa được phát huy hết tiềm năng, thế mạnh.
Câu 8: Phân tích quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về phát huy các
nguồn lực phát triển kinh tế. Liên hệ với thực tiễn huy động và sử dụng các nguồn
lực phát triển kinh tế ở nước ta thời gian qua.
Trả lời:
1. Khái niệm
Nguồn lực (Resouree) là toàn bộ những yếu tố trong và ngoài nước đã, đang và sẽ
tham gia vào quá trình thúc đẩy, phát triển, cải biến xã hội của một quốc gia.
Nguồn lực phát triển kinh tế là tổng thể nguồn lực tài nguyên thiên nhiên, tài sản quốc
gia, nguồn nhân lực và các yếu tố phi vật thể khác, bao gồm cả trong nước và nước ngoài
có khả năng khai thác, sử dụng nhằm thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội
theo hướng bền vững.
2. Quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về phát huy các nguồn lực phát triển
kinh tế
2.1. Một số quan điểm định hướng về phát huy các nguồn lực phát triển ở nước ta
Một là: Chủ động và mở rộng hợp tác quốc tế trong khai thác, sử dụng các nguồn lực
phát triển. Hội nhập sâu rộng với các nước, vùng lãnh thổ trên thế giới và khu vực là
nhằm thực hiện hợp tác đa phương, song phương; hợp tác toàn diện, tích cực vào các tổ
chức kinh tế, chính trị, xã hội; khai thác được nguồn lực nước ngoài, học tập kinh nghiệm
19


tiền tiến của các nước đi trước, mở rộng các loại thị trường, tạo điều kiện thúc đẩy tăng

trưởng và phát triển kinh tế - xã hội.
Hai là: Khai thác lợi thế so sánh, khi mà khoa học và công nghệ của thế giới phát triển
mạnh mẽ, kéo theo công nghiệp công nghệ cao phát triển nhanh chóng. Nhiều nước và
vùng lãnh thổ trên thế giới đang chuyển dần sang kinh tế tri thức, giai đoạn phát triển cao
hơn của nền kinh tế công nghiệp. Trong khi đó, Việt Nam mở cửa, hội nhập với điểm
xuất phát thấp và nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu. Do vậy, phải biết khai thác lợi thế so
sánh đó để bổ sung cho các nguồn lực trong nước còn thiếu hụt hoặc không có. Nhưng để
khai thác có hiệu quả lợi thế so sánh đó, thì phải xác định tiềm năng, lợi thế của đất nước;
xác định các ngành mũi nhọn, sản phẩm chủ lực cho xuất khẩu; đầu tư phát triển theo
chiều sâu; nâng cao năng suất, chất lượng tăng trưởng và hiệu quả kinh tế - xã hội.
Ba là: Kết hợp khai thác, sử dụng các nguồn lực nước ngoài phù hợp với điều kiện
kinh tế - xã hội của đất nước. Trước hết, phải xác định chiến lược phát triển các ngành
nghề, lĩnh vực kinh tế mà nước ta có thế mạnh, có nguồn lực đáp ứng nhu cầu sản xuất,
tạo nhiều việc làm như chế biến nông, lâm, thủy sản, tiểu thủ công nghiệp, giầy da, dệt
may... Mặt khác, phải lựa chọn đầu tư xây dựng các ngành, lĩnh vực công nghệ có hàm
lượng chất xám cao để thu hút nguồn lực nước ngoài như công nghệ tự động hóa, công
nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ thông tin, các loại dịch vụ cao cấp.
Bốn là: Gắn khai thác các nguồn lực với bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
Khi khai thác, sử dụng các nguồn lực, nhất là nguồn lực tài nguyên thiên nhiên phải gắn
với quá trình tái tạo, phục hồi những loại tài nguyên có thể tái tạo được và sử dụng tiết
kiệm các loại tài nguyên không thể tái tạo được để không làm cạn kiệt tài nguyên thiên
nhiên, ảnh hưởng đến sự phát triển của xã hội tương lai; sử dụng công nghệ cao, công
nghệ sạch làm giảm tiêu hao, thất thoát tài nguyên thiên nhiên, giảm chất thải; xây dựng
đồng bộ hệ thống xử lý chất thải, bảo vệ môi trường; phát triển nền nông nghiệp sạch,
nông nghiệp sinh thái; kiểm soát chặt chẽ việc nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ và
sản phẩm từ nước ngoài, trên nguyên tắc sản phẩm đó trong nước chưa sản xuất được
hoặc sản phẩm đó phải có chất lượng cao hơn sản phẩm trong nước.
2.2 Quan điểm của ĐCS VN đối với các nguồn lực chủ yếu
* Phát triển và sử dụng nguồn lực lao động nước ta
Nguồn lao động có vai trò quyết định trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội cuả

mọi thời đại. Do đó, phát triển và sử dụng hợp lý nguồn lao động là đòi hỏi bức thiết. Để
đáp ứng được đòi hỏi trên, cần có các giải pháp như:
- Nâng cao trình độ dân trí, phát triển giáo dục và đào tạo là nhiệm vụ lâu dài, thậm
chí của nhiều thế hệ. Đảng ta coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho
nâng cao dân trí, cho giáo dục, đào tạo là nền tảng của tăng trưởng kinh tế cao và phát
triển bền vững.
- Khuyến khích phát triển kinh tế, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế để tạo thêm
nhiều việc làm
Phát triển kinh tế là để tạo ra nhiều việc làm mới (tạo cầu lao động) góp phần giảm tỷ
lệ thất nghiệp cả ở thành thị và nông thôn. Do đó, nhà nước cần tạo môi trường thuận lợi
cho các thành phần kinh tế trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn đầu tư mở

20


rộng và phát triển sản xuất kinh doanh tạo thêm nhiều việc làm, tăng thu nhập cho người
lao động, tăng GDP cho nền kinh tế .
- Tạo lập và quản lý thị trường lao động
Thừa nhận sức lao động là hàng hóa, thì cần tạo lập thị trường để hàng hóa đó được tự
do trao đổi như các loại hàng hóa khác. Do đó, Nhà nước phải hoàn thiện hệ thống pháp
luật, chính sách cho phát triển thì trường hàng hóa sức lao động và tổ chức, quản lý sự
vận động, phát triển của thì trường đó.
- Nâng cao thể chất và thu nhập của người lao động
Nâng cao thể chất và thu nhập, tuy là hai vấn đề riêng biệt, song có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau. Thu nhập cao có điều kiện cải thiện đời sống vật chất và tinh thần, ảnh
hưởng trực tiếp đến nâng cao thể chất người lao động. Ngược lại, người lao động có thể
chất tốt thì năng suất lao động sẽ cao, góp phần tăng trưởng kinh tế và cũng tăng thu nhập
cho chính mình.
- Triển khai đồng bộ các nội dung của chiến lược dân số
Thực hiện triệt để chương trình dân số kế hoạch hóa gia đình, nhằm giảm tỷ lệ tăng

dân số; bảo đảm ổn định qui mô dân số; điều chỉnh cơ cấu dân số và nâng cao chất lượng
dân số.
- Mở rộng xuất khẩu lao động
Sự di chuyển lao động từ quốc gia này sang quốc gia khác trong xu thế quốc tế hóa
kinh tế là tất yếu khách quan. Nước ta số lao động thiếu việc làm rất lớn, nên cần mở
rộng và nâng cao hiệu quả xuất khẩu lao động. Để thực hiện điều đó, cần hoàn thiện cơ
chế quản lý, hệ thống chính sách; mở rộng thị trường; đào tạo văn hóa, nghề nghiệp cho
người lao động.
- Tăng cường các biện pháp hành chính, kinh tế và giáo dục động viên để nâng cao
đạo đức, thái độ lao động mới
Nâng cao đạo đức, thái độ lao động mới cần có quá trình lâu dài và sự kết hợp các
phương pháp quản lý, kết hợp nhiều hình thức, tổ chức giáo dục; kết hợp giữa gia đình và
xã hội.
* Phát huy nguồn lực khoa học và công nghệ ở nước ta.
Một là, tạo lập và thúc đẩy thị trường khoa học và công nghệ phát triển
Để tạo lập và thúc đẩy phát triển thị trường khoa học và công nghệ, thì cần phát triển
các yếu tố về thể chế hỗ trợ thị trường "đẩy cung" và "đẩy cầu" các sản phẩm khoa học và
công nghệ, tăng cường quản lý vĩ mô của nhà nước.
Hai là, tạo vốn cho hoạt động khoa học và công nghệ
Vốn là nguồn lực quan trọng để phát triển khoa học và công nghệ. Để có vốn cho phát
triển khoa học và công nghệ cần huy động từ các nguồn vốn ngân sách nhà nước, từ các
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế và nguồn vốn tài trợ từ nước ngoài. Triển khai
thành lập các quỹ phát triển khoa học và công nghệ của quốc gia, bộ ngành, địa phương,
doanh nghiệp, các tổ chức và cá nhân; tăng tỷ lệ chi từ ngân sách nhà nước cho phát triển
khoa học và công nghệ.
Ba là, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ
Để mở rộng hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ cần đa phương hóa phương
thức hợp tác, coi trọng hợp tác nghiên cứu cơ bản và phát triển công nghệ cao; khuyến
21



khích và tạo điều kiện cho các tổ chức khoa học và công nghệ nước ngoài lập cơ sở
nghiên cứu, mở các trường dạy nghề, trường đại học chất lượng cao ở Việt Nam; tạo điều
kiện cho cán bộ khoa học Việt Nam tham gia các hội nghị khoa học quốc tế, trao đổi
nghiên cứu, giảng dạy ở nước ngoài; thu hút chuyên gia việt kiều và nước ngoài vào
nghiên cứu, giảng dạy ở nước ta.
Bốn là, phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ
Phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ cần phải:
Xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ, đào tạo, bồi
dưỡng nhân tài, nhất là các cán bộ đầu đàn thuộc các lĩnh vực, ngành kinh tế trọng điểm
và các ngành công nghệ cao.
Có chính sách tuyển dụng, sử dụng và đãi ngộ thích đáng đối với cán bộ khoa học,
công nghệ; khuyến khích tự do sáng tạo khoa học.
Năm là, tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ
Đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ theo hướng:
Phân định rõ chức năng nhiệm vụ, phân cấp quản lý trong lĩnh vực khoa học và công
nghệ.
Sắp xếp và đổi mới tổ chức các viện nghiên cứu khoa học và công nghệ, phát triển các
loạt hình tư vấn khoa học và công nghệ.
Xây dựng cơ chế liên kết các doanh nghiệp với các Trường đại học và viện nghiên
cứu.
Đổi mới cơ chế kế hoạch, tài chính cho hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ
phù hợp với cơ chế thị trường.
* Phát huy nguồn lực vốn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội nước ta
Để huy động sử dụng vốn đầu tư phát triển có hiệu quả, cần phải thực hiện đồng bộ
các giải pháp sau.
Một là, tạo môi trường khuyến khích và nâng cao hiệu quả đầu tư
Bảo đảm và duy trì sự ổn định chính trị, kinh tế, xã hội để các nhà kinh doanh yên tâm
bỏ vốn đầu tư.
Môi trường đầu tư được hệ thống pháp trong đó có luật đầu tư luật và chính sách của

Nhà nước, phải công bằng, hợp lý và bảo đảm thực thi trong thực tiễn đối với mọi thành
phần kinh tế.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, bảo đảm cho mọi hoạt động của nền
kinh tế đều tuân theo các qui luật vốn có của nó.
Tạo điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư phát huy tính năng động, sáng tạo, mạnh
dạn ứng dụng công nghệ mới, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và có lợi nhuận hợp
lý.
Hai là, phát triển thị trường tài chính
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động của thị trường tài chính là nhằm tạo cơ chế
huy động và phân bổ các nguồn vốn đầu tư theo nguyên tắc thị trường.
Phát triển thị trường tài chính đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập
kinh tế quốc tế, cần phải:
Củng cố và nâng cao năng lực kinh doanh và sức cạnh tranh của các trung gian tài
chính với các hình thức đa dạng, thích hợp .
22


Phát triển các loại dịch vụ mới phù hợp của các trung gian tài chính và đa dạng hoá
các sản phẩm tài chính.
Phát triển đồng bộ thị trường tài chính, ưu tiên phát triển thị trường vốn trung hạn dài
hạn và đảm bảo sự vận hành an toàn, lành mạnh, hiệu quả và thực hiện giám sát hoạt
động của thị trường tài chính thông qua hệ thống pháp luật và hiệu lực quản lý vĩ mô của
Nhà nước.
Từng bước mở cửa thị trường tài chính nước ta, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
Ba là, tiếp tục hoàn thiện chính sách tài chính, tiền tệ
Xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm
phát,thúc đẩy sản xuất, tiêu dùng, kích thích đầu tư phát triển.
Tiếp tục cải cách hệ thống thuế theo hướng thuế và phí là nguồn thu chủ yếu của ngân
sách nhà nước, nên phải nuôi dưỡng nguồn thu, khuyến khích sản xuất, bảo đảm công
bằng xã hội.

Đổi mới chính sách chi ngân sách trên nguyên tắc tiết kiệm chi hợp lý từng bước giảm
bội chi ngân sách.
Tăng cường quản lý nợ, nhất là nợ nước ngoài.
Bốn là, nâng cao hiệu quả các nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước
Nâng cao hiệu quả đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước, cần thực hiện các biện
pháp sau:
Xác định đúng chủ trương đầu tư, vì sai lầm trong chủ trương đầu tư là một trong
những nguyên nhân cơ bản dẫn đến đầu tư không hiệu quả.
Quản lý chặt chẽ quá trình đầu tư từ khi chuẩn bị đầu tư, quá trình thực hiện đầu tư,
kiểm tra đánh giá chất lượng dự án, nghiệm thu đưa dự án vào khai thác, sử dụng.
Công khai hoá vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước.
* Phát huy nguồn lực tài nguyên thiên nhiên
* Đẩy mạnh điều tra, đánh giá tiềm năng, trữ lượng, giá trị kinh tế, thực trạng và xu
hướng diễn biến của các nguồn tài nguyên quốc gia.
- Coi trọng công tác điều tra cơ bản tài nguyên, chú trọng điều tra cơ bản địa chất
khoáng sản vùng biển sâu, phát hiện các loại khoáng sản mới.
- Đánh giá, phát huy các giá trị dịch vụ hệ sinh thái, cảnh quan, tài nguyên di
truyền.
* Quy hoạch, quản lý và khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả và bền vững các
nguồn tài nguyên quốc gia.
- Xây dựng chiến lược bảo vệ, khai thác, sử dụng các loại tài nguyên quan trọng
đối với phát triển đất nước. Thiết lập cơ chế quản lý, giám sát minh bạch, bảo đảm sử
dụng hợp lý, hiệu quả và bền vững các nguồn tài nguyên quốc gia.
- Hạn chế tối đa, từng bước tiến tới chấm dứt xuất khẩu khoáng sản thô và chỉ
qua chế biến sơ, thúc đẩy chế biến sâu.
- Đổi mới công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; xây dựng cơ sở dữ liệu
về đất đai.
- Quy hoạch khai thác, bảo vệ nguồn nước, tăng cường quản lý nguồn nước theo
lưu vực sông; tích nước, điều tiết nguồn nước phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.


23


- Kiểm soát các hoạt động khai thác, đấu tranh, ngăn chặn tình trạng đánh bắt
mang tính hủy diệt nhằm bảo vệ nguồn lợi thủy sản, đặc biệt là vùng gần bờ.
* Thúc đẩy phát triển, sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo, các nguyên
liệu, nhiên liệu, vật liệu mới thay thế các nguồn tài nguyên truyền thống.
- Đẩy mạnh đầu tư phát triển và sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo;
thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu sử dụng năng lượng theo hướng tăng tỉ trọng sử dụng năng
lượng mới, năng lượng tái tạo trong tổng năng lượng quốc gia.

24


B.ĐƯƠNG LỐI CỦA ĐCSVN VỀ VĂN HÓA
Câu 1(câu hỏi 4 điểm) Trình bày những điểm mới trong Văn kiện Hội nghị lần
thứ mười Ban Chấp Hành Trung Ương khóa IX (2004) so với Văn kiện Hội nghị lần
thứ năm Ban Chấp hành Trung Ương khóa XIII (1998) của Đảng cộng sản Việt
Nam về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc.
Trả lời:
Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã xác định các
quan điểm chỉ đạo cơ bản và những nhiệm vụ cụ thể để xây dựng và phát triển nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Các quan điểm này được bổ sung, phát triển, thể
hiện trong Văn kiện Đại hội lần thứ IX và Hội nghị lần thứ mười khoá IX của Đảng. Đây
là những tư tưởng, lý luận quan trọng của Đảng về lĩnh vực văn hóa trong thời kỳ đổi
mới, cần được triển khai sâu rộng trong toàn bộ đời sống xã hội.
* Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Đảng Trung ương (khóa VIII) tháng 7 năm
1998, đã ra Nghị quyết chuyên đề về: "Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc", xác định những quan điểm cơ bản:

Một là, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Quan điểm chỉ rõ vai trò to lớn của văn hóa trong
tiến trình lịch sử dân tộc và tương lai đất nước. văn hóa không phải là kết quả thụ động,
yếu tố đứng bên ngoài, bên cạnh hoặc đi sau kinh tế, phụ thuộc hoàn toàn vào trình độ
phát triển kinh tế mà văn hóa vừa là mục tiêu, vừa động lực thúc đẩy kinh tế. “Văn hóa
thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng
tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi sinh hoạt và quan hệ con người, tạo
ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp".
Hai là, nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc. Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ, trong đó, cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và
CNXH theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì
con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong
mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên. Bản sắc dân tộc
bao gồm những giá trị truyền thống tốt đẹp, bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các
dân tộc Việt Nam, được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ
nước. Đó là, lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức
cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa
tình, đạo lý; cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong
cuộc sống; dũng cảm, kiên cường, bất khuất trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm …
Ba là, nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng
các dân tộc Việt Nam. Đây là tư tưởng tiến bộ và nhân văn, phù hợp với thực tiễn của
cộng đồng 54 dân tộc đang sinh sống ở Việt Nam và xu thế chung của cộng đồng quốc tế
đang hướng tới xây dựng một công ước quốc tế về đa dạng văn hóa hiện nay.
Bốn là, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo,
trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng. Quan điểm xác định trách nhiệm của mọi
người dân Việt Nam đều tham gia sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa nước nhà;
25



×