Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Tư tưởng HCM về sự kết hợp đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế để thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.9 KB, 23 trang )

MỞ ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả của
sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Marx - Lenin vào điều
kiện cụ thể của Việt Nam; đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và
trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải
phóng con người.
Trong hệ tư tưởng của người, chủ tịch HCM nêu rõ độc lập tự chủ, tự lực
tự cường gắn với đoàn kết và mở rộng hợp tác quốc tế là 1 trong những
yếu tố cốt lõi để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng đất
nước. Giác ngộ cn marx lenin đã giúp HCM xác định rõ ràng rằng cách
mạng Việt Nam là 1 bộ phận của CMTG, luôn có mối liên hệ chặt chẽ,
mật thiết với các phong trào và lực lượng tiến bộ của thế giới, việc tăng
cường các mối liên hệ và hợp tác quốc tế sẽ giúp chúng ta kháng chiến
thắng lợi, cứu quốc thành công. Người cho rằng Sức mạnh của ta là
sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân , là ở việc phát huy mọi
nguồn lực của đất nước, nhưng đồng thời phải biết hoạt động tích
cực, đặt Việt Nam vào dòng chảy chung của thế giới, tận dụng
và phát huy sức mạnh thời đại, biết tranh thủ sự ủng hộ và hợp
tác quốc tế.
“ Kết hợp đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế ” là tư tưởng mang tính
chiến lược cách mạng và rất sáng tạo của Hồ Chí Minh. Chính vì được
nắm vững và áp dụng hiệu quả mả Nó góp phần to lớn vào công cuộc
giải phóng dân tộc, độc lập dân tộc. Vậy nên em chọn đề tài “ Tư tưởng
hcm về sự kết hợp đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế để thực hiện
mục tiêu độc lập dân tộc” để làm rõ luận điểm được nêu trên. Bài tiểu
luận gồm 3 chương chính :
Chương I :
Chương II:



Do hiểu biết của em còn nhiều hạn chế, bài tiểu luận của em không
tránh khỏi các thiếu sót. Rất mong các thầy cô thông cảm và giúp đỡ .
Em xin chân thành cảm ơn!


Chương I : Tư tưởng hcm về đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế
1. Tư tưởng hcm về đoàn kết dân tộc
1.1. Những cơ sở hỉnh thành tư tưởng HCM về đoàn kết dân
tộc
1.1.1.

Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần

cố kết cộng đồng của dân tộc VN
Trải qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, tinh thần
yêu nước gắn liền với ý thức cộng đồng, đoàn kết dân tộc của nhân
dân Vn đã đợc hình thành và củng cố, tạo thành 1 truyền thống bền
vững. Đối với mỗi con người VN, yêu nước-nhân nghĩa- đoàn kết đã trở
thành 1 thứ tình cảm tự nhiên, in đấm dấu ấn trong cấu trúc xã hội Vn,
tạo thành quan hệ 3 tâng chặt chẽ : gia đình- làng xã- quốc gia.
Sớm nhận thức được vai trò của truyền thống yêu nước đoàn kết dân
tộc, HCM khẳng định: “Dân ta có 1 lòng nồng nàn yêu nước. ĐÓ là 1
truyền thống quý báu. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng,
thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành 1 làn sóng vô cùng mạnh mẽ,
to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ
bán nước và lũ cướp nước”.
Chủ nghĩa yêu nước, truyên thống đoàn kết của dân tộc chính là cơ sở
đầu tiên, sâu xa và cơ bản nhất cho sự hình thành tư tưởng Hcm về
đoàn kết dân tộc.

1.1.2.

Tổng kết những kinh nghiệm thực tiễn của

các phong trào cách mạng VN và thế giới
Về thực tiễn, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh được hình
thành trên cơ sở
tổng kết những kinh nghiệm của phong trào cách mạng Việt Nam và
thế giới, nhất là phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa.
Những thành công hay thất bại của các phong trào ấy đều được người
nghiên cứu để rút ra những bài học cần thiết cho việc hình thành tư
tưởng về đại đoàn kết dân tộc.
Phong trào yêu nước Việt Nam đã diễn ra rất mạnh mẽ từ khi thực dân
Pháp xâm lược


nước ta. Từ các phong trào Cần Vương, Văn Thân, Yên Thế cuối thế kỷ
XIX, đến các phong trào Đông Du, Duy Tân, chống thuế đầu thế kỷ XX,
các thế hệ yêu nước người Việt Nam đã nối tiếp nhau vùng dậy chống
ngoại xâm, nhưng đều thất bại. Còn tại các nước tư bản chủ nghĩa và
nước thuộc địa ở hầu khắp các châu lục,Người đã nghiên cứu
các cuộc cách mạng tư sản, đặc biệt là cách mạng Mỹ và cách mạng
Pháp, nguyên nhân dẫn đến thắng lợi của giai cấp tư sản cũng như tại
sao các cuộc cách mạng tư sản vẫn chỉ là cách mạng “không đến nơi”.
Nhưng đặc biệt hơn cả là sự thắng lợi của CMT10 Nga do Lenin lãnh
đạo đã đưa những nghiên cứu của HCM đến bước ngoặt quan trọng
trong việc tìm ra con đường cứu nước đúng đắn.
1.1.3.

Quan điểm của chủ nghĩa Marx- Lenin coi


cách mạng là sự nghiệp của quần chúng
Cơ sở lý luận quan trọng nhất đối với quá trình hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh về đại
đoàn kết dân tộc là những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác –
Lênin : cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người
sáng tạo ra lịch sử, giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng phải trở thành
dân tộc, liên minh công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn của
cách mạng.
Chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ ra cho các dân tộc bị áp bức con đường
tự giải phóng. Lenin cho rằng, sự liên minh giai cấp, trước hết là liên
mình công nông, nếu không có sự đồng tình và ủng hộ của đa số nhân
dân lao động với đội ngũ tiên phong của nó, tức giai cấp vô sản, thì cm
vô sản không thể thực hiện được.
Như vậy, chủ nghĩa Marx- Lenin không những đã chỉ ra vai trò của quần
chúng nhân dân trong lịch sử mà còn chỉ ra vị trí của khối liên minh
công nông trong cm vô sản. Đó là những quan điểm lý luận quan trọng
để HCM có cơ sở KH trong việc đánh giá chính xác những ưu điểm cũng
như hạn chế của các nhà cách mạng lớn ở VN và trên TG, từ đó hình
thành tư tưởng của NGười về đại đoàn kết dân tộc.


1.2. Những quan điểm cơ bản của tư tưởng HCM về đoàn kết
dân tộc
1.2.1.

Đoàn kết dân tọc là vấn đề có ý nghĩa chiến

lược, quyết định thành công của cách mạng
Thực tiễn đã chứng minh, tuy các phong trào kháng chiến cứu

nước của nhân dân ta cuối thế kỷ 19, đầu thế 20 diễn ra vô cùng
sôi nổi nhưng gặp thất bại có phần nguyên nhân sâu xa là do cả
nước không đoàn kết thành 1 khối thống nhất. HCM đã nhận ra
rằng, để đánh bại đế quốc thực dân nhằm giải phóng dân tộc, giải
phóng giải cấp và giải phóng con người, nếu chỉ có tinh thần yêu
nước là chưa đủ, mà cần phải tập hớp được tất cả mọi lực lượng
có thể tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc bền vững. Vì
vậy, trong tư tưởng Hcm, đoàn kết dân tộc có vai trò, ý nghĩa
quan trọng, chiến lược , cơ bản nhất quán và lâu dài, xuyên suốt
tiến trình cm
Đoàn kết dân tộc được hiểu là chiến lược tập hợp lực lượng dân
tộc. Tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp được nhằm hình thành
sức mạnh to lớn của dân tộc trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù.
Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết
phải điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp cho phù hợp
những đối tượng khác nhau, nhưng đại đoàn kết dân tộc phải luôn
được nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng.
1.2.2.

Đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ

hàng đầu của Đảng, của dân tộc
Xem dân là gốc, là lực lượng tự giải phóng chủ chốt nên HCM coi vđề
đoàn kết dân tộc, đoàn kết toàn dân là vấn đề cơ bản của Cm. Cm
muốn thành công nếu chỉ có đường lối đúng đắn thì chưa đủ mà trên
cở của đường lối, Đảng phải cụ thể hóa thành những mục tiêu, nvu và
phương pháp cm phù hợp với từng giai đoạn lịch sử để lôi kéo, tập hợp
quần chúng, tạo thực lực cho cm. thực lực đó chính là khối đại đoàn kết
dân tộc.Hay nói cách khác đại đoàn kết dân tộc chính là đòi hỏi khách
quan của quần chúng nhân dân. . Vậy nên, trong cuộc đấu tranh giải



phóng dân tộc, Đảng phải coi việc thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn quần
chúng đấu tranh 1 cách tự giác, có tổ chức là mục tiêu, nhiệm vụ hàng
đầu . Mỗi người dân yêu nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cũng phải
nhận thức rõ tầm quan trộng của mục tiêu, nhiệm vụ này. Chỉ có thế,
ta mới có thể tạo ra sức mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh giải phóng
vì độc lập dân tộc
1.2.3.

Đoàn kết dân tộc là đoàn kết toàn dân

Trong tư tưởng HCM, khái niệm “Dân” có nội hàm rất rộng. “Dân” theo
HCm là đồng bào, là anh em 1 nhà, không phân biệt già trẻ, gái trai,
giàu nghèo. “Dân” là toàn dân, toàn thể dân tộc VN, bao gồm dân tộc
đa số, thiểu sổ, thuộc bất kì tôn giáo nào, là tất những con người đang
sinh sống trên dải đất này. Nói đến đại đoàn kết dân tộc cũng có nghĩa
là phải tập hợp mọi người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh
chung. Dân tộc, toàn dân là khối rất đông bao gồm nhiều chục triệu
con người. Muốn xây dựng khối đại đoàn kết rộng lớn như vậy, thì phải
xác định rõ đâu là nền tảng của khối đại đoàn
kết dân tộc và những lực lượng nào tạo nên cái nền tảng đó. Về điều
này, Người đã chỉ rõ: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại
đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân là công nhân, nông dân và các
tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là cái gốc của đại đoàn kết. ”.
Theo Người “Lực lượng chủ yếu trong khối đại đoàn kết dân tộc là công
nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc
thống nhất”. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các
tầng lớp nhân khác nữa. Người nêu thêm: lấy liên minh công – nông –
lao động trí óc làm nên tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân. Nền tảng

càng được củng cố vững chắc thì khối đại đoàn kết dân tộc càng có thể
mở rộng, không e ngại bất khì thế lực nào có thể làm suy thoái khối đại
đoàn kết dân tộc.
Với tinh thần đoàn kết rộng rãi, HCm đã dùng khái niệm đại đàon kết
dân tộc để định hướng cho việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
trong suốt tiến trình của CMVN từ CM dân tộc dân chủ nhân dân tới
CMXHCN.


2. Tư tưởng HCM về đoàn kết quốc tế
2.1. Vai trò của đoàn kết quốc tế
2.1.1. Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp
sực mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo
sức mạnh tổng hợp cho CM VN
Trong quá trình hoạt động cách mạng, nhờ nghiên cứu và tổng kết thực
tiễn chủ nghĩa Mác — Lênin, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra sức mạnh vĩ
đại tiềm ẩn trong các trào lưu cách mạng thế giới mà Việt Nam cần
tranh thủ. Các trào lưu đó nếu được liên kết, tập hợp trong khối đoàn
kết quốc tế sẽ tạo nên sức mạnh to lớn. Sức mạnh đó luôn được bổ
sung những nhân tố mới, phản ánh sự vận động, phát triển không
ngừng của lịch sử toàn thế giới và tiến trình chính trị quốc tế sau thắng
lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Theo người, sức mạnh
quốc tế rất đa dạng và rộng lớn. Đó là Phong trào đấu tranh giải phóng
dân tộc; Phong trào cách mạng của công nhân và nhân dân lao động
các nước chính quốc và TBCN nói chung; Phong trào XHCN; Phong trào
vì Hòa bình, ĐLDT, Dân chủ và tiến bộ xã hội; Phong trào cách mạng
của nhân dân Đông Dương... Không chỉ tiểm ẩn trong những phong
trào cm, Sức mạnh thời đại mà Hồ Chí Minh nhận thức còn là sức mạnh
của tiến bộ khoa học công nghệ, làm thay đổi có tính cách mạng về
các lĩnh vực như: năng lượng, vật liệu, công nghệ sinh học, giao thông

vận tải…, Loài người đã tiến những bước tiến dài trong việc chinh phục
thiên nhiên. “50 năm qua thế giới đã có những chuyển biến lớn, đặc
biệt là sức mạnh nguyên tử, nhiều hơn thế kỷ trước cộng lại”.
Khi tìm thấy con đường cứu nước Hồ Chí Minh đã sớm xác định cách
mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, cách mạng
Việt Nam có thể thành công và thành công đến nơi khi thực hiện đoàn
kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới. Cùng với quá trình
phát triển thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong quan hệ với tình
hình quốc tế, tư tưởng đoàn kết với phong trào cách mạng thế giới đã
được Hồ Chí Minh phát triển ngày càng đầy đủ, rõ ràng và cụ thể hơn.


2.1.2.

Thực hiện đoàn kết quốc tế, nhằm góp

phần cùng nhân dân thế giới thực hiện thắng
lợi các mục tiêu cm của thời đại
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, chủ nghĩa yêu nước chân chính phải được gắn
liền với chủ nghĩa quốc tế vô sản, đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền
với đoàn kết quốc tế; thực hiện đoàn kết quốc tế không phải chỉ vì
thắng lợi của cách mạng mỗi nước, mà còn vì sự nghiệp chung của
nhân loại tiến bộ trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và các
thế lực phản động quốc tế vì các mục tiêu cách mạng của thời đại.
Các quốc gia giờ đây không còn tồn tại biệt lập, đóng cửa, họ tăng
cưởng mở rộng các quan hệ quốc tế, làm cho vận mệnh của mỗi dân
tộc không thể tách rời vận mệnh chung của cả loài người. Nắm được
đặc điểm của thời đại mới, Hồ Chí Minh đã hoạt động không mệt mỏi
để phá thế đơn độc của cách mạng Việt Nam, gắn cách mạng Việt Nam
với cách mạng thế giới. Theo Người, muốn tăng cường đoàn kết quốc

tế trong cuộc đấu tranh vì mục tiêu chung, các đảng cộng sản phải
kiên trì chống lại mọi khuynh hướng sai lầm của chủ nghĩa cơ hội chủ
nghĩa vị kỷ dân tộc, chủ nghĩa sôvanh. . những khuynh hướng làm suy
yếu sức mạnh đoàn kết, thống nhất của các lực lượng cách mạng thế
giới. Nói cách khác, các đảng cộng sản phải tiến hành có hiệu quả việc
giáo dục chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp với chủ nghĩa quốc tế
vô sản cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện đoàn kết quốc tế, kết
hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tê vô sản là nhằm
góp phần cùng nhân dân thế giới thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách
mạng của dân tộc và thời đại. Bởi lẽ, chúng ta không chỉ chiến đấu vì
độc lập, tự do của đất nước mình mà còn vì độc lập, tự do của các nước
khác, không chỉ bảo vệ những lợi ích sống còn của dân tộc mình mà
còn vì những mục tiêu cao cả của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Để làm được như vậy phải kiên quyết đấu


tranh chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc bị kỷ chống lại chủ
nghĩa sôvanh và mọi thứ chủ nghĩa cơ hội khác.
2.2. Nguyên tắc đoàn kết quốc tế
2.2.1. Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và
lợi ích, có lý có tình
Cũng như xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, muốn thực hiện được
đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và các
lực lượng phản động quốc tế, ta phải tìm ra được những điểm tương
đồng về mục tiêu và lợi ích giữa các dân tộc, các lực lượng tiến bộ và
phong trào cách mạng thế giới. Đây là vấn đề cốt lõi có tính nguyên
tắc trong công tác tập hợp lực lượng. Từ rất sớm Hồ Chí Minh đã phát
hiện ra sự tương đồng này nhờ đặt cách mạng Việt Nam trong bối cảnh
chung của thời đại, kết hợp lợi ích của cách mạng Việt Nam với trào lưu

cách mạng thế giới và nhận thức về nghĩa vụ của Việt Nam đối với sự
nghiệp chung của loài người tiến bộ.
Đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Hồ Chí Minh giương
cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, thực hiện
đoàn kết thống nhất trên nền tảng của chủ nghĩa Mác —Lênin và chủ
nghĩa quốc tế vô sản. Người chỉ ra rằng, để thực hiện đoàn kết thống
nhất trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế thì đoàn kết giữa
các Đảng "là điều kiện quan trọng nhất để bảo đảm cho phong trào
toàn thắng trong cuộc đấu tranh vĩ đại cho tương lai tươi sáng của toàn
thể loài người”. Người nêu rõ, thực hiện sự đoàn kết đó phải đứng vững
trên lập trường giai cấp công nhân, quán triệt sâu sắc những nguyên
tắc của chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Đối với các dân tộc trên thế giới, Hồ Chí Minh đề cao ngọn cờ độc lập,
tự do và quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Người coi đây là chân lý, là
”lẽ phải không ai chối cãi được". Người thực hiện nhất quán quan điểm
có tính nguyên tắc: Dân tộc Việt Nam tôn trọng độc lập, chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ và quyền tự quyết của tất cả các quốc gia, dân tộc
trên thế giới, đồng thời mong muốn các quốc gia, dân tộc trên thế giới


quan hệ hợp tác, hữu nghị với Việt Nam trên cơ sở những nguyên tắc
đó.
Đối với các lực lượng tiến bộ trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao ngọn
cờ hòa bình, đấu tranh bảo vệ hòa bình. Đây là 1 nội dung quan trọng,
là tư tưởng bất di bất dịch trong tư tưởng Hồ Chí Minh. đó không phải
là một nền hòa bình trừu tượng, mà là "một nền hòa bình chân chính
xây trên công bình và lý tưởng dân chủ"[2], chống chiến tranh xâm lược
vì các quyền dân tộc cơ bản của mỗi quốc gia. Trong suốt hai cuộc
kháng chiến, quan điểm hòa bình và công lý, mong muốn được độc lập
và thống nhất đất nước của Nuò và nhân dân Việt Nam đã cảm hóa, lôi

kéo các lực lượng tiến bộ thế giới đứng về phía nhân dân Việt Nam đòi
chấm dứt chiến tranh. Trên thực tế, đã hình thành một Mặt trận nhân
dân thế giới, có cả nhân dân Pháp và nhân dân Mỹ đoàn kết với Việt
Nam chống đế quốc xâm lược, góp phần kết thúc thắng lợi hai cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
"Có lý" là phải tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác –
Lênin, phải xuất phát từ lợi ích chung của cách mạng thế giới. Tuy
nhiên, việc trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin đòi hỏi phải vận dụng
sáng tạo, có hiệu quả vào hoạt động thực tế của mỗi nước, mỗi đảng,
tránh giáo điều. "Có tình" là sự thông cảm, tôn trọng lẫn nhau trên tinh
thần, tình cảm của những người cùng chung lý tưởng, cùng chung mục
tiêu đấu tranh: phải khắc phục tư tưởng sôvanh, không "áp đặt", công
kích nhau, hoặc dùng các giải pháp về chính trị, kinh tế... để gây sức
ép . "Có tình" đòi hỏi trong mọi vấn đề phải chờ đợi nhau cùng nhận
thức, cùng hành động vì lợi ích chung. Lợi ích của mỗi quốc gia, dân
tộc, mỗi đảng phải được tôn trọng, song lợi ích đó-không được phương
hại đến lợi ích chung, lợi ích của đảng khác, của dân tộc khác.

2.2.2.

Đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ, tự lực,

tự cường


Đoàn kết quốc tế là để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ,

giúp đỡ của

các lực lượng quốc tế, nhằm tăng thêm nội lực, tạo sức mạnh thực hiện

thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng đặt ra. Để đoàn kết tốt phải có nội
lực tốt. Nội lực là nhân tố quyết định, còn nguồn lực ngoại sinh chỉ có
thể phát huy tác dụng thông qua nguồn lực nội sinh. Chính vì vậy trong
đấu tranh cách mạng, Hồ Chí Minh luôn nêu cao khẩu hiệu: "Tự lực
cánh sinh, dựa vào sức mình là chính", "Muốn người ta giúp cho, thì
trước mình phải tự giúp lấy mình đã". Người nói: "Một dân tộc không tự
lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng
đáng được độc lập"'.
Theo HCM, muốn tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế, Đảng phải có
đường lối độc lập, tự chủ và đúng đắn. Người nói: "Độc lập nghĩa là
chúng ta điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không có sự can
thiệp ở ngòai vào"[3]. Trong kháng chiến, bám sát đường lối, chủ trương
trên, Đảng ta đã tranh thủ được phong trào nhân dân thế giới đoàn kết
với Việt Nam, tạo ra được tiếng nói chung và sự ủng hộ có hiệu quả của
các nước xã hội chủ nghĩa, Đặc biệt giữa lúc Liên Xô và Trung Quốc,
đang có những bất đồng sâu sắc cả về tư tưởng và đường lối, thì thiện
chí đoàn kết, hợp tác mà Việt Nam thể hiện với cả 2 bên đã góp phần
quan trọng vào việc củng cố đoàn kết của các nước xã hội chủ nghĩa,
của phong trào cách mạng thế giới, tạo chỗ dựa cho phong trào nhân
dân thế giới ủng hộ Việt Nam đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược
của Mỹ.

Chương II : Tư tuỏng hcm về sự kết hợp đoàn kết dân tộc và đoàn kết
quốc tế để thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc
2.1. Cơ sở hình thành tư tưởng hcm về sự kết hợp giữa đoàn
kết dân tộc với đoàn kết quốc tế
Trong quá trình hoạt động cm, nhờ cn marx lenin và quá trình tìm tòi
học hỏi, tổng kết thực tiễn, hcm đã nhận thấy sức mạnh tiềm ẩn của
các phong trào cách mạng thế giới mà vn cần tranh thủ, tận dụng.



Các phong trào này nếu được liên kết, tập hợp lại với nhau trở thành
một khối đoàn kết sẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn, có khả
năng đánh bại mọi kẻ thù đe dọa sự độc lập, tự do dân tộc trên toàn
thế giới. Hcm đã chỉ ra tính tất yếu khách quan của sự kết hợp này
trên cả 2 phương diện lý luận và thực tiễn
2.1.1.

Về mặt lý luận

chủ nghĩa marx-lenin ra đời đã chỉ rõ cm vô sản muốn thành công phải
tạo ra được sức mạnh tổng hợp. Tức là phải biết kết hợp các yếu tốt
khách quan và chủ quan, trong nước và thế giới, dân tộc và thời đại.
Chính vì vậy, Marx đã đề xuất “vô sản tất cả các nước đoàn kết lại”.
Đến thời kỳ chủ nghĩa đế quốc, quốc tế cộng sản đã kêu gọi “vô sản tất
cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại”. Còn trong thời đại
giải phóng dân tộc, NAQ luôn theo đuổi chủ trương “lao động tất cả các
nước đoàn kết lại”. Từ đó, có thể thấy, đứng trước nhiệm vụ phải giải
quyết mâu thuẫn thời đại thì việc liên kết quốc tế song song với sự
đoàn kết dân tộc là hoàn toàn có cơ sở.
2.1.2.

Về mặt thực tiễn

Lịch sự phát triển của nhận loại đã chỉ ra rằng: các cộng đồng,
nhóm, dân tộc có cùng lợi ích khi đoàn kết, hợp tác với nhau
bao giờ cũng có được sức mạnh to lớn bảo vệ được lợi ích
chung và riêng của mình. Những nghiên cứu và trải nghiệm đã
giúp Hcm đi đến kết luận: “ Trên đời này chỉ có 2 giống người:
giống người bóc lột và giống người bị bóc lột”. Không phân

biệt ta là dân tộc nào, đấu tranh ở đâu, xa hay gần, chỉ cần có
cùng chung mục tiêu giải phóng dân tộc , đòi quyền độc lập,
quyền tự do tư tay bọn thực dân cướp nước thì không lý gì ta
lại không đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau. Từ đó người đi đến kết
luận : “cả công nhân ở chính quốc cùng binh lính và lao động
ở thuộc địa cẩn phải hiểu họ đều là anh em cùng một giai cấp
và khi tới lúc phải chiến đấu, thì cả hai bên đều phải cùng
đánh bọn chủ chung của mình, chứ anh em không nên đánh
lẫn nhau”


Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, cm khoa học kỹ thuật bùng
nổ và phát triển mạnh mẽ. theo hcm, khoa học tự nhiên cũng
như khoa học xã hội không ngừng mở ra những chân trời mới,
con người ngày càng làm chủ được thiên nhiên, cũng như làm
chủ được vận mệnh của bản thân và xã hội. Đó là yếu tố sức
mạnh của thời đại ta cần phải nắm bắt, tận dụng. Vì thế việc
đoàn kết quốc là cần thiết, không thể tách rời với sự đoàn kết
dân tộc.
Từ những nhận thức lý luận và thực tiễn, hcm đi đến kết luận
cm vn phải kết hợp chặt chẽ, phải là 1 bộ phận của cm thế
giới, phải thực hiện kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại. Không có 1 sức mạnh thống nhất của cả nước, không
có sự giúp đỡ mạnh mẽ của bên ngoài thì công cuộc giải
phóng dân tộc khó mà thành công được. Như vậy, sự kết hợp
giữa đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế trong tiến trình độc
lập dân tộc là 1 yếu tố khách quan.
2.2. Nội dung tư tưởng hcm về sự kết hợp giữa đoàn kết dân
tộc và đoàn kết quốc tế.
2.2.1. Đặt cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam trong sự

gắn bó cách mạng vô sản trên thế giới.
Sau khi tiếp thu chủ nghĩa Marx- Lenin, Nguyễn Ái Quốc nhận rõ
những hạn chế mà cuộc đấu tranh giành độc lập của các dân tộc đang
gặp phải. Với các dân tộc phương Đông, Người đã chỉ ra một trong số
đó “gây ra sự suy yếu của các dân tộc phương Đông, đó là SỰ BIỆT
LẬP.Họ hoàn toàn không biết đến những việc xảy ra ở các nước láng
giềng gần gũi nhất của họ, do đó họ thiếu sự tin cậy lẫn nhau, sự phối
hợp hành động và sự cổ vũ lẫn nhau.” Từ quan điểm cơ bản này,
Người đề cao mối quan hệ mật thiết giữa cách mạng giải phóng dân
tộc và cách mạng vô sản trong thời đại đế quốc chủ nghĩa. Người coi
cỏch mạng Việt Nam là bộ phận của Cách mạng vô sản thế giới. Để
chiến thắng kẻ thù, cách mạng Việt Nam cần dựa vào , đồng thời phải


tranh thủ sự đồng tình, giúp đỡ của quốc tế. Còn với giai cấp công
nhân ở phương Tây lúc đó thì lại chưa có hiểu biết đầy đủ và chính xác
về vấn đề thuộc địa. Một số thành phần bênh vực chính sạch thuộc địa
của chủ nghĩa đế quốc. Lênin đã kiên quyết đấu tranh chống lại quan
điểm sai lầm này. Nguyễn Ái Quốc đã bảo vệ và phát triển quan điểm
của Lênin về khả năng to lớn và vai trò chiến lược của cách mạng giải
phóng dân tộc ở thuộc địa. dcách mạng ở phương Tây muốn thắng lợi
thì phải liên kết chặt chẽ với phong trào giải phóng chủ nghĩa đế quốc
ở các nước thuộc địa và các nước bị nô dịch.
Nắm bắt được đặc điểm và xu thế của thời đại mới, Hồ Chí Minh
hoạt động không mệt mỏi để gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng
thế giới. Người nhận thức khả năng và sự cần thiết phải có 1 liên minh
chiến đấu chặt chẽ giữa các dân tộc thuộc địa với giai cấp vô sản của
các nước đế quốc để thắng kẻ thù chung. “Cách mạng An Nam cũng là
một bộ phận trong cách mệnh thế giới. Ai làm cách mệnh trong thế giới
đều là đồng chí của dân An Nam cả”. Trong hai cuộc kháng chiến

chống Pháp và chống Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn giáo dục
nhân dân ta phân biệt rõ sự khác nhau giữa bọn thực dân, đế quốc với
nhân dân lao động, yêu công lý và hũa bình ở các nước đế quốc.Kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Người vẫn yêu mến và đề
cao văn húa Pháp, ca ngợi truyền thống đấu tranh cho độc lập tự do
của nhân dân Mỹ.
Tóm lại, Nguyễn Ái Quốc đã xác định chính xác đường lối chính
sách, sách lược và phương pháp cách mạng đúng đắn cho sự nghiệp
cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam theo con đường cách mạng vô
sản.
2.2.2.

Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa

quốc tế cộng sản, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Từ rất sớm, hcm đã đề cao chủ nghĩa yêu nước chân chính.
Người bền bỉ đấu tranh để củng cố, tăng cường tinh thần


đoàn kết và hữu nghị giữa VN với các dân tộc khác đang đấu
tranh cho mục tiêu chung là hòa bình, độc lập dân tộc và dân
chủ. Với hcm, chủ nghĩa yêu nước triệt để không thể nào tách
rời với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Người phân biệt rõ “ tinh
thần yêu nước chấn chính khác với tinh thần vị quốc của bọn
đế quốc phản động. NÓ là 1 bộ phận của tinh thần quốc tế”.
Người kêu gọi “ vì nền hòa b ình thế giới, vì tự do và ấm no,
những người bị bốc lột thuộc mọi chủng tộc cần đoàn kết
chống bọn áp bức”
“Rằng đây bốn biển một nhà
Vàng, đen, trắng, đỏ, đều là anh em”

Người đấu tranh với các Đảng cộng sản Tây Âu còn hiểu sai,
đánh giá thấp vị trí chiến lược của cm thuộc địa, vẫn chưa
giáo dục cho giai cấp công nhận nước mình tinh thần quốc tế
chân chính, tinh thần gần gũi với quần chúng lao động của
các thuộc địa, vẫn chưa thi hành các chính sách, chủ trương
tích cực trong vấn đề thuộc địa
Hcm tìm thấy cho dân tộc Vn con đường Cm độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Theo người “ trong thời đại
ngày nay, cm giải phóng dân tộc là 1 bộ phân khăng khít của
cm vô sản trên phạm vị thế giới, cách mạng giải phóng dân
tộc phải phát triển thành cm xh chủ nghĩa mới bảo đảm cho
các dân tộc được tự do, độc lập thật sự. Bởi vậy, kết hợp lòng
yêu nước với tinh thần quốc tế là phải phát triển chủ nghĩa
yêu nước truyền thống thành chủ nghĩa yêu nước xã hội chủ
nghĩa, kết hợp lòng yêu nước với lòng yêu chủ nghĩa xã hội
Như vậy, theo người, kết hợp chủ nghĩa yêu ngước với chủ
nghĩa quốc tế vô sản đòi hỏi phải có đấu tranh với mọi viểu
hiện của chủ nghĩa dân tộc vị kỉ, chủ nghĩa sovanh và mọi
thứ chủ nghĩa cơ hội khác.
2.2.3. Dựa vào sức mình là chính, tranh thủ sự giúp đỡ của
các nước xã hội chủ nghĩa, sự ủng hộ của nhân loại tiến


bộ, đồng thời không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của
mình.
Trong mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại,
bao giờ Hồ Chí Minh cũng tận lực phát huy sức mạnh của dân tộc, coi
nguồn lực nội sinh giữ vai trò quyết định, còn nguồn lực ngoại sinh chỉ
phát huy được tác dụng thông qua nguồn lực nội sinh.“Một dân tộc
không tự lực cánh sinh mà cưs ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không

xứng đáng được độc lập”,“Muốn người ta giúp cho, thì trước hết phải tự
giúp lấy mình”. Hồ Chí Minh đi tới luận điểm: cách mạng thuộc địa
không những không phụ thuộc vào cách mang vô sản ở chính quốc mà
trong điều kiện lịch sử nhất định, có thể và cần thiết phải chủ động tiến
hành trước và bằng thắng lợi của cách mạng thuộc địa mà góp phần
“giỳp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải
phóng hoàn toàn” .
Nêu cao chủ nghĩa yêu nước kết hợp với chủ nghĩa quốc tế, tranh
thủ cao nhất sự ủng hộ và giúp đỡ của loài người tiến bộ, nhân dân ta
đồng thời tích cực thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình. Người
đặc biệt coi trọng khối đoàn kết Việt Nam – Lào – Campuchia, định
hướng hình thành ba tầng mặt trận: mặt trận đại đoàn kết dân tộc, mặt
trận đoàn kết Việt Nam – Lào – Campuchia, Mặt trận nhừn dừn thế giới
đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xừm lược.
Trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước của ta, khi Liên XôTrung quốc còn nhiều bất đồng,cm VN đã kiên trì đi theo đường lối độc
lập tự chủ, vừa thực hiện đoàn kết với cả Liên Xô và Trung Quốc. Chính
vì Vn được sự ủng hộ của nhân dân thế giới mà Liên Xô và Trung quốc
không thể không giúp đỡ VN. Ngược lại, VN đoàn kết với Liên Xô và với
TQ lại là yếu tố góp phần củng cố sự đoàn kết của các nước xã hội chủ
nghĩa, của các phong trào đấu tranh trên thế giới. Sự ủng hộ dành cho
vn cũng từ đó mà được củng cố và phát triển mạnh mẽ.
Thắng lợi trong công cuộc giải phóng dân tộc ở Việt Nam có phần
đóng góp to lớn của nhân dân quốc tế; đồng thời góp phần suy yếu chủ


nghĩa đế quốc, góp phần củng cố hũa bình thế giới, mở rộng và tăng
cường lực lượng cho Chủ nghĩa xã hội.
3.4. Mở rộng tối đa quan hệ hữu nghị, hợp tác, sẵn sàg làm bạn với tất
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi, nhiệt huyết
của mình, Hồ Chí Minh luôn chăm lo xây dựng, vun đắp cho tình

hữu nghị, hợp tác và đoàn kết giữa nhân dân các nước theo tinh
thần “bốn phương vô sản đều là anh em”.Người chủ trương
giương cao ngọn cờ hòa bình đoàn kết quốc tế đồng thời luôn
phân biệt rõ bạn và thù của cm, tỉnh táo với mọi âm mưu xấu xa
của các thế lực phản động quốc tế, trân trọng mọi sự giúp đỡ,
hợp tác chân thành, nhưng cũng kiên quyết đấu tranh chống sự
chia rẽ xâm lược. Người tuyên bố “ Bất kì nước nào thật thà
muống đưa tư bản đến kinh doanh ở Vn, với mục địch làm lợi cho
cả 2 bên thì Vn sẽ hoan nghênh, còn muốn mong đưa tư bản đến
để ràng buộc, áp chế Vn thì Vn sẽ cương quyết cự tuyệt”
Trong Lời kêu gọi gửi tới LHQ năm 1946, Hcm nêu rõ: “Trong
chính sách đối ngoại của mình, nhân dân Vn sẽ tuân thủ những
nguyên tắc dưới đây:
-

Đối với Lào và Miên, nước Vn tôn trọng nền độc lập của 2
nước đó và bày tỏ lòng mong muốn hợp tác trên cơ sở bình

-

đẳng tuyệt đối giữa các nước có chủ quyền
Đối với các nước dân chủ, nước Vn sẵn sàng thực thi chính
sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực :
 Nước Vn dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của
các nước tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả
các ngàh kỹ nghệ của mình
 Nước Vn sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và
đường sá giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh
quốc tế.
 Nước Vn chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh

tế quốc tế dưới sự lạnh đạo của LHQ


 Nước VN sẵn sàng ký kết với các lực lượng hải quân,
lục quân trong khuôn khổ của LHQ những hiệp định an
ninh đặc biệt và những hiệp ước liên quan đến việc sử
dụng 1 vài căn cứ hải quân và không quân
Như vậy từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa quốc tế, từ
niềm tin vào sức mạnh của dân tộc đi đến nhận thức đầy đủ về
sức mạnh cảu thời đại , kết hợp đoàn kết dân tọc với đoàn kết
quốc tế. Có thể thấy hcm đã vượt mọi khó khăn trở ngại từ
những mối quan hệ chồng chéo, phức tạp của thời đại để đưa ra
được những đường lối phương châm đối sách ứng xử đúng đắn
phù hợp với tình hình lịch sử cụ thể. Nhờ đó phát huy đượcntối
đa smạnh dân tộc trong sự kết hợp với smanh thời đại đưa
cmanh vn tới thắng lợi to lớn.
2.3 Đoàn kết dân tộc kết hợp với đoàn kết quốc tế theo tư
tưởng HCM để thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc trong suốt tiến
trình cmvn
Ngay từ những năm 1924, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm
thành lập “Mặt trận thống nhất của nhân dân chính quốc và thuộc địa”
chống chủ nghĩa đế quốc, đồng thời kiến nghị Quốc tế cộng sản cần có
biện pháp cụ thể để đến Đại hộ VI (1928) quan điểm này trở thành sự
thật. Hồ Chí Minh đã từng bước xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết
quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ, đồng tình của các trào lưu cách mạng
thời đại, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của Cách mạng
Việt Nam.
Năm 1941, để khơi dậy sức mạnh và quyền tự quyết của mỗi dân
tộc trên bán đảo Đông Dương, Người quyết đinh thành lập: “Mặt trận
độc lập đồng minh” cho tùng nước tiến tới thành lập Đông Dương độc

lập đồng minh. Trong thời kỳ 1945-1954, với chủ trương dựa vào sức
mình là chính, đồng thời ra sức tranh thủ sự giúp đỡ của Trung Quốc,
Liên Xô và sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới, kể cả Đảng
Cộng sản và nhân dân lao động Pháp, Đảng đã tạo nên lực lượng to lớn


cho kháng cuộc chiến, từng bước đi tới thắng lợi, nhất là ở chiến dịch
lịch sử Điện Biên Phủ.
Trong thời kỳ 1954-1975, kinh nghiệm kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại được Đảng nâng lên tầm cao mới bởi đường lối
tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng ở hai
miền, nhằm mục tiêu chung là giải phóng miền Nam, hòa bình thống
nhất đất nước. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo
nên sức mạnh tổng thể để đánh thắng kẻ địch có tiềm lực và sức mạnh
kinh tế, quân sự lớn hơn ta gấp nhiều lần.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta mang tính
dân tộc nên ngoại giao phải gánh vác một nhiệm vụ cực kỳ nặng nề là
làm sao kết hợp được sức mạnh của thời đại với sức mạnh của dân tộc,
thành sức mạnh tổng hợp để đánh thắng địch. Vì vậy, Đảng ta đã
quyết định nâng ngoại giao lên thành một mặt trận quan trọng chiến
lược, ngang tầm với mặt trận quân sự và chính trị, phối hợp với quân
sự và chính trị trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Ngoại giao đã
hoàn thành được nhiệm vụ đó, tranh thủ được các nước ủng hộ ta, chi
viện cho ta về vật chất cũng như tinh thần, tăng cường và củng cố hậu
phương quốc tế của ta, đồng thời làm xói mòn hậu phương địch, cô lập
địch về chính trị trên trường quốc tế. Một chuyên gia nghiên cứu về
Việt Nam, cho rằng: “Một trong những yếu tố dẫn đến chiến thắng đó
là do các nhà lãnh đạo cộng sản có khả năng thao túng môi trường
quốc tế theo hướng có lợi cho họ. Việc họ giành được sự hỗ trợ về
ngoại giao và về quân sự đáng kể của cả Mát-xcơ-va lẫn Bắc Kinh,

ngay cả trong những lúc xung đột Trung-Xô gay gắt nhất, đã góp phần
ngăn không cho Hoa Kỳ sử dụng công nghệ vượt trội của mình để
giành thắng lơi hoàn toàn trong chiến tranh ở Đông Dương. Đồng thời
việc Hà Nội xử lý khéo léo vấn đề đàm phán hoà bình đã cô lập Hoa Kỳ
trước dư luận và đạt được hậu thuẫn to lớn trên toàn thế giới đối với
phong nghĩa ở miền Nam Việt Nam dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng,
Bác Hồ, hoạt động đối ngoại, đấu tranh ngoại giao đã phát huy vai trò
xung kích, cùng với toàn dân hình thành một mặt trận nhân dân thế


giới ủng hộ Việt Nam, chống Mỹ xâm lược rộng lớn chưa từng có trên
phạm vi toàn cầu và được kết hợp chặt chẽ với đấu tranh quân sự, đấu
tranh chính trị, hình thành thế trận kết hợp vô cùng lợi hại tiến công
quân thù.” Kết hợp chặt chẽ đấu tranh ngoại giao với đấu tranh quân
sự, đấu tranh chính trị là đường lối chiến lược của Đảng ta trong kháng
chiến chống Mỹ, được đúc kết từ kinh nghiệm hàng ngàn đời đấu tranh
dựng nước và giữ nước của cha ông, từ cuộc kháng chiến chứng thực
dân Pháp, đánh bại từng bước tiến tới đánh bại hoàn toàn đế quốc Mỹ
xâm lược và bè lũ tay sai. Cuộc đàm phán Pa-ri mở ra cục diện “vừa
đánh vừa đàm”, phản ánh giai đoạn chiến đấu cực kỳ gay go, quyết liệt
có tính quyết định giữa ta và Mỹ. Với đường lối kháng chiến đúng đắn,
kết hợp tài tình trên cả ba mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao, phát
huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của đân tộc và thời đại, chúng ta đã
giành thắng lợi trong cuộc đọ trí và lực quyết định này với quân thù.
Chiến thắng của quân và dân ta đánh bại cuộc tập kích đường không
chiến lược của đế quốc Mỹ (l2-1972) vào miền Bắc nước ta là đòn
quyết định buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định Pa-ri, chấp nhận rút quân vô
điều kiện khỏi Việt Nam. Chúng ta đã thực hiện thành công quyết tâm
mà Đảng, Bác Hồ đã chỉ ra là “đánh cho Mỹ cút” vào năm 1973; và
chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa Xuân năm 1975 đã “đánh cho nguỵ

nhào”, hoàn thành sứ mệnh thiêng liêng giải phóng hoàn toàn miền
Nam, thống nhất đất nước đưa cả nước lên CNXH.
2.4 Vận dụng mối quan hệ về sự kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại trong điều kiện hiện nay
Hiện nay tình hình thế giới có nhiều biến động, chứa đựng những
yếu tố khó lườn. Khi mà trật tự cũ đã thay đổi, trật tự mới chưa hình
thành. Trong hình đó Đảng ta đã xác định: “nhiệm vụ của công tác đối
ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, tạo các điều kiện quốc tế thuận
lợi cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, đồng
thời góp phần vào công cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì


hòa bình, độc lập dân tộc dân chủ và tiến bộ xã hội”. Để thực hiện
thắng lợi này, cần vận dụng tốt những quan điểm có ý nghĩa phương
pháp luận của Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại. Điều đó đòi hỏi:
-

Phải nắm vững tình hình hiện nay, gắn sự nghiệp đổi mới của Việt

Nam với tiến trình cách mạng trên thế giới. Ngày nay, mặc dù Liên Xô
và các nước xã hội chủ nghĩa Châu Âu đã sụp đổ, chủ nghĩa xã hội tạm
thời lâm vào thoái trào, nhưng điều đó không làm thay đổi tính chất
của thời đại. Trong điều kiện đó, Cách mạng Việt Nam vẫn là một bộ
phận của Cách mạng thế giới, Việt Nam vẫn tiếp tục đoàn kết, ủng hộ
phong trào Cách mạng, các xu hướng và trào lưu tiến bộ của thời đại vì
mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Mục tiêu
bất biến của Việt Nam vẫn là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội.

- Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, hiện nay thực hiện đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thì phải quản lí công nghệ và gia
nhập thị trường quốc tế, nhưng phải dựa trên cơ sở độc lập tự chủ, phát
huy đủ các yếu tố nội lực, dựa vào các nguồn trong nước là chính.
Đảng ta đã xác đinh: tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, khơi dậy,
phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, gia sức cần
kiệm để công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nâng cao ý chí tự lực tự cường,
giữ vững bản sắc dân tộc trong tiến trình hội nhập quốc tê.
- Trong điều kiện thế giới và khu vực còn nhiều biến động chứa đựng
những yếu tố gây mất ổn định thì Việt Nam với vị trí địa lí, chính trị của
mình có nguy cơ thành địa bàn tranh chấp xung đột lợi ích chiến lược
giữa các nước lớn và các tập hợp lực lượng. Mặt khác, lợi dung tình
hình mới các thế lực đế quốc và phản động đẩy mạnh “diễn biến hòa
bình” nhằm lật đổ chế độ xá hội ở Việt Nam cuộc cách mạng khoa học
công nghệ hiện nay đặt các nước trước thời cơ phát triển nhanh, rút
ngắn, nhưng cũng tạo ran guy cơ tụt hậu nhanh so với một số nước.
Trước bối cảnh đó, đòi hỏi Việt Nam chủ động, đa dạng hóa, đa phương


hóa, cải thiện và mở rộng tối đa quan hệ hữu nghị hợp tác với tất cả
các nước. Đồng thời phải giữ vững độc lập tự chủ.

KẾT LUẬN
Thực tiễn Cm Vn 70 năm qua là minh chứng hùng hồn cho sức sống kỳ
diệu và sức mạnh vĩ đại của tư tưởng Hcm về đại đoàn kết. Đại đoàn
kết dân tộc kết hợp với đoàn kết quốc tế, từ chỗ là tư tưởng của NGười
đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối chiến lược của ĐCS VN
trog cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Đây là 1 đóng góp quan trọng của Hcm vào kho tàng lý luận
Cm VN nói riêng và TG nói chung.

Qua tư tưởng HCM, có thể thấy thực hiện đại đoàn kết dân tộc phải gắn
liền với đoàn kết quốc tế; đại đoàn kết dân tộc phải là cơ sở cho việc
thực hiện đoàn kết quốc tế. Nếu đại đoàn kết dân tộc là một trong
những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam, thì đoàn
kết quốc tế cũng là một nhân tố thường xuyên và hết sức quan trọng
giúp cho cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn trong sự
nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và quả độ lên chủ
nghĩa xã hội.
Trong điều kiện hiện nay, những thời cơ và thách thức đan xen nhau
đãng tác động mạnh mẽ đến khối đại đoàn kết. Hơn lúc nào hết, thực
tiễn đất nước đòi hỏi chúng ta phải biết vận dụng sáng tạo và tiếp tục
phát triển những quan điểm của HCm về đại đoàn kết dân tộc và đoàn
kết quốc tế. Đó sẽ là nhân tố quan trọng để xây dựng 1 nước VN: Dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.



×