Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Các hình thức của di chúc (phân tích quy định của pháp luật và cho ví dụ minh họa)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.81 KB, 14 trang )

Mở đầu
Thừa kế là một chế định pháp luật dân sự, là tổng hợp các quy phạm pháp
luật điều chỉnh việc chuyển dịch tài sản của người chết cho người khác theo di
chúc hoặc theo một trình tự nhất định, đồng thời quy định phạm vi quyền, nghĩa
vụ và phương thức bảo vệ các quyền và nghĩa vụ của người thừa kế. Nói đến thừa
kế không thể không nói đến di chúc, theo Điều 624 BLDS 2015 thì di chúc là sự
thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển di sản của mình cho người khác sau khi
chết. Vậy, di chúc được thể hiện dưới những hình thức nào? Để hiểu rõ hơn vấn đề
này, em xin đi tìm hiểu đề tài: “ Các hình thức của di chúc (phân tích quy định
của pháp luật và cho ví dụ minh họa)”

Nội dung
I. Khái quát chung về di chúc
1. Di chúc
Điều 624 BLDS 2015 quy định: “di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm
chuyển di sản của mình cho người khác sau khi chết”. theo quy định này thì di
chúc phải có các yếu tố sau:
Thứ nhất, đó là sự thể hiện ý chí của cá nhân mà không phải là của bất cứ chủ
thể nào khác.
Thứ hai, mục đích của việc lập di chúc là chuyển tài sản là di sản của mình cho
người khác.
Thứ ba, di chúc chỉ có hiệu lực sau khi người đó chết
2. Điều kiện của di chúc
a. Người lập di chúc


Người lập di chúc là người theo quy định của pháp luật có quyền lập di chúc để
định đoạt khối tài sản của mình cho những người khác còn sống sau khi chết với ý
chí hoàn toàn tự nguyện.
Theo quy định tại Điều 625 BLDS 2015, căn cứ vào năng lực chủ thể của mỗi
cá nhân trong việc nhận thức và thể hiện ý chí cũng như khả năng tạo lập được tài


sản thuộc sở hữu của mình mà pháp luật quy định hai chủ thể là người có quyền
lập di chúc để dịch chuyển tài sản của mình cho những người còn sống sau khi
chết, bao gồm:
Thứ nhất, người đã thành niên, và tại thời điểm lập di chúc họ là người minh
mẫn, sáng suốt, không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép.
Theo quy định tại Điều 20 BLDS 2015 thì “người thành niên là người từ đủ
mười tám tuổi trở lên” và người thành niên được coi là người có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ, trừ trường hợp người đó bị mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế
năng lực hành vi dân sự, khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi. Họ có khả
năng nhận thức, thực hiện hành vi và hậu quả của hành vi, tự chịu trách nhiệm về
hành vi của mình trong việc xác lập giao dịch dân sự.
Thứ hai, người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di
chúc nếu được cha mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.
Người từ đủ mười lăm tuổi trở lên có thể có tài sản riêng vì vậy họ có quyền lập
di chúc để định đoạt tài sản riêng của mình. Tuy nhiên những người ở độ tuổi này
thường chưa nhận thức đầy đủ của việc thực hiện hành vi cũng như hậu quả của
hành vi, vì vậy pháp luật quy định cần phải có sự đồng ý của cha mẹ hoặc người
giám hộ về việc lập di chúc.
b. Các điều kiện có hiệu lực của di chúc


Thứ nhất, người lập di chúc phải có năng lực chủ thể. Như đã nêu ở ý a. Đây là
điều kiện tiên quyết, có ý nghĩa rất lớn trong việc đánh giá giá tri pháp lý của di
chúc, đảm bảo tính chính xác theo ý chí của chủ thể.
Thứ hai, người lập di chúc tự nguyện, không bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép.
Tự nguyện của người lập di chúc là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí của họ.
Thứ ba, nội dung của di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội. Nội dung
của di chúc là sự thể hiện ý chí của người lập di chúc về việc định đoạt tài sản của
mình cho những người thừa kế. Tuy nhiên không phải vì thế mà có thể đi ngược lại
với ý chí của nhà nước và đạo đức xã hội được. Đây là điều kiện để đảm bảo lợi

ích của nhà nước cũng như toàn xã hội.
Thứ tư, hình thức của di chúc không trái quy định của pháp luật. Di chúc của
người chưa thành niên thì phải có sự đồng ý của cha mẹ hoặc người giám hộ, di
chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc người không biết chữ phải có người
làm chứng lập thành văn bản có công chứng, chứng thực. Di chúc miệng chỉ được
coi là hợp pháp nếu người lập di chúc miệng thể hiện ý chí trước ít nhất hai người
làm chứng, hai người làm chứng này phải ghi đầy đủ nội dung của di chúc này và
cùng ký tên, đông thời phải công chứng, chứng thực trong thời hạn năm ngày kể từ
thời điểm người để lại di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng.
c. Người làm chứng
Điều 632 BLDS năm 2015 quy định về điều kiện của người làm chứng cho việc
lập di chúc như sau: “mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ
những người sau đây:
1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;
2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc;


3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi”
Đây là một quy định nhằm đảm bảo sự khách quan, công bằng tính chính xác
của di chúc.
3. Các hình thức của di chúc
Hình thức của di chúc là sự thể hiện ý chí của người để lại di sản ra bên ngoài.
Có hai hình thức của di chúc bao gồm:








Di chúc bằng văn bản, gồm 4 loại:
Di chúc bằng văn bản có người làm chứng
Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng
Di chúc bằng văn bản có công chứng
Di chúc bằng văn bản có chưng thực
Di chúc miệng

Em xin làm rõ hình thức của di chúc trong các phần tiếp theo.
II.

Di chúc bằng văn bản
1. Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng
Điều 633 BLDS năm 2015 quy định: “Người lập di chúc phải tự viết và ký vào

bản di chúc.
Việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải tuân theo quy
định tại điều 631 của Bộ luật này”
Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải do người lập di chúc tự
viết và ký vào bản di chúc. Vì thế, nếu di chúc bằng văn bản không có người làm
chứng mà thể hiện dưới dạng bản đánh máy kể cả chính họ đánh máy hoặc do
người khác viết mặc dù có chữ ký của người để lại di sản thì cũng không hợp pháp.
Hay dù di chúc đó do chính tay người để lại di sản viết mà không có chữ ký của họ


thì cũng sẽ không có giá trị pháp lý. Việc quy định như vậy nhằm đảm bảo cho chủ
thể có thể thể hiện đúng ý chí của mình, tránh gian lận trong việc lập di chúc như
làm giả di chúc… và là chứng cứ chứng minh di chúc đó là do chính người để lại
di sản lập ra mà không phải do ai khác lập. Ví dụ: trong trường hợp những người
thừa kế không thừa nhận di chúc và cho rằng di chúc đó là giả mạo, thì trong thời

kì công nghệ hiện đại như ngày nay việc giám định nét chữ là rất dễ dàng, vì thế,
chỉ cần đến cơ quan giám định nét chữ là sẽ biết ngay là thật hay giả.
Đối với di chúc bằng văn bản không có người làm chứng thì ngoài việc người
để lại di sản phải đáp ứng được những điều kiện của người có quyền lập di chúc thì
họ phải là người biết chữ vì có biết chữ thì họ mới tự tay viết di chúc và ký tên
được. Còn về chữ viết dùng để lập di chúc thì không bắt buộc nhất thiết phải là
tiếng việt, ngoài tiếng việt có thể sử dụng chữ viết thuộc ngôn ngữ của các dân tộc
ít người khác trên đất nước Việt Nam.
Điều 631 BLDS năm 2015 quy định về nội dung di chúc như sau:
“1. Di chúc gồm các nội dung chủ yếu sau:
a)
b)
c)
d)

Ngày, tháng, năm lập di chúc;
Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc;
Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản;
Di sản để lại và nơi có di sản.

2. Ngoài các nội dung quy định tại khoản 1 Điều này, di chúc có thể có các nội
dung khác.
3. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu, nếu di chúc gồm nhiều trang
thì mỗi trang phải được ghi số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di
chúc.


Trường hợp di chúc có sự tẩy xóa, sửa chữa thì người tự viết di chúc hoặc
người làm chứng di chúc phải ký tên bên cạnh chỗ tẩy xóa, sửa chữa.”
Như vậy, nội dung di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải tuân

theo đúng các quy định được nêu trong Điều 631 trên thì mới được coi là hợp
pháp, nếu trái một trong các quy định đó bản di chúc sẽ bị coi như không có giá trị
pháp lý.
Ví dụ 1: Ông Nguyễn Văn A (75 tuổi) không mắc bệnh thần kinh hay bệnh khác
làm mất khả năng nhận thức và làm chủ hành vi. Tuổi già sức yếu, biết mình không
còn sống được bao lâu nên ông đã quyết định lập di chúc, ông tự tay viết di chúc
không để ai biết về việc này và để lại toàn bộ di sản của mình cho con cháu. Nội
dung di chúc của ông không vi phạm các quy định của Điều 631. Viết xong bản di
chúc dài 2 trang ông cẩn thận ký vào từng trang một. Khi viết di chúc ông hoàn
toàn minh mẫn và sáng suốt. Như vậy di chúc của ông A chính là di chúc bằng văn
bản không có người làm chứng.
2. Di chúc bằng văn bản có người làm chứng
Điều 634 BLDS năm 2015 quy định: “Trường hợp người lập di chúc không tự
mình viết bản di chúc thì có thể tự mình đánh máy hoặc nhờ người khác viết hoặc
đánh máy bản di chúc, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di
chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng;
những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký
vào bản di chúc.
Việc lập di chúc bằng văn bản có người làm chứng phải tuân theo quy định tại
Điều 631 và Điều 632 của bộ luật này”


Quy định này tạo điều kiện thuận lợi đảm bảo quyền lập di chúc cho mọi cá
nhân khi họ muốn định đoạt tài sản thông qua việc lập di chúc. Di chúc bằng văn
bản có người làm chứng được lập trong trường hợp người để lại di sản không thể
tự mình viết bản di chúc thì có thể lựa chọn các cách lập di chúc sau: nhờ người
khác viết, người lập di chúc có thể tự mình đánh máy hoặc nhờ người khác đánh
máy di chúc. Việc quy định này phù hợp với thực tiễn của thời đại công nghệ thông
tin.
Tuy nhiên, khi lập loại di chúc này phải có ít nhất hai người làm chứng và

người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ trước mặt những người làm chứng, đồng
thời trong bản di chúc đó phải có chữ ký của người làm chứng và xác nhận của họ
về chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc. Thiếu một trong các yếu tố này di chúc
sẽ không có hiệu lực. Có hai khả năng xảy ra với trường hợp này:
Một là, hai người làm chứng cùng có mặt và chứng kiến người để lại di sản
công bố ý chí của mình và người khác ghi lại.
Hai là, người để lại di sản nhờ người khác ghi lại nội dung của di chúc sau đó
nhờ hai người làm chứng đọc lại nội dung di chúc cho người lập di chúc nghe xem
có trùng khớp với ý chí của họ không.
Cũng giống như di chúc bằng văn bản không có người làm chứng thì di chúc
bằng văn bản có người làm chứng cũng phải tuân theo quy định tại Điều 631, ngoài
ra di chúc bằng văn bản có người làm chứng còn phải tuân theo quy định tại Điều
632 quy định về người làm chứng cho việc lập di chúc. Như đã nêu ở ý c, phần 2,
mục I ở trên, để đảm bảo sự khách quan, công bằng, tính chính xác của di chúc thì
ngoài ba đối tượng được nêu tất cả mọi người đều có quyền làm chứng cho việc
lập di chúc.


Ví dụ 2: bà Nguyễn thị B ( 60 tuổi). Bà muốn lập di chúc để lại di sản cho con
cháu, nhưng do không biết chữ nên bà không thể tự tay mình viết di chúc được.
Một hôm, bà nhờ A( 23 tuổi) C (35 tuổi) và D ( 30 tuổi) là hàng xóm của bà đều là
giáo viên sang giúp bà lập di chúc. Khi đó bà B nhờ A ghi lại nội dung của di chúc,
sau khi đã ghi xong bà nhờ C và D đọc lại nội dung đó cho bà nghe, thấy đã khớp
với ý mình bà điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt C và D, sau đó C và D xác minh
lại một lần nữa bản di chúc và cùng nhau ký vào bản di chúc. Khi lập di chúc bà A
hoàn toàn minh mẫn, sáng suốt, không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép, nội dung của
di chúc không vi phạm quy định tại điều 631 BLDS năm 2015. Như vậy bản di
chúc của bà B chính là di chúc bằng văn bản có người làm chứng.
3. Di chúc bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực.
Điều 635 BLDS năm 2015 quy định như sau: “ Người lập di chúc có quyền yêu

cầu công chứng hoặc chứng thực bản di chúc”
Chứng thực di chúc được coi là một trong những căn cứ pháp lý xác lập nội
dung di chúc của người để lại đi sản. Việc công chứng di chúc do các công chứng
viên thuộc các tổ chức hành nghề công chứng ( bao gồm Phòng công chứng và Văn
phòng công chứng) thực hiện; còn việc chứng thực di chúc do Ủy ban nhân dân
cấp xã tiến hành.
Nếu người lập di chúc tự tay viết di chúc và có yêu cầu công chứng, chứng thực
hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn chứng thực thì người lập di chúc
phải ký vào bản di chúc trước mặt người có thẩm quyền chứng nhận hoặc chứng
thực. Việc công chứng di chúc được quy định cụ thể tại Điều 56 Luật công chứng
năm 2014. Người lập đi chúc phải tự mình yêu cầu công chứng di chúc, thông qua
các công chứng viên hành nghề tại các tổ chức hành nghề công chứng mà không
được ủy quyền cho người khác yêu cầu công chứng di chúc. Tổ chức hành nghề


công chứng bao gồm Phòng công chứng và Văn phòng công chứng được tổ chức
và hoạt động theo quy định của pháp luật.
Theo quy định tại nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 10/02/2015 của chính phủ
về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và
chứng thực hợp đồng, giao dịch tại điểm e khoản 2 Điều 5 về thẩm quyền và trách
nhiệm chứng thực thì “ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là
ủy ban nhân dân cấp xã) có thẩm quyền và trách nhiệm trong việc chứng thực di
chúc”
Ví dụ 3: cũng trong trường hợp ông Nguyễn Văn A ở ví dụ 1, sau khi viết xong
nội dung bản di chúc, ông chưa ký ngay vào bản di chúc. Vốn là người cẩn thận
nên ông mang di chúc đến Phòng công chứng nhờ công chứng viên công chứng
cho bản di chúc của mình. Tại phòng công chứng, trước mặt công chứng viên ông
A đã tự tay ký vào từng trang di chúc. Như vậy bản di chúc của ông A chính là di
chúc bằng văn bản có công chứng. Tương tự, nếu ông A đem bản di chúc đến ủy
ban nhân dân cấp xã để chứng thực thì là di chúc bằng văn bản có chứng thực.

4. Di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được công chứng hoặc
chứng thực
Dự liệu cho những trường hợp cá nhân có nhu cầu lập di chúc nhưng đang ở xa
nơi công chứng, chứng thực hoặc trong những hoàn cảnh đặc biệt nên không thể
lập di chúc có chứng nhận hoặc chứng thực được, Điều 638 BLDS năm 2015 đã
quy định những di chúc nếu có xác nhận của người có thẩm quyền cũng có giá trị
như di chúc được công chứng, chứng thực. Đó là những di chúc được lập trong
những hoàn cảnh đặc biệt sau đây:
Một là, di chúc của quân nhân tại ngũ có xác nhận của thủ trưởng đơn vị từ cấp
đại đội trở lên, nếu quân nhân không thể yêu cầu công chứng nhà nước chứng nhận


hoặc ủy ban nhân dân cấp xã chứng thực. Trong trường hợp này có thể do họ đóng
quân ở nơi xa hay do nhiệm vụ đặc biệt mà họ không thể đến công chứng nhà nước
hoặc ủy ban nhân dân cấp xã được. Vì đó là lý do chính đáng nên di chúc của họ
chỉ cần xác nhận là vẫn có hiệu lực pháp luật.
Hai là, di chúc được lập ra khi người lập di chúc đang đi trên tàu biển, máy bay
có xác nhận của người chỉ huy phương tiện đó. Quy định của pháp luật dự phòng
đến những trường hợp cá nhân đang đi lại hoặc làm việc trên máy bay, tàu biển mà
có nhu cầu lập di chúc khi những phương tiện đó chưa hạ cánh hoặc cập bến. Vì
vậy cơ trưởng hoặc thuyền trưởng có thẩm quyền xác nhận di chúc phải xác nhận
ngay sau khi di chúc được lập trong lúc những phương tiện đó chưa hạ cánh,cập
bến.
Ba là, di chúc của người đang điều trị tại bênh viện, cơ sở chữa bệnh có xác
nhận của người phụ trách bệnh viện, cơ sở chữa bênh đó. Đây là trường hợp mà
người lập di chúc không thể hoặc không có điều kiện để đến nơi công chứng hoặc
ủy ban nhân dân cấp xã được vì họ đang lâm vào tình trạng ốm đau bệnh tật, tính
mạng đang bị đe dọa.
Bốn là, di chúc của người đang làm công việc khảo sát, thăm dò, nghiên cứu, ở
cùng rừng núi, hải đảo có xác nhận của người phụ trách đơn vị đó. Đây là trường

hợp những cá nhân công tác ở vùng sau vùng xa nơi không có cơ quan công chứng
nhà nước cũng như xa ủy ban nhân dân nhưng họ muốn lập di chúc vì họ cho rằng
với bệnh tật của mình sẽ không đủ điều kiện để chờ hết đợt công tác mới lập di
chúc.
Năm là, di chúc của công dân Việt Nam đang ở nước ngoài có chứng nhận của
cơ quan lãnh sự, đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước đó.


Sáu là, di chúc của người đang bị tạm giam, đâng chấp hành hình phạt tù, người
đang chấp hàn b pháp xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh có xác
nhận của người phụ trách cơ sở tạm giam đó. Vì lý do tố tụng, người đang bị tạm
giam, đang chấp hành hình phạt tù bị hạn chế quyền tự do đi lại nên họ không thể
yêu cầu cơ quan công chứng nhà nước hoặc ủy ban nhân dân chứng nhận cho bản
di chúc của mình được. Tuy vậy họ vẫn có quyền tự do lập di chúc để định đoạt tài
sản của mình.
Như vậy, cá nhân chỉ lập di chúc trong trường hợp nói trên khi họ cho rằng tình
trạng sức khỏe, tính mạng của họ không đủ thời gian để lập một di chúc theo thể
thức khác.
III.

Di chúc miệng
Điều 629 BLDS năm 2015 quy định như sau:

“1. Trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa và không thể lập di chúc
bằng văn bản thì có thể lập di chúc miệng.
2. Sau 03 tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người lập di chúc còn sống,
minh mẫn và sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ.”
Di chúc miệng (còn được gọi là chúc ngôn) là sự bày tỏ bằng lời nói ý chí của
người để lại di sản thừa kế lúc còn sống trong việc định đoạt khối di sản của mình
cho người khác sau khi chết.

Trong những trường hợp thông thường, pháp luật chỉ thừa nhận hình thức di
chúc bằng văn bản, thể hiện một cách rõ ràng ý chí của người để lại di sản, làm cơ
sở để phận định di sản thừa kế. Theo quy định trên di chúc miệng chỉ được công
nhận với những điều kiện về hình thức và thủ tục rất nghiêm ngặt và chỉ trong
trường hợp đặc biệt (Điều 629, Điều 630). Cụ thể:


Theo điều 630 BLDS năm 2015 người lập di chúc miệng phải là người thành
niên, tại thời điểm lập di chúc hoàn toàn minh mẫn, sáng suốt. Người từ đủ mười
lăm đến mười tám tuổi không có quyền lập di chúc miệng.
Theo quy định tại Điều 629 ta có thể thấy rằng, chỉ có thể lập di chúc miệng
trong trường hợp cá nhân đó đang rơi vào tình trạng bị cái chết đe dọa bởi một
nguyên nhân nào đó (bị bệnh nặng sắp chết hoặc do bị tai nạn giao thông…) mà
không thể lập di chúc bằng văn bản được. Còn đối với người không biết chữ hay bị
hạn chế về thể chất họ chỉ được lập di chúc dưới hình thức là văn bản và có công
chứng, chứng thực chứ họ không được lập di chúc miệng nếu họ không rơi vào
tình trạng tính mạng bi đe dọa. Người không biết chữ và người bị hạn chế về thể
chất khi lập di chúc thì về bản chất cũng giống như di chúc miệng, tuy nhiên di
chúc lập trong trường hợp này không bị giới hạn về mặt thời gian như tại khoản 2
Điều 629 nêu trên.
Người lập di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai
người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng phải ghi chép lại, cùng
ký tên hoặc điểm chỉ. Những người làm chứng không thuộc phạm vi cấm của Điều
632 BLDS. Trong thời hạn năm ngày kể từ ngày người lập di chúc miệng thể hiện
ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng, chứng thực. Trường hợp này cơ
quan công chứng hoặc ủy ban nhân dân cấp xã không thể chứng thực nội dung di
chúc vì người có thẩm quyền công chứng, chứng thực không thể biết được ý chí
của người lập di chúc. Mặt khác cũng không thể xác nhận chữ ký của người làm
chứng vì họ đã ký ngay sau khi ghi lại nội dung di chúc miệng của người để lại di
chúc. Do vậy trường hợp này sẽ chứng thực ngày di chúc đó được yêu cầu công

chứng, chứng thực.


Sau ba tháng kể từ thời điểm di chúc miệng mà người để lại di chúc còn sống,
minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ.
Ví dụ 4: Anh Nguyễn Văn Q (30 tuổi) trên đường đi làm về không may bị tai
nạn giao thông, A và B là đồng nghiệp của anh thấy vậy liền đến giúp đỡ và gọi
cứu thương. Trong lúc chờ xe cứu thương, anh Q cảm thấy mình không thể qua
khỏi nên đã thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước A và B về việc để lại di sản
cho vợ và con, ngay sau đó A đã lấy giấy bút ghi lại từng lời nói Q rồi cả A và B
cùng ký tên vào đó. Q mất trên đường đi đến bệnh viện. Khi lập di chúc Q hoàn
toàn minh mẫn, sáng suốt. Hai ngày sau A và B cùng đem bản di chúc đó đi đến ủy
ban nhân dân cấp xã chứng chức. Như vậy bản di chúc do A ghi chép lại chính là
bản di chúc miệng mà Q để lại.

Kết luận
Qua trên chúng ta có thể hiểu biết hơn phần nào về di chúc mà cụ thể là các
hình thức của di chúc. Như vậy bên cạnh di chúc bằng văn bản chúng ta có thể di
chúc bằng miệng trong trường hợp không thể lập được di chúc bằng văn bản. Di
chúc bằng văn bản bao gồm: di chúc bằng văn bản không có người làm chứng, di
chúc bằng văn bản có người làm chứng, di chúc bằng văn bản có công chứng và di
chúc bằng văn bản có chứng thực. Trong thực tế, không phải ai cũng nắm được
những nội dung này nên việc vi phạm pháp luật về thừa kế là không thể tránh khỏi.
Vì vậy, nhà nước ta cần tuyên truyền, phổ biến luật, đưa luật vào đời sống để hạn
chế phần nào những hành vi vi phạm pháp luật về thừa kế của người dân do thiếu
hiểu biết.

Bảng từ viết tắt
1. BLDS – bộ luật dân sự



2. NĐ – nghị định
3. CP – chính phủ

Danh mục tài liệu tham khảo
1. Trường đại học Luật Hà Nội, giáo trình luật dân sự Việt Nam tập 1, nxb
công an nhân dân.
2. PGS.TS.Nguyễn Văn Cừ - PGS.TS.Trần Thị Huệ, bình luận khoa học bộ
Luật dân sự năm 2015 của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nxb
công an nhân dân.
3. Bộ luật dân sự năm 2015 nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nxb lao
4.

động.
/>


×