Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Đặc điểm nhân vật trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng qua “Giông tố”, “Số đỏ”, “Làm đĩ”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 105 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

VŨ THỊ DUNG

ĐẶC ĐIỂM NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA VŨ TRỌNG
PHỤNG QUA “GIÔNG TỐ”, “SỐ ĐỎ”, “LÀM ĐĨ”

THÁI NGUYÊN 2018


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU…………………………………………………………………….…….1
1.Lí do chọn đề tài…………………………………………………….…………...1
2.Lịch sử vấn đề....................................................................................................... 3
3.Đối tượng và mục đích nghiên cứu……………………………………..……….8
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu………………………………...………..9
5. Phạm vi nghiên cứu…………………………………….……………………...10
6.Cấu trúc của luận văn...........................................................................................10
7. Đóng góp của luận văn………………………………………………...………10
NỘI DUNG………………………………………………………………………11
CHƯƠNG 1: THẾ GIỚI QUAN SÁNG TÁC CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG ...11
1.1. Một số khái niệm liên quan………………………………………….............11
1.1.1. Khái niệm thế giới quan sáng tác……………………………….…………12
1.1.2. Khái niệm quan niệm con người trong văn học…………..….…………....11
1.2. Khái lược về thế giới quan sáng tác và quan niệm về con người trong văn học
hiện đại Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến trước Cách mạng tháng Tám 1945…..…12
1.2.1.Khái lược về thế giới quan sáng tác của các nhà văn đương thời……….…12
1.2.2. Khái lược quan niệm về con người trong văn học hiện đại Việt Nam từ đầu
thế kỉ XX đến trước Cách mạng tháng Tám 19450………………....……………..15
1.3. Thế giới quan sáng tác của Vũ Trọng Phụng ………………………..………17


1.3.1. Vài nét về tiểu sử và con người Vũ Trọng Phụng………………………….17
1.3.2. Thế giới quan sáng tác của Vũ Trọng Phụng…………………..…………..19
1.3.2.1. Quan niệm của Vũ Trọng Phụng về con người "tha hóa, biến chất"…....20
1.3.2.2. Quan niệm củaVũ Trọng Phụng về con người bản năng tính dục……....24
TIỂU KẾT……………………………………………………………………….27
CHƯƠNG 2: CÁC KIỂU NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA VŨ
TRỌNG PHỤNG QUA “GIÔNG TỐ”, “SỐ ĐỎ” ,” LÀM ĐĨ”……………….29
2.1. Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng…………………...29
2.1.1. Đặc điểm của nhân vật trong tiểu thuyết…………………………………..29
2.1.2. Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng…………………31
2.2. Các kiểu nhân vật…………………………………………………………….34


2.2.1. Nhân vật Âu hóa…………………………………………………………...34
2.2.2. Nhân vật tiêu cực…………………………………………………………..45
2.2.3. Nhân vật tích cực……………………………………….…………...……..49
2.2.4. Nhân vật tha hóa, biến chất………………………………………….…….51
2.3 So sánh cách thức xây dựng hệ thống nhân vật trong ba tiểu thuyết (Giông Tố,
Số Đỏ, Làm Đĩ) của Vũ Trọng Phụng với cách thức xây dựng hệ thống nhân vật
trong tiểu thuyết của một số nhà văn cùng thời…………………………………....62
TIỂU KẾT……………………………………………………………………..….68
CHƯƠNG 3: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT
CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG QUA “GIÔNG TỐ”, “SỐ ĐỎ”, “LÀM ĐĨ”………….69
3.1. Xây dựng nhân vật qua miêu tả ngoại hình………………………………….69
3.2. Xây dựng nhân vật qua miêu tả hành động………………………………….72
3.3. Xây dựng ngôn ngữ nhân vật………………………………………………...75
3.3.1. Ngôn ngữ đối thoại………………………………………………………...75
3.3.2. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm………………………………………………..79
3.4. Giọng điệu trong xây dựng tính cách nhân vật………………………………83
3.5. So sánh nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng

với nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết của một số nhà văn cùng thời..86
TIỂU KẾT……………………………………………………………………….91
KẾT LUẬN………………………………………………………………………92
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………94


1

MỞ ĐẦU

1.

Lí do chọn đề tài
Giai đoạn 1930-1945 là thời kì phát triển mạnh mẽ và đa dạng của văn học dân

tộc với sự ra đời của nhiều trào lưu gắn liền với các tên tuổi của các nhà văn.
Vũ Trọng Phụng được xem là cây bút tiêu biểu, có vị trí đặc biệt quan trọng
trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Ngòi bút Vũ Trọng Phụng có sức sáng tạo
mãnh liệt, tung hoành trên nhiều thể loại như kịch, truyện ngắn, phóng sự, tiểu
thuyết,… .Vũ Trọng Phụng đã để lại một di sản văn học đồ sộ với nhiều kiệt tác bất
hủ cho đời và được dư luận báo chí suy tôn “vua phóng sự đất Bắc”.
Tài năng của Vũ Trọng Phụng không chỉ thể hiện qua những thiên phóng sự
đặc sắc mà còn được thể hiện tập trung nhất, kết tinh nhất trong tiểu thuyết. Ông
viết hàng chục cuốn tiểu thuyết như Dứt tình (1934), Giông tố (1936), Vỡ đê
(1936), Số đỏ (1936), Làm đĩ (1936), Lấy nhau vì tình (1937), Trúng số độc đắc
(1938). Những tiểu thuyết lớn có tầm khái quát cao và giàu chất sống thực tế như
Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê, đã nâng cao tầm vóc giá trị của tiểu thuyết hiện thực.Với tài
năng sáng tạo nhà văn đã xây dựng được nhiều nhân vật điển hình, sinh động và có
bản sắc riêng, có sức sống lâu bền với thời gian. Các nhân vật của Vũ Trọng Phụng
thể hiện rất rõ lịch sử giai đoạn tiếp nhận, tiếp biến, cả sự thay đổi, chuyển biến xã

hội từ Á sang Âu, từ xã hội Nho giáo sang xã hội hiện đại tư bản. Nói cách khác,
bước chuyển từ mô hình xã hội này sang một hình thái xã hội khác đã biểu hiện rõ
nét trong các hệ thống nhân vật của Vũ Trọng Phụng. Đó là những biểu hiện qua
hình ảnh, cách nhìn nhận của nhân vật, cách mô tả với các sắc thái khác nhau của
các quan niệm, tư tưởng, thái độ của tác giả và ý tưởng tiềm ẩn trong các mô tả
hành vi, ngôn ngữ nhân vật.
Ba cuốn tiểu thuyết Giông tố, Số đỏ, Làm đĩ là những cuốn tiểu thuyết “tả
chân đặc sắc” giàu giá trị hiện thực.Tiểu thuyết Giông tố là bước nhảy vọt, là một
trong những đỉnh cao nhất của sự nghiệp sáng tác của nhà văn đồng thời là một
thành tựu xuất sắc của trào lưu văn học hiện thực 1930 - 1945, quả đúng là“ như
một quả bom lớn giữa làng văn khi đó” (Phạm Thế Ngũ). Tiểu thuyết Số đỏ là một
cuốn tiểu thuyết “vô tiền khoáng hậu”, kết tinh tư tưởng và tài năng trào phúng bậc
thầy của nhà văn. Trương Tửu nhận xét: Số đỏ là cuốn tiểu thuyết “tả chân đến tàn


2

ác”, “trào phúng đến chua xót” (Tao đàn số đặc biệt,12 -1939). Nguyễn Quang Sáng
cho rằng: Số đỏ là “lời nguyền rủa chua cay độc địa cái xã hội thối nát” còn Nguyễn
Khải cũng đánh giá rất cao tiểu thuyết này, coi đây là một trong những “cuốn sách
ghê gớm” “có thể làm vinh dự cho mọi nền văn học”. Làm đĩ là một trong số những
tiểu thuyết gây ra nhiều cuộc tranh luận trong hơn suốt nửa thế kỷ qua. Đó là một tác
phẩm mang nhiều giá trị - nó vừa là một thiên "tả chân tiểu thuyết" như tác giả tự
giới thiệu, vừa thấm đẫm tinh thần nhân bản, nhân văn và xét từ góc độ nào đó, đây
là cuốn sách giáo dục giới tính rất sâu sắc và khoa học.Giông tố, Số đỏ, Làm đĩ là
những tác phẩm tiêu biểu trong hệ thống sáng tác của Vũ Trọng Phụng đã nếm trải
nhiều sóng gió của dư luận khác nhau và vị trí của các tác phẩm ấy đến nay đã được
xác lập trong văn hóa, văn học nước nhà.
Văn học là nhân học (M.Gorki).Văn học bao giờ cũng thể hiện cuộc sống con
người. Nói đến nhân vật văn học là nói đến con người được nhà văn miêu tả thể

hiện trong tác phẩm bằng phương tiện văn học [16]. Nhân vật giữ vai trò quan
trọng, là hình tượng để khái quát những qui luật cuộc sống con người, thể hiện quan
điểm, tư tưởng của nhà văn. Một tác phẩm văn học, việc sáng tạo nhân vật được
xem như là yếu tố quan trọng hàng đầu. G.N Pospelov, Dẫn luận nghiên cứu văn
học (2 tập), Nxb Giaó dục Hà Nội đã cho rằng nhân vật “là phương tiện tất yếu
quan trọng nhất để thể hiện tư tưởng”, “là phương diện có tính thứ nhất trong hình
thức của các tác phẩm ấy quyết định phần lớn vừa cốt truyện vừa lựa chọn chi tiết,
vừa phương diện ngôn ngữ và thậm chí cả kết cấu nữa”[44].
Nhân vật làm nên phần quan trọng sức sống của tác phẩm và tên tuổi của nhà
văn, điều đó hoàn toàn đúng với Vũ Trọng Phụng, một chân dung văn học tiêu biểu
của thế kỉ XX đã cùng với nhân vật của mình “đi vào cõi bất diệt của văn xuôi Việt
Nam”.Việc đi sâu tìm hiểu vấn đề “Đặc điểm nhân vật trong tiểu thuyết của Vũ
Trọng Phụng qua“Giông tố”,“Số đỏ”,“Làm đĩ”” để có cái nhìn sâu về quan niệm
và cách miêu tả con người của nhà văn, một trong những phương diện không thể
thiếu khi tìm hiểu về thế giới nghệ thuật của tác giả và chỉ ra nhiều điều mới mẻ chỉ
có trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng.
Thực hiện đề tài “Đặc điểm nhân vật trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng
qua“Giông tố”,“Số đỏ”,“Làm đĩ”” chúng tôi muốn nhìn nhận nhân vật từ nhiều


3

yếu tố, nhiều mặt để thấy được sự phong phú đa dạng trong việc xây dựng tính cách
và hình tượng nhân vật, cũng như sự sáng tạo riêng của Vũ Trọng Phụng để từ đó
có cái nhìn khách quan và toàn diện về những giá trị tinh thần của nhà văn. Đồng
thời đặt trong sự so sánh với nhân vật của các tác giả khác hay của cả giai đoạn văn
học đầy mới mẻ của một xã hội đang hiện đại hóa, đang thay đổi mạnh mẽ, từ đó
nhìn thấy rõ nét hơn những đóng góp độc đáo và đặc sắc của tác giả Vũ Trọng
Phụng. Đó cũng là góp thêm một cách tiếp cận mới về nghiên cứu tác phẩm giúp
người đọc có cách hiểu sâu sắc hơn.

Hơn nữa Vũ Trọng Phụng và các tác phẩm của ông được đưa vào trong
chương trình giảng dạy, nên tiến hành nghiên cứu vấn đề hệ thống, đặc điểm nhân
vật trong các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng sẽ ít nhiều góp phần phục vụ cho việc
nghiên cứu, học tập và giảng dạy ở trường phổ thông về tác giả này.

2. Lịch sử vấn đề
Vũ Trọng Phụng được xem là cây bút tài ba nhưng phức tạp nhất của văn học
Việt Nam thế kỉ XX. Nhân vật trong các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng đã được rất
nhiều các nhà văn, nhà phê bình văn học nghiên cứu và quan tâm đến.
Trong Phê bình - bình luận văn học, tác giả Vũ Tiến Quỳnh đã đưa ra ý kiến:
“Các nhân vật trong tác phẩm của Vũ Trọng Phụng đều có sự chuyển biến cương vị
xã hội; từ đầu đến cuối tác phẩm không bao giờ một nhân vật chịu đứng yên ở một
cương vị nhất định”[5]. Cũng trong cuốn này, tác giả Trương Chính nhận xét:
“Nhân vật trong tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng được cá thể hóa cao độ, đa dạng,
phong phú về mặt thẩm mỹ, những con người đang đuổi theo những dục vọng cá
nhân.”[5]. Do mối quan hệ giữa các nhân vật trong tiểu thuyết được bộc lộ một cách
sinh động, chân thật đến tàn nhẫn nên đã để lại trong lòng người đọc không chỉ về ý
nghĩa về xã hội mà còn cho chúng tôi thấy được tài năng xây dựng nhân vật trong
tiểu thuyết của ông.
Trương Chính (Dưới mắt tôi, Hà Nội,1939), sau khi nhắc tới một loạt nhân vật
trong Giông tố như Long “thất vọng vì tình”, Tuyết “phóng đãng, lẳng lơ”,Vạn Tóc
Mai “đểu giả, trụy lạc”, Hải Vân “một người phong trần, có chí khí lớn, hoài bão
lớn” đã khái quát được tài năng và nghệ thuật xây dựng nhân vật của Vũ Trọng
Phụng: “lần lượt diễn ra trên màn ảnh tất các hạng người thuộc về các giai cấp, địa


4

vị khác nhau. Mỗi nhân vật có những cử chỉ riêng, một vẻ mặt thích hợp. Ông Vũ
Trọng Phụng là một tiểu thuyết gia có óc quan sát và nhiều kinh nghiệm” [4]. Lan

Khai (Phê bình các nhân vật hiện thời, NXB Minh Phương, Hà Nội 1941) đã chỉ ra một
đặc điểm nổi bật của nhà văn: “Khi đọc các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng , ta thấy
lúc nhúc một nhân vật đen tối, ngu xuẩn, ích kỉ, tàn nhẫn và dâm dật một cách vô
cùng lố bịch” “sự thật các vai truyện do anh tạo ra đều chín phần mười là những kẻ
đa dâm có khi rất quái ác” [28].
Trong Vũ Trọng Phụng con người và tác phẩm của Nguyễn Hoành Khung Lại Nguyên Ân, NXB Hội văn học, Hà Nội, 1994, lời giới thiệu nhận xét tiểu thuyết
Vũ Trọng Phụng của Hoàng Cầm ông nhận thấy “Đọc đi đọc lại Số Đỏ, đối chiếu
với cuộc sống thành thị lúc bấy giờ, tôi tìm ra rất nhiều nhân vật ấy trong thực tế:
những Xuân Tóc Đỏ, những bà Phó Đoan, những thầy Min-Đơ, Min-Toa nhan nhản
trên hè phố, trong tiệm nhảy và trong những chỗ sâu kín, tối tăm nhất của xã hội
thuộc địa, phong kiến” [28]. Năm 1957, trong bài viết “Người thư ký” của thời
đại của tác giả Văn Tâm đã có những nhận xét: “Những nhân vật trong tác phẩm
của Vũ Trọng Phụng hoạt động trên một địa bàn rất rộng, bao gồm thành thị và
nông thôn; từ những dinh cơ đồ sộ của địa chủ, quan lại, tới nơi nhà tranh vách đất;
từ những biệt thự tối tân muôn hồng nghìn tía của tư sản đến những mảnh đất ngập
ngụa rác rưởi của hạng người cùng khổ…”(…) “Dưới ngòi bút của Vũ Trọng
Phụng, những nhân vật nằm trong cảnh thế sự thăng trầm này hầu hết lại xuất thân
từ thành phần tiểu tư sản. Vũ Trọng Phụng đã thấy được rằng trong lúc giai cấp tiểu
tư sản bong ra từng mảng, ba con đường đã vạch sẵn trước mắt nó: tư sản hóa, vô
sản hóa, lưu manh hóa.”[63]. Qua nhân vật Vũ Trọng Phụng muốn phản ánh tầng
lớp tiểu tư sản. Thứ hai, Vũ Trọng Phụng sử dụng nhân vật phản diện để phản ánh
hiện thực xã hội.
Nguyễn Tuân trong lời giới thiệu Giông tố cũng đề cao tài năng xây dựng
nhân vật, đặc biệt là nhân vật Nghị Hách của Vũ Trọng Phụng, ông hết lời khen
chương XXIX của tác phẩm. Ông cho rằng :“Đọc đến đây thấy sợ Vũ Trọng
Phụng” [66]. Nhóm Lê Qúy Đôn trong “ Lược thảo lịch sử văn học” các tác giả
nhận xét nhân vật Nghị Hách trong Giông Tố “Vũ Trọng Phụng chú ý đến những
tay tư bản, Nghị Hách trong Giông Tố không phải là một ông Nghị gật tầm thường,



5

không phải Nghị Quế của Ngô Tất Tố trong Tắt Đèn, Nghị Lại của Nguyễn Công
Hoan trong Bước Đường cùng (..) Nghị Hách lại sắp ứng cử ghế nghị trưởng, sắp có
Bắc đẩu bội tinh. Nói tóm lại hắn là một nhân vật quan trọng trong xã hội ngày
trước”.Về nhân vật Mịch các tác giả viết:“Đối với Mịch, nạn nhân trong Giông Tố,
ngòi bút của Vũ Trọng Phụng cũng không đều. Đoạn đầu ông tả Thị Mịch là một cô
gái quê hiền lành, chất phác, giản dị, chung tình và bị Nghị Hách làm nhục, ông có
một chút thương hại nhưng về sau dưới ngòi bút của ông, Thị Mịch trở thành một
nhân vật dâm đãng và có những cử chỉ vô duyên đáng ghét của một người đang ở
cảnh nghèo khổ bỗng được sống trong cảnh giàu có phong lưu”[15].
Phan Cự Đệ trong Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại (tập I-1994) đã từ góc độ
phương pháp sáng tác cố gắng đi sâu lí giải những thành công của Vũ Trọng Phụng
trong việc xây dựng các nhân vật điển hình. Ông đánh giá cao giá trị điển hình của
nhiều hình tượng nhân vật :“Qua Nghị Hách, Vũ Trọng Phụng đã làm nổi bật tính
chất đa dạng của một tính cách điển hình hiện thực chủ nghĩa” [10]. “Xuân Tóc Đỏ
đã trở thành một con người sống lừng lẫy trong tác phẩm.Vũ Trọng Phụng phải
phục tùng sự phát triển hợp logic nội tại của nó (....). Xuân Tóc Đỏ là một điển hình
khá sinh động có cá tính riêng biệt có một sự phát triển hợp logic nội tại” [10].
Nguyễn Hoành Khung viết Số Đỏ và các nhân vật trong tác phẩm này cũng được
đánh giá thật chính xác “Số Đỏ đã đưa ra một loạt chân dung biếm họa rất sinh
động về gần đủ loại nhân vật tiêu biểu cho cái xã hội tư sản nhố nhăng.Với trình độ
tiểu thuyết già dặn, bút pháp châm biếm đặc biệt sắc sảo, Số Đỏ là một trong những
thành tựu nghệ thuật đặc sắc của văn xuôi Việt Nam hiện đại, nhất là trong thể loại
tiểu thuyết trào phúng”[27].
Nguyễn Đăng Mạnh trong Tuyển tập Vũ Trọng Phụng có nhận xét “nhân vật
trong Giông Tố không chỉ toàn những người vô nghĩa lí, lẻ tẻ thấy xuất hiện trong
tác phẩm một số nhân vật được tác giả miêu tả như những con người biết sống có
nghĩa lí”, Nguyễn Đăng Mạnh nhấn mạnh sự đa dạng trong hệ thống nhân vật đồng
thời cho thấy tài năng của Vũ Trọng Phụng trong việc miêu tả khắc họa hình tượng

nhân vật. Năm 1990, trên tạp chí văn học số 2, trong bài viết Đọc lại Giông Tố của
Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Đăng Mạnh có nhận xét:“cho đến nay, có thể nói chưa có
một nhân vật địa chủ tư sản nào trong văn học Việt Nam địch nổi nhân vật Nghị


6

Hách, một con quỷ dâm ô, độc ác, đểu giả, trắng trợn cỡ bạo chúa”. Như vậy Vũ
Trọng Phụng thành công nổi bật đã khắc họa nhân vật địa chủ phản diện điển hình.
Năm 1996, trên báo Nhân Dân, trong bài viết Đọc lại truyện Giông Tố, Nguyễn
Tuân nhận xét “Tiểu thuyết Giông Tố gồm nhiều thứ người:thôn quê, thành thị và
cả những nhân vật từ quê ra tỉnh. Có người là thôn nữ bị bán làm lẽ thứ 12 cho nhà
giàu, có người lại là thư kí, có người là du thủ du thực, có người là gái tân thời, có
người là đốc học, có người làm cách mạng”[66]. Như vậy Nguyễn Tuân đã nói tới
sự đa dạng trong thế giới nhân vật, đó là sự sáng tạo của Vũ Trọng Phụng trong
nghệ thuật xây dựng nhân vật. Năm 1999, trong cuốn Nhà văn và tác phẩm trong
nhà trường, Vũ Dương Quỹ có nhận xét: “Nhân vật trong tiểu thuyết Giông tố là
những con người ở thành thị (Hà Nội, Hải Phòng), ở nông thôn, ở vùng
mỏ,….thuộc đủ mọi tầng lớp: bọn tư sản mại bản kiêm chính khách rởm hợm, trụy
lạc, bất nhân, vô học, lũ lưu manh” (Giông tố, Số đỏ); những người nông dân đói
khát hoặc bị tha hóa, vài ba tri thức tiến bộ nhưng lúng túng (Vỡ đê); những cô gái
con nhà lành bị sa ngã (Làm đĩ); mấy nhà cách mạng bí hiểm,…”[51]. Nhận xét trên
của Vũ Dương Qũy giúp ta phần nào nhận thấy một khía cạnh quan trọng ở nhân
vật của Vũ Trọng Phụng, đó là thế giới nhân vật đông đúc, đa dạng như một thế giới
con người thật của xã hội. Nhà nghiên cứu Đỗ Đức Hiểu cho rằng: Vũ Trọng Phụng
sáng tạo một loại tiểu thuyết mới, tiểu thuyết cười, tiểu thuyết đa thanh, đa âm, đa
sắc diện. Số đỏ là một siêu tiểu thuyết và nhân vật Xuân Tóc Đỏ là một siêu nhân
vật. Nhân vật Xuân Tóc Đỏ đã vượt khỏi giới hạn của một hoàn cảnh, một thành thị
mà trở thành một nhân vật phiêu lưu, có mặt ở nhiều cảnh ngộ.
Năm 2008, cuốn Đặc sắc văn chương Vũ Trọng Phụng của tác giả Trần Đăng

Thao đã nói về nhân vật trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng như sau: “Nhân vật
của Vũ Trọng Phụng trước hết là nhân vật của thời đại. Họ là những con người cụ
thể bằng xương, bằng thịt, tắm gội trong bầu không khí cụ thể của lịch sử Việt Nam
đúng vào cái thời điểm của những năm 30, họ là hiện thân, là sản phẩm tiêu biểu
của xã hội thành thị dưới chế độ thực dân phong kiến bạo tàn.”[59]… “Tiểu thuyết
phóng sự của Vũ Trọng Phụng thường được xây dựng có quy mô lớn, vì vậy kéo
theo một hệ quả tất yếu là bao hàm trong đó một thế giới nhân vật đông đúc, những
nhân vật ấy có thể có những mối liên quan trực tiếp, song đều thống nhất với nhau


7

chịu sự chi phối chặt chẽ của thế giới nghệ thuật trong tác phẩm với tư cách là một
chỉnh thể ”[59].
Năm 2012, trong bài viết “Vũ Trọng Phụng - tài năng và thời cuộc”, Hà
Minh Đức nhận xét: “Nói đến tiểu thuyết phải nói đến nhân vật, Vũ Trọng Phụng có
tài khắc họa nhân vật. (…), mỗi nhân vật có một vóc dáng riêng, tính cách riêng, từ
những tên gọi như bà Phó Đoan mà không đoan chính; ông Văn Minh nhưng thực
sự là thụ động, bế tắc;các tên cảnh sát Min Đơ, Min Toa; rồi ông Lang Tỳ, Lang
Phế cho đến em Chã, cụ cố Hồng... Mỗi người đều có những đặc điểm độc đáo. Vũ
Trọng Phụng am hiểu xã hội, các loại người đến chân tơ kẽ tóc để góp phần tạo
dựng nhân vật.”[11]. Qua đây, cho thấy thành công của Vũ Trọng Phụng trong việc
xây dựng tính cách của nhân vật đạt đến mức điển hình ở xã hội 1930-1945 mà còn
đến hôm nay vẫn còn quanh quẩn đâu đây. Nhìn chung, Vũ Trọng Phụng về con
người, cuộc đời cũng như tiểu thuyết của ông luôn là đề tài cho các nhà nghiên cứu
phải đào sâu tìm tòi, khám phá vì những mâu thuẫn, những hình tượng độc đáo.
Người ta từng phủ nhận rồi lại khẳng định tài năng của ông vì ông chuyên viết về
những chuyện ăn chơi trụy lạc, lưu manh, gái điếm, tha hóa,…để qua đó chúng tôi
thấy được cách xây dựng tính cách nhân vật trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng
một tính cách phong phú, đa dạng mà không lẫn lộn với bất kì tính cách của nhân

vật nào khác.
Công trình nghiên cứu khá sâu sắc về nhân vật trong tiểu thuyết Vũ Trọng
Phụng, đó là luận án Nhân vật trong tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng của Đinh Trí Dũng
năm 1999, trường ĐHSP Hà Nội I. Đinh Trí Dũng có nhận xét như sau: “Với các
tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng, người đọc không thể quên được thế giới nhân vật
độc đáo của ông, một thế giới đông đúc với đủ kiểu người, đủ các khuôn mặt, chen
chúc, ồn ào, náo loạn trong bối cảnh xã hội thăng trầm, điên đảo.”[9] “...trong thế
giới nhân vật đông đúc đó, ngòi bút Vũ Trọng Phụng đặc biệt thành công trong việc
khắc họa các nhân vật phản diện.”[9]. Phạm vi nghiên cứu khá rộng, toàn diện các
nhân vật đa dạng, phức tạp của tiểu thuyết. Đồng thời luận án đã đi sâu tìm hiểu
quan niệm về con người của nhà văn như một nhân tố quyết định, chi phối trực tiếp
các nhân vật của ông và khái quát hóa những điểm mạnh, điểm yếu và hạn chế


8

trong bút pháp xây dựng nhân vật, đặt trong tiến trình hiện đại hóa của tiểu thuyết
Việt Nam giai đoạn 1930-1945.
Ngoài ra còn có luận văn thạc sĩ của Trần Thị Lệ Thanh với đề tài “Hai hình
tượng Long, Mịch trong tiểu thuyết Giông Tố của Vũ Trọng Phụng”, Trường ĐHSP
Hà Nội I, 1995. Luận án của Trần Đăng Thao “Đóng góp của Vũ Trọng Phụng đối
với lịch sử văn học Việt Nam hiện đại qua hai thể loại phóng sự và tiểu thuyết”.
Qua các ý kiến đánh giá và nhận định với nhiều cách tiếp cận khác nhau của
nhiều công trình nghiên cứu đi trước, nhân vật trong các tác phẩm của Vũ Trọng
Phụng thật phong phú và đa dạng nhưng một số nhân vật chưa được quan tâm, phân
tích sâu sắc để thấy được từng “cung bậc” đểu giả, tha hóa của một kiểu nhân vật,
thông qua tiến trình sáng tác của ông. Ví dụ như kiểu con người tha hóa, biến chất
của các cặp nhân vật như: Mịch - Huyền; Long - Xuân Tóc Đỏ… trong tiểu thuyết
của ông. Chưa có một công trình nghiên cứu nào nghiên cứu chi tiết đặc điểm nhân
vật trong ba tác phẩm “Giông tố”, “Số đỏ”, “Làm đĩ” của Vũ Trọng Phụng để chỉ ra

những điểm nổi bật, cái chung và cái riêng trong việc xây dựng hình tượng từng
nhân vật của Vũ Trọng Phụng cũng như miêu tả chi tiết, tỉ mỉ chân dung nhân vật.
Điều đó, dù có sự kế thừa những thành tựu người đi trước, dù các nhà nghiên cứu
các tác phẩm khá nhiều và sâu sắc về Vũ Trọng Phụng thì đặc điểm nhân vật qua ba
tác phẩm “Giông tố”, “Số đỏ”, “Làm đĩ” vẫn là đề tài mới và có ý nghĩa sâu sắc.
Chúng tôi triển khai đề tài “Đặc điểm nhân vật trong tiểu thuyết của Vũ Trọng
Phụng” mong muốn góp phần nhỏ vào việc đánh giá chung để cùng khẳng định tài
năng và những sáng tạo, đóng góp của tác giả trong nền văn học Việt Nam.
3. Đối tượng và mục đích nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Chúng tôi hướng đến đối tượng là các nhân vật với những đặc điểm của nó
trong tác phẩm của Vũ Trọng Phụng. Trong đó tập trung cao nhất vào các kiểu nhân
vật được phản ánh trong ba tác phẩm Giông Tố, Số Đỏ, Làm Đĩ của Vũ Trọng
Phụng.
3.2. Mục đích nghiên cứu
- Khảo sát và nghiên cứu đặc điểm nhân vật trong ba tác phẩm Giông Tố, Số
Đỏ, Làm Đĩ của Vũ Trọng Phụng nhằm thấy rõ được cách lựa chọn các vấn đề của


9

thời đại, của xã hội thông qua đặc điểm nhân vật mà nhà văn thiết lập, đồng thời
thấy được sự tha hóa biến chất trong từng nhân vật và cả trong xã hội Âu hóa. Bức
tranh hiện thực về con người đó, thể hiện rõ trong xã hội Việt Nam qua các nhân vật
thông qua sự sáng tạo của nhà văn.
- So sánh với cách tiếp cận, cách thức xây dựng tính cách nhân vật của Vũ
Trọng Phụng với các nhà văn khác cùng thời và với các nhà viết tiểu thuyết hiện
nay để thấy được thế giới quan sáng tác độc đáo của Vũ Trọng Phụng và tài năng
xây dựng hình tượng nhân vật của ông.
- Chỉ ra những đóng góp của Vũ Trọng Phụng về cách thức xây dựng nhân vật

cũng như giá trị tác phẩm được khảo sát của ông trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác
của ông và trong mảng văn học hiện thực phê phán Việt Nam lúc bấy giờ.
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khảo sát toàn diện, thống kê đầy đủ và phân tích sâu về hệ thống nhân vật tầng, lớp người được thể hiện trong ba tác phẩm: Giông Tố, Số Đỏ, Làm Đĩ của Vũ
Trọng Phụng.
- Tìm hiểu thế giới quan sáng tác, cách tiếp cận, các hình thức thể hiện con
người trong tác phẩm của Vũ Trọng Phụng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện luận văn này, chúng tôi sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp tiểu sử tác giả: sử dụng phương pháp này, đặt đối tượng nghiên
cứu trong mối quan hệ với cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Vũ Trọng Phụng, đặc
biệt là quan điểm sáng tác để tìm hiểu chiếm lĩnh được nhân vật trong tác phẩm của
ông.
- Phương pháp phân loại - thống kê: khi đi vào hệ thống nhân vật, chúng tôi
phân loại để khảo sát, thống kê tần số xuất hiện của từng nhân vật, ngôn ngữ độc
thoại, đối thoại để nghiên cứu thêm xác đáng hơn.
- Phương pháp phân tích- tổng hợp: phân tích một số nhân vật tiêu biểu trong ba tác
phẩm từ đó chỉ ra đặc điểm của thế giới nhân vật và biểu hiện nghệ thuật xây dựng nhân
vật. Trên cơ sở đó đúc kết những đặc điểm nổi bật về nhân vật trong tác phẩm của nhà văn.


10

- Phương pháp so sánh: tiến hành so sánh nhân vật trong tác phẩm của Vũ
Trọng Phụng với các nhân vật trong một số tác phẩm của các nhà văn cùng thời hay
những giai đoạn trước để làm sáng tỏ vấn đề.
5. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào ba tác phẩm tiểu thuyết: Giông
Tố, Số Đỏ, Làm Đĩ.

6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, luận văn được tổ chức thành ba chương.
Chương 1: Thế giới quan sáng tác của Vũ Trọng Phụng.
Chương 2: Các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng qua“Giông
tố”, “Số đỏ”, “Làm đĩ”.
Chương 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng
qua “Giông tố”,“Số đỏ”,“Làm đĩ”
7. Đóng góp của luận văn
Đề tài “Đặc điểm nhân vật trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng qua “Giông
tố”, “Số đỏ”, “Làm đĩ” ” nghiên cứu toàn diện, có hệ thống, nhằm qua đó nhận thấy
cái quan tâm có tính tư tưởng, có tính quan niệm của nhà văn về xã hội, về thời đại
mà nhà văn sống, một xã hội và thời đại phát triển gấp gáp sang hướng hiện đại,
chuyển đổi từ xã hội truyền thống sang một hệ thống chính trị xã hội khác lạ. Qua
nghiên cứu đặc điểm các nhân vật mà mỗi loại nhân vật là một đại diện thời đại, đại
diện điển hình xã hội sẽ làm bộc lộ rõ nét nhất tầm nhìn, cách nhìn của một nhà văn
tiêu biểu, một nhà văn có nhiều đóng góp quan trọng cho văn học đương thời và cho
tiểu thuyết hiện đại Việt Nam.
Nghiên cứu đề tài này có thể vận dụng trong giảng dạy và học tập và góp phần
làm tư liệu cho các nhà nghiên cứu và những người yêu văn học.


11

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: THẾ GIỚI QUAN SÁNG TÁC CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG.
1.1.

Một số khái niệm liên quan

1.1.1 Khái niệm: Thế giới quan sáng tác

Theo từ điển Tiếng Việt: Thế giới quan là định hướng nhận thức cơ bản của
một cá nhân hay xã hội bao gồm toàn bộ kiến thức và quan điểm của các cá nhân
hay xã hội. Thế giới quan có thể bao gồm triết học tự nhiên; định đề cơ bản, hiện
sinh, và quy chuẩn; hoặc các chủ đề, các giá trị, cảm xúc và đạo đức.
Văn học là sản phẩm sáng tạo của con người.Tuy nhiên để sáng tạo ra được
một tác phẩm văn học là một điều không hề đơn giản. Người nghệ sĩ phải có
những phẩm chất, tài năng và những quan điểm sáng tạo riêng biệt mới có thể tạo
ra được một sản phẩm văn học giá trị.
Thế giới quan sáng tác chính là quan điểm, biểu hiện của cách nhìn của nhà
văn bao quát (bức tranh) đối với thế giới bao gồm cả thế giới bên ngoài, cả con
người và cả mối quan hệ của người – thế giới (tức là mối quan hệ của người đối
với thế giới). Nó quy định thái độ của con người đối với thế giới và là kim chỉ nam
cho hành động của con người, qua cách nhìn cụ thể đó sẽ chi phối đến toàn bộ quá
trình sáng tác của nhà văn: tư tưởng, quan niệm, tâm hồn, tình cảm thị hiếu, vốn
sống, kinh nghiệm, tài nghệ của người nghệ sĩ.
1.1.2. Khái niệm: Quan niệm con người trong văn học.
Văn học là nhân học, là nghệ thuật miêu tả, biểu hiện con người. Con
người là đối tượng chủ yếu của văn học. Nhân vật là hình thức cơ bản để miêu tả con
người trong văn học. Quan niệm nghệ thuật về con người là một phạm trù quan
trọng, là khái niệm cơ bản nhằm thể hiện khả năng khám phá, sáng tạo trong lĩnh
vực miêu tả, thể hiện con người của nhà văn. Mỗi nhà văn ở mỗi thời đại lại có
những quan niệm khác nhau về con người, chi phối đến cách xây dựng và thể hiện
tính cách nhân vật trong tác phẩm văn học. Khái niệm quan niệm về con người vẫn
còn nhiều cách định nghĩa và diễn đạt khác nhau. Giáo sư Trần Đình Sử cho rằng:
"Quan niệm nghệ thuật về con người là một cách cắt nghĩa, lí giải tầm hiểu biết,
tầm đánh giá, tầm trí tuệ, tầm nhìn, tầm cảm của nhà văn về con người được thể
hiện trong tác phẩm của mình”[12; tr 15]. Giáo sư Huỳnh Như Phương nhận xét:


12


“Quan niệm nghệ thuật về con người thể hiện tầm nhìn của nhà văn và chiều sâu
triết lí của tác phẩm”. Từ điển Thuật ngữ văn học định nghĩa như sau: “Quan niệm
nghệ thuật là hình thức bên trong, là hệ quy chiếu ẩn chìm trong hình thức tác
phẩm. Nó gắn với các phạm trù khác như phương pháp sáng tác, phong cách của
nhà văn, làm thành thước đo của hình thức văn học và cơ sở của tư duy nghệ
thuật.” [17; tr 275].
Quan niệm nghệ thuật về con người là hình thức đặc thù thể hiện con người
trong văn hoc, đó là những nguyên tắc cảm thấy, hiểu biết và miêu tả con người
trong văn học, được hiểu là cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ, cách cắt nghĩa lí giải
của nhà văn về con người. Đó là quan niệm mà nhà văn thể hiện trong từng tác
phẩm. Quan niệm ấy bao giờ cũng gắn liền với cách cảm thụ và biểu hiện chủ quan
sáng tạo của chủ thể. Như vậy, trung tâm của văn học là con người nên con
người cũng là đối tượng thẩm mĩ để tác giả thể hiện quan niệm của mình về cuộc
sống. Chủ thể sáng tác sẽ là người vận động và suy nghĩ về con người, cho con
người, nêu ra những tư tưởng mới để hiểu về con người. Như vậy quan niệm nghệ
thuật về con người là một yếu tố vô cùng cần thiết và quan trọng, từ đó ta hiểu được
bản chất phản ánh của nghệ thuật, những yêu cầu sáng tạo thẩm mĩ về nghệ thuật, nội
dung phản ánh và nghệ thuật biểu hiện tới sự vận động của con người trong văn học.
1.2 Khái lược về thế giới quan sáng tác và quan niệm về con người trong văn
học hiện đại Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến trước Cách mạng tháng Tám
1945.
1.2.1 Khái lược về thế giới quan sáng tác của các nhà văn đương thời
Mỗi một tác phẩm văn học đều chứa đựng một nội dung tư tưởng nào đó và
không bao giờ là sự lý giải dửng dưng mà là phải gắn liền với một cảm xúc mãnh
liệt, đó có thể là những tình cảm khẳng định: là niềm say mê khẳng định chân lý, lý
tưởng ngợi ca, vui sướng, biết ơn, yêu thương hay có thể là những tình cảm phủ
định giả dối và mọi hiện tượng xấu xa, tiêu cực, châm biếm, mỉa mai…vv, là thái độ
ngợi ca đồng tình với nhân vật chính diện, là sự phê phán tố cáo thế lực đen tối, các
hiện tượng tầm thường.Đồng thời tác phẩm phải mang ý nghĩa xã hội khi nó đẩy lên

được những cảm xúc về cõi nhân sinh, về con người, về cuộc đời mãnh liệt và sâu


13

sắc thì mới rung động được lòng người và tạo nên giá trị tư tưởng nghệ thuật cho
tác phẩm.
Thế giới quan của nhà văn được thể hiện ở việc lựa chọn sự việc miêu tả
(đứng trước những hiện thực cuộc sống phức tạp muôn vẻ, nhà văn phải biết chú ý
đến hiện tượng nào và cho đó là có ý nghĩa nhất) hay ở việc đánh giá những hiện
tượng, ở thái độ và khuynh hướng giải quyết những vấn đề đặt ra trong tác phẩm và
việc xây dựng hình thức nghệ thuật. Trong giai đoạn 1930- 1945 các nhà văn lãng
mạn tiêu cực chỉ ý niệm xung quanh “ cái tôi” nhỏ bé hoặc cái ta viển vông thì các
nhà văn hiện thực lại thiên về miêu tả hiện thực đời sống thống khổ của nhân dân và
tầng lớp dân nghèo thành thị còn các nhà văn cách mạng lại đề cập đến vấn đề đấu
tranh giải phóng dân tộc, hình ảnh những người chiến sĩ kiên cường.
Trong giai đoạn 1930 – 1945 là giai đoạn đất nước ta đương đầu với nhiều
biến động to lớn về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội rõ nét. Dưới ách thống trị của
thực dân Pháp, nước ta rơi vào khủng hoảng trầm trọng mà đỉnh điểm là nạn đói
1945 khiến cho hàng triệu đồng bào bị thiệt mạng. Bằng ngòi bút sắc bén của mình,
các nhà văn hiện thực tài năng đã khắc họa sống động và phê phán một cách sâu sắc
con người, chế độ và cuộc sống bấy giờ.Với hoàn cảnh đất nước như vậy, thế giới
quan sáng tác của các nhà văn vô cùng phong phú và đa dạng, họ luôn có cái nhìn
đa chiều, đa diện về xã hội đặc biệt mỗi nhà văn lại có những đề tài mới mẻ để gửi
gắm qua những trang viết của mình và nói lên những suy nghĩ trăn trở và thông
điệp, tình cảm nào đó thông qua tác phẩm văn học. Chúng tôi sơ lược qua một vài
quan điểm sáng tác của một số nhà văn hiện thực giai đoạn này để thấy những đặc
sắc, mới mẻ trong thế giới quan sáng tác của mỗi nhà văn.
Nguyễn Công Hoan là nhà văn hàng đầu của nền văn học hiện thực phê phán
Việt Nam.Ngòi bút của ông vô cùng sắc sảo, mang tính đột phá, bất ngờ với những

quan điểm nhìn nhận trong thế giới xã hội hiện thực đầy biến động đó là quan điểm
giàu nghèo và quan điểm luân lí đạo đức là hai quan điểm cốt lõi trong sáng tác của
Nguyễn Công Hoan xuất phát từ thực tế cuộc sống mà ông đã trải qua và chứng
kiến. Vốn hiểu biết về cuộc sống nơi quan trường hay nỗi long đong của nghề giáo
khiến ông có điều kiện tiếp xúc với đủ hạng người giàu nghèo sang hèn trong xã
hội, sống ở nhiều vùng đất, chứng kiến nhiều cảnh đời tạo nên một vốn sống vô


14

cùng phong phú và là chất liệu cho sáng tác của mình.Trong thời buổi Tây, Tàu nhố
nhăng, đứng trên lập trường của lớp quan lại lỗi thời, Nguyễn Công Hoan đả kích
bọn quan lại vô liêm sỉ, bọn tư sản chạy theo lối “Âu hóa” nhố nhăng đồi bại, nhà
văn căm ghét xã hội thực dân tư bản, những kẻ có tiền, có quyền hà hiếp dân lành.
Bản tính đùa cợt, tinh nghịch và năng khiếu trào phúng bẩm sinh, cá tính sáng tạo
được phát huy trong bối cảnh xã hội có nhiều cái đáng phê phán và đáng cười chi
phối đến tính chủ quan trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan để tạo ra được tiểu
thuyết “ Những cảnh khốn nạn”, “Tắt lửa lòng”, “ Lá ngọc cành vàng”, “Ông chủ”,
“Bà chủ”, “Bước đường cùng”….vv sâu sắc trong lòng người đọc. Ông luôn đứng
về phía người nghèo, bênh vực họ đồng thời lên án, tố cáo bọn có tiền, có quyền bất
nhân bất nghĩa.
Nam Cao một nhà văn hiện thực kiệt xuất có tư tưởng nhân đạo phong phú và
sâu sắc, mà còn là nhà văn có quan điểm sáng tác nghệ thuật tiến bộ và nhất quán.
Suốt cuộc đời cầm bút của mình, Nam Cao luôn luôn suy nghĩ về “Sống” và “Viết”.
Ban đầu, ông chịu ảnh hưởng sâu nặng của thứ nghệ thuật lãng mạn thoát li thi vị
hóa hiện thực, ông đã sáng tác những bài thơ, truyện tình tâm lí, dễ dãi. Nhưng vốn
là một nghệ sĩ chân chính, giàu tình thương yêu quần chúng lao khổ, Nam Cao đã
sớm nhận ra thứ văn chương thơm tho đó xa lạ với đời sống lầm than của đông đảo
quần chúng nghèo khổ xung quanh. Và ông đã đoạn tuyệt với nó, để tìm đến con
đường nghệ thuật hiện thực chân chính, “nghệ thuật vị nhân sinh”. Theo Nam Cao,

người cầm bút chân chính không được “trốn tránh” sự thực mà “cứ đứng trong lao
khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của cuộc đời…”. Nam Cao chủ
trương văn học phải chứa đựng nội dung nhân đạo. Tác phẩm văn học có giá trị
không chỉ phản ánh sự thực đời sống mà còn phải có giá trị nhân đạo sâu sắc. Chủ
trương văn chương phải miêu tả được hiện thực, phải diễn tả được tiếng lòng đau
khổ của quần chúng.Từ những quan niệm nghệ thuật thấm đẫm vị nhân sinh đó nên
các tác phẩm của nhà văn tập trung vào hai mảng đề tài lớn đó là đề tài nông thôn,
nông dân nghèo và đề tài tiểu tư sản như Chí Phèo, Sống Mòn, Đời Thừa, Giăng
sáng, Nghèo, Một bữa no....vv. Tất cả tác phẩm đều mang giá trị nhân đạo sâu sắc.
Chính sự phát hiện và lý giải hiện thực của các nhà văn đã cho thấy nhiều điều
mới mẻ trong tư tưởng tác phẩm của mình. Sự vang động xã hội của tác phẩm


15

không chỉ phụ thuộc vào vào chiều rộng hoặc chiều sâu hiện thực phản ánh mà còn
phụ thuộc vào việc nhà văn nói lên những tư tưởng xã hội nào, thể hiện trung thực
đến đâu, những nguyện vọng tâm tư nhân dân, yêu cầu của xã hội và thời đại, luôn
có cái nhìn thế giới quan sâu rộng gắn liền với thời đại và xã hội mình đang sống.
1.2.2 Khái lược quan niệm về con người trong văn học hiện đại Việt Nam từ
đầu thế kỉ XX đến trước Cách mạng tháng Tám 1945.
Cuộc sống luôn vận động theo từng giai đoạn lịch sử nên văn học ở mỗi giai
đoạn khác nhau sẽ thể hiện con người với những đặc điểm riêng biệt. Nếu như trong
văn học dân gian, con người được thể hiện là sản phẩm của tự nhiên gồm cả yếu tố
bản năng và ý thức: vừa có vẻ đẹp về thể xác, vừa có vẻ đẹp về tâm hồn, trí tuệ.
Ngoài những nhu cầu bản năng, con người còn có ý thức, có khả năng thăng hoa
những nhu cầu ấy thành chất Người. Con người thăng hoa nhu cầu ăn uống thành
văn hoá ẩm thực, thăng hoa nhu cầu tình dục thành tình yêu. Con người ham sống
nhưng không sống bằng mọi giá. Họ hiểu sống phải có vật chất nhưng còn hiểu
sống cần có cả những cái cao hơn vật chất, đó là tinh thần, là tình thương và danh

dự. Trong văn học trung đại Việt Nam, quan niệm về con người chi phối cả một
thời kì văn học là quan niệm con người vũ trụ, con người đạo đức, luân lí, con
người của chí khí, tỏ chí và tỏ lòng, con người đấng bậc. Đến thời kì hiện đại, từ
đầu thế kỉ XX, khi điều kiện lịch sử, văn hóa, xã hội có nhiều đổi khác thì quan
niệm về con người trong văn học cũng thay đổi theo. Con người tự nhiên, bản năng
từng được thể hiện trong văn học dân gian, bị bó hẹp bởi những quy định khắt khe
của văn học Nho giáo thời trung đại. Con người cá nhân từng được ghi dấu trong
văn học trung đại giai đoạn cuối đến thời kì hiện đại đã được khẳng định rõ nét. Sự
vận động nội tại của văn học gặp luồng gió văn hóa phương Tây đầu thế kỉ XX đã
tạo nên sự thể hiện con người cá nhân trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến
trước Cách mạng tháng Tám 1945.
Trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến trước Cách mạng tháng Tám
1945 có những hiện tượng văn học lớn với những quan niệm về con người đáng chú
ý.
Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn đã thể hiện một quan niệm con người mới làm
nền tảng cho việc xây dựng cốt truyện và miêu tả nhân vật trong tác phẩm. Đó là con


16

người cá nhân với khát vọng tìm cách thoát ly mọi quan hệ xã hội để thỏa mãn tự do
bản năng. Con người cá nhân không chịu gò mình trong khuôn khổ lễ giáo phong
kiến, muốn vượt ra ngoài vòng cương tỏa để hướng đến quyền tự do quyết định hạnh
phúc.Đặc biệt là tiểu thuyết Tự lực văn đoàn đã mở đầu cách miêu tả thế giới nội tâm
con người, chú ý trình bày thế giới cảm giác của con người với môi trường xung
quanh, đối với người khác và đối với chính mình. Nội dung tiểu thuyết Tự lực văn
đoàn là thay đổi cách nhìn về con người. Nhà văn đưa con người ra đấu tranh trực
diện với xã hội cũ.
Thơ mới là thơ phát hiện cái tôi cá nhân thành thực, thầm kín của mỗi người.
Thơ mới, thuộc khuynh hướng văn học lãng mạn xuất hiện mang theo một quan

niệm mới mẻ về con người, là con người cá nhân với tất cả những biểu hiện trần thế
nhất, là cái Tôi riêng “Tôi chỉ là một khách tình si”, “Tôi là kẻ bộ hành phiêu lãng”,
“Tôi là con chim đến từ núi lạ”, “Tôi là con nai bị chiều đánh lưới”…Cái Tôi cá
nhân như đứng giữa cuộc đời để khẳng định sự xuất hiện của mình, thể hiện những
xúc cảm sâu sắc và chân thành. Cái Tôi thi sĩ tự nhìn thấu tâm hồn mình và thể hiện
trên trang thơ những cảm xúc chân thực, sâu sắc nhất của tâm hồn trước cuộc đời.
Văn xuôi hiện thực nhìn xã hội trong quan hệ với số phận và ứng xử cá
nhân.Văn học hiện thực xem con người là sản phẩm của hoàn cảnh, là tiêu bản của
hoàn cảnh. Nhà văn mổ xẻ con người chính là khám phá tác động hoàn cảnh lên con
người.Các nhà văn tiêu biểu giai đoạn này như Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Ngô
Tất Tố.....Chúng tôi chỉ điểm qua vài nét về quan niêm con người của một số nhà
văn.
Đối với Nguyễn Công Hoan, mỗi con người là một diễn viên đóng vai trong
tấn trò đời, vì "Đời là sân khấu hài kịch. Khi mọi người đều đóng trò, đều diễn thì
ta có một xã hội giả dối, đánh mất bản chất chân thật. Con người bị tha hoá, không
còn chung thuỷ, không còn hiếu, không còn tình, không còn vui, thích thật nữa! Bề
ngoài cái gì nó cũng có, mà bên trong thì không có gì cả, bên trong một đằng bên
ngoài một nẻo. Quan niệm về con người của Nguyễn Công Hoan còn có điểm mới,
ông miêu tả con người bị vật hoá: ngựa người, người ngựa, người tranh cơm với
chó, người biến thành cây thịt, bộ xương,... Bằng quan niệm con người làm trò và
con người bị vật hoá, Nguyễn Công Hoan đã cười vào cái xã hội giả dối, phi nhân


17

tính trong thực tại. Nguyễn Công Hoan đã đề cập đến một khía cạnh sâu sắc nhất
trong xã hội đồng tiền: sức mạnh của đồng tiền đã biến con người thành hàng hóa,
thành đồ vật. Đó là cái hiện thực tất nhiên, là hậu quả của xã hội tư sản.
Nam Cao là nhà văn tập đại thành của văn xuôi hiện đại trước Cách mạng
tháng Tám 1945. Ông tiếp thu quan niệm con người cảm giác, ông chấp nhận con

người bị tha hoá, dị dạng trước những tác động của hoàn cảnh nhưng ông cũng thấy
con người ở nơi sâu thẳm vẫn còn giữ được tính người. Vì vậy tác phẩm của Nam
Cao vừa đau đớn, vừa mạnh mẽ, nhức nhối. Nam Cao là nhà văn đặt ra được những
vấn đề con người bức xúc nhất, sâu sắc nhất, nan giải nhất. Nếu hiểu tiểu thuyết là
hình thức nghệ thuật cung cấp những giải pháp thẩm mỹ cho những vấn đề con
người chưa được giải quyết trong hiện thực xã hội, lịch sử thì quan niệm nghệ thuật
về con người của Nam Cao đã mang chất tiểu thuyết sâu sắc nhất.
Như vậy, sự xuất hiện của văn xuôi lãng mạn Tự lực văn đoàn, Thơ mới và
văn xuôi hiện thực với những cây bút xuất sắc trong văn học Việt Nam giai đoạn
1930-1945 đã thể hiện quan niệm mới mẻ về con người, khác biệt với quan niệm về
con người trong văn học dân gian và văn học trung đại. Sự thay đổi trong quan niệm
về con người phù hợp với hoàn cảnh thời đại có ý nghĩa quan trọng, giúp văn học
thực hiện được chức năng của nó là phản ánh chân thực bộ mặt của xã hội mới với
những con người mới, tâm tư, tình cảm mới.
Tiểu thuyết là một thể loại văn xuôi, cũng vì thế được kế thừa thành quả của
quá trình hiện đại hóa văn học đã diễn ra và phát triển từ những năm 30 của thế kỉ
XX, trong đó có quan niệm mới mẻ về con người.Tiểu thuyết khám phá con người ở
góc độ cái Tôi cá nhân, thể hiện đặc điểm tính cách của từng lớp người cụ thể, cá tính
của từng con người cụ thể được phản ánh. Trong một xã hội có sự giao thoa giữa hai
luồng văn hóa Đông – Tây, con người với những mong muốn, sở thích của cá nhân,
dám sống thật với bản chất con người của chính mình chứ không phải uốn mình theo
khuôn phép lễ giáo phong kiến. Các tác giả trong giai đoạn này cũng đã lắng nghe và
thể hiện trên trang viết những suy nghĩ, thái độ, xúc cảm riêng tư của con người,
1.3. Thế giới quan sáng tác của Vũ Trọng Phụng.
1.3.1. Vài nét về tiểu sử và con người Vũ Trọng Phụng


18

Vũ Trọng Phụng sinh năm 1912 tại Hà Nội, trong một gia đình dân nghèo.

Ông quê ở làng Hảo (Bần Yên Nhân), huyện Mĩ Hào, tỉnh Hưng Yên. Cha mất sớm
khi nhà văn mới 7 tháng. Mẹ ông là bà Phạm Thị Khách làm nghề khâu vá thuê, khi
chồng chết mới 24 tuổi, đã ở vậy nuôi con. Theo lời Nguyễn Tuân, đó là “ một
người mẹ chí từ của một người con chí hiếu” đã âm thầm tận tụy hi sinh vì con.
Năm 1926 Vũ Trọng Phụng đỗ bằng tiểu học nhưng vì gia đình nghèo túng nên phải
thôi học để đi làm kiếm sống, đỡ đần cho mẹ. Ông xin làm thư kí nhà Gô Đa vừa
mới được hai tháng thì bị mất việc. Năm 1927, xin được chân đánh máy chữ cho
nhà in Viễn Đông nhưng chỉ được hai năm lại bị mất việc. Từ đó, Vũ Trọng Phụng
chuyển hẳn sang nghề làm báo, viết văn để kiếm sống mưu sinh. Đầu năm 1938, Vũ
Trọng Phụng lấy vợ, đến cuối năm thì có con. Cuộc sống của ông hết sức chật vật,
bấp bênh, nghèo túng. Dù bị bệnh lao, đau đớn trong những cơn ho triền miên dai
dẳng nhưng ông làm việc hăng say không kể ngày đêm để viết ra những bài văn, bài
báo để kiếm tiền nuôi bà, nuôi mẹ, nuôi vợ, nuôi con. Do làm việc quá sức, đời sống
nghèo khổ, ông mắc bệnh lao, Vũ Trọng Phụng qua đời vào ngày 13 tháng 10 năm
1939 để lại bà, mẹ già, người vợ trẻ và đứa con thơ chưa đầy một tuổi.
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo khổ, một thứ “ nghèo gia truyền”
( Ngô Tất Tố), tuổi thơ đi học phải hứng chịu nhiều cay đắng, tủi cực, lại liên tiếp
gặp trắc trở khi vào đời ( hai lần bị đuổi việc). Trong con người Vũ Trọng Phụng
sớm có cái mầm bất mãn với cuộc sống.Môi trường sống của ông ở phố hàng Bạc (
ông sinh tại căn nhà số 36 phố Hàng Gai, sau chủ yếu sống ở căn gác hẹp phố Hàng
Bạc, Hà Nội) hết sức phức tạp, nhốn nháo, xô bồ. Ở đó, những me tây, lưu manh,
gái điếm, những kẻ có tiền ngang nhiên sống xa hoa, trụy lạc, tàn nhẫn và giả dối.
Hoàn cảnh xã hội nước ta lúc bấy giờ rất phức tạp, lối sống Âu hóa kệch cỡm, sự
thống khổ của nhân dân lao động, sự tàn bạo giả dối của giai cấp thống trị bộc lộ rõ
nét. Là một người tri thức, với khả năng nắm bắt tinh nhạy của người làm báo, lại là
người có ý thức thường xuyên theo dõi sách báo trong nước và nước ngoài, tiếp xúc
với nhiều hạng người,Vũ Trọng Phụng đã cảm nhận sâu sắc sự bất công của xã hội
đương thời, nhà văn hiểu bản chất xấu xa của thực dân Pháp và tổ chức chính trị,
guồng máy cai trị, những nhân vật gọi là tai to mặt lớn trong luồng gió Âu hóa tràn
vào nước ta, tạo nên trong ông thái độ căm phẫn, uất ức cao độ với xã hội “ khốn



19

nạn”, “chó đểu” ấy. Ông căm phẫn bọn có tiền trâng tráo nhưng bất lực đồng thời có
sự cảm thông với người dân nghèo, những con người dưới đáy của xã hội nhưng
cũng không tin vào bản chất tốt đẹp của tầng lớp “hạ lưu” “dưới đáy” xã hội này.
Chịu sự giáo dục của lễ giáo phong kiến qua bà mẹ, là người sống khuôn
phép và mực thước. Chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử xã hội, cuộc khủng hoảng
kinh tế 1929 -1933 quy mô toàn thế giới, phong trào Âu hóa rầm rộ làm cho tình
trạng xã hội bi thương hơn, đặc biệt đối với tầng lớp tiểu tư sản thì cuộc sống lại
càng bế tắc. Đời sống xã hội ấy cung cấp cho nhà văn nhiều hình mẫu nhân vật gây
ra trong ông ý thức mạnh dạn và táo bạo, sự cần thiết bày tỏ thái độ trước hiện thực
xấu xa.
1.3.2. Thế giới quan sáng tác của Vũ Trọng Phụng
Vũ Trọng Phụng trưởng thành và bắt đầu văn nghiệp của mình trong một giai
đọan lịch sử đầy những biến động dữ dội và phức tạp. Các sự kiện lịch sử xã hội đó
có ảnh hưởng trực tiếp, sâu sắc tới tư tưởng, sự nghiệp sáng tác của nhà văn hơn
nữa các yếu tố hoàn cảnh gia đình, con người đều tác động đến sáng tác của ông.
Vũ Trọng Phụng là một người tri thức, tiếp thu và ham học học những kiến
thức tinh hoa qua trang sách báo, những tác phẩm của văn học Pháp, của A. Gide,
của Freud nên ông nhìn xã hội bấy giờ với con mắt của một người Tây học, nhìn rõ
bản chất của một xã hội nhá nhem, nửa quê, nửa tỉnh, nửa Tây, nửa Ta trong làn
sóng Âu hóa với những nhân vật nửa ông, nửa thằng, ma cô, gái điếm, con sen,
thằng quýt....nhố nhăng, đồi bại. Những con người ấy với những cảnh tượng ăn
chơi, trụy lạc, đểu cáng, bịp bợm va đập vào mắt ông hằng ngày làm cho ông nhìn
rõ mặt trái của xã hội, cái xấu của từng con người, nhìn sâu rõ bản chất tính cách
của từng kiểu nhân vật và thấy được sự thay đổi, diễn biến tâm lý, tính cách của
kiểu nhân vật như Xuân tóc đỏ, Phó Đoan trong Số đỏ; Long, Mịch, Nghị Hách
trong Giông tố; Phúc trong Trúng số độc đắc; Liêm trong Lấy nhau vì tình...vv. Ta

nhận thấy tiêu điểm của sự chú ý trong văn chương cũng như các tác phẩm Vũ
Trọng Phụng không gì khác ngoài những cảnh đời nhố nhăng xô bồ, những thói tật
của con người, những cảnh huống oái oăm trong cuộc sống. Nhà văn muốn săm soi
một cách kỹ lưỡng, muốn phanh phui ngọn ngành mọi thứ làm sao cho bật dậy hết


20

cái sự thật cay đắng của cuộc đời. Trong quá trình mổ xẻ đó, ta thấy được tâm trạng
phẫn uất cao độ của ông, nỗi căm giận của một con người thua thiệt, bất hạnh.
Thế giới quan sáng tác của Vũ Trọng Phụng đã chi phối đến việc lựa chọn hệ
thống nhân vật trong các sáng tác, trong tiểu thuyết đó là những lớp người ở thành
thị, chi phối đến việc lựa chọn các kiểu nhân vật, chi phối đến việc xây dựng tính
cách nhân vật của các kiểu nhân vật trong tác phẩm cuả ông. Thế giới quan sáng tác
của ông chi phối quan niệm về các kiểu dạng người trong xã hội của ông.
1.3.2.1 Quan niệm của Vũ Trọng Phụng về con người “tha hóa, biến chất”
Theo từ điển Tiếng Việt, “tha hóa” là một tính từ có hai nghĩa. “Tha hóa” là trở
nên khác đi, biến thành cái khác (chỉ hiện tượng, sự vật). “Tha hóa” chỉ con người
trở nên xấu đi, mất phẩm chất đạo đức. “Biến chất” là biến đổi, thay đổi bản chất
vốn có của mình.
Nhân vật “tha hóa, biến chất” là khái niệm chỉ con người trong tác phẩm văn
học bị mất phẩm chất đạo đức, trở thành con người xấu đi so với bản chất tốt đẹp
vốn có của con người [61]. Nhân vật tha hóa do nhà văn hư cấu, tưởng tượng xây
dựng nên nhằm phản ánh hiện thực xã hội mục ruỗng, xấu xa đã làm biến đổi bản
chất con người. Theo nghĩa rộng tha hóa là “tình trạng con người bị bóp nghẹt bởi
hoàn cảnh xã hội thối nát, con người không thể sống như mình mong muốn, đánh
mất chất người của mình”. Nhân vật “tha hóa, biến chất” là sản phẩm của chủ nghĩa
hiện thực. Sự ra đời của chủ nghĩa hiện thực tạo ra một bước ngoặt trong việc khám
phá con người. Chủ nghĩa hiện thực luôn gắn với con người, hoàn cảnh, môi trường.
Tính cách nhân vật bị qui định bởi hoàn cảnh và biến đổi theo hoàn cảnh. Do đó, tất

cả các loại người trong xã hội, đặc biệt là loại người xấu xa, kệch cỡm, biến chất
đều được nhà văn quan tâm phản ánh vào tác phẩm.
Tha hóa có những hình thái khác nhau tùy theo các hình thái xã hội và hoạt
động và tha hóa có tính chất xã hội. Con người tha hóa là con người ra đời trong
hoàn cảnh xã hội nhất định. Khái niệm “tha hóa” được nhiều nhà triết học lớn như
Hegel, Feurbach, K.Marx đề cập đến thuộc về một phạm trù triết học.Theo Marx thì
hoàn cảnh xã hội đó chính là xã hội tư bản, con người trở thành nô lệ của đồng tiền
và nô lệ với những mối quan hệ quanh quan hệ giữa tiền bạc, lợi nhuận và con
người. Nói cách khác con người không được tự do về mặt xã hội, kinh tế mà bị


21

cưỡng bức, bị phụ thuộc. Theo giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh thì nhân vật tha hóa
được ra đời trong một xã hội tha hóa, một xã hội độc ác, bất công, vô lý và “chó
đểu” thời Pháp thuộc.
Nhân vật tha hóa trong văn học lãng mạn thì chưa được các nhà văn quan tâm
nhiều nhưng đối với văn học hiện thực thì đã có rất nhiều tác giả viết nên những
trang nhân vật “ tha hóa” gây ấn tượng và khắc sâu trong lòng độc giả. Nhân vật tha
hóa có thể chia làm hai dạng:Dạng thứ nhất, nhân vật tha hóa là sản phẩm của xã
hội thực dân nửa phong kiến thời pháp thuộc, xã hội này đẻ ra những con người
thuộc về nó. Đối với loại nhân vật này sự tha hóa đã ăn sâu vào máu thịt của chúng
và vì thế chúng cứ trượt dài trên sự tha hóa như tha hóa chính là bản chất của chúng
vậy, ví dụ nhân vật Long trong Giông tố, Huyền trong Làm đĩ…Dạng thứ hai, nhân
vật tha hóa chính là nạn nhân của xã hội thực dân nửa phong kiến. Những chính
sách đàn áp của chúng đã dẫn đến cuộc sống đói nghèo tăm tối của những con
người tầng lớp dưới đáy xã hội, xô đẩy họ đến bước đường cùng và biến họ thành
kẻ lưu manh tội lỗi. Đối với loại nhân vật này, ta thường thấy họ là những con
người có bản chất tốt đẹp và khi bị tha hóa thì họ luôn phải “ quẫy đạp”, dằn vặt để
thoát khỏi số phận bị tha hóa của họ để trở về với những gì mà họ cho là tốt đẹp của

con người như nhân vật Tám Bính trong Bỉ Vỏ, Thứ trong Đời Thừa, Chí Phèo
trong tác phẩm cùng tên.
Ý thức về mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh xã hội.Vũ Trọng Phụng đã
chú ý đến loại nhân vật “ tha hóa”.Trong tám cuốn tiểu thuyết của nhà văn thì có
đến năm nhân vật chính (trong bốn tiểu thuyết) là nhân vật tha hóa và những nhân
vật ấy đã trở thành mối quan tâm đặc biệt, ám ảnh với tác giả ( Việt Anh trong Dứt
tình; Long, Mịch trong Giông tố; Huyền trong Làm đĩ; Phúc trong Trúng số độc
đắc).Vũ Trọng Phụng cũng như các nhà văn hiện thực có cái nhìn về mối quan hệ
giữa con người và hoàn cảnh, sớm nhận thấy sự “ tha hóa” như một hệ quả tất yếu
của sự biến đổi tính cách con người dưới sự tác động của quan hệ xã hội và Vũ
Trọng Phụng là một nhà văn đặc biệt quan tâm sâu sắc đến kiểu người “tha hóa”.
Nhà văn đã phơi bày tất cả những điều quái gở, phanh phui các nguyên nhân và dõi
theo từng chặng đường dẫn nhân vật đến sự tha hóa. Trương Tửu trong lời nhận xét
về Vũ Trọng Phụng: “ là một người yêu đời, thèm biết và mến chuộng công lý - nhất


22

là mến chuộng công lý.Cuộc đời mà ông nhìn thấy mâu thuẫn hẳn với linh hồn
ông.Và đã nhiều lần ông tê tái trước cảnh trái mắt của xã hội, ông già trước
tuổi…não trạng này chính thực ra chỉ là một biểu thị tự vệ của một lòng yêu đời
nồng nàn và ngây dại…Trong cuộc sống cũng như trong văn chương ông luôn luôn
sốt sắng tìm phương thuốc sau khi trình bày một căn bệnh của người đời”…[62];Vũ
Trọng Phụng đã “chăm chỉ tìm nguyên nhân, sự sa ngã của những người tử tế” và
thực tế thì ông đã: “ nhận thấy sự sa ngã kia có hai nguồn gốc chính. Một là hạng
người giàu sang trong xã hội được đủ quyền để gây ra nó.Hai là hạng người lầm
đường muốn theo gót bà giàu sang để đến nỗi chóng mặt té nhào” [62]. Ông băn
khoăn, day dứt, tìm cách cắt nghĩa vì sao Mịch trở thành thiếu phụ dâm đãng, Long
sa đọa trong cảnh giàu sang và Huyền bước vào con đường làm đĩ. Những câu hỏi
vang lên đi tìm nguyên nhân trong nhiều trang tiểu thuyết Giông tố, Làm đĩ,… như:

“ Một người xưa kia như thế mà bây giờ như thế? Hay là tại ông Đồ chưa phải hẳn
người thấm nhuần đạo Nho? ”, “ Những sự khó hiểu trái ngược nhau đến thế, trong
cái thời gian chưa đầy nửa năm! Những nguyên nhân nào đã làm thay đổi lòng
người đến thế?” [47; tr 234- 235] “ Thế nào là hư? Tại sao là hư? Tại sao mà hư?
Nếu nó hư thì nó chịu lấy trách nhiệm thôi hay là còn có kẻ khác cũng đang buộc
tội? ”[47; tr 72]. Quả thật Trương Tửu nhận xét rất đúng: “Một ngày ông thấy một
gái đĩ rơi xuống đời gái điếm, một thanh niên rơi xuống đời bài bạc, một người rơi
xuống đời cơm thầy cơm cô hay đời trộm cướp.Ông rùng mình.Ông chăm chỉ tìm
nguyên nhân của sự sa ngã ấy” [64; tr 139].
Qua tìm hiểu đi sâu cắt nghĩa quá trình tha hóa của các nhân vật Long, Mịch,
Huyền….Vũ Trọng Phụng hướng sự căm thù vào bọn tư sản, bọn giàu có trong xã
hội, chính chúng và những đồng tiền nhơ bẩn chính là nguyên nhân gây ra sự biến
chất, hư hỏng của nhiều con người thời đó. Chính nguyên nhân đó ta dễ hiểu vì sao
Mịch ban đầu là một cô gái quê mùa, hiền lành, chất phác; Long là một đứa trẻ mồ
côi, có đạo đức, trọng danh dự, làm việc cho Đại Việt học hiệu Tú Anh; Huyền là
một cô gái con nhà tử tế, có học, thông minh. Thế nhưng họ không thể nào sống yên
ổn, dù họ đã chấp nhận số phận của mình. Cuộc sống với biết bao tấn bi kịch ập đến
với họ để rồi kết cục số phận của họ thật đau đớn: Mịch lẻ loi, cô độc trong phận lẽ
mọn trở nên trơ tráo, dâm đãng; Long tự tử sau cơn thác loạn; Huyền chấp nhận


×