Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Pháp du hành trình nhật ký của Phạm Quỳnh dưới góc nhìn nghiên cứu văn hóa (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 120 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

VƯƠNG THỊ CÚC

PHÁP DU HÀNH TRÌNH NHẬT KÍ CỦA PHẠM QUỲNH
DƯỚI GÓC NHÌN NGHIÊN CỨU VĂN HÓA

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Thái Nguyên – 2018


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

VƯƠNG THỊ CÚC

PHÁP DU HÀNH TRÌNH NHẬT KÍ CỦA PHẠM QUỲNH
DƯỚI GÓC NHÌN NGHIÊN CỨU VĂN HÓA
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8220121

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: TS BÙI LINH HUỆ

Thái Nguyên – 2018



i

LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Bùi Linh Huệ - người đã tận
tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong quá trình thực hiện luận văn.
Em xin cảm ơn các thầy cô giáo trong Ban giám hiệu, khoa Văn – Xã hội
và phòng Đào tạo, Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên đã tạo điều
kiện thuận lợi cho em trong thời gian học tập và nghiên cứu.
Tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ tôi
trong quá trình học tập và thực hiện công trình nghiên cứu này.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018
Tác giả luận văn

Vương Thị Cúc


ii

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do tôi thực hiện dưới sự
hướng dẫn của cô giáo TS. Bùi Linh Huệ - Cán bộ khoa Văn – Xã hội, trường
Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính khoa học cũng như về nội dung trích dẫn
tài liệu của luận văn này.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018
Tác giả luận văn

Vương Thị Cúc



iii

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài........................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................................3
2.1. Những nghiên cứu về thể loại du kí ....................................................................3
2.2. Những nghiên cứu về du kí của Phạm Quỳnh và Pháp du hành trình nhật kí .......8
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu ...........................................................................12
3.1. Phạm vi nghiên cứu .......................................................................................... 12
3.2. Đối tượng nghiên cứu .......................................................................................12
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ..........................................................................12
5. Phương pháp nghiên cứu........................................................................................13
6. Đóng góp mới của luận văn ....................................................................................13
7. Cấu trúc luận văn ...................................................................................................13
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU .......................................14
1.1. Khái lược về thể loại du kí....................................................................................14
1.1.1. Khái niệm .......................................................................................................14
1.1.2. Đặc điểm.........................................................................................................16
1.2. Ngành nghiên cứu văn hóa, lí thuyết diễn ngôn và phê bình hậu thực dân .........19
1.2.1. Ngành nghiên cứu văn hóa.............................................................................19
1.2.2. Lí thuyết diễn ngôn .........................................................................................22
1.2.3. Phê bình hậu thực dân....................................................................................28
1.3. Khái lược về tác giả Phạm Quỳnh .......................................................................36
1.4. Khái lược về tác phẩm Pháp du hành trình nhật kí ..............................................41
CHƯƠNG 2: PHÁP DU HÀNH TRÌNH NHẬT KÍ DƯỚI GÓC NHÌN PHÊ BÌNH
HẬU THỰC DÂN .........................................................................................................45
2.1. Ứng dụng Phê bình Hậu thực dân trong nghiên cứu thể loại tự thuật và du kí ...45

2.2. Cái nhìn huyền thoại hóa về phương Tây trong Pháp du hành trình nhật kí .......48
2.2.1. Ảnh hưởng của Tiến hóa luận tới tư tưởng “Ỷ Pháp cầu tiến bộ” của Phạm Quỳnh
................................................................................................................................ 48
2.2.2. Sự huyền thoại hóa/thiêng hóa phương Tây....................................................54
2.3. Sự đồng hóa của chủ nghĩa thực dân lên cái nhìn của Phạm Quỳnh khi mô tả các
dân tộc thuộc địa khác................................................................................................ 64
2.4. Sự kháng cự và tự chủ nhất định khi tiếp nhận văn minh phương Tây ..............72


iv

2.4.1. Cái nhìn phê phán ở mức độ nhất định với văn minh phương Tây và chính sách thực
dân ........................................................................................................................... 73
2.4.2. Sự khẳng định bản sắc văn hóa dân tộc .......................................................... 76
CHƯƠNG 3: PHÁP DU HÀNH TRÌNH NHẬT KÍ DƯỚI GÓC NHÌN NGHIÊN CỨU
DIỄN NGÔN .................................................................................................................81
3.1. Thể loại như một loại hình diễn ngôn...................................................................81
3.2. Sự thật như một loại diễn ngôn ............................................................................83
3.3. Pháp du hành trình nhật kí trong cái nhìn so sánh: giải quan niệm truyền thống về
“sự thật” trong thể loại du kí ......................................................................................85
3.3.1. So sánh Pháp du hành trình nhật kí với các du kí ra nước ngoài cùng thời....86
3.3.2. So sánh Pháp du hành trình nhật kí với các tác phẩm giả - du kí cùng giai
đoạn.........................................................................................................................91
3.3.3. So sánh Pháp du hành trình nhật kí với một số du kí phương Tây về Việt Nam
................................................................................................................................ 99
3.3.4. So sánh Pháp du hành trình nhật kí với một số du kí ra nước ngoài giai đoạn
1945 – 1975............................................................................................................103
KẾT LUẬN .................................................................................................................107
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................109



1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX là một bước chuyển mình có ý nghĩa
quan trọng trong quá trình phát triển của văn học dân tộc. Văn học thời kì này đã
dần thoát khỏi sự ảnh hưởng của văn hóa khu vực, tiếp cận với văn hóa Phương
Tây và đặc biệt là văn hóa Pháp. Quá trình hiện đại hóa văn học đã dẫn tới sự xuất
hiện của các trào lưu văn học với các nhà văn tầm cỡ, sự thay đổi của tư tưởng nghệ
thuật, cảm hứng sáng tác, đề tài, chủ đề…Và đặc biệt, tâm điểm cho sự hiện đại hóa
của thời kì này là sự xuất hiện của nhiều thể loại mới làm cho bức tranh đời sống
văn học thêm phần phong phú và trở thành đối tượng của nghiên cứu văn học.
Thể loại du kí là một bộ phận của kí. Du kí xuất hiện từ rất sớm trong tiến trình
của lịch sử văn học Việt Nam ở các dạng thức khác nhau. Trong văn học trung đại,
du kí được viết bằng chữ Hán, dưới hình thức các loại thơ, phú, kí. Du kí giai đoạn
này ghi chép lại những sự kiện, danh lam thắng cảnh của quê hương đất nước như
Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác, Tây hành nhật kí của Phạm Phú Thứ… Đầu
thế kỉ XX, du kí có sự phát triển bùng phát, tạo thành một dòng chảy mạnh mẽ, góp
phần vào sự phát triển và hoàn thiện của thể loại này. Sáng tác du kí ra đời từ các
chuyến viễn du nên nội dung hướng đến việc ghi chép những tri thức, hiểu biết kì
thú về lịch sử, địa lí, văn hóa, phong tục tập quán của những vùng đất mới… mà tác
giả đi qua. Sự hình thành và phát triển của thể tài du kí đã đóng góp vào sự phong
phú của văn học kí Việt Nam.
Đặt trong quá trình phát triển và hình thành thể loại, du kí Việt Nam nửa đầu
thế kỉ XX có sự phong phú về nội dung, đa dạng về hình thức và đặc biệt xuất hiện
nhiều tác giả với những phong cách khác nhau. Xét về du kí Quốc ngữ nửa đầu thế
kỉ XX, với vai trò là chủ bút của Nam Phong tạp chí thì Phạm Quỳnh đã là người
khởi xướng, mở đường cho du kí xuất hiện trên văn đàn với tư cách là một thể loại
của văn học Việt Nam hiện đại. Văn du kí của Phạm Quỳnh đa dạng về hành trình,



2

mục đích chuyến đi và cách thức thể hiện tiếng nói riêng của tác giả trước hiện thực
nhìn thấy. Trong số những tác phẩm du kí đặc sắc của Phạm Quỳnh thì Pháp du
hành trình nhật kí được coi là một đại diện tiêu biểu. Đây cũng được coi là đóng
góp đặc biệt quan trọng ở thể tài du kí viết về nước Pháp và mối quan hệ Việt –
Pháp hồi đầu thế kỉ XX. Hiện nay trong nghiên cứu phê bình ở Việt Nam vẫn chưa
có một nghiên cứu có hệ thống đánh giá đúng mức về tư tưởng, đặc điểm thể loại
tác phẩm này của Phạm Quỳnh trong cái nhìn so sánh với các du kí và giả du kí viết
về phương Tây cùng thời, khác thời cũng như các du kí viết về Việt Nam của người
phương Tây.
1.2. Ngành nghiên cứu văn hóa (Cultural Studies) là một lĩnh vực được khởi
đầu trong giới học thuật Anh từ những năm sáu mươi của thế kỉ XX; và sau này
được lan truyền và phát triển, biến đổi khắp nơi trên thế giới. Là một lĩnh vực liên
ngành, nghiên cứu văn hóa dựa trên lí thuyết và phương pháp của các ngành khác,
nhưng được làm mới với sự quan tâm đặc biệt đến khía cạnh quyền lực, diễn ngôn,
hệ tư tưởng và chính trị của văn hóa. Mục đích của ngành nghiên cứu văn hóa
không chỉ là khám phá bản chất chính trị của văn hóa đương đại thông qua việc tìm
hiểu sự vận hành của diễn ngôn và quyền lực, mà bản thân ngành nghiên cứu văn
hóa cũng có thể coi là một dạng thức mang tính diễn ngôn.
Có thể thấy xưa nay, từ các công trình phê bình văn học trung đại cho đến hiện
đại, từ văn học sử cho đến lí luận văn học hiện đại, các nhà nghiên cứu thường cho
rằng ghi chép sự thật là đặc trưng quan trọng nhất của du kí. Quan niệm này đã dẫn
tới nhiều cách hiểu có phần thiên kiến và có những hạn chế nhất định trong khi tiếp
cận đặc điểm thể loại du kí. Chính vì vậy, câu hỏi đặt ra là liệu trong du kí, có sự
thật khách quan tối đa như nhiều nhà lí luận, phê bình đã chỉ ra và là yếu tố quan
trọng nhất của thể loại này hay không? Điều này đòi hỏi cần phải có một cách nhìn
nhận toàn diện và khách quan hơn về thể loại văn học này. Tiếp cận Pháp du hành

trình nhật kí từ góc nhìn nghiên cứu văn hóa có thể đưa ra một cách nhìn mới về


3

đặc điểm của yếu tố sự thật trong du kí và thay đổi cách nhìn truyền thống về thể
loại như là những mô hình tĩnh tại, bất biến.
1.3. Những nền tảng lí thuyết trên đã cung cấp cho chúng tôi một cách tiếp cận
mới với thể loại du kí, và đặc biệt là với Pháp du hành trình nhật kí của Phạm
Quỳnh. Tìm hiểu Pháp du hành trình nhật kí của Phạm Quỳnh dưới góc nhìn
nghiên cứu văn hóa (cụ thể là phương pháp phê bình hậu thực dân và nghiên cứu
diễn ngôn) là một hướng đi có nhiều triển vọng. Một mặt, hướng đi này giúp khám
phá Pháp du hành trình nhật kí trong mối quan hệ với tư tưởng hệ của thời đại. Mặt
khác, nó giúp tìm hiểu được đặc trưng của thể loại du kí dưới góc nhìn mới. Với
những ý nghĩa ấy, có thể nói, hướng tiếp cận này sẽ hứa hẹn nhiều triển vọng cho
nghiên cứu du kí của Phạm Quỳnh nói riêng và loại hình văn học kí nói chung.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Những nghiên cứu về thể loại du kí
Du kí là một thể loại xuất hiện khá sớm trong đời sống văn học. Nhưng trong
giới nghiên cứu phê bình, phần lớn mới chỉ dừng lại ở những bài viết nhỏ, những
nghiên cứu sơ lược, chỉ nhắc tới du kí khi bàn về thể kí nói chung. Ngay cả vào thời
điểm du kí phát triển mạnh mẽ ở nửa đầu thế kỉ XX, vấn đề thể loại của du kí cũng
chưa được mọi người quan tâm. Có người xem du kí chỉ là chuyện kể lại một cuộc
hành trình.
Năm 1942, trong tác phẩm Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan đã nói một cách
sơ lược về thể loại du kí khi nói tới nhóm nhà văn của Nam phong tạp chí. Đặc biệt,
tác giả đã nhắc đến tác phẩm du kí Chuyến đi Bắc Kì của Trương Vĩnh Ký. Trong
cuốn Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm xuất bản năm 1950 có nhắc
tới thể tài du kí một cách sơ lược. Cuốn Văn học Việt Nam thế kỉ XX – những vấn
đề lịch sử và lí luận do Phan Cự Đệ chủ biên, với quan niệm du kí như một thể của

kí đã đưa ra những đánh giá, bàn luận về thể loại du kí.
Tiếp cận về phương diện thể tài, Nguyễn Hữu Sơn có nhiều bài nghiên cứu
như: “Thể tài du kí trên tạp chí Nam phong, 1917 – 1934” (Tạp chí nghiên cứu Văn


4

học, số 4, 2007), “Du kí về vùng văn hóa Sài Gòn – Nam Bộ trên Nam phong tạp
chí” (Tạp chí Kiến thức ngày nay, số 619), “Thể tài du kí về Hà Nội 1/2 đầu thế kỉ
XX” (Báo Văn nghệ Quân đội, số 10, năm 2000), “Phác thảo du kí Hà Nội trước
Cách mạng tháng Tám” (Báo Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, số 6, năm 2000),
“Du kí Quảng Ninh nửa đầu thế kỉ XX” (Báo Văn nghệ Hạ Long, số tết, 2012);
“Du kí của người Việt Nam viết về nước Pháp và mối quan hệ Việt – Pháp giai
đoạn cuối thế kỉ XIX – nửa đầu thế kỉ XX” (Kỉ yếu hội thảo quốc tế Việt Nam học
lần thứ ba).
Cuốn Quá trình hiện đại hóa văn học do nhà nghiên cứu Mã Giang Lân chủ
biên cũng đề cập tới thể tài du kí: “Thể loại văn học đầu tiên nên viết bằng chữ quốc
ngữ phải kể đến thể tài du kí. Đây là một hình thức bút kí văn học được ghi lại bằng
văn xuôi, thuật lại chuyến đi của tác giả đến những vùng đất khác nhau…nguồn gốc
của du kí cần tìm trong hình thức tùy bút, kí sự truyền thống” [18, 16].
Với bài “Du kí như một thể tài”, Phạm Xuân Nguyên có nhiều ý kiến xác đáng
trong việc mở rộng phạm vi thể tài và xếp những sáng tác khi đi xa đều thuộc về thể
loại du kí. Trong bài viết “Chuyến đi Bắc Kì năm Ất Hợi, 1876 của Trương Vĩnh Kí
nhìn từ bình diện thể tài văn học”, nhà nghiên cứu Nguyễn Phong Nam đã dành hẳn
một mục để định danh thể tài với tư cách là thuật ngữ văn học.
Trong bài viết “Kí Việt Nam thời trung đại, quá trình hình thành, phát triển và
đặc trưng thể loại”, Nguyễn Đăng Na tuy không lấy du kí làm đối tượng nghiên cứu
chính nhưng tác giả đã căn cứ vào đặc điểm của thể tài du kí để nghiên cứu một số
tác phẩm.Vừa mang tính kế thừa vừa đưa ra quan điểm mới, trong cuốn Lược khảo
lịch sử văn học Việt Nam từ khởi thủy đến cuối thế kỉ XX (2004), ở phần "Văn

chương hiện kim", mục "Những bước đầu của tiểu thuyết", Bùi Đức Tịnh coi du kí
như những thiên kí sự kể những chuyện của chính tác giả, "được xem như là một
loại tiểu thuyết, chỉ tô điểm thêm đôi chút những sự thật mà tác giả đã chứng kiến"
[80, 363].


5

Gần đây nhất, trong cuốn Văn học Việt Nam thế kỉ XX – những vấn đề lịch sử
và lí luận, ở "Chương I: Sự hình thành và phát triển của thể kí", khi nêu ra quan
niệm về thể kí, Phan Cự Đệ cũng cho rằng: “Kí là loại hình văn học trung gian giữa
báo chí và văn học. Kí bao gồm nhiều thể dưới dạng văn xuôi tự sự như bút kí, hồi
kí, du kí, nhật kí, phóng sự, tùy bút và cả hồi kí tự truyện” [11, 373].
Giáo trình Lí luận văn học (Hà Minh Đức chủ biên, 1995) cũng đã nghiên cứu
và đưa ra quan điểm xem du kí là một trong các hình thức của thể loại kí: “Kí
không phải là một thể loại thuần nhất mà bao gồm nhiều hình thức ghi chép, miêu
tả và biểu hiện về cuộc sống trong văn xuôi từ kí sự, bút kí, hồi kí, du kí, đến nhật
kí, tùy bút, tiểu phẩm văn học, bút kí chính luận… [10, 215].
Năm 2013, luận văn thạc sĩ “Ngôn ngữ nghệ thuật của thể tài du kí trên Nam
phong tạp chí (1917 – 1934)” của Vũ Hương Giang đã chỉ ra đặc điểm ngôn ngữ
của thể tài du kí trên Nam phong tạp chí, khẳng định đóng góp của du kí trong buổi
đầu hình thành nền văn xuôi Quốc ngữ.
Năm 2014, Trần Thị Mĩ Hạnh thực hiện luận văn thạc sĩ “Thể tài du kí trong
văn xuôi trung đại Việt Nam (Qua Thượng kinh kí sự, Tây hành kiến văn kỉ lược,
Giả viên biệt lục)”. Luận văn đã nghiên cứu đặc điểm của thể tài du kí trung đại về
phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật, nhận thức giá trị thẩm mĩ và những
đóng góp của thể tài trong bức tranh toàn cảnh của văn học dân tộc.
Những công trình nghiên cứu trên phần lớn đã đề cập được những đặc điểm về
nội dung và nghệ thuật, những đóng góp của du kí trong việc xây dựng bức tranh
văn học dân tộc nhiều màu sắc, đa dạng về thể loại và phong cách nhà văn. Tuy

nhiên, hầu hết các nghiên cứu trên vẫn nhìn nhận du kí nói riêng và kí nói chung
như một thể loại tĩnh tại, ổn định, bất biến và dùng để ghi chép sự thật chứ chưa
nhìn nhận thể loại này như một loại diễn ngôn, biến đổi theo sự chi phối của thời
đại, tư tưởng hệ. Gần đây, cùng với cách nhìn mới về lý luận, phê bình văn học –
coi lý luận, phê bình văn học cũng là những diễn ngôn hình thành dưới sự biến đổi,
ảnh hưởng, tác động của tư tưởng hệ thời đại, đã có một bộ phận các nhà nghiên


6

cứu văn học Việt Nam thay đổi cách nhìn về tính ổn định, bất biến của thể loại.
Năm 2007, nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Sơn cho ra mắt bạn đọc cuốn Du kí Việt
Nam và thu hút sự quan tâm của nhiều độc giả. Bộ sách gồm ba tập, giới thiệu 62
tác phẩm đăng trên Nam phong tạp chí. Ở lời giới thiệu sách, tác giả có đánh giá
tình hình nghiên cứu du kí hiện nay, lí giải cơ sở hình thành, quá trình vận động của
thể tài du kí và đặc biệt nhấn mạnh sự hỗn dung độc đáo trong loại thể của thể tài
qua một số du kí tiêu biểu. Nguyễn Hữu Sơn trong bài báo “Thể tài văn xuôi du kí
chữ Hán thế kỷ XVIII - XIX và những đường biên thể loại” (2012) cũng bước đầu
chỉ ra sự hỗn dung, biến đổi phong cách của du kí giữa các tác giả khác nhau, thuộc
các thời đại khác nhau. “Có thể thấy trong Tây hành kiến văn kỷ lược dung nạp cả
phong cách ký, ghi chép cảnh thực, người thực, việc thực cùng với tiếng nói nghị
luận, biện luận, biện thuyết, so sánh ngoại đề. Điều này khiến cho các trang du kí
luôn giữ được sự cân bằng giữa một bên là vị thế quan chức - nhà Nho gắn với lối
văn chức năng hành chính với những quan sát cá nhân vốn luôn hướng đến phát lộ
tiếng nói trữ tình ngoại đề. Sự cân bằng này nói lên đặc điểm nhiều hơn là xác định
giá trị tác phẩm, cho thấy tiếng nói con người cá nhân và xu thế ly tâm chưa đủ
vượt được từ trường của những hình thức qui phạm, quan phương” [71, 79]. Ông
kết luận: “du kí có sự thể hiện rõ đặc điểm giao thoa, đan xen, thâm nhập, chuyển
hóa, hỗn dung và tích hợp thể loại theo nhiều hình thức và mức độ khác biệt nhau”
[71, 9]. Cũng vậy, Kim Nhạn trong luận văn thạc sĩ “Du kí, bộ phận độc đáo trong

sự nghiệp của nhà văn Phạm Quỳnh” (2013) cũng đã nhận thấy nỗ lực hiện đại hóa,
làm mới văn chương Việt Nam thông qua việc hỗn dung thể loại trong du kí Phạm
Quỳnh dưới ảnh hưởng của văn chương Pháp.
Gần đây, luận án tiến sĩ “Kí như một hình thức diễn ngôn” (2012) của Nguyễn
Thị Ngọc Minh đã ứng dụng lí thuyết diễn ngôn và kí hiệu học văn hóa để lật lại và
phác thảo mới lí thuyết về loại hình văn học kí, tập trung vào hai đặc trưng quan
trọng nhất là mã thể loại và mã tư tưởng hệ. Mã thể loại là lớp tu từ của sự thật
trong kí, được chồng xếp lên lớp ngôn ngữ sự thật. Tuy nhiên, tác giả chỉ ra: “sự
thật trong kí không phải bao giờ cũng có thể qui chiếu đến một thực tại vật lí, bởi sự


7

thật trong kí, trước hết là một sự thật ngôn ngữ, nhất là trong thời đương đại, khi các
kí hiệu đang trở nên bành trướng và nhốt chặt, vây bủa con người” [37, 155]. Lớp
tu từ này lại khiến cho sự thật trong kí không đơn giản chỉ là sự sao chép nguyên
vẹn sự thật đời sống, mà là sự thật được kiến tạo nên bằng các phương tiện nghệ
thuật, bao giờ cũng có sự sai khác, gián cách với sự thật đời sống. Qua đó, có thể
thấy, kí là một loại diễn ngôn nghệ thuật về sự thật. Bên cạnh đó, kí không chỉ phải
tuân thủ những qui ước của mã thể loại mà còn chịu sự tác động của mã tư tưởng
hệ. Tác giả định nghĩa mã tư tưởng hệ như sau: “Mã tư tưởng hệ với tư cách là hệ
thống nguyên tắc xác lập quan hệ giữa chủ thể và thế giới đã chi phối lập trường
phát ngôn của người trần thuật xưng tôi, khiến nó trở thành một hình tượng mang
giá trị xã hội thẩm mĩ, thể hiện một sự định giá mang tính chất cộng đồng của một
lớp người, một thời đại. Mã tư tưởng hệ đã khiến cho bức tranh thế giới xác thực
trong kí, hóa ra, lại là một mô hình thế giới khái quát. Mã tư tưởng hệ tạo nên trong
kí một lớp nghĩa mở rộng, chìm bên dưới lớp nghĩa đen (nghĩa chỉ vật) và nghĩa
nghệ thuật trong kí. Sự chi phối của mã tư tưởng hệ khiến cho tiếng nói về sự thực
trong kí tưởng là tiếng nói của một cá thể, hóa ra là tiếng nói siêu cá thể, vô nhân
xưng. Chủ thể nói sự thực trong kí tưởng chừng là một chủ thể tự do, hóa ra, lại

chịu sự chế định một cách vô thức của những áp lực văn hóa, những cấu trúc diễn
ngôn” [37, 156]. Tác giả kết luận rằng, dưới sự chi phối của mã thể loại và mã tư
tưởng hệ, kí không đơn giản chỉ là ghi chép sự thật, mà đúng hơn, là diễn ngôn kiến
tạo sự thật. Là diễn ngôn sự thật, nên nó không tuyệt đối, bất biến, mà thay đổi
trong những thời đại, những nền văn hóa, và khác biệt trong những không gian văn
hóa khác nhau. Việc nghiên cứu thể loại kí từ góc độ diễn ngôn đã giúp tác giả lí
giải sự biến đổi mô hình thể loại kí qua các thời đại và các tác giả có tư tưởng hệ
khác nhau.
Tài liệu trên, tuy chưa đề cập nhiều tới thể loại du kí, nhưng đã góp phần định
hướng để chúng tôi quyết định tiếp cận du kí Pháp du hành trình nhật kí từ góc độ
nghiên cứu diễn ngôn.


8

2.2. Những nghiên cứu về du kí của Phạm Quỳnh và Pháp du hành trình nhật kí
Bằng tài năng và sở học uyên bác, bằng sự kiên trì và cẩn trọng trong khoa học,
đặc biệt là bằng tình yêu tha thiết với văn hóa, văn học nước nhà, Phạm Quỳnh
được coi là nhà văn hóa có đóng góp đặc biệt với nền văn hóa nước nhà. Ông sáng
tác ở nhiều thể loại và thành công xuất sắc ở thể tài du kí.
Trong Phê bình và cảo luận (1933), Thiếu Sơn đã có những nhận định xác
đáng và toàn diện về tư tưởng chính trị cũng như sự nghiệp văn học của Phạm
Quỳnh. Thiếu Sơn đánh giá cây bút quốc văn của ông Phạm Quỳnh đã có ảnh
hưởng sâu rộng mà cây bút Pháp văn của ông cũng rất đáng giá với văn học nước
nhà.
Năm 1941, trong Việt Nam văn học sử yếu, Dương Quảng Hàm đã viết hẳn một
chương về Phạm Quỳnh với những kết luận rất xác đáng về những đóng góp của
học giả đối với nền quốc văn. Tác giả cho rằng Phạm Quỳnh thường nghiên cứu
đến chế độ và văn chương của tiền nhân, của các thế hệ đi trước.
Năm 1942, khi xuất bản bộ sách Nhà văn hiện đại, ở phần “Các nhà văn đi tiên

phong”, nhà nghiên cứu phê bình Vũ Ngọc Phan đã dành hơn 30 trang sách viết về
Phạm Quỳnh cùng những đánh giá rất sâu sắc về những công trình khảo cứu, dịch
thuật, du kí của ông.
Năm 2000, tên của Phạm Quỳnh chính thức được nêu lên thành mục trong quyển
Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam của NXB Giáo dục. Năm 2004, Từ điển thuật ngữ
Văn học (bộ mới, NXB Thế giới – tháng 10 năm 2004) đã bổ sung mục Phạm Quỳnh,
do Nguyễn Huệ Chi viết, dài đến ba trang. Trong đó, công lao của Phạm Quỳnh đối
với văn học nước nhà đã được đánh giá một cách khách quan và thừa nhận một cách
trang trọng.
Ngoài những công trình có tính chất quy mô như trên, từ những năm 2000 đến
nay, tạp chí Nghiên cứu văn học lần lượt đăng tải những bài nghiên cứu xuất sắc về
Phạm Quỳnh: “Báo chí và văn chương qua một số trường hợp Nam phong Tạp chí”


9

(Nguyễn Đình Chú, Trịnh Vĩnh Long, số 2, 2005), “Thể tài du kí trên Tạp chí Nam
phong” (Nguyễn Hữu Sơn, số 4, 2007), …
Những công trình nghiên cứu trên chủ yếu nói về giá trị sự nghiệp văn học của
Phạm Quỳnh, trong đó có nhắc đến thể loại du kí của ông nhưng mức độ vẫn còn
mờ nhạt và chưa đậm nét.
Năm 1965, Phạm Thế Ngũ với cuốn Việt Nam văn học sử giản ước tân biên có
bàn tới du kí trong sáng tác du kí của Phạm Quỳnh. Ông đã đưa ra nhận xét: “Du kí
Phạm Quỳnh thiên về biên khảo, văn nghị luận nhiều hơn văn cảm giác…Phạm
Quỳnh đã biết thuật chuyện có duyên, biết điểm vào những đoạn tả cảnh xinh tươi,
nhất là biết khéo léo sử dụng một lời văn thanh thoát, trang nhã… [49, 196]. Như
vậy, nhà nghiên cứu đã đánh giá cao tài năng viết du kí của học giả Phạm Quỳnh.
Lối viết văn của ông chủ báo bút Nam phong không chỉ đơn thuần là những ghi
chép, khảo cứu mà còn mang đậm chất văn chương tả cảnh, cách kết hợp từ ngữ
khéo léo. Ông khẳng định: “Phạm Quỳnh là người đấu tranh cho câu văn Quốc

ngữ” [49, 196], “Phạm Quỳnh tuy không tiến đến làm tiểu thuyết song đã viết trong
báo Nam phong nhiều thiên du kí: Mười ngày ở Huế, Trẩy chùa Hương, Một tháng
ở Nam Kì, rồi dài hơn nữa là Pháp du hành trình nhật kí…Những thiên du kí ấy
đều có giá trị văn học và chứng tỏ bên cạnh con người Phạm Quỳnh học giả, lí
thuyết gia, còn một con người Phạm Quỳnh văn gia, tâm hồn giàu cảm xúc, tinh tế
và ngòi bút duyên dáng…” [49, 196].
Năm 1968, trong công trình Mục lục phân tích Nam phong tạp chí (1917 1934), Nguyễn Khắc Xuyên đưa ra nhận xét: “Nhiều khi chúng ta tự cảm thấy sống
trong đất nước với giang sơn gấm vóc mà không được biết tới những cảnh gấm vóc
giang sơn thì đây theo tờ Nam Phong chúng ta có thể phần nào làm lại cuộc hành
trình qua tất cả các phong cảnh hùng vĩ nhất, đẹp đẽ nhất của đất nước chúng ta từ
Bắc chí Nam, từ Cao Bằng, Lạng Sơn đến đảo Phú Quốc, từ núi Tiên Du đến cành
Hà Tiên và Ngũ Hành Sơn, từ Cổ Loa, Hạ Long đến Huế thơ mộng…” [99, 34].
“Với thời gian, những tài liệu này hẳn sẽ trở nên quý hóa đối với chúng ta. Trong


10

mục du kí này phải kể bài: Hạn mạn du kí của Nguyễn Bá Trác, Lại tới thần kinh
của Nguyễn Tiến Lãng, Mười ngày ở Huế, Một ngày ở Nam Kì và nhất là Pháp du
hành trình nhật kí của Phạm Quỳnh” [99, 34]. Như vây, Pháp du hành trình nhật kí
của Phạm Quỳnh luôn được coi là một đóng góp quan trọng và được đánh giá rất
cao. Nó không chỉ khẳng định giá trị các tác phẩm của Phạm Quỳnh, mà trên mỗi
trang giấy còn là kho tư liệu vô cũng phong phú về nước Pháp mà tác giả đã đem
đến cho người đọc.
Đặng Hoàng Oanh trong bài viết “Ngôn ngữ du kí của Phạm Quỳnh” đăng trên
báo điện tử Phong Diệp. net đã nêu lên những đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ du kí
Phạm Quỳnh về mặt từ vựng và ngữ pháp. Tác giả bài viết cho rằng có thể xem
việc hăng hái viết du kí của Phạm Quỳnh chính là một sự thể nghiệm Tiếng Việt
quốc ngữ trong lĩnh vực văn xuôi.
Trong bộ sách Nhà văn hiện đại (1942), Vũ Ngọc Phan nhận xét về sáng tác du

kí của Phạm Quỳnh: “Phạm Quỳnh là một nhà văn bàn luận một cách vững vàng và
sáng suốt bất cứ về một vấn đề gì, từ thơ văn cho đến triết lí, đạo giáo cho đến chính
trị, xã hội, không một vấn đề nào là ông không tham khảo tường tận trước khi đem
ra bàn trên mặt giấy” [58, 69]. Còn Phạm Thế Ngũ, trong cuốn Việt Nam văn học
sử giản ước tân biên đã cho rằng: “Phạm Quỳnh đã mở đường cho một loại văn sau
này thành một thời, ấy là loại du kí” [49, 190]. Như vậy, xét về du kí Quốc ngữ nửa
đầu thế kỉ XX, không phải Phạm Quỳnh là người mở đầu mà là Nguyễn Văn Vĩnh,
nhưng với vai trò là chủ bút của Nam phong, Phạm Quỳnh là người khởi xướng và
có nhiều tác phẩm du kí đặc sắc. Có thể khẳng định, ông là người mở đường cho du
kí xuất hiện trên văn đàn với tư cách là một thể loại của văn học Việt Nam.
Năm 2013, trong luận văn thạc sĩ “Du kí, bộ phận độc đáo trong sự nghiệp
của nhà văn Phạm Quỳnh”, Nguyễn Thị Kim Nhạn đã có những khái quát về tác
giả Phạm Quỳnh và bối cảnh văn chương Quốc ngữ Việt Nam đầu thế kỉ XX. Tác
giả cũng chỉ ra các nỗ lực hiện đại hóa văn chương Việt Nam thông qua các cách
tân trong nghệ thuật du kí Phạm Quỳnh như sự hỗn dung thể loại, nét mới của nhân


11

vật người kể chuyện, sự hiện đại hóa cú pháp câu văn tiếng Việt, sự hòa trộn giữa
tính khoa học, tính biểu cảm và hình tượng của ngôn ngữ, sự kết hợp Pháp văn với
vốn từ Hán – Việt và Việt cổ. Đặc biệt, Kim Nhạn đã ứng dụng phê bình hậu thực
dân vào việc phân tích cảnh quan thuộc địa và chính quốc, để chỉ ra được nhãn
quan văn hóa chính trị của Phạm Quỳnh qua sáng tác du kí, và bản lĩnh giữ gìn văn
hóa dân tộc của nhà văn. Đây chính là một trong những nghiên cứu truyền cảm
hứng cho chúng tôi tiếp tục ứng dụng phê bình hậu thực dân vào việc nghiên cứu
sâu tác phẩm Pháp du hành trình nhật kí của Phạm Quỳnh. Trong nghiên cứu trên,
Kim Nhạn chưa chỉ ra rõ nét nguy cơ sự đồng hóa của cái nhìn thực dân lên ý thức
của người thuộc địa, cũng như chưa so sánh các du kí viết về phương Tây của
Phạm Quỳnh với các du kí và tác phẩm tiểu thuyết giả-du-kí về phương Tây của

các tác giả khác trước, cùng thời và kế tiếp Phạm Quỳnh.
Năm 2015, Nguyễn Hữu Lễ với luận án “Đặc điểm du kí Việt Nam nửa đầu
thế kỉ XX” đã nghiên cứu những tác phẩm du kí đăng trên các báo và tạp chí nửa
đầu thế kỉ XX: Nam Kỳ tuần báo, An Nam tạp chí, Nam Phong tạp chí, Phụ nữ tân
văn, Tao Đàn, Phong Hóa...Trong luận án này đã có một phần riêng nghiên cứu về
đặc điểm các sáng tác du kí của Phạm Quỳnh.
Nhìn nhận một cách tổng thể những công trình nghiên cứu, những bài viết
nói trên, chúng tôi nhận thấy: Thể tài du kí đã được các tác giả tập trung nghiên cứu
ở nhiều khía cạnh: điều kiện ra đời, mục đích, chủ đề, đề tài, cảm hứng nghệ thuật,
nội dung, đặc trưng nghệ thuật…Nghiên cứu các tác phẩm du kí của Phạm Quỳnh
nói chung và Pháp du hành trình nhật kí nói riêng mới chỉ được đề cập đến trong
một số bài viết. Đặc biệt, chưa có một công trình độc lập nào nghiên cứu, khảo sát,
hệ thống hóa tác phẩm này dưới góc nhìn của nghiên cứu văn hóa (cụ thể là hai
phương pháp phê bình hậu thực dân và nghiên cứu diễn ngôn) để nhìn nhận tác
phẩm trong mối quan hệ chặt chẽ với lịch sử và diễn biến thể loại. Những khoảng
trống trong lịch sử vấn đề đã khẳng định hướng nghiên cứu của chúng tôi là có ý
nghĩa khoa học.


12

3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
3.1. Phạm vi nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi chỉ tiến hành tập trung khảo sát, nghiên cứu tác
phẩm Pháp du hành trình nhật kí từ góc độ diễn ngôn và phê bình hậu thực dân.
Ngoài ra, các tác phẩm du kí khác của Phạm Quỳnh như Thuật chuyện du lịch ở
Paris, Chơi xứ Lào, Chơi Cao Bằng, Lạng Sơn, Mười ngày ở Huế, một số bài báo
và luận về văn minh, tiến bộ của ông cũng như một số tác phẩm du kí và giả du kí
cùng thời (Hải trình chí lược, Nhật kí đi Tây, Như tây nhựt trình, Đi Tây, Giấc
mộng con) và một số du kí nước ngoài của nhà văn Việt Nam giai đoạn 1945-1975

được đưa ra so sánh để làm rõ vấn đề.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận văn là Pháp du hành trình nhật kí của
Phạm Quỳnh dưới góc nhìn nghiên cứu văn hóa. Cụ thể, chúng tôi sẽ đi sâu vào
nghiên cứu vấn đề sau:
- Ứng dụng hai hướng nghiên cứu của ngành nghiên cứu văn hóa là nghiên cứu
diễn ngôn và phê bình hậu thực dân để tìm hiểu tư tưởng, nhãn quan chính trị, văn
hóa của cá nhân và thời đại đã ảnh hưởng tới việc sáng tác du kí của Phạm Quỳnh
ra sao.
- So sánh Pháp du hành trình nhật kí với các tác phẩm du kí và giả du kí về
phương Tây cùng thời, cũng như một số du kí về nước ngoài của nhà văn Việt Nam
giai đoạn 1945 – 1975 để thấy được thể loại du kí cũng là một loại hình diễn ngôn,
biến đổi dưới điều kiện tư tưởng, bối cảnh văn hóa, chính trị khác nhau. Đồng thời,
thông qua quá trình so sánh này sẽ thấy được rõ nét hơn nhãn quan văn hóa và lòng
yêu nước thầm kín nhưng vô cùng sâu sắc của học giả Phạm Quỳnh.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Ứng dụng nghiên cứu Pháp du hành trình nhật kí theo góc nhìn nghiên cứu
văn hóa để thấy được thấy được ảnh hưởng của hệ tư tưởng chính trị, quyền lực đã
tạo nên sự khác biệt của Pháp du hành trình nhật kí với các tác phẩm du kí và giả


13

du kí trước và sau sáng tác của Phạm Quỳnh, với các tác phẩm du kí trong và ngoài
nước, qua đó có cái nhìn toàn diện hơn với sáng tác du kí của nhà văn hóa này.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu diễn ngôn
- Phương pháp phê bình hậu thực dân
- Phương pháp của văn học so sánh
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành

6. Đóng góp mới của luận văn
- Cung cấp một cái nhìn đầy đủ về Pháp du hành trình nhật kí của Phạm
Quỳnh dưới góc nhìn nghiên cứu văn hóa (qua hai phương pháp nghiên cứu cụ thể
là nghiên cứu diễn ngôn và phê bình hậu thực dân).
- Khẳng định những đóng góp của Phạm Quỳnh trong việc tạo nên sự phong
phú của thể loại du kí Việt Nam.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần nội dung chính
của luận văn được triển khai trong ba chương:
Chương I: Tổng quan các vấn đề nghiên cứu
Chương II: Pháp du hành trình nhật kí dưới góc nhìn phê bình hậu thực dân
Chương III: Pháp du hành trình nhật kí dưới góc nhìn nghiên cứu diễn ngôn


14

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Khái lược về thể loại du kí
1.1.1. Khái niệm
Du kí được coi là thể loại tiên phong, mở đường cho tiến trình hiện đại hóa nền
văn học dân tộc. Ở những thập niên đầu của thế kỉ XX, thể loại du kí thực sự phát triển
và trở thành một dòng chảy liên tục và mạnh mẽ. Giống như tùy bút, phóng sự, hồi
kí…du kí cũng là một thể tài thuộc thể loại kí.
Trong cuốn Quá trình hiện đại hóa văn học ViệtNam 1900-1945 (2000), khi
bàn về vị trí của thể loại du kí trong quá trình hiện đại hóa văn học, nhà nghiên cứu Mã
Giang Lân cho rằng: “Thể loại văn học đầu tiên viết bằng chữ Quốc ngữ phải kể đến
du kí. Đây là một hình thức bút kí văn học được ghi lại bằng văn xuôi, thuật lại những
chuyến đi của tác giả đến những vùng đất khác nhau. Nguồn gốc của du kí cần tìm
trong những hình thức tùy bút, kí sự truyền thống” [27, 44].
Vừa mang tính kế thừa vừa đưa ra quan điểm mới, trong cuốn Lược khảo lịch

sử văn học Việt Nam từ khởi thủy đến cuối thế kỉ XX (2004), ở phần "Văn chương
hiện kim", mục "Những bước đầu của tiểu thuyết", Bùi Đức Tịnh coi du kí như
những thiên kí sự kể những chuyện của chính tác giả, chúng được xem như là một
loại tiểu thuyết, chỉ tô điểm thêm đôi chút những sự thật mà tác giả đã chứng kiến”
[80, 363].
Trong cuốn Văn học Việt Nam thế kỉ XX – những vấn đề lịch sử và lí luận
(2005), ở "Chương I: Sự hình thành và phát triển của thể kí", khi nêu ra quan niệm
về thể kí, Phan Cự Đệ cũng cho rằng: “Kí là loại hình văn học trung gian giữa báo
chí và văn học. Kí bao gồm nhiều thể dưới dạng văn xuôi tự sự như bút kí, hồi kí, du
kí, nhật kí, phóng sự, tùy bút và cả hồi kí tự truyện” [11, 373].
Trần Đình Sử trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học (2006) đã cho rằng “Du
kí là một loại hình văn học thuộc loại hình kí, mà cơ sở là sự ghi chép của bản thân
người đi du lịch, ngoạn cảnh về những điều mắt thấy tai nghe của chính mình tại


15

những xứ sở xa lạ hay những nơi ít người có dịp đi đến. Hình thức của du kí rất đa
dạng, có thể là ghi chép, kí sự, nhật kí, thư tín, hồi tưởng, miễn là mang lại những
thông tin, tri thức và cảm xúc mới lạ về phong cảnh, phong tục, dân tình của xứ sở ít
người biết đến” [19, 75]. Định nghĩa trên đã nêu khá đầy đủ và khái quát về đặc điểm
nội dung cũng như hình thức của thể tài du kí. Nó nhấn mạnh du kí là những ghi chép
chân thực về những vùng đất xa lạ của những người “đi du lịch ngoạn cảnh” và hình thức
của du kí thì rất đa dạng và phong phú.
Giáo trình Lí luận văn học (2008) do Hà Minh Đức chủ biên đã xem du kí là
một trong các hình thức của thể loại kí, bởi vì “kí không phải là một thể loại thuần
nhất mà bao gồm nhiều hình thức ghi chép, miêu tả và biểu hiện về cuộc sống trong
văn xuôi từ kí sự, phóng sự, bút kí, hồi kí, du kí, đến nhật kí, tùy bút, tiểu phẩm văn
học, bút kí chính luận...” [10, 215]. Đặc điểm bao quát của thể du kí mà giáo trình đã
nhấn mạnh là những hình thức ghi chép linh hoạt trong văn xuôi, với nhiều dạng

tường thuật, miêu tả, biểu hiện và bình luận về những sự kiện và con người có thật
trong cuộc sống, với nguyên tắc tôn trọng tính xác thực và chú ý đến tính thời sự của
xã hội.
Với những khám phá của mình, trong Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết
thế kỉ XIX (2012), nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn đã đưa ra nhận xét về bản chất của
du kí là đi du lịch và khám phá những vùng đất mới khác lạ: “Đi du lịch thực chất là
di chuyển trong không gian văn hóa – địa lý mới lạ. Không chỉ đi du lịch ra nước
ngoài, ngay cả việc đi du lịch nội địa cũng là di chuyển đến không gian của “người
khác”. Vì vậy mà văn học du lịch gắn liền với cảm hứng tìm hiểu sự khác lạ. Các nhà
nghiên cứu Trung Quốc nói đến cầu tân, cầu dị, cầu mỹ trong khi đi du lịch cũng có ý
đó” [90].
Trên Tạp chí Khoa học xã hội số 4 – 2013, Võ Thị Thanh Tùng có đưa ra quan
niệm: “Du kí là một hình thức bút ký văn học thường ghi lại bằng văn xuôi, thuật lại
những chuyến đi, ghi lại những cảm xúc, tình cảm và suy ngẫm của tác giả khi đến
những vùng đất khác nhau. Du kí hấp dẫn người đọc bởi nội dung mới và lạ, ở đó câu


16

chuyện được phát triển theo lộ trình của tác giả. Cảm hứng bao trùm lên toàn bộ tác
phẩm là cảm hứng phiêu lưu, giang hồ. Mỗi cuộc hành trình là một khám phá đầy bất
ngờ, thú vị về phong cảnh thiên nhiên, văn hóa, phong tục tập quán, tôn giáo...” [98,
37].
Trong bài viết “Những đặc điểm của văn học du kí trung đại” (2014), tác giả
Nguyễn Thị Thúy Hằng đã đưa ra quan điểm: “Nói một cách vắn tắt, du kí là sáng tác
văn học của tác giả đi du lịch. Đây là thể loại bút ký đặc biệt ghi lại những cảm hứng
của người đi về phong vị khi khám phá những vùng đất là, cảm xúc về những lộ trình
mới, hình ảnh về những chuyến đi đặc biệt... Du kí phản ánh, truyền đạt những nhận
biết, những cảm tưởng, nhận thức mới mẻ của bản thân tác giả về những điều mắt thấy
tai nghe ở những xứ sở xa lạ, nơi mọi người ít có dịp đi đến và chứng kiến” [21, 75].

Nói tóm lại, dù đưa ra rất nhiều các khái niệm, quan điểm khác nhau, nhưng
phần lớn các nhà nghiên cứu đều gặp nhau ở nội dung cho rằng du kí thực chất là một
thể tài văn học. Thể loại này viết về các chuyến đi thực tế tới các vùng đất khác nhau.
Bằng ngòi bút giàu hiện thực, các tác phẩm du kí đem đến cho độc giả một lượng
thông tin vô cùng phong phú về các vùng đất khác nhau, về các lĩnh vực khác nhau
của đời sống. Đọc mỗi trang viết du kí giống như xem một bộ phim quay chậm, mà
mỗi thước phim là những mảng màu sắc độc đáo riêng biệt và những dấu ấn cảm xúc
phong phú. Trải qua quá trình phát triển của mình, du kí đã thực sự có những đóng
góp quan trọng vào tiến trình hiện đại hóa nền văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX.
1.1.2. Đặc điểm
Du kí là một nhánh nhỏ của thể kí. Nó mang các đặc điểm chung của thể kí là
giàu thông tin và dữ liệu về cuộc sống. Đây là thể loại có tính chất giao thoa giữa báo
chí và văn học. Giống như báo chí, đối tượng của du kí là cuộc đời thực tại. Nguyên
tắc của người viết báo cũng như viết du kí là phải đảm bảo tính chân thực về người
thật, việc thật. Du kí có mối quan hệ rất gần gũi với phóng sự. Chúng đều viết về
người thật, việc thật. Nhưng phóng sự thiên về việc nói đến những vấn đề cấp thiết,
nóng hổi đang diễn ra gây nhức nhối, cấp thiết trong đời sống xã hội. “Tác phẩm


17

phóng sự thường xuất hiện trong những hoàn cảnh có vấn đề, ở những thời điểm cuộc
sống đang có những chuyển biến mạnh mẽ với những mâu thuẫn gay gắt đang diễn
ra” [7, 24]. Người viết phóng sự luôn có ý thức đối mặt với thách thức để khám phá,
bóc trần sự thật của đời sống, luôn muốn khái quát, thẩm định, giải đáp vấn đề và
thẳng thắn bày tỏ chính kiến, quan điểm của mình. Trong phóng sự, ít khi đề cập đến
quá khứ, con người xuất hiện thì chủ yếu là các nhân chứng. Các nhân chứng giữ vai
trò làm câu chuyện tăng tính thuyết phục.
Du kí thì lại khác, đây là thể loại cũng đề cập đến những sự việc đang diễn ra,
song những sự việc ấy không nhất thiết phải nóng hổi, phải là sự việc có vấn đề đang

làm xã hội quan tâm. Du kí thường hay quay về với quá khứ. Hiện tại và quá khứ đan
xen trong câu chuyện của người du khách. Chân dung con người trong du kí thường
có hình thù tương đối sắc nét, đời sống nội tâm rất sâu sắc. Trong du kí, vai trò của
nhân chứng khá mờ nhạt hay nói đúng hơn là không hề có nhân chứng. Ở mỗi tác
phẩm du kí, sự xuất hiện của nhân vật trần thuật cũng là nhân vật tôi - tác giả trong tác
phẩm là một trong những đặc điểm làm nên đặc trưng cơ bản cho thể kí nói chung và
du kí nói riêng. Cái tôi trong du kí thường thiên về tình cảm, cảm xúc và có xu hướng
tự biểu hiện mình. Đôi khi làm nên sự hấp dẫn cho một tác phẩm du kí không phải là
các thông tin, các số liệu mà chính là sự rung cảm của bản thân tác giả. Cái tôi tác giả
xuất hiện trong tác phẩm không đơn thuần chỉ là người chứng kiến và thuật lại sự việc,
mà còn bao hàm tất cả những gì mà tác giả có được trong quá trình sống và chiêm
nghiệm cuộc sống. Do đó trong du kí thường xuất hiện những đoạn trữ tình ngoại đề
bộc lộ tâm huyết của tác giả, nó cho thấy cách nhìn, cách cảm rất riêng của từng tác
giả trước những vấn đề phức tạp của cuộc sống. Chính sự trăn trở, suy ngẫm của cái
tôi trần thuật trước mỗi sự kiện, sự việc, thiên nhiên và con người đã làm cho du kí
hướng đến mục đích là trái tim người đọc, góp phần “thanh lọc” tâm hồn, từ đó giúp
họ vươn tới một tình cảm nhân văn, cao đẹp.
Du kí là thể loại gần gũi với tùy bút vì cả du kí và tùy bút đều dành một khoảng
nhất định cho việc bộc lộ tình cảm, cảm xúc. Trong tùy bút, xen kẽ với việc miêu tả,


18

nhà văn bộc lộ cảm xúc chủ quan của mình, nên tạo cho tác phẩm chất trữ tình đậm
đặc. Hiện thực trở thành điểm tựa, là cái cớ để nhà văn thỏa sức vẫy vùng trong biển
cảm xúc mênh mông. Trong du kí, hiện thực là đối tượng chính, cảm xúc góp phần
làm cho bức tranh hiện thực có chiều sâu hơn. Chính điều này đã làm cho du kí nói
riêng và thể kí nói chung mang những đặc điểm rõ nét của văn học.
Không chỉ gần gũi với phóng sự và tùy bút, du kí còn hết sức thân thiết với nhật
kí. Cả hai có điểm chung là ghi chép sự việc theo diễn biến thời gian một cách cặn kẽ,

chính xác và thường là trọn vẹn cả một quá trình. Khối lượng tư liệu phong phú nếu
không muốn nói là dày đặc. Nhưng tất nhiên, đó là những tư liệu tiêu biểu nhất đã
được tác giả sàng lọc, lựa chọn để đạt đến tính điển hình. Giống như du kí, nhật kí
cũng là loại hình ghi chép hết sức phóng túng, tản mạn vì cả hai không chịu sự bó
buộc của khuôn khổ, bố cục hay dung lượng. Nhưng nếu chỉ ghi chép sự thật không
thôi thì cả du kí và nhật kí cũng không khác gì những ghi chép sử học, địa lý hay xã
hội học khô khan. Cái làm nên chất văn học của cả hai thể loại này chính là đã biết
vượt lên trên sự thật để thẩm định sự thật ấy, tạo nên những giá trị thẩm mỹ nhờ những
cảm xúc chân thành, những suy nghĩ sâu sắc của cái tôi trần thuật. Chính vì sự giống
nhau này mà ta thấy có khá nhiều tác phẩm du kí được ghi chép dưới dạng nhật kí như
Tây hành nhật kí của Phạm Phú Thứ hay Pháp du hành trình nhật kí của Phạm
Quỳnh...
Có thể nói du kí là thể loại có tính tổng hợp, giao thoa với nhiều thể loại khác,
đặc biệt gần gũi với phóng sự, nhật kí và tùy bút. Do vậy nó có đầy đủ những phẩm
chất của cả ba thể loại này. Nó là sự kết hợp hài hòa giữa việc phản ánh hiện thực với
việc thỏa mãn những tình cảm thẩm mỹ của con người. Nó là sự giao thoa giữa những
đặc điểm của báo chí và những đặc điểm của văn học.
Du kí còn là một thể loại có tính chất giao thoa với chính luận. Sự hiện diện của
chính luận cũng là một trong những yếu tố làm nên nét đặc sắc cho du kí. Du kí không
chỉ biết dừng lại ở việc miêu tả hiện thực một cách đơn thuần, du kí biết chọn lựa trong
cái hiện thực hỗn độn những con người, sự việc điển hình, tiêu biểu khiến cho tác


19

phẩm trở nên sâu sắc hơn. Hiện thực cuộc sống chính là nguyên cớ, là tác nhân để nhà
văn trăn trở, suy ngẫm, bày tỏ thái độ, thể hiện cảm xúc. Ngoài việc miêu tả những
điều mắt thấy tai nghe trên con đường du lãm, các tác giả du kí còn dành nhiều tâm
huyết để suy ngẫm, bàn luận về mọi khía cạnh của đời sống. Tất cả đều được nhìn qua
lăng kính chủ quan của người du khách, tuy không gay gắt như một thiên chính luận

thật sự nhưng cũng đủ để lại dư âm cho người đọc và thể hiện khá rõ cái tôi chủ quan
của tác giả trước mọi vấn đề của cuộc sống.
Du kí là một thể loại có nhiều đóng góp cho quá trình hiện đại hóa của nền văn
học Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX. Mọi vấn đề của cuộc sống đều có thể đưa
vào du kí. Đó là chiếc cầu nối để đưa văn học lại gần hơn với cuộc sống. Với hàm
lượng kiến thức phong phú, chân thực, du kí không khác gì một kho tư liệu quý giá,
hấp dẫn, góp phần truyền lại niềm cảm hứng sâu đậm cho những sáng tác văn học về
sau.
1.2. Ngành nghiên cứu văn hóa, lí thuyết diễn ngôn và phê bình hậu thực dân
1.2.1. Ngành nghiên cứu văn hóa
Văn hóa là chủ đề thu hút được sự quan tâm đặc biệt của nhiều ngành nghiên cứu
như nhân học, lịch sử, xã hội học, địa lí nhân văn, văn học... Và mỗi ngành nghiên cứu
văn hóa theo một khía cạnh khác nhau. Trong vài thập kỉ qua, thế giới đã hình thành
thêm một ngành nghiên cứu mang tính chất liên ngành, vượt qua những ranh giới
chuyên biệt về văn hóa, gọi là ngành nghiên cứu văn hóa (Cultural Studies). Trong
cuốn Nghiên cứu văn hóa, lý thuyết và thực hành (2011), Chris Barker đã đưa ra định
nghĩa ngắn gọn: “Nghiên cứu văn hóa là lĩnh vực nghiên cứu liên ngành hay hậu
ngành mà khám phá sự sản xuất và khắc sâu các lược đồ ý nghĩa. Sự hình thành diễn
ngôn, hoặc cách được quy định của việc nói, liên quan đến những vấn đề quyền lực
trong thực hành biểu đạt của sự hình thành con người” [3, 650]. Cụ thể hơn, trong
phần đầu cuốn sách, Barker lý giải: “Nghiên cứu văn hóa khám phá văn hóa như các
thực hành biểu đạt ý nghĩa của sự thể hiện trong bối cảnh quyền lực xã hội. Về mặt
khái niệm, nghiên cứu văn hóa gắn kết xung quanh những tư tưởng then chốt về văn


×