Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Tiểu luận bình luận mức độ phù hợp của quy định hiện hành với cam kết quốc tế của việt nam liên quan đến mô hình các chủ thể kinh doanh chứng khoán trên thị trư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.49 KB, 14 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Kinh doanh chứng khoán là một hoạt động kinh doanh quyết định sự sôi
động và hiệu quả của thị trường kinh tế. Thông thường các quốc gia khi quy
định về kinh doanh chứng khoán là quy định những vấn đề liên quan tới các đối
tượng trực tiếp tham gia vào thị trường nhằm mục đích kiếm lời. Vì vậy, pháp
luật về kinh doanh chứng khoán quy định về các tổ chức kinh doanh và làm dịch
vụ cho các hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Đối với Việt Nam, pháp luật quy định rõ các loại chủ thể kinh doanh
chứng khoán cùng với những nội dung kinh doanh được phép tiến hành cho mỗi
loại chủ thể mới là thành viên sở giao dịch chứng khoán hay trung tâm giao dịch
chứng khoán. Theo đó, pháp luật Việt Nam quy định các mô hình chủ thể kinh
doanh chứng khoán bao gồm: công ty chứng khoán, quỹ đầu tư và công ty đầu
tư chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư và ngân hàng giám sát.
Các mô hình chủ thể kinh doanh chứng khoán ở Việt Nam có đầy đủ,
giống với trên thế giới và các văn bản Việt Nam tham gia ký kết với nước ngoài
không? Bài viêt dưới đây: “Bình luận mức độ phù hợp của quy định hiện hành
với cam kết quốc tế của Việt Nam liên quan đến mô hình các chủ thể kinh doanh
chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam.” Bài viết phân tích về các
mô hình chủ thể, đưa ra những nhận xét pháp lý và phương hướng hoàn thiện.
NỘI DUNG
I. Mô hình của chủ thể kinh doanh chứng khoán theo những cam kết
quốc tế của Việt Nam.
Khi tiến hành gia nhập WTO Việt Nam đã ký kết các gói cam kết quan
trọng. Trong đó có gói cam kết về dịch vụ tài chính với ba mảng lớn và liên
quan đến các dịch vụ chứng khoán, Việt Nam cam kết cho phép nhà đầu tư nước
ngoài tham gia cung cấp các dịch vụ chứng khoán sau tại Việt Nam:
Giao dịch cho tài khoản của mình hoặc tài khoản của khách hàng tại sở giao dịch
chứng khoán, thị trường giao dịch trực tiếp (OTC) hay các thị trường
khác những sản phẩm sau:
o
Các công cụ phái sinh, bao gồm cả hợp đồng tương lai và hợp đồng


quyền lựa chọn;
o
Các chứng khoán có thể chuyển nhượng;
o
Các công cụ có thể chuyển nhượng khác và các tài sản tài chính,
trừ vàng khối. (Các dịch vụ này bao gồm cả nghiệp vụ môi giới)
Tham gia vào các đợt phát hành mọi loại chứng khoán, bao gồm bảo lãnh phát
hành, và làm đại lý bán (chào bán ra công chúng hoặc chào bán riêng), cung cấp
các dịch vụ liên quan đến các đợt phát hành đó);
1


Quản lý tài sản (bao gồm quản lý danh mục đầu tư, mọi hình thức quản lý đầu tư
tập thể, quản lý quỹ hưu trí, các dịch vụ lưu ký và tín thác);
Các dịch vụ thanh toán và thanh toán bù trừ chứng khoán, các công cụ phái sinh
và các sản phẩm liên quan đến chứng khoán khác;
Cung cấp và chuyển thông tin tài chính, các phần mềm liên quan của các nhà
cung cấp dịch vụ chứng khoán.
Ngoài ra , Việt Nam cam kết cho phép các công ty chứng khoán nước
ngoài , các nhà đầu tư nước ngoài hoạt động chứng khoán ở Việt Nam đưới các
hình thức và điều kiện sau:

Văn phòng đại diện (với điều kiện các văn phòng đại diện không được
thực hiện các hoạt động kinh doanh sinh lời trực tiếp);

Liên doanh với đối tác Việt Nam (với điều kiện tỷ lệ vốn góp của phía
nước ngoài không vượt quá 49%);

Doanh nghiệp chứng khoán 100% vốn nước ngoài (kể từ 11/1/2012);


Chi nhánh của công ty chứng khoán nước ngoài (kể từ 11/1/2012 và kèm
theo điều kiện hoạt động của chi nhánh chỉ giới hạn ở cung cấp các dịch vụ quản
lý tài sản, thanh toán và thanh toán bù trừ chứng khoán, cung cấp và chuyển
thông tin tài chính, các phần mềm liên quan.
Như vậy, đối với mô hình chủ thể kinh doanh chứng khoán mặc dù không
chỉ chính xác tên các loại hình nhưng cũng thể hiện thiện chí của Viêt Nam khi
tiến hành ký các cam kết. Theo những cam kết này, Việt Nam gián tiếp thừa
nhận các mô hình chủ thể đặc trưng của hoạt động kinh doanh chứng khoán.
Tuy nhiên, để đưa ra một cách nhìn toàn diện, chi tiết hơn về mô hình chủ
thể kinh doanh chứng khoán, mức độ phù hợp theo quy định hiện hành của Việt
Nam thì có thể tìm hiểu về mô hình chủ thể kinh doanh chứng khoán chung trên
thế giới.
1. Công ty chứng khoán
Công ty chứng khoán là tổ chức hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực
chứng khoán với mục đích tìm kiếm lợi nhuận.
Hiện nay trên thế giới tồn tại hai mô hình tổ chức của công ty chứng
khoán: mô hình công ty đa năng và mô hình công ty chuyên doanh.
Thứ nhất: Theo mô hình công ty đa năng, công ty chứng khoán là một
bộ phận cấu thành của NHTM. Nói cách khác, NHTM kinh doanh trên cả hai
lĩnh vực là tiền tệ và chứng khoán.
Thông thường theo mô hình này, NHTM cung ứng các dịch vụ tài chính
rất đa dạng và phong phú liên quan đến kinh doanh tiền tệ, kinh doanh chứng
khoán và các hoạt động kinh doanh khác trong lĩnh vực tài chính.
2


Mô hình này có ưu điểm và hạn chế sau:
* Ưu điểm
- NHTM kinh doanh nhiều lĩnh vực nên có thể giảm bớt được rủi ro hoạt
động kinh doanh chung, có khả năng chịu được các biến động lớn trên thị trường

chứng khoán.
- NHTM là tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực tài chính tiền tệ có lịch sử
lâu đời, có thế mạnh về tài chính và chuyên môn trong lĩnh vực tài chính. Do đó
cho phép các NHTM tham gia kinh doanh chứng khoán sẽ tận dụng đựơc thế
mạnh của ngân hàng, tạo động lực cho sự phát triển của thị trường chứng
khoán.
* Hạn chế
- Do thế mạnh về tài chính, chuyên môn, nên NHTM tham gia kinh
doanh chứng khoán có thể gây lũng đoạn thị trường, trong trường hợp quản lý
nhà nước về lĩnh vực chứng khoán và quản trị điều hành thị trường còn yếu.
- Do tham gia nhiều lĩnh vực sẽ làm giảm tính chuyên môn hoá, khả
năng thích ứng và linh hoạt kém.
- Trong trường hợp thị trường chứng khoán có nhiều rủi ro. Ngân hàng
có xu hướng bảo thủ rút khỏi thị trường chứng khoán để tập trung kinh doanh
tiền tệ.
Thứ hai: Mô hình công ty chuyên doanh: Theo mô hình này, kinh doanh
chứng khoán do các công ty chứng khoán độc lập, chuyên môn hoá trong lĩnh
vực chứng khoán đảm nhận.
Mô hình này khắc phục được hạn chế của mô hình đa năng: giảm rủi ro
cho hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện cho các công ty chứng khoán kinh doanh
chuyên môn hoá, thúc đẩy sự phát triển thị trường chứng khoán.
Ngày nay với sự phát triển của thị trương chứng khoán, để tận dụng thế
mạnh của lĩnh vưc tiền tệ và chứng khoán, bằng cách cho phép hình thành mô
hình công ty đa năng một phần – các NHTM thành lập công ty con để chuyên
kinh doanh chứng khoán.
2. Quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ đầu tư
a. Quỹ đầu tư
Quỹ đầu tư là tổ chức hoạt động theo phương thức huy động vốn thông
qua phát hành cổ phiếu hoặc chứng chỉ của quỹ, để đầu tư vào chứng khoán và
các loại tài sản tài chính khác với mục đích làm tăng giá trị tài sản của quỹ.

Thông thường các chủ thể tham gia vào hoạt động của quỹ bao gồm:
+ Công ty quản lý quỹ: thực hiện quản lý quỹ đầu tư đảm bảo phù hợp
với điều kiện quỹ và làm tăng tài sản của quỹ.

3


+ Tổ chức quản lý tài sản của quỹ: thực hiện bảo đảm, lưu ký chứng
khoán, các hợp đồng kinh tế, các chứng từ có liên quan đến tài sản quỹ.
+ Tổ chức kiểm tra, kiểm soát hoạt động của quỹ: tuỳ mô hình quỹ mà tổ
chức này thường do ngân hàng hoặc Hội đồng quản trị của quỹ thực hiện với
chức năng chủ yếu là kiểm tra, kiểm soát hoạt động của quỹ và công ty quản lý
quỹ, bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhà đầu tư.
+ Tổ chức kiểm toán độc lập: thực hiện kiểm soát hàng năm về tài sản và
hoạt động quản lý của công ty quản lý Quỹ để đảm bảo các số liệu báo cáo nhà
đầu tư là chuẩn xác.
+ Tổ tư vấn luật: thực hiện tư vấn về pháp luật cho hoạt động của quỹ
đồng thời giám sát, quản lý chặt chẽ nhằm giảm thiểu rủi ro và bảo vệ lợi ích
cho nhà đầu tư.
- Người lưu giữ chứng khoán
Đóng vai trò là người bảo quản tài sản của quỹ đồng thời giám sát hoạt
động của công ty quản lý quỹ nhằm bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư. một số
nước người lưu giữ chứng khoán là ngân hàng giám sát, do công ty quản lý quỹ
lựa chọn. ngân hàng giám sát có trách nhiệm:
+ Tách biệt tài sản của quỹ với các tài sản khác
+ Kiểm tra giám sát công ty quản lý quỹ sao cho đảm bảo việc quản lý
quỹ phù hợp với pháp luật nhà nước và điều lệ quỹ, bảo vệ nhà đầu tư.
+ Thực hiện các quyền lợi thu chi của quỹ theo đúng hướng dẫn của
công ty quản lý quỹ.
+ Xác định các báo cáo do công ty quản lý quỹ tiến hành các hoạt động

vị phạm pháp luật hoặc trái với điều lệ quỹ.
+ Báo cáo UBCKNN khi phát hiện công ty quản lý quỹ tiến hành các
hoạt động vi phạm pháp luật hoặc trái với điều lệ quỹ.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ trên, đòi hỏi ngân hàng giám sát phải
quản lý tài sản của Quỹ tách biệt với các tài sản khác của ngân hàng, ngân hàng
giám sát được hưởng phí theo quy định của tiền lệ quỹ.
- Nhà đầu tư: là người trực tiếp góp vốn vào quỹ thông qua mua chứng
chỉ quỹ đầu tư. Họ có quyền hưởng lợi từ các hoạt động đầu tư của quỹ và yêu
cầu công ty quản lý quỹ thực hiện việc đầu tư theo đúng điều lệ quỹ. Tuy nhiên,
nhà đầu tư không được phép trực tiếp thực hiện quyền, nghĩa vụ đối với tài sản
của quỹ.
b. Công ty quản lý quỹ
Công ty quản lý quỹ là công ty thực hiện việc điêu hành, quản lý các quỹ
đầu tư phù hợp với điều lệ quỹ và làm tăng giá trị tài sản quỹ.

4


Khách hàng của công ty quản lý quỹ thường là các nhà đầu tư có tổ
chức: các quỹ đầu tư, công ty bảo hiểm, công ty tài chính…chức năng của công
ty quản lý Quỹ là thực hiện việc đầu tư theo sự uỷ thác của khách hàng sao cho
phù hợp với mục tiêu đầu tư của quỹ mà khách hàng đã lựac chọn.
3. Các chủ thể khác
Ngoài các chủ thể trên, tham gia kinh doanh chứng khoán còn có các chủ
thể sau:
- Công ty lưu ký và thanh toán bù trừ: là công ty thực hiện cung cấp dịch
vụ lưu ký và thanh toán bù trừ cho các giao dịch trên thị trường chứng khoán.
- Ngân hàng thương mại: tham gia kinh doanh chứng khoán thông qua
thực hiện các nhiệm vụ: đầu tư chứng khoán, lưu ký, thanh toán trên thị trường
chứng khoán.

- Các tổ chức trung gian tài chính khác: công ty bảo hiểm, các quỹ lương
hưu…các công ty này huy động vốn thông qua các nghiệp vụ kinh doanh đặc
thù của nó (ví dụ: công ty bảo hiểm huy động thông qua bán hợp đồng bảo hiểm,
các quỹ hưu trí vốn do các thành viên đóng góp theo định kỳ…) với số vốn huy
động được các công ty này sẽ thực hiện đầu tư vào tài sản tài chính, chủ yếu là
các chứng khoán. Vì vậy, trên thị trường chứng khoán các công ty này là các nhà
đầu tư có tổ chức.
II.
Quy định hiện hành của Việt Nam liên quan đến mô hình của chủ
thể kinh doanh chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
1. Công ty chứng khoán.
Công ty chứng khoán là một định chế tài chính trung gian, có vị trí, vai trò
rất quan trọng trong thị trường chứng khoán. Lịch sử hình thành và phát triển thị
trường chứng khoán đã chứng minh: “Một thị trường chứng khoán không thể
thiếu loại chủ thể này, nó cần cho cả người phát hành, người đầu tư chứng
khoán. Nó là một trong những nhân tố quyết định đến phát triển, sự sôi động của
thị trường chứng khoán”. Những ảnh hưởng tác động của công ty chứng khoán
đối với các chủ thể tham gia thị trường và sự vận hành của thị trường chứng
khoán là rất lớn.
Công ty chứng khoán là một tên gọi chỉ một loại doanh nghiệp hoạt động
kinh doanh trong lĩnh vực chứng khoán. Tuy nhiên, không phải bất kỳ chủ thể
nào thực hiện hoạt động kinh doanh chứng khoán đều là công ty chứng khoán.
Chủ thể thực hiện hoạt động kinh doanh, dịch vụ trên thị trường chứng khoán có
nhiều loại chủ thể kinh doanh khác nhau như: công ty chứng khoán, công ty
quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán và một số chủ thể

5


khác có cung cấp các dịch vụ có liên quan. Trong đó công ty chứng khoán là

một loại chủ thể kinh doanh chủ yếu và quan trọng nhất.
Hiện nay, Luật chứng khoán Việt Nam không có định nghĩa về công ty
chứng khoán. Tuy nhiên, qua các quy định cụ thể trong Luật chứng khoán có thể
khái quát định nghĩa về công ty chứng khoán như sau:
Công ty chứng khoán là công ty cổ phần hoặc công ty TNHH được thành
lập, hoạt động theo Luật chứng khoán và các các quy định của pháp luật có liên
quan để thực hiện một, một số hoặc toàn bộ nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán
dưới đây theo giấy phép do UBCKNN cấp: Môi giới chứng khoán, tự doanh
chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán.
Đặc điểm:
- Hoạt động kinh doanh chứng khoán là hoạt động thường xuyên, có tính
nghề nghiệp của công ti chứng khoán
- Hình thức tổ chức: công ti cổ phần hoặc công ti TNHH
- UBCKNN trực tiếp quản lý giám sát
- Luật chứng khoán trực tiếp điều chỉnh
Việt Nam Luật chứng khoán quy định: “Kinh doanh chứng khoán là thực
hiện một trong các nghiệp vụ môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo
lãnh phát hành chứng khoán; tư vấn đầu tư chứng khoán, lưu ký chứng khoán,
quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư chứng khoán”. Tại
điều 60 Luật chứng khoán Việt Nam chỉ rõ: công ty chứng khoán được thực hiện
một, một số hoặc toàn bộ nghiệp vụ kinh doanh sau đây: môi giới chứng khoán,
tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng
khoán; công ty chứng khoán được thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành khi
thực hiện nghiệp vụ tự doanh chứng khoán; ngoài nghiệp vụ kinh doanh chứng
khoán quy định tại khoản 1 Điều này công ty chứng khoán được nhận ủy thác
quản lý tài khoản giao dịch chứng khoán của nhà đầu tư cá nhân, cung cấp dịch
vụ tư vấn tài chính và dịch vụ tài chính khác theo quy định của Bộ tài chính”.
Đồng thời Luật chứng khoán Việt Nam có quy định cụ thể các điều kiện
cấp giấy phép thành lập và hoạt động cho công ty chứng khoán tương tự như
pháp luật các nước khác.

2. Quỹ đầu tư chứng khoán và công ty đầu tư chứng khoán.
Công ti đầu tư chứng khoán là công ti được thành lập từ vốn góp của nhà
đầu tư và sử dụng số vốn đó đầu tư chủ yếu vào chứng khoán, nhằm tìm kiếm
lợi nhuận. Các nhà đầu tư là cổ đông của công ti đầu tư chứng khoán. Cổ phiếu
có thể được chào bán riêng lẻ hoặc chào bán ra công chúng tuỳ thuộc hình thức
của công ti đầu tư chứng khoán đại chúng hay phi đại chúng, có tư cách pháp

6


nhân, có bộ máy hoàn chỉnh; tự quản lý hoạt động đầu tư của mình. Việc huy
động vốn thành lập công ti do công ti đảm nhiệm
Theo Điều 97 Luật chứng khoán đã được sửa đổi bổ sung thì công ty chứng
khoán được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần theo Luật doanh nghiệp để
đầu tư chứng khoán và Ủy ban chứng khoán nhà nước sẽ cấp giấy phép hoạt
động cho loại hình công ty này.
Công ty đầu tư chứng khoán được thực hiện các hoạt động cụ thể theo
Luật chứng khoán: tuân thủ các hạn chế về đầu tư theo quy định về hạn chế đầu
tư tại Điều 92 cùng Luật; các nội dung liên quan đến định giá tài sản và báo cáo
tài sản quy định tại Điều 88, 89.
3. Công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán.
Công ty quản lý quỹ là doanh nghiệp theo mô hình công ty cổ phần và
công ty TNHH được thành lập để hoạt động quản lý quỹ đầu tư chứng khoán và
một số hoạt động kinh doanh khác có liên quan.
Công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán có những đặc điểm sau:
Được thành lập và hoạt động theo sự cho phép của UBCKNN
Hoạt động chính của công ty quản lý quỹ là hoạt động quản lý quỹ đầu tư chứng
khoán theo sự ủy thác của các nhà đầu tư vào quỹ hoặc sự ủy thác của các nhà
đầu tư riêng lẻ. Hoạt động quản lý quỹ đầu tư bao gồm việc nắm giữ tài sản của
quỹ, trực tiếp tiến hành hoạt động đầu tư chứng khoán từ nguồn vốn của quỹ,

quản lý danh mục đầu tư của quỹ…
III. Nhận xét mức độ phù hợp của quy định hiện hành với cam kết
quốc tế của Việt Nam liên quan đến mô hình chủ thể kinh doanh chứng
khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Có thể nói Luật chứng khoán cũng đã quy định khá toàn diện về tổ chức,
hoạt động của mô hình chủ thể kinh doanh chứng khoán trên cơ sở có kế thừa và
phát triển để khắc phục những hạn chế đang tồn tại, phù với yêu cầu thực tiễn
phát triển của thị trường chứng khoán trong tương lai, bảo đảm sự phù hợp với
luật pháp và thông lệ quốc tế, đáp ứng yêu cầu hội nhập.
Mô hình chủ thể kinh doanh chứng khoán tồn tại từ lâu. Sự ra đời của mô
hình chủ thể này phù hợp với cam kết quốc tế và tình hình kinh tế xã hội ở Việt
Nam. Cụ thể:
Thứ nhất, Luật chứng khoán đã quy định chi tiết các điều kiện cấp giấy
phép, hồ sơ xin cấp giấy phép, trình tự và thời hạn cấp giấy phép, bổ sung giấy
phép, thay đổi trong hoạt động, nghĩa vụ của chủ thể kinh doanh chứng khoán,
các hạn chế đối với công ty chứng khoán nhằm bảo đảm an toàn trong hoạt
động…Luật chứng khoán được xây dựng trên nguyên tắc chi tiết đến mức tối đa
có thể, nhằm bảo đảm tính thực thi, giảm bớt các văn bản hướng dẫn dưới luật.
7


Thứ hai, Luật đã quy định theo hướng cải cách thủ tục hành chính nhằm
đơn giản hoá về mặt thủ tục và rút ngắn được thời gian thực hiện các công việc
có tính thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân thực hiện đầy
đủ các thủ tục của mình. Chẳng hạn, trước khi có Luật Chứng khoán việc thành
lập và hoạt động của công ty chứng khoán khá phức tạp phải trải qua rất nhiều
bước. Đầu tiên, tổ chức cá nhân phải làm hồ sơ xin cấp giấy phép gửi
UBCKNN. Sau khi được UBCKNN chấp thuận về mặt nguyên tắc việc cấp giấy
phép kinh doanh chứng khoán thì tổ chức cá nhân xin cấp giấy phép phải tiến
hành đăng ký kinh doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp. Sau khi hoàn

tất thủ tục đăng ký kinh doanh, UBCKNN mới chính thức cấp giấy phép kinh
doanh chứng khoán cho doanh nghiệp đăng ký. Hiện nay, Giấy phép thành lập
và hoạt động công ty chứng khoán đồng thời có giá trị là giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh.
Về điều kiện và thủ tục cấp giấy phép, Luật chứng khoán đã quy định đơn
giản, rõ ràng và thực chất hơn. Chẳng hạn về cấp giấy phép thành lập hoạt động
cho công ty chứng khoán trước đây quy định 5 điều kiện, hiện nay Luật chứng
khoán chỉ quy định 3 điều kiện : Một là, có trụ sở chính và trang thiết bị phục vụ
hoạt động kinh doanh chứng khoán (đối với tổ chức xin phép chỉ thực hiện
nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán thì không phải đáp ứng điều kiện về trang
thiết bị); Hai là, có đủ vốn pháp định theo quy định; Ba là, Giám đốc và các
nhân viên thực hiện nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán phải có chứng chỉ hành
nghề chứng khoán. Về hồ sơ xin cấp giấy phép thành lập hoạt động của công ty
chứng khoán, trước đây quy định đến 10 loại giấy tờ khác nhau thì Luật chứng
khoán quy định 8 loại giấy tờ cần thiết. Đặcbiệt hồ sơ xin cấp chứng chỉ hành
nghề trước đây quy định trường hợp ít nhất cần đến 6 loại giấy tờ khác nhau thì
nay Luật quy định chỉ có 3 loại giấy tờ cần thiết trong hồ sơ.
Thứ ba, riêng đối với công ty chứng khoán, luật chứng khoán quy định về
tổ chức và hoạt động của công ty chứng khoán trên nguyên tắc không phân biệt
giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài trong kinh doanh chứng
khoán, đồng thời thể hiện rõ quan điểm mở cửa thị trường chứng khoán Việt
Nam để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào hoạt động kinh doanh chứng
khoán tại Việt Nam. Đây là một trong những điểm mới có tính đột phá lớn để thị
trường chứng khoán Việt Nam hội nhập với khu vực và thế giới, tạo điều kiện
thuận lợi để Việt Nam thực hiện đúng cam kết quốc tế, cam kết với WTO. Cụ
thể:
Trước đây nhà đầu tư nước ngoài muốn thực hiện các hoạt động kinh
doanh chứng khoán tại Việt Nam thì chỉ có hình thức duy nhất góp vốn liên
doanh với bên Việt Nam để thành lập công ty chứng khoán liên doanh. Nhà đầu
8



tư nước ngoài chỉ được sở hữu không quá 30% vốn điều lệ và sau này tỷ lệ sở
hữu là không quá 49% vốn điều lệ. Đồng thời, bên nước ngoài tham gia góp vốn
liên doanh trong công ty chứng khoán phải là tổ chức kinh doanh chứng khoán
nước ngoài đang hoạt động hợp pháp tại nước mà các tổ chức này đóng trụ sở
chính.
Luật chứng khoán hiện nay quy định: công ty chứng khoán có vốn đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam được tổ chức dưới hình thức công ty liên doanh hoặc
công ty TNHH, công ty cổ phần 100% vốn nước ngoài do UBCKNN cấp giấy
phép thành lập và hoạt động. Về điều kiện để được cấp giấy phép thành lập và
hoạt động cho công ty chứng khoán có vốn đầu tư nước ngoài thì ngoài các điều
kiện giống với quy định cho công ty chứng khoán trong nước Luật còn quy định
thêm điều kiện: là tổ chức kinh doanh chứng khoán đang hoạt động hợp pháp ở
nước ngoài.
Thứ năm, vấn đề cấp giấy phép hành nghề chứng khoán
Một trong những điều kiện để cấp giấy phép thành lập và hoạt động cho
công ty chứng khoán là: Giám đốc (Tổng Giám đốc), các nhân viên kinh doanh
của công ty chứng khoán phải có chứng chỉ hành nghề kinh doanh chứng khoán.
Trước đây, pháp luật quy định: Chứng chỉ hành nghề kinh doanh chứng
khoán được cấp cho các cá nhân theo đề nghị của công ty chứng khoán nơi cá
nhân đó làm việc hoặc theo đề nghị của người đại diện thành viên sáng lập,
người đại diện cổ đông sáng lập, chủ sở hữu tổ chức xin phép kinh doanh chứng
khoán đối với trường hợp xin cấp chứng chỉ hành nghề kinh doanh chứng khoán
cùng với việc xin cấp phép kinh doanh chứng khoán, khi đáp ứng đủ các điều
kiện. Chứng chỉ hành nghề kinh doanh chứng khoán có thời hạn là 03 năm kể từ
ngày cấp. Chứng chỉ hành nghề kinh doanh được gia hạn theo đề nghị của công
ty chứng khoán nơi người hành nghề làm việc. Mỗi lần gia hạn tối đa không quá
ba năm. Chứng chỉ hành nghề được gia hạn khi nhân viên hành nghề đạt yêu cầu
trong kỳ thi sát hạch lại do UBCKNN tổ chức.

Trường hợp người hành nghề kinh doanh chứng khoán không đạt yêu cầu
trong kỳ thi sát hạch để gia hạn chứng chỉ hành nghề kinh doanh chứng khoán,
người hành nghề kinh doanh chứng khoán tạm thời không được làm việc tại các
bộ phận kinh doanh cho tới khi được gia hạn chứng chỉ hành nghề kinh doanh
chứng khoán.
Người hành nghề không còn làm việc cho công ty chứng khoán thì bị thu
hồi chứng chỉ hành nghề. Nếu sau 01 năm kể từ ngày bị thu hồi chứng chỉ hành
nghề, người hành nghề tiếp tục làm việc cho một công ty chứng khoán thì phải
làm thủ tục thi sát hạch trước khi xin cấp chứng chỉ hành nghề. Trong trường
9


hợp này, công ty chứng khoán nơi người hành nghề làm việc làm hồ sơ xin cấp
chứng chỉ hành nghề kinh doanh theo quy định.
Hiện nay, Luật chứng khoán có quy định mới phù hợp hơn cụ thể:
UBCKNN cấp chứng chỉ hành nghề cho từng cá nhân, còn việc cá nhân có
chứng chỉ hành nghề làm cho công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ nào do
công ty đó tuyển dụng. Tuy nhiên, để đảm bảo sự quảnlý, phòng tránh trừơng
hợp các cá nhân cá chứng chỉ lợi dụng để lừa đảo gây thiệt hại cho nhà đầu tư.
Luật quy định rõ: Chứng chỉ hành nghề chứng khoán chỉ có giá trị khi người
được cấp chứng chỉ hành nghề làm việc cho một công ty chứng khoán hoặc công
ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán; Công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ
đầu tư chứng khoán có trách nhiệm đăng ký người được cấp chứng chỉ hành
nghề chứng khoán làm việc cho công ty của mình và thông báo với UBCKNN
trong vòng 24 giờ trường hợp người được cấp chứng chỉ hành nghề không còn
làm việc cho công ty của mình. Luật còn quy định chứng chỉ hành nghề bị thu
hồi trong trường hợp người được cấp chứng chỉ không hành nghề chứng khoán
trong thời hạn 5 năm kể từ ngày được cấp chứng chỉ hành nghề.
Thứ sáu, về nghĩa vụ của công ty chứng khoán.
Luật chứng khoán hiện nay quy định khái quát và khá đầy đủ các nghĩa vụ

cơ bản của công ty chứng khoán trong đó có một số nghĩa vụ mới được bổ sung
trước đây pháp luật không quy định là nghĩa vụ bắt buộc hoặc không cho phép
như: “Mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho nghiệp vụ kinh doanh chứng
khoán tại công ty hoặc trích lập quỹ bảo vệ người đầu tư để bồi thường thiệt hại
cho người đầu tư do sự cố kỹ thuật, sự bất cẩn và sơ suất của nhân viên trong
công ty…. Thực hiện việc bán hoặc cho khách hàng bán chứng khoán khi không
sở hữu chứng khoán và cho khách hàng vay chứng khoán để bán theo quy định
của Bộ Tài chính”.
Với quy định trên cho thấy Luật chứng khoán đã quan tâm hơn đến việc
bảo vệ quyền lợi cho nhà đầu tư chứng khoán. Đồng thời, Luật chứng khoán đã
dần khắc phục những hạn chế trong các quy định của pháp luật, bổ sung quy
định mới cho phù hợp sự phát triển của TTCK trong tương lai ở Việt Nam và
phù hợp với xu thế chung của thế giới. Luật Chứng khoán đã thừa nhận hoạt
động bán khống, nhưng phải kiểm soát chặt chẽ nó để ngăn ngừa mặt tiêu cực và
phát huy mặt tích cực của bán khống chứng khoán đối với với thị trường chứng
khoán và đối với người đầu tư.
Việc cấm hoàn toàn hành vi bán khống chứng khoán trước đây ở nước ta
là quá thận trọng và nó làm cho các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước
ngoài có cảm giác Luật pháp Việt Nam quá khắt khe trong việc điều chỉnh các
giao dịch trên thị trường chứng khoán. Điều này cũng có thể cho thấy rằng các
10


nhà lập pháp Việt Nam mới chỉ nhìn thấy mặt tác hại của hành vi bán khống mà
chưa thấy hết tác dụng tích cực của hành vi bán khống chứng khoán. Theo quan
điểm của một số nhà nghiên cứu, bán khống có mặt tích cực của nó cụ thể: bán
khống cung cấp tính thanh khoản cho thị trường; Bán khống tạo ra tính hiệu quả
về giá chứng khoán… Đối với hành vi bán khống chứng khoán ở nhiều nước
pháp luật của họ quy định không cấm tuyệt đối mà họ đặt giao dịch bán khống
dưới sự kiểm soát của nhà nước. Trong đó có quy định rõ đối tượng và những

điều kiện được phép thực hiện giao dịch bán khống và những trường hợp, hoàn
cảnh trong đó bán khống bị coi là bất hợp pháp. Điều này chứng tỏ rằng Luật
chứng khoán được xây dựng trên cơ sở có tiếp thu, có chọn lọc kinh nghiệm của
nước ngoài.
Việt Nam ra nhập WTO là điều kiện thuận lợi để hội nhập quốc tế. Các
mô hình chủ thể kinh doanh chứng khoán của Việt Nam được quy định trước các
cam kết mà Việt Nam tham gia ký kết với WTO. Các quy định này có mức độ
phù hợp gần như tuyệt đối với cam kết quốc tế. Bởi lẽ, chủ yếu là các mô hình
đặc trưng: công ty chứng khoán (được nhắc tới chủ yếu), công ty quản lý quỹ
đầu tư chứng khoán… Tuy nhiên, để phù hợp với sự phát triển chung xong vẫn
đảm bảo sự khác biệt của nền kinh tế xã hội nước ta thì mô hình chủ thể kinh
doanh chứng khoán được nhắc tới đầy đủ cụ thể hơn.
IV.

Phương hướng hoàn thiện
Thị trường chứng khoán Việt Nam đã đi vào vận hành nhiều năm. Yếu tố
có ảnh hưởng rất quan trọng tới thị trường chứng khoán tập trung ở Việt Nam là
hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh toàn bộ thị trường. Pháp luật điều
chỉnh các chủ thể kinh doanh chứng khoán. “Chủ thể kinh doanh chứng khoán
được hiểu là những đối tượng được pháp luật cho phép tiến hành các hoạt động
kinh doanh chứng khoán. Chủ thể kinh doanh chứng khoán bao gồm: công ty
chứng khoán, công ty quản lý quỹ, công ty tư vấn đầu tư”.
Và để đảm bảo cho việc tiến hành các hoạt động kinh doanh chứng khoán
được thuận lợi, hiệu quả hơn, tránh lung túng trong việc xác định các chủ thể.
Đồng thời để quá trình hội nhập ngày càng nhanh chóng thì bản thân các quy
định về mô hình chủ thể kinh doanh chứng khoán Việt Nam cần phải phù hợp
nhiều hơn với các cam kết mà Việt Nam tham gia đảm bảo khuyến khích các
nhà đầu tư nước ngoài. Do vậy, các quy định về các chủ thể kinh doanh chứng
khoán cần hoàn thiện hơn.
Thứ nhất, xác định rõ nội hàm của khái niệm kinh doanh chứng khoán.

Việc xác định đúng nội hàm của hoạt động kinh doanh chứng khoán theo
chúng tôi có ý nghĩa quan trọng. Để đảm bảo tính tôn nghiêm của pháp luật, các
chủ thể có cùng điều kiện, môi trường kinh doanh, đối tượng kinh doanh và mục
11


đích kinh doanh, phải có cùng những quy định pháp luật điều chỉnh. Nói cách
khác, các chủ thể cùng tiến hành kinh doanh chứng khoán phải được đối xử như
nhau về quyền và nghĩa vụ, cơ quan quản lý, thực hiện chế độ tài chính kế toán
và báo cáo tài chính kế toán. Chẳng hạn những vấn đề liên quan đến nghĩa vụ
thuế, các quỹ phòng ngừa rủi ro, dự trữ bắt buộc cần phải được áp dụng thống
nhất mà trong thực tế những vấn đề này chưa thực hiện được.
Thứ hai, xác định cụ thể bản chất pháp lý của công ty quản lý quỹ đầu tư
chứng khoán, các chủ thể khác tham gia hoạt động chứng khoán cũng như các
điều kiện khả thi để những mô hình này có thể chính thức ra đời.
Xuất phát từ những luận giải về khái niệm kinh doanh đã đề cập, chúng
tôi cho rằng, đi đôi với việc xác định lại nội hàm của khái niệm kinh doanh
chứng khoán, cần phải xem xét bản chất pháp lý công ty quản lý quỹ đầu tư
chứng khoán. Nếu xét nội dung hoạt động đầu tư chứng khoán thông qua chứng
chỉ quỹ đầu tư thì cơ chế hoạt động của công ty quản lý quỹ là cơ chế ba bên:
công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán; ngân hàng giám sát; nhà đầu tư.
Qua nghiên cứu, nhận thấy các nhà làm luật cũng như các nhà quản lý đều
công nhận đây là một loại công ty chứng khoán. Chẳng hạn quan điểm “Đối với
Việt Nam, công ty chứng khoán được phép thực hiện tất cả các hình thức kinh
doanh chứng khoán. Riêng hình thức quản lý quỹ đầu tư, yêu cầu phải được hoạt
động tách rời dưới hình thức một công ty độc lập” đã được phổ cập đến đông
đảo người quan tâm. Điều này có nghĩa hoạt động quản lý đầu tư chứng khoán là
một hoạt động kinh doanh chứng khoán và công ty quản lý quỹ đầu tư chứng
khoán là một công ty chứng khoán. Tuy nhiên, đây chỉ là những suy diễn hoặc
diễn giải “ngoài hành lang”, mà không phải là một quy định pháp luật. Điều này

thực sự gây khó khăn cho quá trình áp dụng pháp luật.
Việc đưa ra những đề xuất liên quan đến bản chất của công ty quản lý quỹ
đầu tư chứng khoán không chỉ xuất phát từ yêu cầu áp dụng pháp luật mà còn là
một đòi hỏi khách quan của những người có dự định kinh doanh chứng khoán
theo hình thức này. Nếu như những nội dung liên quan đến công ty chứng khoán
có thể coi là khá rõ ràng thì đối với công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán vẫn
còn đang mở. Chẳng hạn, việc xác định các loại thu nhập của công ty quản lý
quỹ, ưu đãi hoặc miễn trừ nghĩa vụ trong những trường hợp nhất định có được
áp dụng tương tự công ty chứng khoán. Về vấn đề này, Ủy ban chứng khoán
Nhà nước thừa nhận “là không thực tế”, cần phải sớm điều chỉnh lại cho phù
hợp.
Nếu hoạt động định mức tín nhiệm là hoạt động phổ biến tại thị trường
các quốc gia thì vấn đề này còn rất mới đối với Việt Nam. Đó là việc “đánh giá
đúng về khả năng của một người phát hành có thể thanh toán đúng nợ gốc và
12


lãi của một chứng khoán trong suốt thời gian tồn tại loại công cụ này”. Việc tồn
tại các tổ chức định mức tín nhiệm sẽ tạo niềm tin cho người đầu tư vào các trái
phiếu lưu hành trên thị trường, cũng tạo ra cơ hội xác định đúng đắn về giá
chứng khoán, sự lựa chọn đầu tư của người đầu tư.
Đối với các ngân hàng lưu ký, thanh toán chứng khoán, thực tiễn đang
tiến hành các hành vi gắn với giao dịch chứng khoán, với mục đích kiếm lời,
nhưng đây có phải là chủ thể kinh doanh chứng khoán hay không? Pháp luật
hiện hành vẫn chưa xét tới vấn đề này. Câu hỏi này liên quan đến chế độ chịu
trách nhiệm của ngân hàng lưu ký với nhà đầu tư chứng khoán. Ngoài ra, hoạt
động lưu ký, thanh toán của các ngân hàng này có tách bạch hoàn toàn với
nghiệp vụ ngân hàng hay không?
Thứ ba, xây dựng lại và chuẩn hóa một số điều kiện thành lập hoạt động
của công ty chứng khoán, kể cả điều kiện đối với chủ thể có yếu tố nước ngoài.

Thứ tư, mở rộng phạm vi hoạt động của công ty chứng khoán. Khó có thể
nói rằng công ty chứng khoán của chúng ta hiện nay theo mô hình đa năng hay
mô hình chuyên doanh.
Thứ năm, chuẩn hóa quy định về phá sản các loại chủ thể kinh doanh
chứng khoán

13


1.
2.
3.
4.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Luật chứng khoán, Trường đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an
nhân dân, Hà Nội, 2008.
Luật chứng khoán năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2010).
/> />%E1%BB%91-v%E1%BA%A5n-d%E1%BB%81-phap-ly-v%E1%BB
%81-cong-ty-ch%E1%BB%A9ng-khoan-theo-lu%E1%BA%ADt-ch
%E1%BB%A9ng-khoan-nam-2006/

14



×