Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

DE THI VA DAP AN MON TTHCM cao cấp chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (399.24 KB, 70 trang )

ĐÁP ÁN ĐỀ THI SỐ 1
Đáp án Câu 1: Phân tích cơ sở lý luận, thực tiễn và nội dung luận điểm của Hồ Chí
Minh: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường
cách mạng vô sản”. (7 điểm)
Cơ sở của luận điểm:
- Cơ sở lý luận:
Chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ ra rằng các dân tộc đang bị chủ nghĩa thực dân phương Tây
áp bức muốn được giải phóng phải đi theo con đường cách mạng vô sản. Vậy cách mạng vô
sản là gì? Đó là cuộc cách mạng của giai cấp công nhân nhằm lật đổ giai cấp tư sản. Tuy nhiên,
khi vận dụng con đường cách mạng vô sản ở Phương Tây vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam,
Hồ Chí Minh trăn trở rất nhiều về sự khác nhau giữa xã hội châu Âu và xã hội phương Đông.
Vận dụng phương pháp biện chứng của C. Mác để phân tích xã hội thuộc địa, Người chỉ ra
rằng, do nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, nên sự phân hóa giai cấp ở đây khác với xã hội tư bản
phương Tây, vì thế cuộc đấu tranh giai cấp ở đây không diễn ra giống như ở phương Tây. Giữa
những giai cấp khác nhau vẫn có sự tương đồng lớn: đều chung một số phận của người dân mất
nước. Nếu như mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội tư bản chủ nghĩa là mâu thuẫn giữa giai cấp vô
sản với giai cấp tư sản, thì mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội thuộc địa lại là mâu thuẫn giữa dân
tộc bị áp bức với đế quốc xâm lược. Giai cấp tư sản dân tộc và một bộ phận địa chủ vừa và nhỏ
mặc dù vẫn có mặt hạn chế trong quan hệ với quần chúng lao động, nhưng trong quan hệ với đế
quốc Pháp, họ đều là người Việt Nam mất nước. Đó không phải là những giai cấp thống trị, mà
là giai cấp bị trị và có khả năng tham gia phong trào giải phóng dân tộc.
Nếu như C. Mác bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, V.I. Lê-nin bàn
nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, thì Hồ Chí Minh dành sự quan tâm đặc biệt
đến cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Trong điều kiện xã hội thuộc địa, Người không
nhấn mạnh một chiều đấu tranh giai cấp, mà tập trung vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Độc lập, tự do là khát vọng cháy bỏng của mọi người Việt Nam mất nước. Trong tư duy chính
trị Hồ Chí Minh, thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa chính là vấn đề độc lập dân tộc.
- Cơ sở thực tiễn: (2,0 điểm)
Sự thất bại của các phong trào yêu nước ở Việt Nam từ nửa sau thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ
XX: Các cuộc đấu tranh giành độc lập cuối thế kỷ XIX diễn ra theo hệ tư tưởng phong kiến
như: phong trào Cần Vương, khởi nghĩa Yên Thế ... đều thất bại là do chưa có đường lối và


phương pháp cách mạng đúng đắn. Tiếp đó là các cuộc đấu tranh giành độc lập theo khuynh
hướng tư sản đầu thế kỷ XX như: con đường bạo động của Phan Bội Châu chẳng khác gì “đuổi
hổ cửa trước, rước beo cửa sau”; con đường của Phan Chu Trinh cũng chẳng khác nào “xin giặc
rủ lòng thương”; con đường của Hoàng Hoa Thám thực tế hơn, nhưng vẫn mang nặng cốt cách
phong kiến; con đường của Nguyễn Thái Học theo hệ tư tưởng tư sản, đã chứng tỏ giai cấp tư
sản Việt Nam không đảm đương được sứ mệnh dân tộc. Có thể nói rằng, các phong trào cách
mạng cuối thể kỷ XIX đầu thế kỷ XX đều thể hiện tinh thần yêu nước muốn giải phóng dân
tộc, tuy nhiên các cuộc đấu tranh đó cuối cùng đều thất bại do tư tưởng cách mạng đã lỗi thời và
không còn phù hợp với tình hình cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ. Do đó mặc dù rất khâm
phục tinh thần cách mạng của cha ông, nhưng Người không tán thành con đường cách mạng của
họ. Người xuất ngoại, đến nhiều quốc gia trên thế giới để tìm một con đường cứu nước mới.

1


Sự thành công chưa đến nơi của các cuộc cách mạng dân chủ tư sản điển hình trên thế
giới: Người nghiên cứu rất kỹ các cuộc cách mạng, điển hình là cách mạng giải phóng dân tộc
của Mỹ năm 1776, cách mạng Pháp 1789 và đi đến kết luận: “Cách mệnh Pháp cũng như cách
mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ,
kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”. Vì vậy, Người không đi
theo con đường cách mạng Tư sản.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga 1917: Người đến với Lênin và tán thành Đệ
tam Quốc tế (Quốc tế III) vì Người thấy ở đó một phương hướng mới để giải phóng dân tộc:
Cách mạng Vô sản. Người nhận xét: Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mạng Nga là thành công
đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc, tự do, bình đẳng thật sự. Cuộc cách
mạng này đã mở ra hai con đường: giải phóng nhân dân lao động trong nước và tạo điều kiện
cho nhân dân các nước thuộc địa đứng lên tự giải phóng:
“Nước Nga có chuyện lạ đời
Biến người nô lệ thành người tự do”
Vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và các nhà cách mạng có xu hướng tư sản

đương thời, Hồ Chí Minh đã đến với học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin và lựa
chọn con đường cách mạng vô sản
Nội dung: (4,0 điểm)
Con đường cách mạng Việt Nam nhằm thực hiện độc lập dân tộc và đi lên xây dựng chủ
nghĩa xã hội: Đi theo con đường cách mạng vô sản, Hồ Chí Minh sớm xác định phương hướng
chiến lược của cách mạng Việt Nam là “làm tư sản dân quyền cách mạng (tức cách mạng giải
phóng dân tộc) và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Sau khi giành độc lập, phải tiến
lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người dành nhiều tâm trí vào sự nghiệp cách mạng xã hội chủ
nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, hình thành nên những quan điểm hết sức cơ
bản về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa với những
tàn tích phong kiến nặng nề; xác định những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội, mục tiêu
và bước đi để đạt tới chủ nghĩa xã hội. Đó là một quá trình cải biến cách mạng lâu dài, gian khổ,
phải trải qua nhiều chặng đường khác nhau, tất cả vì sự nghiệp giải phóng con người, làm cho
con người phát triển toàn diện, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Giương cao ngọn cờ độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh kết hợp nhuần nhuyễn vấn đề dân tộc và vấn đề
giai cấp, xây dựng lý luận cách mạng giải phóng và phát triển dân tộc theo khuynh hướng vô
sản, giải quyết thành công mối quan hệ giữa đất nước và thời đại, giữa dân tộc và quốc tế. Đó là
cống hiến xuất sắc nhất và cũng là cống hiến đầu tiên của Hồ Chí Minh trong việc vận dụng và
phát triển lý luận cách mạng vô sản vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Trước hết phải tập trung cho nhiệm vụ giải phóng dân tộc: Khi phân tích vê mối quan hệ
giữa nhiệm vụ giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, Người không nhấn mạnh một chiều
đấu tranh giai cấp, mà tập trung vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Độc lập, tự do theo
Người mới là khát vọng cháy bỏng của mọi người Việt Nam mất nước. Toàn thể dân tộc Việt
Nam đều mâu thuẫn với chủ nghĩa thực dân và mong muốn giành độc lập dân tộc, giải phóng
đất nước. Trong tư duy chính trị Hồ Chí Minh, thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa chính là
vấn đề độc lập dân tộc.

2



Phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo: Quyết định đi theo con đường cách mạng vô sản, cách
mạng Việt Nam muốn giành thắng lợi, Hồ Chí Minh cho rằng, trước hết phải có một đảng chân
chính lãnh đạo. Người nói: “ Cách mệnh trước hết phải có đảng cách mệnh...Đảng có vững
cách mệnh mới thành công... Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt...Bây giờ học
thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh
nhất là chủ nghĩa Lênin”. Để đảm bảo sau khi cách mạng thành công, đất nước có nền độc lập
hoàn toàn, đa số nhân dân lao động được hưởng ấm no hạnh phúc thì cách mạng phải do Đảng
cộng sản lãnh đạo. Đảng đó phải được xây dựng theo các nguyên tắc Đảng kiểu mới của Lênin,
được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác - Lênin.
Nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng cộng sản: Xác định mục tiêu của cách mạng, xây dựng
đường lối cách mạng giải phóng dân tộc; thông qua cương lĩnh, đường lối của mình, Đảng tổ
chức vận động, tập hợp các lực lượng cách mạng, xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất, (mà
nòng cốt là liên minh công nông), thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ: chống đế quốc và chống
phong kiến, giành độc lập dân tộc, đem lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân. Để đáp ứng được
với những yêu cầu nhiệm vụ đó, Đảng cộng sản phải được xây dựng theo các nguyên tắc Đảng
kiểu mới của Lênin, được vũ trang bằng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Lực lượng cách mạng phải là khối đại đoàn kết toàn dân tộc, dựa trên nền tảng liên minh
công nhân, nông dân và trí thức: Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Người khẳng
định lực lượng cách mạng là bao gồm cả dân tộc. Trong phạm vi của cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc mà đối tượng cần đánh đổ trước hết là bọn đế quốc và đại địa chủ phong kiến tay sai,
Hồ Chí Minh chủ trương tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam đang bị làm nô lệ
trong một mặt trận dân tộc thống nhất nhằm huy động sức mạnh toàn dân. Sách lược vắn tắt
chỉ rõ “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt,.. để
kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư sản An Nam
mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, chí ít là làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận
nào ra mặt phản cách mạng (như Đảng Lập hiến) thì cần phải đánh đổ”. Trong lực lượng toàn
dân tộc, Người luôn nhắc nhở không được quên cốt lõi của nó là công - nông. Phải nhớ: “Công
nông là gốc cách mệnh, học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư sản áp bức, song không
cực khổ bằng công nông, ba hạng ấy chỉ là bầu bạn của cách mệnh, của công nông thôi”, và
phải thực hiện theo đúng nguyên tắc: “Trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận,

không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thoả hiệp”. Hồ Chí
Minh khẳng định để có thể tập hợp lực lượng thì phải đoàn kết tất cả những người Việt Nam
yêu nước để cùng đánh đổ kẻ thù chung của cả dân tộc, trong đó bộ phận trung tâm là công
nhân, nông dân và khối liên minh công – nông do giai cấp công nhân lãnh đạo.
Tóm lại, quá trình Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận cách mạng vô sản
ở Việt Nam là một quá trình giải quyết những yêu cầu của lịch sử dân tộc, luôn xuất phát từ
thực tiễn khách quan, hình thành nên một học thuyết về giải phóng và phát triển dân tộc theo
con đường cách mạng vô sản, được thâm nhập rộng rãi trong đông đảo quần chúng yêu nước
và trở thành sức mạnh vật chất vô cùng to lớn trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do, làm nên
những thắng lợi chiến lược của cách mạng Việt Nam và tiến lên xây dựng đất nước ngày càng
“đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. Thực tiễn đó khẳng định giá trị của ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí
Minh, khẳng định thành công của Hồ Chí Minh trong quá trình vận dụng và phát triển lý luận

3


cách mạng vô sản vào điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam; để lại những bài học lịch sử vô
cùng quý báu, mà bài học lớn nhất là phải kiên định mục tiêu lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản,
luôn bám sát thực tiễn của đất nước, giữ vững tính độc lập về tư duy, không ngừng vận dụng và
phát triển sáng tạo lý luận và kinh nghiệm của cách mạng thế giới để xác định đường lối chính
trị đúng đắn, đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đến thành công và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc.
Đáp án Câu 2: Đảng ta vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng
dân tộc trong giai đoạn hiện nay (3 điểm)
Giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc.
- Về lý luận cách mạng giải phóng dân tộc: Đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, xác định con
đường cứu nước theo khuynh hướng chính trị vô sản, nhưng Hồ Chí Minh đã không áp dụng
rập khuôn, máy móc những nguyên lý có sẵn. Năm 1924, Người đã phát hiện thấy chủ nghĩa
Mác được xây dựng trên một triết lý nhất định của lịch sử châu Âu, mà châu Âu “chưa phải là
toàn thể nhân loại”, và đặt ra nhiệm vụ: “xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó,

củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông”.
- Lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minhlàm phong phú thêm Chủ nghĩa
Mác - Lênin về cách mạng thuộc địa: Vận dụng phương pháp làm việc biện chứng của học
thuyết Mác-Lênin, Người đã phân tích thực tiễn xã hội thuộc địa, phát triển chủ nghĩa MácLênin trong điều kiện lịch sử cụ thể, xây dựng nên lý luận cách mạng giải phóng dân tộc và
truyền bá vào Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, yêu cầu khách quan của cách mạng ở thuộc địa không phải là
chống chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa đế quốc nói chung mà là chống chủ nghĩa thực dân và
tay sai của nó. Cho nên điều cần kíp là phải tiến hành cuộc cách mạng giải phóng, giành độc lập
tự do cho dân tộc.
Về động lực của cách mạng giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã khẳng định, chủ nghĩa
dân tộc chân chính là một động lực to lớn và kêu gọi phát động chủ nghĩa dân tộc nhân danh
Quốc tế cộng sản.
- Phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh hết sức độc đáo
và sáng tạo, thấm nhuần tính nhân văn.
Xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể ở thuộc địa, nhất là so sánh lực lượng quá chênh lệch
về kinh tế và quân sự giữa các dân tộc bị áp bức và chủ nghĩa đế quốc, Người đã xây dựng nên
lý luận về phương pháp khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân, phát huy và sử dụng sức
mạnh toàn dân tộc để chiến thắng kẻ thù hùng mạnh. Đây là một di sản tư tưởng quân sự vô giá
mà Người để lại cho Đảng và nhân dân ta.
Tình hình quốc tế và trong nước tác động đến việc bảo vệ độc lập, chủ quyền đất nước
hiện nay: Hiện nay tình hình trong nước và trên thế giới đang có nhiều diễn biến phức tạp, có
nhiều thuận lợi, đan xen những thách thức. Nguy cơ các thế lực phản động trong và ngoài nước
đe doạ đến nền độc lập vẫn còn. Trên thế giới đã có những thay đổi căn bản, chủ nghĩa thực dân
cũ đã bị diệt vong, nhưng chủ nghĩa thực dân mới vẫn đang hiện hữu, các nước đế quốc đang
cố thích ứng và tiếp tục mưu đồ về khu vực ảnh hưởng, về thị trường lợi nhuận. Trong quá trình
vận động, hội nhập toàn cầu hoá, phải luôn nhớ tới nguyên tắc quyền lợi của dân tộc, giai cấp
và không bao giờ được ảo tưởng trong quan hệ hợp tác với các nước khác. Đại hội đại biểu toàn

4



quốc lần thứ XI của Đảng ta đã khẳng định: Những thành tựu đạt được sau gần 30 năm đổi mới
là to lớn và rất quan trọng, làm cho thế và lực của nước ta lớn mạnh lên nhiều. Đồng thời, Đại
hội cũng chỉ rõ: sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước cũng đang đứng trước những thời cơ và
thách thức to lớn mà chúng ta phải chủ động đón lấy để vượt qua thách thức, nắm lấy thời cơ.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, chúng ta cần nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội nhằm tạo ra những nguồn lực mới, đưa sự nghiệp đổi mới vững bước tiến lên
những thắng lợi mới. Phải khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, tạo
điều kiện và phát huy mọi nguồn lực để xây dựng và bảo vệ đất nước (cả nguồn lực bên trong
và nguồn lực bên ngoài; dân tộc và quốc tế).
Trước hết phải xác định rõ các nguồn lực và nhấn mạnh phải phát huy tối đa các nguồn nội
lực. Nội lực, hiểu một cách toàn diện, bao gồm con người, trí tuệ, truyền thống dân tộc, truyền
thống cách mạng, đất đai, tài nguyên, vốn liếng… nhưng tựu trung lại, yếu tố quan trọng nhất,
quyết định nhất vẫn là nguồn lực con người với tất cả sức mạnh thể chất và tinh thần của nó.
Chủ nghĩa yêu nước là nguồn lực mạnh mẽ nhất, trong hai cuộc kháng chiến thần thánh của
dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, tinh thần yêu nước ấy đã được
phát huy cao độ, biến thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng vô song, đưa đến mọi thắng lợi của
dân tộc ta. Trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, truyền thống quý
báu ấy cần được tiếp tục khơi dậy mạnh mẽ, biến nó thành một nguồn nội lực vô tận để đưa đất
nước vượt qua mọi nguy cơ, thử thách, vững bước tiến lên.
Định hướng bảo vệ: Thắng lợi của cách mạng tháng Tám 1945 và 30 năm chiến tranh
cách mạng Việt Nam (1945 - 1975) đã chứng minh tinh thần độc lập, tự chủ, tính khoa học, tính
cách mạng và sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường giải phóng dân tộc ở Việt
Nam, soi đường cho dân tộc Việt Nam tiến lên cùng nhân loại, biến thế kỷ XX thành một thế
kỷ giải trừ chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và
cách mạng giải phóng dân tộc, chúng ta phải biết khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước
và tinh thần dân tộc, nguồn động lực mạnh mẽ để xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc; nhận thức và
giải quyết vấn đề dân tộc trên lập trường giai cấp công nhân; chăm lo xây dựng khối đại đoàn

kết dân tộc, giải quyết tốt mối quan hệ giữa các dân tộc anh em và trong cộng đồng dân tộc Việt
Nam.

5


ĐÁP ÁN ĐỀ THI SỐ 2

Đáp án Câu 1: Trình bày nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng
giải phóng dân tộc. (7 điểm)
Muc tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc là cuộc cách mạng do nhân dân các nước
thuộc địa, (hoặc các nước bị nô dịch) tiến hành, nhằm lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa đế
quốc, khôi phục độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia, xây dựng chính quyền, xây dựng nhà
nước thuộc về lực lượng dân tộc. Do đó, mục tiêu cơ bản và chủ yếu của cách mạng giải
phóng dân tộc là lật đổ ách áp bức, nô dịch của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, giành độc lập dân
tộc, khôi phục chủ quyền quốc gia.
Nhiệm vụ của cách mạng giải phóng dân tộc: nhiệm vụ chủ yếu và căn bản của cách mạng
giải phóng dân tộc là thành lập Đảng cách mạng (ở Việt Nam là Đảng cộng sản); đề ra chủ
trương, đường lối cách mạng phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh lịch sử thực tiễn của mỗi
nước; tập hợp lực lượng dân tộc, tiến hành vận động cách mạng, khởi nghĩa đánh đổ ách thống
trị của thực dân đế quốc, giành độc lập dân tộc, giành chính quyền về tay nhân dân. Sau khi
giành chính quyền, tổ chức xây dựng xã hội mới do nhân dân làm chủ.
Tính chất của cách mạng giải phóng dân tộc : Đây là cuộc đấu tranh giữa những người bị
áp bức chống kẻ áp bức; giữa nhân dân thuộc địa-những người bị xâm lược chống kẻ xâm
lược- chủ nghĩa thực dân; là cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn dân tộc với đế quốc, nhằm
giải phóng dân tộc. Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam là cuộc đấu tranh chính
nghĩa.
- Cách mạng giải phóng dân tộc muốn giành thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng
vô sản. Chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ ra rằng các dân tộc đang bị chủ nghĩa thực dân phương Tây
áp bức muốn được giải phóng phải đi theo con đường cách mạng vô sản. Tuy nhiên, khi vận

dụng con đường cách mạng vô sản ở Phương Tây vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, Người
chỉ ra rằng, do nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, nên sự phân hóa giai cấp ở đây khác với xã hội tư
bản phương Tây, vì thế cuộc đấu tranh giai cấp ở đây không diễn ra giống như ở phương Tây.
Trong điều kiện xã hội thuộc địa, Người không nhấn mạnh một chiều đấu tranh giai cấp, mà tập
trung vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Độc lập, tự do là khát vọng cháy bỏng của mọi
người Việt Nam mất nước. Trong tư duy chính trị Hồ Chí Minh, thực chất của vấn đề dân tộc
thuộc địa chính là vấn đề độc lập dân tộc.
Sự thất bại của các phong trào yêu nước ở Việt Nam từ nửa sau thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ
XX: các phong trào cách mạng cuối thể kỷ XIX đầu thế kỷ XX theo khuynh hướng cách mạng
phong kiến và khuynh hướng tư sản dân tộc đều thể hiện tinh thần yêu nước muốn giải phóng
dân tộc, tuy nhiên các cuộc đấu tranh đó cuối cùng đều thất bại do tư tưởng cách mạng đã lỗi
thời và không còn phù hợp với tình hình cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ. Vì vậy, mặc dù rất
khâm phục tinh thần cách mạng của cha ông, nhưng Người không tán thành con đường cách
mạng của họ. Người xuất ngoại, đến nhiều quốc gia trên thế giới để tìm một con đường cứu nước
mới.
Sự thành công chưa đến nơi của các cuộc cách mạng dân chủ tư sản điển hình trên thế
giới: Người nghiên cứu rất kỹ các cuộc cách mạng, điển hình là cách mạng giải phóng dân tộc

6


của Mỹ năm 1776, cách mạng Pháp 1789 và đi đến kết luận: “Cách mệnh Pháp cũng như cách
mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ,
kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”. Vì vậy, Người không đi
theo con đường cách mạng Tư sản.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga 1917: Người đến với Lênin và tán thành Đệ
tam Quốc tế (Quốc tế III) vì Người thấy ở đó một phương hướng mới để giải phóng dân tộc:
Cách mạng Vô sản. Người nhận xét: Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mạng Nga là thành công
đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc, tự do, bình đẳng thật sự. Cuộc cách
mạng này đã mở ra hai con đường: giải phóng nhân dân lao động trong nước và tạo điều kiện

cho nhân dân các nước thuộc địa đứng lên tự giải phóng. Vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của
các sĩ phu và các nhà cách mạng có xu hướng tư sản đương thời, Hồ Chí Minh đã đến với học
thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin và lựa chọn con đường cách mạng vô sản. Việc lựa
chọn và quyết định đi theo con đường cách mạng vô sản, theo con đường của Cách mạng tháng
Mười Nga, theo chủ nghĩa Mác-Lênin là một quyết định đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc về
mặt nhận thức tư tưởng cách mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, đồng thời mang tính bước
ngoặt căn bản đối với cách mạng Việt Nam
- Cách mạng giải phóng dân tộc muốn giành thắng lợi triệt để thì phải có Đảng Cộng sản
lãnh đạo. Quyết định đi theo con đường cách mạng vô sản, cách mạng Việt Nam muốn giành
thắng lợi, Hồ Chí Minh cho rằng, trước hết phải có một đảng chân chính lãnh đạo. Người nói: “
Cách mệnh trước hết phải có đảng cách mệnh...Đảng có vững cách mệnh mới thành công...
Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt...Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều,
nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Để đảm
bảo sau khi cách mạng thành công, đất nước có nền độc lập hoàn toàn, đa số nhân dân lao động
được hưởng ấm no hạnh phúc thì cách mạng phải do Đảng cộng sản lãnh đạo. Đảng đó phải
được xây dựng theo các nguyên tắc Đảng kiểu mới của Lênin, được vũ trang bằng chủ nghĩa
Mác - Lênin.
Nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng cộng sản: Xác định mục tiêu của cách mạng, xây dựng
đường lối cách mạng giải phóng dân tộc; thông qua cương lĩnh, đường lối của mình, Đảng tổ
chức vận động, tập hợp các lực lượng cách mạng, xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất, (mà
nòng cốt là liên minh công nông), thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ: chống đế quốc và chống
phong kiến, giành độc lập dân tộc, đem lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân. Để đáp ứng được
với những yêu cầu nhiệm vụ đó, Đảng cộng sản phải được xây dựng theo các nguyên tắc Đảng
kiểu mới của Lênin, được vũ trang bằng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin.
- Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết toàn dân, trên cơ sở liên minh công
nông làm nòng cốt. Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Người khẳng định lực lượng
cách mạng là bao gồm cả dân tộc. Trong phạm vi của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mà
đối tượng cần đánh đổ trước hết là bọn đế quốc và đại địa chủ phong kiến tay sai, Hồ Chí Minh
chủ trương tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam đang bị làm nô lệ trong một mặt
trận dân tộc thống nhất nhằm huy động sức mạnh toàn dân. Sách lược vắn tắt chỉ rõ “Đảng

phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt,.. để kéo họ đi
vào phe vô sản giai cấp. Còn với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư sản An Nam mà chưa
rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, chí ít là làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào ra

7


mặt phản cách mạng (như Đảng Lập hiến) thì cần phải đánh đổ”. Trong lực lượng toàn dân tộc,
Người luôn nhắc nhở không được quên cốt lõi của nó là công - nông. Phải nhớ: “Công nông là
gốc cách mệnh, học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư sản áp bức, song không cực khổ
bằng công nông, ba hạng ấy chỉ là bầu bạn của cách mệnh, của công nông thôi”, và phải thực
hiện theo đúng nguyên tắc: “Trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào
nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thoả hiệp”. Hồ Chí Minh khẳng
định để có thể tập hợp lực lượng thì phải đoàn kết tất cả những người Việt Nam yêu nước để
cùng đánh đổ kẻ thù chung của cả dân tộc, trong đó bộ phận trung tâm là công nhân, nông dân
và khối liên minh công - nông do giai cấp công nhân lãnh đạo.
- Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng
giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Căn cứ vào thực tiễn tình hình cách
mạng Việt Nam và sự phát triển của phong trào cách mạng thế giới, Hồ Chí Minh không đồng
tình với chủ trương của nhiều đại biểu phát biểu tại Đại hội Quốc V Quốc tế cộng sản. Tại diễn
đàn Đại hội V (1924), Hồ Chí Minh đã phát biểu thẳng thắn quan điểm của mình: “Hiện nay
nọc độc và sức sống của bọn rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa hơn là ở
chính quốc”. Người khẳng định: Cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách
mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước.
Hồ Chí Minh khẳng định, thực hiện thắng lợi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc
địa, không chỉ giải phóng nhân dân khỏi ách áp bức của chủ nghĩa thực dân, mà còn tạo điều
kiện cho cho cuộc cách mạng vô sản ở chính quốc. Người nói: “Trong khi thủ tiêu một trong
những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những
người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”
Đây là một luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn đối

với phong trào cách mạng thế giới và là sự bổ sung kịp thời vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin. Đặc biệt, đối với cách mạng Việt Nam, luận điểm cách mạng của Hồ Chí Minh đã
được vận dụng một cách chủ động, sáng tạo trong tiến trình vận động cách mạng giải phóng
dân tộc. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam, là một minh chứng khẳng
định luận điểm của Hồ Chí Minh hoàn toàn đúng đắn
- Cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường bạo lực, kết hợp lực
lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang trong nhân dân: Căn cứ vào thực tiễn
tình hình cách mạng thế gới và thực tiễn Việt Nam; nghiên cứu quan điểm lý luận về cách mạng
vô sản, Hồ Chí Minh khẳng định, để cứu nước, giải phóng dân tộc, cách mạng Việt Nam phải
tiến hành bằng con đường cách mạng bạo lực: Kết hợp khởi nghĩa vũ trang với đấu tranh chính
trị của quần chúng.
Nghiên cứu về phong trào đấu tranh yêu nước, cách mạng ở Việt Nam những năm cuối thế
kỷ 19 đầu thế kỷ 20, phương pháp đấu tranh bằng con đường cải lương (do Phan Chu Trinh
khởi xướng), với phương châm: “Pháp Việt đề huề”, chủ trương dựa vào Pháp để tăng tiềm lực
đất nước; chủ yếu sử dụng hình thức đấu tranh hợp pháp, đấu tranh bằng phương pháp hoà bình
để giành độc lập dân tộc ở Việt Nam. Nhưng đó chỉ là phương pháp mang tính ảo tưởng, thiếu
thực tế và đã thất bại. Vì bản chất của thực dân, đế quốc là xâm lược, nô dịch và lợi nhuận, nên
nó sẽ không dễ dàng từ bỏ thị trường, thuộc địa mà chúng đang bóc lột, thu lợi.

8


Phương pháp vũ trang bạo động, nhờ sự giúp đỡ của bên ngoài (phong trào Quang phục
hội, Đông Du do Phan Bội Châu lãnh đạo), hoặc bằng phương pháp vũ trang ám sát theo
khuynh hướng dân chủ tư sản, ( tiêu biểu là đường lối của Quốc Dân Đảng do Nguyễn Thái
Học... khởi xướng), cũng đều thất bại.
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn cách mạng Việt Nam và thế giới, Hồ Chí Minh chỉ ra rằng,
để cuộc cuộc khởi nghĩa vũ trang có thể giành thắng lợi, phải sử dụng cách mạng bạo lực, kết
hợp khởi nghĩa vũ trang với lực lượng chính trị của quần chúng, coi đó là điểm tựa để phát
triển lực lượng vũ trang, tổ chức các hình thức đấu tranh vũ trang từ thấp đến cao, từ nhỏ đến

lớn, phù hợp với từng nơi, từng thời kỳ cụ thể.
Quan điểm Cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường bạo lực,
kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ tranh; tiến hành khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng
khởi nghĩa, đánh đổ chế độ thực dân, phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân đã được
Hồ Chí Minh chỉ đạo thực hiện rất linh hoạt và hiệu quả. Trong đó nổi lên vấn đề quan trọng là
xây dựng lực lượng, nhưng vấn đề chọn thời cơ khởi nghĩa cũng là vấn đề mang tính quyết
định, đem đến thắng lợi.
Tóm lại: Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết của Lênin về cách
mạng thuộc địa, hình thành một hệ thống luận điểm khá hoàn chỉnh, bao gồm cả đường lối
chiến lược, sách lược và phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa.
Đặt chiến lược của cách mạng Việt Nam trong quỹ đạo cách mạng vô sản thế giới, khẳng
định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, Hồ Chí Minh đã lựa chọn
con đường cách mạng giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng vô sản, đó là sự lựa chọn
đúng đắn, phù hợp với lịch sử đất nước và thời đại. Khẩn trương xúc tiến việc chuẩn bị mọi
điều kiện cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam; soạn thảo Chánh cương vắn tắt và Sách
lược vắn tắt của Đảng, Hồ Chí Minh đã xác định nhiệm vụ chiến lược cho cách mạng giải
phóng dân tộc Việt Nam là chống đế quốc và chống phong kiến. Hai nhiệm vụ đó không tách
rời nhau, cho nên, Đảng ta phải chỉ đạo giải quyết đặt ra hàng loạt vấn đề: về sắp xếp lực lượng
cách mạng, về xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất, về liên minh công nông, về phương pháp
tiến hành cách mạng, về khởi nghĩa vũ trang, về thời cơ khởi nghĩa vv...
Đáp án Câu 2: Đảng ta vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng
dân tộc trong giai đoạn hiện nay (3 điểm)
Giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc.
- Về lý luận cách mạng giải phóng dân tộc: Đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, xác định con
đường cứu nước theo khuynh hướng chính trị vô sản, nhưng Hồ Chí Minh đã không áp dụng
rập khuôn, máy móc những nguyên lý có sẵn. Năm 1924, Người đã phát hiện thấy chủ nghĩa
Mác được xây dựng trên một triết lý nhất định của lịch sử châu Âu, mà châu Âu “chưa phải là
toàn thể nhân loại”, và đặt ra nhiệm vụ: “xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó,
củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông”.
- Lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minhlàm phong phú thêm Chủ nghĩa

Mác - Lênin về cách mạng thuộc địa: Vận dụng phương pháp làm việc biện chứng của học
thuyết Mác-Lênin, Người đã phân tích thực tiễn xã hội thuộc địa, phát triển chủ nghĩa Mác-

9


Lênin trong điều kiện lịch sử cụ thể, xây dựng nên lý luận cách mạng giải phóng dân tộc và
truyền bá vào Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, yêu cầu khách quan của cách mạng ở thuộc địa không phải là
chống chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa đế quốc nói chung mà là chống chủ nghĩa thực dân và
tay sai của nó. Cho nên điều cần kíp là phải tiến hành cuộc cách mạng giải phóng, giành độc lập
tự do cho dân tộc.
Về động lực của cách mạng giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã khẳng định, chủ nghĩa
dân tộc chân chính là một động lực to lớn và kêu gọi phát động chủ nghĩa dân tộc nhân danh
Quốc tế cộng sản.
- Phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh hết sức độc đáo
và sáng tạo, thấm nhuần tính nhân văn.
Xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể ở thuộc địa, nhất là so sánh lực lượng quá chênh lệch
về kinh tế và quân sự giữa các dân tộc bị áp bức và chủ nghĩa đế quốc, Người đã xây dựng nên
lý luận về phương pháp khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân, phát huy và sử dụng sức
mạnh toàn dân tộc để chiến thắng kẻ thù hùng mạnh. Đây là một di sản tư tưởng quân sự vô giá
mà Người để lại cho Đảng và nhân dân ta.
Tình hình quốc tế và trong nước tác động đến việc bảo vệ độc lập, chủ quyền đất nước
hiện nay: Hiện nay tình hình trong nước và trên thế giới đang có nhiều diễn biến phức tạp, có
nhiều thuận lợi, đan xen những thách thức. Nguy cơ các thế lực phản động trong và ngoài nước
đe doạ đến nền độc lập vẫn còn. Trên thế giới đã có những thay đổi căn bản, chủ nghĩa thực dân
cũ đã bị diệt vong, nhưng chủ nghĩa thực dân mới vẫn đang hiện hữu, các nước đế quốc đang
cố thích ứng và tiếp tục mưu đồ về khu vực ảnh hưởng, về thị trường lợi nhuận. Trong quá trình
vận động, hội nhập toàn cầu hoá, phải luôn nhớ tới nguyên tắc quyền lợi của dân tộc, giai cấp
và không bao giờ được ảo tưởng trong quan hệ hợp tác với các nước khác. Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ XI của Đảng ta đã khẳng định: Những thành tựu đạt được sau gần 30 năm đổi mới
là to lớn và rất quan trọng, làm cho thế và lực của nước ta lớn mạnh lên nhiều. Đồng thời, Đại
hội cũng chỉ rõ: sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước cũng đang đứng trước những thời cơ và
thách thức to lớn mà chúng ta phải chủ động đón lấy để vượt qua thách thức, nắm lấy thời cơ.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, chúng ta cần nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội nhằm tạo ra những nguồn lực mới, đưa sự nghiệp đổi mới vững bước tiến lên
những thắng lợi mới. Phải khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, tạo
điều kiện và phát huy mọi nguồn lực để xây dựng và bảo vệ đất nước (cả nguồn lực bên trong
và nguồn lực bên ngoài; dân tộc và quốc tế).
Trước hết phải xác định rõ các nguồn lực và nhấn mạnh phải phát huy tối đa các nguồn nội
lực. Nội lực, hiểu một cách toàn diện, bao gồm con người, trí tuệ, truyền thống dân tộc, truyền
thống cách mạng, đất đai, tài nguyên, vốn liếng… nhưng tựu trung lại, yếu tố quan trọng nhất,
quyết định nhất vẫn là nguồn lực con người với tất cả sức mạnh thể chất và tinh thần của nó.
Chủ nghĩa yêu nước là nguồn lực mạnh mẽ nhất, trong hai cuộc kháng chiến thần thánh của
dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, tinh thần yêu nước ấy đã được
phát huy cao độ, biến thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng vô song, đưa đến mọi thắng lợi của
dân tộc ta. Trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, truyền thống quý

10


báu ấy cần được tiếp tục khơi dậy mạnh mẽ, biến nó thành một nguồn nội lực vô tận để đưa đất
nước vượt qua mọi nguy cơ, thử thách, vững bước tiến lên.
Định hướng bảo vệ: Thắng lợi của cách mạng tháng Tám 1945 và 30 năm chiến tranh
cách mạng Việt Nam (1945 - 1975) đã chứng minh tinh thần độc lập, tự chủ, tính khoa học, tính
cách mạng và sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường giải phóng dân tộc ở Việt
Nam, soi đường cho dân tộc Việt Nam tiến lên cùng nhân loại, biến thế kỷ XX thành một thế
kỷ giải trừ chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và

cách mạng giải phóng dân tộc, chúng ta phải biết khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước
và tinh thần dân tộc, nguồn động lực mạnh mẽ để xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc; nhận thức và
giải quyết vấn đề dân tộc trên lập trường giai cấp công nhân; chăm lo xây dựng khối đại đoàn
kết dân tộc, giải quyết tốt mối quan hệ giữa các dân tộc anh em và trong cộng đồng dân tộc Việt
Nam.

11


ĐỀ SỐ 3
Câu 1: Phân tích quan điểm, nội dung vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí
Minh trong bối cảnh hiện nay.
1. Về quan điểm
Phải quán triệt lời dạy của chính Hồ Chí Minh: Vận dụng lập trường, quam
điểm, phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí
Minh vào hoàn cảnh mới phù hợp từng nơi, từng lúc. Đứng vững lên lập trường giai
cấp công nhân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, mới nhận
thức và giải quyết đúng đắn, hợp lý những vấn đề giàu nghèo, quan hệ lợi ích giữa
dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế do thực tiễn đặt ra.
Có 4 quan điểm mang tính phương pháp luận trong nhận thức và hành động theo
tư tưởng Hồ Chí Minh.
Một là: Lý luận gắn với thực tiễn.
Hồ Chí Minh thường nhắc nhở: ‘‘Phải nâng cao sự tu dưỡng chủ nghĩa Mác Lênin để dùng lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin mà
tổng kết kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của
nước ta. Có như thế, chúng ta mới dần dần hiểu được qui luật phát triển của cách
mạng Việt Nam, định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của
cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta’’. Rõ ràng, theo Hồ Chí
Minh cần phải gắn lý luận với thực tế thông qua việc thực tế hóa lý luận và lý luận
hóa thực tế, chỉ có như vậy mới vận dụng sáng tạo và phát triển thành công, không
chỉ tư tưởng Hồ Chí Minh mà cả Chủ nghĩa Mác – Lênin cho phù hợp điều kiện mới,

yêu cầu mới hiện nay.
Hai là: Quan điểm lịch sử và cụ thể.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của một thời kỳ lịch sử cụ thể, chịu sự ước
định của điều kiện lịch sử đó. Nghiên cứu để nhận thức hay vận dụng một quan điểm
hoặc một câu nói nào đó của Người cần thiết phải đặt nó trong bối cảnh cụ thể: Nói
với ai, nhằm mục đích gì, do đâu hay vì sao mà nói, viết như thế để không dẫn đến
những suy diễn hay qui kết nhầm lẫn, sai lệch với tư tưởng của Người. Cần chú ý
rằng Hồ Chí Minh không chỉ là một chiến lược gia vĩ đại mà còn là một nhà chỉ đạo
chiến lược, một nhà sách lược tài giỏi. Tùy đối tượng, hoàn cảnh cụ thể mà Người có
cách xử lý linh hoạt, sáng tạo riêng. Như vậy, vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí
Minh rất cần nắm chắc lịch sử vấn đề và rất cần so sánh, tìm hiểu các điều kiện ra đời
quan điểm tư tưởng đó còn không ? còn như thế nào để bổ sung và phát triển.
Ba là: quan điểm toàn diện và hệ thống.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống đề cập toàn diện đến các vấn đề của con
người và xã hội Việt Nam. Bản thân Người khi xem xét, đánh giá sự vật, hiện tượng,
xã hội hay con người luôn nhìn qua các mối quan hệ nhiều chiều để thấy toàn diện
của vấn đề, đồng thời cũng nhìn toàn diện các vấn đề như: Kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội; quá khứ hiện tại, tương lai; truyền thống và hiện đại; dân tộc và quốc tế; cá
nhân, tập thể, cộng đồng; thời, thế, lực; thiên thời, địa lợi, nhân hòa; nhận thức, tư
tưởng, phương pháp, phong cách; tình cảm, đạo đức, nhân cách, lối sống; lý luận và

12


thực tiễn, nói và làm, quyền lợi và nghĩa vụ,.v.v. Người thường nhắc cán bộ, đảng
viên trong công tác, công việc phải có cái nhìn toàn cục, tránh chủ quan phiến diện,
cục bộ. Vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết là vận dụng, phát triển
cách nhìn toàn diện về mình, về người, về vật, về việc của Người. Mặt khác là hoàn
thiện nội dung toàn diện của hệ thống các chữ dân trong ‘‘ham muốn tột bực’’ của
Người.

Bốn là: Quan điểm kế thừa và phát triển.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kế thừa và phát triển tinh hoa văn hóa tư tưởng của
dân tộc và nhân loại. Bản chất tư tưởng Hồ Chí Minh là khoa học, cách mạng và sáng
tạo nên luôn luôn mới với tư cách là nguyên lý và những nguyên tắc phương pháp
luận trong suy nghĩ, giải quyết vấn đề. Nhưng cũng có nhiều vấn đề, sinh thời Hồ Chí
Minh chưa có điều kiện đề cập đến. Vì vậy, chúng ta phải biết kế thừa để phát triển,
vừa kế thừa vừa phát triển và phát triển trung thành với tư tưởng Hồ Chí Minh. Trung
thành ở đây không phải là khư khư giữ nguyên các câu chữ cũ mà là trung thành với
mục tiêu lý tưởng, với lôgic phát triển tư duy của Hồ Chí Minh, để sáng tạo ra những
luận điểm mới, nội dung mới, cách làm mới phù hợp với điều kiện hoàn cảnh mới.
Nghĩa là tìm ra những vấn đề có tính qui luật và qui luật của cách mạng Việt Nam
thời kỳ hậu Hồ Chí Minh.
Quán triệt những quan điểm trên, bằng phương pháp biện chứng duy vật và lịch
sử, lấy mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, phát triển bền
vững, ổn định làm cái bất biến và sử dụng linh hoạt các hình thức, cách làm, giải pháp
trong sự vạn biến sôi động của cuộc sống, chắc chắn sẽ thành công
2. Nội dung vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh hiện
nay
- Kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đó là ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm
nay và các thế hệ mai sau. Độc lập dân tộc là điều kiên tiên quyết để thực hiện chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược
có quan hệ chặt chẽ với nhau. Vì rằng, thế giới đã và đang thay đổi nhiều, song cuộc
đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vẫn diễn ra gay gắt. Sau sự đổ vỡ
của hệ thống xã hội chủ nghĩa, các xu hướng dân tộc vị kỷ, cực đoan trỗi dậy mạnh mẽ
dẫn đến các cuộc chiến tranh dân tộc, sắc tộc đẫm máu. Các thế lực phản động quốc tế
ra sức khai thác, kích động, lôi cuốn các dân tộc vào cơn lốc bạo lực mới chưa biết khi
nào chấm dứt. Bên cạnh đó các cường quốc công nghệ đang thực hiện âm mưu biến
các nước chậm phát triển thành bãi thải công nghệ, hòng kìm hãm các nước này trong

vòng lạc hậu dễ bề thao túng, bóc lột. Ở ta các thế lực phản động trong và ngoài nước
cấu kết với nhau kích động hận thù và theo đuổi mưu toan xóa bỏ chủ nghĩa xã hội.
Vấn đề độc lập dân tộc, bảo vệ chủ quyền đất nước, toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải, giữ
gìn từng tấc núi, tấc sông… luôn luôn đặt ra như một ý thức thường trực không được
một phút lơ là. Nền độc lập dân tộc chỉ được bảo vệ vững chắc khi và chỉ khi nước ta

13


giàu, mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đó cũng là mục tiêu phản ánh đầy đủ quan
niệm của Hồ Chí Minh và Đảng ta về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
- Tiếp tục nâng cao nhận thức về giá trị bất hủ của chân lý ‘‘Không có gì quí hơn
độc lập, tự do’’.
Muốn vậy, phải đẩy mạnh giáo dục và phát huy chủ nghĩa yêu nước, khơi dậy ý
thức tự lực tự cường của dân tộc, đẩy lùi nguy cơ, vượt qua thử thách, khó khăn tạo
động lực phát triển nhanh, mạnh nhưng phải bền vững, ổn định. Trong phát triển kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy chủ nghĩa yêu nước tất nhiên phức
tạp, khó khăn hơn so với thời kỳ khi Tổ quốc bị xâm lăng. Nhất là khi ta hội nhập thế
giới, nếu không có lòng yêu nước và tinh thần dân tộc độc lập thì cũng dễ đánh mất
chủ quyền quốc gia và bản sắc văn hóa dân tộc, sẽ rơi vào nguy cơ ‘‘tái thuộc địa
hóa’’ở dạng mới. Chân lý ‘‘không có gì quí hơn độc lập, tự do” phải được thể hiện
thành chủ nghĩa yêu nước Việt Nam hiện đại gắn liền lý tưởng độc lập dân tộc với lý
tưởng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, chân lý không có gì quí hơn độc lập, tự do không
phải thuần túy nói về độc lập dân tộc mà tự do là một vấn đề rất lớn. Chủ nghĩa tư bản
chưa giải quyết được tự do cho mỗi con người và các dân tộc. Vì vậy, thực hiện Di
chúc của Hồ Chí Minh ‘‘xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập,
dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới” là
độc lập, tự do của Việt Nam và cũng là chủ nghĩa xã hội của Việt Nam.
- Xây dựng và phát huy động lực cách mạng trong đổi mới
Xác định đổi mới là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của

Đảng, mọi chủ trương chính sách phải dựa vào dân, lấy dân làm gốc, cái gì lợi cho dân
phải hết sức làm cái gì hại đến dân phải hết sức tránh.
Giải quyết tốt vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân (tam nông) để ổn định xã
hội, đồng thời cũng là để xây dựng cơ sở của khối đoàn kết dân tộc, của liên minh
công nông trí, nhằm khắc phục và hạn chế khoảng cách giàu nghèo, khoảng cách giữa
nông thôn và thành thị. Vấn đề “tam nông” giải quyết không kịp thời, ít hiệu quả sẽ là
nguyên nhân tiềm ẩn làm thất bại sự nghiệp đổi mới, dẫn đến xung đột xã hội khó
lường. Vì đến 70% dân số nước ta hiện nay là nông dân, sống ở nông thôn, dựa chủ
yếu vào nông nghiệp.
Mở rộng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc làm cho chiến lược đại đoàn kết Hồ
Chí Minh đạt thắng lợi mới rực rỡ hơn. Tìm những hình thức mới, biện pháp sinh
động, hiệu quả nhằm phát huy động lực con người, động lực đoàn kết dân tộc và chủ
nghĩa yêu nước; giải quyết tốt: Dân sinh, dân quyền, dân chủ và dân trí trong xã hội,
sớm đưa đất nước sánh vai các cường quốc năm châu. Mở rộng quan hệ quốc tế, kết
hợp sức mạnh dân tộc với thời đại, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở giữ
vững độc lập, chủ quyền và bản sắc dân tộc.
- Củng cố hệ thống chính trị vững chắc
Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, Đảng phải thực sự là đạo đức văn minh,
vừa là người lãnh đạo vừa là đầy tớ trung thành của nhân dân, tôn trọng quyền làm
chủ của nhân dân, thực hiện đúng cơ chế dân chủ: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra trong xây dựng Đảng cũng như trong phát triển đất nước. Thực hành dân chủ

14


rộng rãi trong Đảng và trong xã hội để dân chủ thực sự là “Chìa khóa vạn năng, có thể
giải quyết mọi khó khăn”.
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện quyền lực nhà nước là thống nhất có
sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Xây dựng và củng cố vững chắc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, phát huy vai trò của
Mặt trận trong việc tăng cường sức mạnh khối đoàn kết toàn dân tộc, để Mặt trận thực
sự là tổ chức đại diện và bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân và hoàn
thành có hiệu quả vai trò giám sát và phản biện xã hội.
- Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương Hồ Chí Minh
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh: Phát huy tính độc lập, tự
chủ, sáng tạo trong phát triển kinh tế cũng như khi tham khảo kinh nghiệm nước
ngoài; tránh vay mượn, sao chép, rơi vào chủ nghĩa giáo điều; nâng cao trình độ tổng
kết thực tiễn (đất nước, thời đại), rút ra những vấn đề lý luận mới, tìm ra qui luật và
những vấn đề có tính qui luật của cách mạng Việt Nam, từ đó vạch được chiến lược
phát triển toàn diện, hệ thống, lâu dài cho đất nước, đồng thời tích cực phòng tránh
những rủi ro có thể xảy ra.
Chỉ đạo thực hiện cuộc vận động học tập, làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh thành
phong trào cách mạng thiết thực, đúng nghĩa là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam hành
động. Học và vận dụng sáng tạo phương pháp cách mạng “dĩ bất biến ứng vạn biến”
trong xử lý các mối quan hệ, nhất là quan hệ quốc tế đang biến động khôn lường, có
sự chuyển hóa giữa bạn và thù, giữa đối tượng và đối tác như hiên nay. Mọi người Việt
Nam học và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là nghĩa vụ và trách nhiệm lâu
dài. Cán bộ, đảng viên phải rèn luyện thành người tận trung với nước, tận hiếu với dân
theo gương Chủ tịch Hồ Chí Minh. Học và làm theo Bác không phải là bắt chước các
hành vi đạo đức mà học và làm theo cái ở đời và làm người, ở việc sống toàn vẹn và
trọn vẹn với dân với nước.
Câu 2: Phân tích sự phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện
nay.
Kiên định con đường mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn
Con đường mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn cho sự phát triển của dân tộc ta là con
đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Con đường này Hồ Chí Minh đã
tìm thấy năm 1920 và được xác định một cách đúng đắn trong Cương lĩnh chính trị
đầu tiên của Đảng khi Đảng mới thành lập vào đầu năm 1930. Hồ Chí Minh từ người
tìm đường trở thành người mở đường và người dẫn đường cho dân tộc Việt Nam. Thực

tế của đất nước ta trong cuộc đấu tranh giành độc lập, bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đất
nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã hoàn toàn chứng minh cho sự đúng đắn của con
đường mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn.
Trong điều kiện mới, chúng ta càng khẳng định và kiên trì đi theo con đường mà
Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Khát khao cháy bỏng của Hồ Chí Minh là độc lập cho dân
tộc, nhưng Người cũng cho rằng, độc lập phải gắn với tự do, phải làm cho nhân dân

15


sống một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Điều mong muốn cuối cùng của Hồ Chí Minh
trước khi qua đời thể hiện trong bản Di chúc là: "Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn
đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới".
Kiên định đi theo con đường mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn là tiêu chí đánh giá sự
vững vàng về chính trị, tư tưởng, lập trường, lý tưởng xã hội chủ nghĩa của mỗi một
công dân Việt Nam yêu nước, trong đó có thế hệ trẻ hiện nay. Trong điều kiện hội
nhập, mở cửa, quan hệ đối ngoại rộng mở, thanh niên Việt Nam, nhất là học sinh, sinh
viên có nhiều điều kiện thuận lợi để tiếp nhận nhiều tri thức đa dạng, phong phú thuộc
nhiều luồng quan điểm, chính kiến khác nhau, có điều kiện thuận lợi để giao lưu, trực
tiếp chứng kiến cuộc sống của nhiều nước trên thế giới. Mọi người, trong đó có thanh
niên, học sinh, sinh viên có quyền so sánh, đối chiếu giữa con đường này hay con
đường khác của sự phát triển của mỗi dân tộc-quốc gia, có quyền so sánh giữa chế độ
chính trị này với chế độ chính trị khác. Nhưng, hễ là người Việt Nam yêu nước, hễ là
người nghiên cứu, học tập một cách nghiêm túc, đúng đắn tư tưởng Hồ Chí Minh thì
chắc chắn sẽ tin rằng con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Hồ
Chí Minh đã chỉ ra và đã hướng dân tộc Việt Nam đi lên bao nhiêu năm nay là con
đường phù hợp với quy luật, là con đường phát triển tất yếu.
Dựa vào sức mạnh của toàn dân
Dân là gốc của nước. Hồ Chí Minh đã phát triển quan điểm đó từ trong kho tàng

tư tưởng và kinh nghiệm truyền thống của dân tộc ta cũng như của các bậc hiền triết,
anh minh trong lịch sử dân tộc Việt Nam và thế giới hàng nghìn năm. Vận dụng và
phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta coi đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên
minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo là động lực chủ
yếu để phát triển đất nước.
Muốn củng cố và phát huy sức mạnh của toàn dân làm nên thắng lợi của sự nghiệp
đổi mới, cần phải chú ý những vấn đề sau đây:
Một là: Thường xuyên chăm lo xây dựng và phát triển nguồn lực con
người. Trong thời đại ngày nay, khi nhân loại đang dần bước vào kinh tế tri thức, lợi
thế nhân lực của một quốc gia không phải chỉ là số lượng đông mà quan trọng hơn cả
là ở chất lượng dân số. Ở Việt Nam, trong thời đại ngày nay, cần xây dựng và phát
triển nguồn nhân lực trên cơ sở:
- Bồi dưỡng tư tưởng yêu nước kết hợp với tinh thần quốc tế chân chính. Đó là
những người sống có lý tưởng, có hoài bão được cống hiến cho đất nước vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Có đạo đức, lối sống cách mạng trong sáng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư, không tham nhũng và mắc các tiêu cực khác.
- Đội ngũ nhân lực có trình độ cao. Trong đội ngũ này, có một đội ngũ cán bộ
chiến lược giỏi, vững vàng; một đội ngũ cán bộ quản lý với đầy đủ đức và tài; một đội
ngũ cán bộ khoa học và công nghệ đáp ứng tốt mọi yêu cầu của công cuộc xây dựng
đất nước trong thời kỳ hội nhập, cạnh tranh gay gắt; một đội ngũ những người lao
động nói chung có chất lượng cao.

16


Hai là: tiếp tục xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Hồ Chí Minh
là người sáng lập ra Mặt trận dân tộc thống nhất, là hiện thân của tình đoàn kết keo sơn
gắn bó giữa các cộng đồng người trên lãnh thổ Việt Nam. Đoàn kết tạo thành sức
mạnh vô biên. Trong cuộc chiến lâu dài không kém phần oanh liệt chống lại những cái

hư hỏng, lạc hậu để xây dựng xã hội mới tốt đẹp càng cần tới sự đồng tâm hiệp lực của
khối đại đoàn kết toàn dân. Lịch sử nước nhà và lịch sử thế giới cho thấy rằng, thời kỳ
nào dân tộc không đoàn kết thì thời kỳ đó dân tộc không phát triển lên được, thậm chí
sẽ bị mất nước, bởi các thế lực ngoại bang xâm chiếm.
Ba là: Tôn trọng quyền làm chủ của dân. Xã hội càng phát triển thì trình độ dân
chủ của một xã hội càng cao. Dân phải được tôn trọng, phải phát huy được tính tích
cực của mình trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Kinh tế thị trường đã và đang tạo
ra những mặt tích cực đáng kể cho sự phát triển kinh tế - xã hội nhưng đồng thời cũng
có những mặt trái, làm trầm trọng thêm một số tiêu cực đã có trước đây và nảy sinh
một số tiêu cực mới. Chẳng hạn: chạy theo đồng tiền; cá nhân chủ nghĩa nặng nề; thoái
hóa về đạo đức, lối sống; tham nhũng; lãng phí; quan liêu; cửa quyền; nhất là vi phạm
trắng trợn quyền làm chủ của nhân dân, có nơi, có lúc rất nghiêm trọng dẫn đến lòng
dân không yên. Hàng bao đời nay, dù trải qua nhiều biến đổi, cộng đồng dân cư trên
đất nước Việt Nam đã chung lưng đấu cật dựng nước và giữ nước. Mọi âm mưu và
hành động, dù là nhỏ, làm tổn hại đến khối đại đoàn kết toàn dân tộc đều là có tội đối
với đất nước, cần được lên án.
Bốn là: Dựa vào sức mạnh của dân, xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, dựa trên cơ sở giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, lấy chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng; thực hiện tốt Cương lĩnh, đường lối,
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước. Sức quy
tụ của nhân dân chỉ có hiệu quả khi được dựa trên tất cả cơ sở đó. Vấn đề này phải
được nhận thức sâu sắc đối với từng cá nhân và đối với cả các tổ chức trong hệ thống
chính trị. Quyền tự do cá nhân cần được đặt trong khuôn khổ của ý thức, lợi ích cộng
đồng, trong khuôn khổ chế định của luật pháp. Đó cũng là sự bảo đảm cho quyền con
người trong xã hội ngày nay.
Năm là: Tạo điều kiện cho nhân dân làm tròn nghĩa vụ công dân. Quyền của dân
chỉ thật sự được bảo đảm khi người dân làm tốt nghĩa vụ công dân của mình đối với
đất nước. Đây thuộc về trách nhiệm trước hết của mỗi công dân, đồng thời là trách
nhiệm của các tổ chức chính trị - xã hội.
Xây dựng, kiện toàn hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh

Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, Đảng phải thực sự là đạo đức văn minh,
vừa là người lãnh đạo vừa là đầy tớ trung thành của nhân dân, tôn trọng quyền làm
chủ của nhân dân, thực hiện đúng cơ chế dân chủ: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra trong xây dựng Đảng cũng như trong phát triển đất nước. Thực hành dân chủ
rộng rãi trong Đảng và trong xã hội để dân chủ thực sự là “Chìa khóa vạn năng, có thể
giải quyết mọi khó khăn”.
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện quyền lực nhà nước là thống nhất có

17


sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước ta tức là phải
xây dựng và kiện toàn bộ máy nhà nước sao cho hợp lý, hoạt động có hiệu quả. Bộ
máy đó được xác lập trên cơ sở có căn cứ khoa học, phù hợp với tình hình thực tế của
từng thời kỳ, nói chung là tinh gọn, chức năng, nhiệm vụ rõ ràng không chồng chéo.
Xây dựng và củng cố vững chắc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, phát huy vai trò của
Mặt trận trong việc tăng cường sức mạnh khối đoàn kết toàn dân tộc, để Mặt trận thực
sự là tổ chức đại diện và bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân và hoàn
thành có hiệu quả vai trò giám sát và phản biện xã hội.Mục tiêu xây dựng hệ thống
chính trị hiện nay là xây dựng một nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Do đó, cần hoàn
thiện cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý.
- Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương Hồ Chí Minh
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh: Phát huy tính độc lập, tự
chủ, sáng tạo trong phát triển kinh tế cũng như khi tham khảo kinh nghiệm nước
ngoài; tránh vay mượn, sao chép, rơi vào chủ nghĩa giáo điều; nâng cao trình độ tổng
kết thực tiễn (đất nước, thời đại), rút ra những vấn đề lý luận mới, tìm ra qui luật và
những vấn đề có tính qui luật của cách mạng Việt Nam, từ đó vạch được chiến lược
phát triển toàn diện, hệ thống, lâu dài cho đất nước, đồng thời tích cực phòng tránh

những rủi ro có thể xảy ra.
Chỉ đạo thực hiện cuộc vận động học tập, làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh thành
phong trào cách mạng thiết thực, đúng nghĩa là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam hành
động. Học và vận dụng sáng tạo phương pháp cách mạng “dĩ bất biến ứng vạn biến”
trong xử lý các mối quan hệ, nhất là quan hệ quốc tế đang biến động khôn lường, có sự
chuyển hóa giữa bạn và thù, giữa đối tượng và đối tác như hiên nay. Mọi người Việt
Nam học và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là nghĩa vụ và trách nhiệm lâu
dài. Cán bộ, đảng viên phải rèn luyện thành người tận trung với nước, tận hiếu với dân
theo gương Chủ tịch Hồ Chí Minh. Học và làm theo Bác không phải là bắt chước các
hành vi đạo đức mà học và làm theo cái ở đời và làm người, ở việc sống toàn vẹn và
trọn vẹn với dân với nước.

18


ĐỀ SỐ 4
Câu 1: Hãy phân tích những nhân tố tác động và nội dung vận dụng, phát
triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh hiện nay.
1. Những nhân tố tác động
Hiện nay so với thời kỳ Hồ Chí Minh sống và hoạt động đã có những biến đối rất
to lớn. Thời kỳ Hồ Chí Minh bước lên vũ đài chính trị là thời kỳ chủ nghĩa xã hội ngày
càng mở rộng và trở thành hệ thống thế giới. Đó cũng là thời kỳ mà các trào lưu cách
mạng của thời đại, đấu tranh giai Cấp, đấu tranh giải phóng dân tộc đang phát, triển
mạnh mẽ, đạt được những thắng lợi chưa từng có.
Hiện nay, chủ nghĩa xã hội thế giới đã không còn tồn tại như một hệ thống. Toàn
cầu hóa đang diễn ra như một xu thế khách quan, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu
cực. Xu thế liên kết, hợp tác đang diễn ra mạnh mẽ với nhiều cấp độ. Hòa bình, hợp
tác, phát triển đang trở thành xu thế lớn của thời đại hiện nay. Văn minh tin học, phát
triển kinh tế tri thức làm thay đổi quan hệ xã hội, phân tầng xã hội. Công nghệ thông
tin, kỹ thuật internet đã mở rộng giao lưu, kết nối các nền văn hóa với nhau, con

người không thể bưng bít thông tin và cũng không chịu mù thông tin.
Thuận lợi cơ bản khi đất nước bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá là nhân dân Việt Nam có Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng lấy chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động lãnh
đạo. Gần 30 năm qua sự nghiệp đổi mới diễn ra trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã thu được kết quả rất quan trọng.
Kết quả đó tạo niềm tin để toàn đảng, toàn dân, toàn quân vững vàng, tiếp tục sự
nghiệp đổi mới của mình. Có thể nói một đảng cách mạng chân chính, một Tổ quốc
độc lập, thống nhất với hơn 90 triệu dân có lòng nồng nàn yêu nước, một nhà nước của
dân, do dân, vì dân, một chủ nghĩa quốc tế chân chính, trong sáng và thành tựu to lớn
của gần 30 năm đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo nên thời cơ, thuận lợi
cơ bản để chúng ta vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ mới.
Đất nước ta cũng đang đứng trước những thuận lợi và khó khăn, cơ hội và thách
thức đan xen nhau. Việt Nam coi hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế khách quan trong
thời buổi toàn cầu hóa và đã hội nhập sâu và đầy đủ vào quá trình đó một quá trình
vừa hợp tác vừa đấu tranh cho sự phát triển bền vững. Ngày 7-11-2006 Việt Nam trở
thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Ngày 16-10-2007
Việt Nam được bầu làm ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc
nhiệm kỳ 2008 - 2009. Tức là sau 30 năm. (từ 20-9-1977) Việt Nam chính thức trở
thành 1 trong 15 nước ủy viên Hội đồng Bảo an. Đây là cơ hội để Việt Nam bứt phá đi
lên trong phát triển. Sau những năm đổi mới. đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Việt Nam đã thu được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, thế và lực đều mạnh
lên. Song, thách thức, nguy cơ nằm ngay trong thời cơ, cơ hội. Phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng ta cho sự phát
triển Việt Nam. Song, mặt trái của kinh tế thị trường đã và đang làm tha hóa một bộ

19


phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, đang làm băng hoại xã hội. Tham nhũng không còn
là quốc nạn nữa mà đang là thách thức mất còn đối với Đảng cầm quyền, với chế độ ta.

Bối cảnh mới đòi hỏi chúng ta phải biết vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí
Minh một cách sáng tạo theo tấm gương của Người, nghĩa là phải biết xuất phát từ
thực tiễn, từ những điều kiện mới, hoàn cảnh mới, vừa nghiên cứu lý luận Mác Lênin, vừa tổng kết thực tiễn trong nước và thế giới để tìm ra những luận điểm mới,
cách làm mới nhằm giải quyết thành công những vấn đề đang đặt ra cho cách mạng
nước ta hiện nay.
2. Nội dung vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh hiện nay
Con đường mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn cho sự phát triển của dân tộc ta là con
đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Thực tế của đất nước ta trong
cuộc đấu tranh giành độc lập, bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa
xã hội đã hoàn toàn chứng minh cho sự đúng đắn của con đường mà Hồ Chí Minh đã
lựa chọn. Chúng ta khẳng định rằng, sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam là sự tiếp tục con
đường của Hồ Chí Minh đã lựa chọn, nó như là một quá trình tất yếu vận dụng sáng
tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong quá trình đổi
mới vì những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, Việt Nam đã đạt được những thành tựu
quan trọng, không những đứng vững trước muôn vàn thử thách nghiệt ngã mà còn phát
triển vượt bậc. Trong điều kiện mới, chúng ta càng khẳng định và kiên trì đi theo con
đường mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Hồ Chí Minh trước khi qua đời người Di chúc lại
"Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp
cách mạng thế giới". Kiên định con đường mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn, hiện nay
chúng ta tiếp tục thực hiện sáu đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được
nêu trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó
cũng là kết quả của việc tổng kết qua 30 năm đổi mới ở nước ta, và đó cũng là quá
trình tiếp tục vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới.
Kiên định đi theo con đường mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn là tiêu chí đánh giá sự
vững vàng về chính trị, tư tưởng, lập trường, lý tưởng xã hội chủ nghĩa của mỗi một
công dân Việt Nam yêu nước. Trong điều kiện hội nhập, mở cửa, quan hệ đối ngoại
rộng mở, có nhiều điều kiện thuận lợi để tiếp nhận nhiều tri thức đa dạng, phong phú
thuộc nhiều luồng quan điểm, chính kiến khác nhau, có điều kiện thuận lợi để giao lưu,
trực tiếp chứng kiến cuộc sống của nhiều nước trên thế giới. Mọi người dân có quyền

so sánh, đối chiếu giữa con đường này hay con đường khác của sự phát triển của mỗi
dân tộc-quốc gia, có quyền so sánh giữa chế độ chính trị này với chế độ chính trị khác.
Nhưng, hễ là người Việt Nam yêu nước, hễ là người nghiên cứu, học tập một cách
nghiêm túc, đúng đắn tư tưởng Hồ Chí Minh thì chắc chắn sẽ tin rằng con đường độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Hồ Chí Minh đã chọn là con đường phù
hợp với quy luật, là con đường phát triển tất yếu.
Hồ Chí Minh đã phát triển quan điểm dân là gốc của nước từ trong kho tàng tư
tưởng và kinh nghiệm truyền thống của dân tộc ta cũng như của các bậc hiền triết, anh
minh trong lịch sử dân tộc Việt Nam và thế giới hàng nghìn năm. Vận dụng và phát

20


triển tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta coi đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh
giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo là động lực chủ yếu để phát
triển đất nước. Muốn củng cố và phát huy sức mạnh của toàn dân làm nên thắng lợi
của sự nghiệp đổi mới, cần phải chú ý:
Một là: Thường xuyên chăm lo xây dựng và phát triển nguồn lực con
người. Trong thời đại ngày nay, khi nhân loại đang dần bước vào kinh tế tri thức, lợi
thế nhân lực của một quốc gia không phải chỉ là số lượng đông mà quan trọng hơn cả
là ở chất lượng dân số. Trên cơ sở bồi dưỡng tư tưởng yêu nước kết hợp với tinh thần
quốc tế chân chính; có đạo đức, lối sống cách mạng trong sáng, cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư, không tham nhũng và mắc các tiêu cực khác; có đội ngũ nhân lực có
trình độ cao.
Hai là: tiếp tục xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Mặt trận dân
tộc thống nhất, là hiện thân của tình đoàn kết keo sơn gắn bó giữa các cộng đồng
người trên lãnh thổ Việt Nam. Đoàn kết tạo thành sức mạnh vô biên. Lịch sử nước nhà
và lịch sử thế giới cho thấy rằng, thời kỳ nào dân tộc không đoàn kết thì thời kỳ đó dân
tộc không phát triển lên được, thậm chí sẽ bị mất nước, bởi các thế lực ngoại bang xâm
chiếm.

Ba là: Tôn trọng quyền làm chủ của dân. Xã hội càng phát triển thì trình độ dân
chủ của một xã hội càng cao. Dân phải được tôn trọng, phải phát huy được tính tích
cực của mình trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Kinh tế thị trường đã và đang tạo
ra những mặt tích cực đáng kể cho sự phát triển kinh tế - xã hội nhưng đồng thời cũng
có những mặt trái, làm trầm trọng thêm một số tiêu cực đã có trước đây và nảy sinh
một số tiêu cực mới.
Bốn là: Dựa vào sức mạnh của dân, xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, dựa trên cơ sở giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, lấy chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng; thực hiện tốt Cương lĩnh, đường lối,
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước.Quyền
tự do cá nhân cần được đặt trong khuôn khổ của ý thức, lợi ích cộng đồng, trong
khuôn khổ chế định của luật pháp. Đó cũng là sự bảo đảm cho quyền con người trong
xã hội ngày nay.
Năm là: Tạo điều kiện cho nhân dân làm tròn nghĩa vụ công dân. Quyền của dân
chỉ thật sự được bảo đảm khi người dân làm tốt nghĩa vụ công dân của mình đối với
đất nước.
Tăng cường xây dựng, kiện toàn hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh
Một là, xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam vững mạnh: là xây dựng Đảng mạnh
cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố có tính
chất quyết định tới thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Sự nghiệp đổi mới đất nước vì
những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, do đó, phụ thuộc trước hết vào chất lượng của
Đảng cầm quyền. Đứng trước thời cơ và thách thức mới, trách nhiệm của Đảng Cộng
sản Việt Nam cầm quyền trong sự nghiệp đổi mới hiện nay càng nặng nề hơn. Đảng
phải vươn lên về mọi mặt trong điều kiện mới. Ngoài những thuận lợi rất cơ bản, Đảng
duy nhất cầm quyền đứng trước một số nguy cơ, khó khăn: những thử thách, cám dỗ

21


của lợi ích vật chất; hoàn cảnh mới dễ dàng mắc phải căn bệnh phát triển như cửa

quyền, quan liêu, mất dân chủ, lãnh đạo nặng về áp đặt theo lối mệnh lệnh, v.v..
Hai là, xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững
mạnh, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước ta
là nơi thể hiện rõ nhất quyền và nghĩa vụ của nhân dân. Trong điều kiện xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng,
cần chú trọng xây dựng pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, đưa
pháp luật vào trong cuộc sống một cách có hiệu quả. Xây dựng Nhà nước mạnh hiện
nay, quan trọng là phải chú ý tới việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
có đủ đức và tài, tận tâm, tận lực phụng sự nhân dân, phụng sự Tổ quốc.
Ba là, luôn luôn chăm lo xây dựng Mặt trận và các đoàn thể nhân dân. Là một bộ
phận rất quan trọng của hệ thống chính trị, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân trong sự
nghiệp đổi mới không những không giảm sút vai trò của mình mà ngày càng phải thể
hiện rõ hơn trách nhiệm tập hợp, đoàn kết các giai cấp, tầng lớp nhân dân xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Không có các tổ chức Mặt trận và các
đoàn thể nhân dân thì không thể có cơ sở vững chắc cho tổ chức Đảng Cộng sản Việt
Nam cầm quyền, không thể có cơ sở, nền tảng của chính quyền các cấp.
* Học tập và làm theo tấm gương đạo đức HCM
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay,
mỗi cán bộ, đảng viên: Trung thành vô hạn với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, nền văn hoá, bảo vệ Đảng. Luôn quan
tâm đến lợi ích của nhân dân, tôn trọng dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Có ý
chí vươn lên, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh”. Giữ gìn đoàn kết dân tộc, đoàn kết trong Đảng, trong nhân dân; kiên quyết
đấu tranh không khoan nhượng trước mọi mưu đồ chia rẽ của các thế lực thù địch, cơ
hội. Có tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc, có lương tâm nghề nghiệp trong
sáng; ham học hỏi, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Tích cực lao động, học tập, công tác với tinh thần lao động sáng tạo có năng suất,
chất lượng, hiệu quả cao; không xa hoa, lãng phí, không phô trương, hình thức. Kiên
quyết chống chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng, không để cho lợi ích cá nhân chi
phối. Chống thói chạy theo danh vọng, địa vị, giành giật lợi ích, lạm dụng quyền hạn,

chức vụ để chiếm đoạt của công; cục bộ địa phương, thu vén cho gia đình, cá
nhân. Thẳng thắn, trung thực, bảo vệ chân lý, bảo vệ đường lối quan điểm của Đảng,
bảo vệ người tốt; chân thành, khiêm tốn; không chạy theo chủ nghĩa thành tích, bao
che, giấu giếm khuyết điểm. Có thái độ rõ ràng, lên án và quyết đấu tranh chống tham
nhũng, tiêu cực, loại trừ mọi biểu hiện vô liêm, bất chính ra khỏi đời sống xã hội.
Mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải đặt mình trong tổ chức, trong tập thể, phải
tôn trọng nguyên tắc, pháp luật, kỷ cương. Gần dân, học dân, có trách nhiệm với dân,
khắc phục cho được thói vô cảm, lãnh đạm, thờ ơ trước khó khăn, thắc mắc, những
đau khổ của nhân dân. Coi trọng tự phê bình và phê bình, “phải nghiêm khắc với chính
mình”. Phê bình có mục đích trong sáng, có lý, có tình. Khắc phục bệnh chuộng hình
thức, thích nghe lời khen (thậm chí xu nịnh), tâng bốc nhau, không dám nói thẳng, nói

22


thật... để giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, đồng thời, cần phê phán những biểu hiện xuất
phát từ những động cơ cá nhân, vụ lợi mà “đấu đá”; nhân danh phê bình để đả kích, lôi
kéo, chia rẽ, làm rối nội bộ.
Thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá với tinh
thần Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham
gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và
phát triển. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại, nguồn lực bên trong với nguồn lực bên ngoài để đẩy mạnh sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Câu 2: Phân tích sự vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong công
tác xây dựng đảng hiện nay.
Xây dựng Đảng là một nội dung đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng
Cộng sản Việt Nam, là sự phát triển rất cơ bản và sáng tạo của Hồ Chí Minh đối với
học thuyết của V.I.Lênin về đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. Đất nước ta đang đứng

trước thời cơ lớn và thách thức lớn của sự phát triển. Để lãnh đạo đất nước trong điều
kiện mới, Đảng phải tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao được năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu, nắm bắt thời cơ, chấp nhận và vượt qua thách thức, nguy cơ,
nâng cao tầm trí tuệ. Mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi tổ chức đảng, cấp ủy đảng phải quán
triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, chung tay xây dựng Đảng ta thực sự
trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh”.Trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH
đất nước, đưa sự nghiệp đổi mới theo định hướng XHCN vấn đề xây dựngĐCSVN
trong sạch, vững mạnh làđòi hỏi khách quan, cóý nghĩa cực kỳ quan trọng.
1. Yêu cầu khách quan phải xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh trong
thời kỳ đổi mới của cách mạng VN:
Xây dựngĐảng trong sạch, vững mạnh trong sự nghiệp đổi mới là vấn đề
đượcĐCSVN đề cập từĐH đại biểu toàn quốc lần thứ VI đến nay. Quan điểm chỉđạo,
xuyên suốt đượcĐảng khẳngđịnh rõ là phát triển kinh tế là trọng tâm. Xây dựngĐảng
là then chốt. Đảng lấy chủ nghĩa M-L, tư tưởng HCM là nền tảng tư tưởng lý luận, kim
chỉ nam cho hành động. Độc lập dân tộc, quá độ lên CNXH là mục tiêu lý tưởng
màĐảng và cả dân tộc lựa chọn, vì vậy “ĐCSVN là đội tiên phong của giai cấp công
nhân, đồng thời là đội tiên phong của ND lao động và của dân tộc VN; đại biểu trung
thành lợi của giai cấp công nhân, ND lao động và của cả dân tộc”
Vị thế, vai trò lãnhđạo, cầm quyền củaĐảng là thành quả cách mạng mà nhiều cán
bộ, đảng viên và quần chúng hy sinh phấn đấu, được quần chúng và cả dân tộc tin
tưởngủy thác. Đảng không bao giờ hy sinh thành quả cách mạng, đi ngược lại niềm tin
và sựủy thác của nhân dân và dân tộc. Vì vậy, Đảng ta khẳngđịnh dứt khoát: ĐCSVN
là lực lượng lãnhđọa cách mạng VN, không chấp nhậnđa nguyên, đa đảng”.
Nhân dân ta, dân tộc ta yêu mếnĐảng, quyết tâm bảo vệĐảng đồng thời tin tưởng
vào quan điểm, đường lối đổi mớiđịnh hướng XHCN củaĐảng, nhưng cũng đòi hỏi
những vấn đề về lý luận phải được giảiđáp một cách khoa học. Cách mạng VN đang
có nhiều thời cơ lớn, nhưng cũngđang đứng trước những nguy cơ, thách thức không

23



nhỏđòi hỏi phải phấn đấu, kiên trì đấu tranh để vượt qua. Đảng và Nhà nước chủ
trương mở rộng hợp tác quốc tế trong xu hướng toàn cầu hóa khi CNTB còn phát huy
lợi thế về khoa học - kỹ thuật, công nghệ và tiềm lực kinh tế, giải quyết có hiệu quả
một số vấn đề an sinh xã hội trong khi mô hình XHCN hiện thực bộc lộ những yếu
kém, bất cập, nhiềuĐCS mất vị thếđảng cầm quyền, phong trào cộng sảnđang trong
giai đoạn khủng hoảng, đòi hỏi cán bộđảng viên phải có bản lĩnh chính trị vững vàng.
Vì vậy vấn đề XD ĐCSVN trong sạch, vững mạnh trong thời kỳ đẩy mạnh CNHHĐH, đưa sự nghiệp đổi mới theo định hướng XHCN làđòi hỏi khách quan, cóý nghĩa
cực kỳ quan trọng.
2. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng cầm quyền trong
thời kỳ mới của cách mạng VN:
Từ ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986), Đảng ta đã khẳngđịnh: “Phải XD
Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của mộtđảng cầm quyền lãnhđạo nhân dân tiến
hành cách mạng XHCN”.
XD đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh ngang tầm nhiệm vụ củađảng cầm
quyền trong thời kỳ mới là vấn đề cực kỳ quan trọng, nhưng cũng gian khổđòi hỏi
toànĐảng, mọi cán bộđảng viên phải phấn đấu bởi chúng ta có nhiều thành tựu nhưng
cũng đứng trước những khó khăn thách thức không nhỏ. ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ
XI củaĐảngđã thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, yếu kém trong nghiên cứu lý luận và
tổng kết thực tiễn chưa làm rõ được một số vấn đề vềđảng cầm quyền, về CNXH và
con đườngđi lên CNXH ở VN. Tình trạng suy thoái về chính trị tư tưởng, đạo đức lối
sống của một bộ phận không nhỏ cán bộđảng viên; tệ tham nhũng lãng phí, quan liêu
chưa bị đẩy lùi và diễn biến phức tạp; công tác cán bộ còn chậm đổi mới.
Để công tác xây dựng Đảng thật sự chuyển biến, có trọng tâm nhằm nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ mới, Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định 8 nhiệm vụ quan trọng. Đó là:
- Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị.
- Nâng cao chất lượng công tác tư tưởng lý luận.
- Rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân.
- Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị.

- Kiện toàn tổ chức cơ sở Đảng và nâng cao chất lượng đảng viên.
- Đổi mới công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ.
- Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát.
- Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Triển khai nhiệm vụ xây dựng Đảng theo chương trình toàn khóa, Hội nghị Trung
ương lần thứ tư (khóa XI) đã thảo luận và ra nghị quyết Một số vấn đề cấp bách về
xây dựng Đảng hiện nay. Hội nghị nhận định, thành tựu 25 đổi mới là thành quả của
toàn Đảng, toàn dân toàn quân, trong đó có sự đóng góp to lớn của đội ngũ cán bộ,
đảng viên. Nhưng “công tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm
chí có những yếu kém khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục,
làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách
thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ”. Hội nghị nhấn

24


mạnh, những tồn tại, khuyết điểm, yếu kém đó là: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán
bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống với những biểu hiện khác
nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng,
chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô
nguyên tắc…”. Công tác qui hoạch cán bộ, kể cả cán bộ trung ương cấp chiến lược còn
hụt hẫng, chắp vá, thiếu chủ động, không đồng bộ. Một số nguyên tắc tổ chức sinh
hoạt Đảng, nhất là nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách bị vi phạm.
Tồn tại tình hình trên có nguyên nhân khách quan, nhưng chủ yếu là những
nguyên nhân chủ quan như sự tu dưỡng rèn luyện của đảng viên còn thiếu; việc tổ
chức thực hiện nghị quyết, chính sách của Đảng yếu; công tác kiểm tra, kỷ luật Đảng
chưa nghiêm.
Để tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về công tác xây dựng Đảng, Hội nghị khẳng
định phải làm tốt 3 vấn đề cấp bách:

“Một là, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức lối sống của một số bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết
là cán bộ quản lý các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng,
củng cố niềm tin của đảng viên và của quần chúng nhân dân đối với Đảng.
Hai là, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp Trung
ương, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH - HĐH và hội nhập quốc tế.
Ba là, xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính
quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, cơ quan, đơn vị, tiếp tục đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng.
Trong ba vấn đề trên, vấn đề thứ nhất là trọng tâm, xuyên suốt và cấp bách nhất”
Với truyền thống cách mạng kiên cường, được tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng,
Đảng Cộng sản Việt Nam nhất định sẽ thành công trong việc khắc phục những khuyết
điểm, yếu kém, xây dựng Đảng thật sự đạo đức văn minh, đưa sự nghiệp đổi mới tới
thành công.

25


×