Tải bản đầy đủ (.pdf) (50 trang)

NGƯỜI QUẢN LÝ “GIẤU MẶT” TẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (931.54 KB, 50 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

KHOA LUẬT

ĐẶNG THỊ THÙY GIANG

MỘT SỐ VẦN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ NGƯỜI QUẢN LÝ “GIẤU MẶT” TẠI VIỆT NAM
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
CHUYÊN NGÀNH LUẬT KINH DOANH

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

KHOA LUẬT

ĐẶNG THỊ THÙY GIANG

MỘT SỐ VẦN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ NGƯỜI QUẢN LÝ “GIẤU MẶT” TẠI VIỆT NAM
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

Chuyên ngành Luật kinh doanh – Mã số 52380101

Người hướng dẫn khoa học: ThS. Dương Mỹ An.



TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2018


MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài – Tình hình nghiên cứu: ........................................... 1
2. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu: ............................................................ 5
3. Phương pháp và phạm vi nghiên cứu: .................................................... 5
4. Kết cấu đề tài: .......................................................................................... 6
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI QUẢN LÝ CÔNG TY VÀ
NGƯỜI QUẢN LÝ “GIẤU MẶT” ................................................................ 7
1.1. Tổng quan về người quản lý công ty: ................................................... 7
1.1.1.

Người quản lý là ai? .................................................................. 7

1.1.2.

Giữa người quản lý và công ty có quan hệ gì?...................... 10

1.1.3.

Người quản lý công ty có những trách nhiệm gì? ................. 12

1.1.4. Hậu quả pháp lý phải gánh chịu khi người quản lý công ty vi
phạm trách nhiệm: .................................................................................. 15
1.2.


Tổng quan về người quản lý “giấu mặt”: ..................................... 17

1.2.1.

Ai là người quản lý “giấu mặt”?............................................. 17

1.2.2.

Người quản lý “giấu mặt” cần có trách nhiệm gì?.................... 21

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG NHẬN DẠNG VÀ XỬ LÝ TRÁCH
NHIỆM NGƯỜI QUẢN LÝ “GIẤU MẶT”............................................... 24
2.1. Nguyễn Đức Kiên – dấu hiệu người quản lý “giấu mặt” ẩn sau
một cổ đông lớn: ........................................................................................ 24
2.2. Dấu hiệu của người quản lý “giấu mặt” thông qua việc chỉ đạo người
quản lý không có kiến thức: ........................................................................ 27
2.2.1.

Vụ việc Epco - Tăng Minh Phụng:......................................... 28

2.2.2.

Vụ việc Phạm Công Danh:...................................................... 29

2.2.3.

Nhận xét: ................................................................................... 31

CHƯƠNG 3. KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI
QUẢN LÝ “GIẤU MẶT”............................................................................. 34

3.1. Nguyên nhân xuất hiện người quản lý “giấu mặt” gây thiệt hại cho
công ty, bên thứ ba: ..................................................................................... 34
i


3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về người quản lý “giấu mặt”: ........... 34
KẾT LUẬN

................................................................................................40

DANH MỤC TÀI LIỆU ................................................................................ 42


ii


LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài – Tình hình nghiên cứu:
‟Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà
pháp luật không cấm”– đây là một quyền cơ bản của công dân được quy
định trong Hiến pháp Việt Nam 2013. Mọi cá nhân, tổ chức đều có quyền
thành lập doanh nghiệp, lựa chọn loại hình doanh nghiệp phù hợp, kinh
doanh các ngành nghề mà pháp luật không cấm,... Những quy định này của
pháp luật nhằm tạo điều kiện cho công dân thành lập doanh nghiệp, tham
gia đầu tư kinh doanh nhằm tìm kiếm lợi nhuận, thúc đẩy sự phát triển của
kinh tế - xã hội. Năm 2016, đã có 110.100 doanh nghiệp đăng kí thành lập
mới, tăng 16.2% so với cùng kì năm 2015 (94.754 doanh nghiệp).1 Những
con số này cho thấy số lượng doanh nghiệp mới xuất hiện ngày càng nhiều
và có xu hướng tăng dần qua các năm.
Tuy nhiên, liệu những doanh nghiệp mới xuất hiện này có thực chất

hoạt động trên thực tế, có tham gia vào các hoạt động kinh doanh thương
mại để tìm kiếm lợi nhuận như đúng mục đích mà Nhà nước mong muốn?
Câu trả lời có thể nhận thấy thông qua những vụ việc, những đại án xuất
hiện gần đây như đại án Oceanbank, đại án Phạm Công Danh, sàn vàng
Khải Thái,... Hàng loạt doanh nghiệp đăng kí kinh doanh nhưng không hề
hoạt động, chỉ sử dụng tư cách pháp nhân để kí kết các hợp đồng vay vốn,
giao kết các hợp đồng giả tạo,... nhằm phục vụ lợi ích cho một số chủ thể
nhất định. Người đứng đầu những công ty trên thường là những người
không có kiến thức chuyên môn, không là chủ sở hữu công ty, không tham
gia điều hành quản lí các hoạt động của công ty; họ chỉ là những người
quản lý công ty trên giấy tờ theo quy định của pháp luật. Đằng sau họ là
những chủ thể đầy quyền lực, mặc dù không là người quản lý các hoạt động
của công ty nhưng gián tiếp ra lệnh và điều khiển mọi hoạt động công ty.
Những người đứng sau này thường được gọi là người quản lý “giấu mặt”,
1

Theo số liệu của Cục quản lí đăng kí đầu tư năm 2016.

1


tuy không chính thức lộ diện và nắm giữ các chức danh quản lý nhưng là
người tác động và đưa ra các quyết định cuối cùng đối với các vấn đề của công
ty, buộc những người quản lý khác phải tuân theo.
Người quản lý là những cá nhân đóng vai trò vô cùng quan trọng ảnh
hưởng sự thành bại trong hoạt động của các công ty. Người quản lý được
công ty ủy quyền quản lý các hoạt động, tài sản và cả vận mệnh của công
ty. Do đó, quyền hành của người quản lý là không hề nhỏ, đồng thời nghĩa
vụ trách nhiệm của những người này cũng tăng lên so với những lao động
bình thường khác. Người quản lý cần có kiến thức, đạo đức tốt để có thể

nhận thức được những việc mình làm có đúng đắn và phù hợp với quy định
của pháp luật hay không. Nhưng thực tế hiện nay cho thấy, được làm người
quản lý là một điều vô cùng dễ dàng. Chúng ta có cả làng giám đốc tại ngoại
ô Hải Phòng, khi mà cả người nằm liệt giường cũng được làm giám đốc; ở
những trường hợp khác: bảo vệ, lái xe, giúp việc,... đều bỗng nhiên giữ các
chức vụ quản lý trong công ty.
Pháp luật Việt Nam, cụ thể là Luật doanh nghiệp đã có những quy
định về người quản lý, về trách nhiệm của những người này một cách cụ
thể để tránh tình trạng lạm quyền gây ra thiệt hại cho công ty, cũng như quy
định về những hậu quả pháp lý mà họ phải gánh chịu khi vi phạm nghĩa vụ
người quản lý. Tuy nhiên, những quy định này chỉ được áp dụng đối với
người quản lý luật định, là những người thuộc nội hàm định nghĩa người
quản lý theo Luật doanh nghiệp; còn đối với những người nằm ngoài nội
hàm định nghĩa, nhưng vẫn tham gia quản lý, chi phối các hoạt động của
công ty (như trường hợp người quản lý “giấu mặt” đã đề cập) vẫn chưa có
các quy định điều chỉnh. Do đó thực tiễn xử lý hành vi vi phạm của những
người quản lý này còn nhiều bất cập và chưa thật triệt để. Thực tế cho thấy
việc xử lý trách nhiệm của những người này chỉ thông qua các vụ án hình
sự, do đó đối với các vụ việc chưa tới mức hình sự dường như vẫn bị bỏ
ngỏ. Đây là một trong những điểm bất cập cần điều chỉnh kịp thời.

2


Về tình hình nghiên cứu xung quanh các quy định liên quan đến người
quản lý trong doanh nghiệp, vấn đề này đã được khai thác nghiên cứu rất
nhiều từ lúc có Luật doanh nghiệp 1999 ngày 12 tháng 6 năm 1999, đến khi
có Luật doanh nghiệp ngày 29 tháng 11 năm 2005 (Luật doanh nghiệp 2005)
và hiện tại là Luật doanh nghiệp ngày 26 tháng 11 năm 2014 (Luật doanh
nghiệp 2014). Tuy nhiên các bài nghiên cứu đa số chỉ tập trung nghiên cứu

trách nhiệm của người quản lý theo quy định của pháp luật như:
 Luận văn thạc sĩ luật học “Nghĩa vụ của người quản lý trong công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên” của tác giả Phan Thị Thu Nhài
năm 2014: luận văn đã nêu ra những nghĩa vụ của người quản lý nói
chung cũng như nghĩa vụ của người quản lý trong công ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên nói riêng. Bên cạnh đó, cơ chế chỉ định, bổ
nhiệm người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên cũng được làm rõ. Đặc biệt bài viết phân tích các vướng mắc và
những sai phạm thường mắc phải khi tổ chức thực hiện nghĩa vụ của
người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
 Bài viết “Nghĩa vụ trung thành của người quản lý công ty cổ phần”
của tác giả Đỗ Minh Tuấn trên Tạp chí nghiên cứu lập pháp tháng
3/2016: bài viết bàn về nghĩa vụ trung thành thông qua phân tích các
giao dịch có nguy cơ tư lợi giữa người quản lý công ty và công ty,
việc sử dụng tài sản, thông tin và cơ hội của công ty và việc cạnh
tranh với công ty. Bài viết cũng đưa ra một số kiến nghị như xây dựng
lại các khái niệm “nghĩa vụ trung thành của người quản lý công ty”,
“người có liên quan của người quản lý”, bên cạnh đó cần mở rộng
kiểm soát các giao dịch có nguy cơ tư lợi đối với người quản lý công
ty và người liên quan đến những người này.
 Luận văn tiến sĩ luật học “Pháp luật về nghĩa vụ của người quản lý
công ty cổ phần ở Việt Nam”, của tác giả Đỗ Minh Tuấn năm 2017:
luận văn đã đưa ra định nghĩa và tiến hành phân loại người quản lý
trong công ty cổ phần, bên cạnh đó đi sâu phân tích nghĩa vụ người
quản lý công ty cổ phần như: nghĩa vụ cẩn trọng, nghĩa vụ trung
3


thành, nghĩa vụ tuân thủ theo các quy định của pháp luật và điều lệ
công ty, nghĩa vụ đối với người thứ ba. Luận văn còn nêu ra các quy

định về trách nhiệm pháp lý của người quản lý công ty cổ phần như
trách nhiệm dân sự, kỷ luật, hành chính, hình sự. Cuối cùng tác giả
đưa ra một số hướng hoàn thiện các quy định pháp luật đồng thời
nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về người quản lý trên thực tế.
Đối với các nghiên cứu cụ thể liên quan đến người quản lý “giấu mặt”
là rất ít, cụ thể:
 “Quy định về giám đốc “giấu mặt” (shadow director) trong pháp luật
Anh và kinh nghiệm cho Việt Nam” là một công trình nghiên cứu của
nhóm sinh viên Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2016.
Công trình tập trung phân tích các quy định về giám đốc “giấu mặt”
tại Anh như đưa ra các căn cứ xác định khái niệm và đặc điểm của
giám đốc, giám đốc giấu mặt; phân tích nghĩa vụ và trách nhiệm của
giám đốc, so sánh khái niệm giám đốc “giấu mặt” với các khái niệm
dễ nhầm lẫn khác như nhân viên quản lý, giám đốc thực tế. Nhóm
nghiên cứu cũng phân tích các vụ việc thực tế tại Việt Nam để thấy
rõ thực trạng chung về giám đốc “giấu mặt” tại nước nhà như vụ án
Epco – Minh Phụng, vụ án Nguyễn Đức Kiên và đồng bọn, sau đó
đưa ra các giải pháp hoàn thiện cho pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên,
bài nghiên cứu này lại sử dụng từ “giám đốc” để dịch nghĩa cho từ
“director”, việc này đã thu hẹp phạm vi của từ “director” lại vì
“director” không chỉ bao gồm giám đốc mà còn bao gồm nhiều chức
danh quản lý khác. Đây là một điểm chưa hợp lí của bài nghiên cứu.
 Bài viết “Người quản lí công ty theo Luật doanh nghiệp 1999 – Nhìn
từ góc độ luật so sánh” của tác giả Bùi Xuân Hải đăng trên Tạp chí
Khoa học pháp lý tháng 4/2005: tác giả tập trung phân tích các quy
định của Luật doanh nghiệp 1999 để xác định ai sẽ được xem là người
quản lí doanh nghiệp, bên cạnh đó so sánh với pháp luật các nước
khác để thấy được sự khác biệt trong việc định nghĩa khái niệm người
4



quản lý, thể hiện lỗ hổng pháp luật Việt Nam khi thiếu vắng các quy
định liên quan người quản lý “giấu mặt”. Tuy nhiên tác giả chỉ đề cập
đến người quản lý “giấu mặt” ở mức độ sơ lược và khái quát thông
qua việc đưa ra định nghĩa và một số ví dụ được xem là người quản
lý “giấu mặt”.
Kế thừa mạch nghiên cứu cũng như mong muốn làm rõ thêm các quy
định liên quan người quản lý “giấu mặt”, tác giả xin chọn đề tài “Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn về người quản lý “giấu mặt” tại Việt Nam” làm
khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật học.

2. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu:
Bài nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu tìm hiểu các quy định
pháp luật hiện hành về người quản lý “giấu mặt” và thực trạng xử lí trách
nhiệm người quản lý “giấu mặt” tại Việt Nam.
Các mục tiêu trên sẽ được cụ thể hóa qua hai câu hỏi:
Thứ nhất, pháp luật Việt Nam đã quy định về người quản lý “giấu
mặt” hay chưa? Nếu có, những quy định này thể hiện dưới hình thức gì? Có
điểm gì giống và khác với pháp luật các nước khác?
Thứ hai, liệu rằng hành vi gây thiệt hại của người quản lí “giấu mặt”
tại Việt Nam có phải gánh chịu hậu quả pháp lý hay không?

3. Phương pháp và phạm vi nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu:
Bài viết kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu truyền thống như: Phân
tích luật, so sánh đối chiếu pháp luật các quốc gia khác nhau (Anh, Úc,
Singapore); nghiên cứu các tình huống thực tế, quy nạp, tổng hợp, nhận xét
và đưa ra đề xuất.
Phạm vi nghiên cứu:


5


Đề tài chủ yếu nghiên cứu loại hình công ty cổ phần và công ty trách
nhiệm hữu hạn; giới hạn trong các vụ án lớn từ năm 1997 đến 2016.

4. Kết cấu đề tài:
Phần mở đầu
Chương 1: Cơ sở lí luận về người quản lý công ty và người quản lí “giấu
mặt”.
Chương 2: Thực trạng nhận dạng và xử lí trách nhiệm người quản lý “giấu
mặt”.
Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về người quản lý “giấu mặt”.
Phần kết luận

6


CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI QUẢN LÝ CÔNG
TY VÀ NGƯỜI QUẢN LÝ “GIẤU MẶT”
1.1. Tổng quan về người quản lý công ty:
1.1.1. Người quản lý là ai?
Các Mác từng khẳng định: “Mọi lao động xã hội trực tiếp hoặc lao
động chung khi thực hiện trên một quy mô tương đối lớn, ở mức độ nhiều
hay ít đều cần đến quản lý”2. Thật vậy, một doanh nghiệp muốn hoạt động
có hiệu quả, muốn đứng vững trên thị trường hay cạnh tranh với các doanh
nghiệp khác đều cần đến quản lý. Có nhiều định nghĩa được sử dụng để
diễn đạt về hoạt động quản lý như định nghĩa của Koontz và O’Donnell 3,
định nghĩa của Stoner và Ronnins 4,... Theo một cách chung nhất, ta có thể
hiểu: “quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý

lên đối tượng và khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các
nguồn lực, các thời cơ của tổ chức để đạt mục tiêu đặt ra trong điều kiện
môi trường luôn biến động”5. Hoạt động quản lý thường được cấu thành từ
các yếu tố như chủ thể, khách thể, mục tiêu, và điều kiện môi trường quản
lý. Trong quản lý doanh nghiệp, một trong những yếu tố giữ vai trò chủ đạo
chính là chủ thể, là những người quản lý có kiến thức, kinh nghiệm cũng
như khả năng chịu trách nhiệm trước các quyết định của mình.
Dưới góc độ quản trị học, người quản lý “là những người làm việc
trong tổ chức, điều khiển công việc của người khác và chịu trách nhiệm
trước kết quả hoạt động của họ”6. Họ có đến mười vai trò khác nhau 7 như
vai trò đại diện, vai trò của người lãnh đạo, vai trò đưa ra quyết định,… Với

Nguyễn Văn Nghiệm (2011), “Các học thuyết quản lý”, truy
cập lần cuối ngày 08/01/2018.
3
Koontz và O’Donnell (1992), Những vấn đề cốt yếu của quản lý, NXB Khoa học & Kỹ thuật Hà Nội, , tr.
19.
4
Phan Thăng (2007), Quản trị học, NXB Thống Kê, tr. 10.
5
Luận văn A-Z (2017), “Khái niệm về quản lý”, truy cập lần
cuối ngày 08/01/2018.
6
Trần Văn Tân 2012, “Vai trò người quản lý”, truy cập lần cuối ngày 08/01/2018.
7
Phan Thăng, Tldd (4), tr. 32.
2

7



những vai trò quan trọng như vậy, hành động người quản lý ảnh hưởng rất
nhiều đến sự thành bại của doanh nghiệp. Do đó, việc xác định ai là người
quản lý của công ty là một điều vô cùng quan trọng, giúp họ xác định được
những nghĩa vụ và trách nhiệm của mình để hành động một cách đúng đắn
và hiệu quả nhất.
Dưới góc độ luật học, khái niệm người quản lý được quy định rõ ràng
trong pháp luật của các quốc gia. Tại Việt Nam, theo Luật doanh nghiệp
2014, người quản lý là những người nắm giữ những chức vụ quan trọng
trong công ty như chủ tịch và thành viên Hội đồng thành viên (HĐTV), chủ
tịch công ty, chủ tịch và thành viên Hội đồng quản trị (HĐQT), giám đốc,
tổng giám đốc,… và những người mang chức danh quản lý khác được phép
nhân danh công ty giao kết các giao dịch theo điều lệ của công ty.8 Ngoài
những chức danh được luật mặc định là người quản lý, các chức danh khác
vẫn được xem là người quản lý nếu được quy định trong điều lệ công ty.
Định nghĩa người quản lý theo Luật doanh nghiệp Việt Nam được xây dựng
theo hướng cho doanh nghiệp có quyền tự quyết, doanh nghiệp có thể tự
quy định thêm những người nào sẽ là người quản lý. Tuy nhiên, định nghĩa
này đã giới hạn người quản lý lại, họ là một nhóm người đã được xác định
trước, và chỉ những người này mới được coi là người quản lý của công ty.
Những cá nhân khác nằm ngoài nhóm người đã xác định trên, dù cho họ
hành động như tư cách của một người quản lý vẫn không được xem là người
quản lý. Tóm lại, có thể nhận thấy một người được xem là người quản lý
khi đáp ứng đủ hai điều kiện: thứ nhất, giữ các chức danh quản lý tại công
ty; thứ hai, có thẩm quyền nhân danh công ty để ký kết các hợp đồng theo
quy định điều lệ công ty.9
Luật doanh nghiệp 2014 có quy định một số điều kiện và tiêu chuẩn
để trở thành người quản lý doanh nghiệp. Các điều kiện này tương đối đơn
giản và dễ dàng đáp ứng được. Các điều kiện chủ yếu liên quan đến năng


8
9

Khoản 18 Điều 4 Luật doanh nghiệp 2014.
Trương Nhật Quang (2016), Pháp luật về doanh nghiệp. Các vấn đề pháp lý cơ bản, NXB Dân trí, tr. 350.

8


lực hành vi dân sự của cá nhân, đảm bảo không thuộc các đối tượng bị cấm
là người quản lý, có khả năng quản lý và có kinh nghiệm trong lĩnh vực
mình quản lý. Ngoài các quy định chung trong Luật doanh nghiệp 2014,
các luật chuyên ngành cũng có thể quy định thêm các điều kiện đặc thù đối
với người quản lý. Người quản lý doanh nghiệp không là những đối tượng
được quy định tại Khoản 2 Điều 18 Luật doanh nghiệp 2014. Cụ thể những
đối tượng đó là: cán bộ, công chức, viên chức; sĩ quan, hạ sĩ quan, quân
nhân chuyên nghiệp; cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong doanh nghiệp
nhà nước; người chưa thành niên, người bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự, người mất năng lực hành vi dân sự; người đang bị truy cứu trách nhiệm
hình sự,… Việc cấm các đối tượng này trở thành người quản lý nhằm hai
hướng chính: thứ nhất, tránh sự lạm quyền, ảnh hưởng đến công vụ (đối với
nhóm đối tượng cán bộ, công chức, quân nhân); thứ hai, bảo vệ lợi ích của
công ty nói riêng và lợi ích xã hội nói chung (tránh trường hợp những nhóm
đối tượng không đủ khả năng quản lý thực hiện các hành động vi phạm gây
thiệt hại). Đối với các chức danh là giám đốc, thành viên HĐQT, thành viên
HĐTV, họ còn phải đáp ứng thêm điều kiện là có trình độ chuyên môn,
kinh nghiệm trong quản trị kinh doanh công ty; ngoài ra còn đáp ứng thêm
các điều kiện khác nếu điều lệ công ty có quy định.10 Luật doanh nghiệp
2014 đã không còn cấm việc giám đốc, tổng giám đốc CTCP làm giám đốc,
tổng giám đốc công ty khác như Luật doanh nghiệp 2005 ngày 29 tháng 11

năm 2005.11 Sự thay đổi này đã giúp nhiều người được trực tiếp quản lý
công ty của mình, giảm thiểu tình trạng phải trở thành người quản lý “giấu
mặt” bất đắc dĩ vì nhờ người khác đứng tên cho phù hợp với quy định của
pháp luật.
Khái niệm người quản lý theo Luật doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
được cho là tương tự với khái niệm “director” – người quản lý trong luật

10
11

Điều 65, Khoản 3 Điều 81, Khoản 1 Điều 151 Luật doanh nghiệp 2014.
Khoản 2 Điều 116 Luật doanh nghiệp 2014.

9


công ty của các quốc gia khác trên thế giới.12 Đối với các nước theo hệ
thống thông luật, người quản lý được xác định dựa trên nguyên tắc:13 (i) là
thành viên ban quản lý, (ii) giữ vai trò hoặc thực hiện các vai trò của người
quản lý, (iii) là người đưa ra các chỉ đạo để người quản lý làm theo. Cụ thể,
theo luật công ty Anh, “người quản lý là bất kỳ ai giữ chức danh quản lý,
bất kể tên gọi là gì”14. Còn theo pháp luật công ty của Úc, người quản lý là
những ai được bổ nhiệm vào vị trí người quản lý hoặc được bổ nhiệm vào
vị trí thay thế người quản lý và hành động với tư cách đó.15 Khác với việc
xác định người quản lý theo pháp luật Việt Nam, việc xác định người quản
lý ở các nước khác không phụ thuộc vào tên chức danh mà họ nắm giữ.
Người quản lý tại Việt Nam là những người được xác định trước theo pháp
luật hoặc điều lệ công ty. Còn khái niệm người quản lý theo pháp luật nước
ngoài có hướng rộng hơn, không chỉ bao gồm những người được quy định
trước mang chức danh người quản lý mà còn là bất kỳ ai hành động như

một người quản lý trên thực tế.
1.1.2. Giữa người quản lý và công ty có quan hệ gì?
Sau khi thành lập, công ty - một thực thể nhân tạo mới được tạo ra.16
Công ty là chủ thể không có thực nên phải hoạt động thông qua những thực
thể tự nhiên khác. Và một trong số đó chính là người quản lý, từ đó hình
thành nên mối quan hệ giữa hai chủ thể này. Mối quan hệ giữa người quản
lý công ty và công ty là một quan hệ đại diện.17 Trong đó người được đại

Trịnh Huyền Nhung, Nguyễn Thị Hoài Thương, Phạm Minh Tiến (2016), “Quy định về giám đốc "giấu mặt"
(shadow director) trong pháp luật Anh và kinh nghiệm cho Việt Nam”, tr. 39.
13
Nguyễn Thị Vân Anh (2012), “Một số nghĩa vụ của người quản lý công ty trong Công ty cổ phần theo Luật
doanh nghiệp 2005”, tr. 23.
14
Article 250 United Kingdom Company Act 2006: “In the Companies Acts “director” includes any person
occupying the position of director, by whatever name called”.
15
Division 1, part 1.2, chapter 1, section 9, Australia Corporation Act 2001: “director of a company or other
body means (a) a person who (i) is appointed to the position of a director; or (ii) is appointed to the position of
an alternate director and is acting in that capacity.”
16
Michael D. Hobson (1998), “The Law of Shadow Director”, Bond Law Review, volume 10:2, tr. 184.
17
Michael D. Hobson, tlđd (16), tr. 188.
12

10


diện là công ty và người đại diện là người quản lý. Cốt lõi của mối quan hệ

này chính là sự ủy quyền để cụ thể hóa quyền lực thực hiện trên thực tế.
Theo quy định về đại diện tại Bộ luật dân sự ngày 24 tháng 11 năm
2015 (Bộ luật dân sự 2015), “Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân nhân danh
và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân xác lập, thực hiện giao dịch dân
sự”18. Theo đó, người đại diện theo pháp luật dân sự không chỉ bao gồm cá
nhân mà còn bao gồm cả pháp nhân. Người đại diện và người được đại diện
phải cùng nhau xác định phạm vi đại diện, những gì mà người đại diện được
làm hoặc không được làm; nếu quyền hạn này không được xác định cụ thể
thì người đại diện được xem là có quyền xác định tất cả các giao dịch mà
không gây tổn hại cho bên được đại diện.19
Tuy nhiên, người đại diện của công ty có nhiều điểm khác với quy
định chung về người đại diện theo quy định của pháp luật dân sự. Luật
doanh nghiệp 2014 quy định: “Người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa
vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp,…”20 Theo đó, chỉ cá nhân mới
được xem là người đại diện của công ty. Người đại diện sẽ có một số quyền
và nghĩa vụ nhất định để cụ thể hóa quyền lực của công ty. Một công ty có
thể có nhiều người đại diện nên phạm vi thẩm quyền của từng người cần
được xác định rõ để tránh trường hợp lạm quyền gây tổn hại cho công ty
cũng như các bên thứ ba khác. Người đại diện phải hành động một cách cẩn
trọng, trung thực, tốt nhất để đảm bảo tối đa lợi ích hợp pháp của công ty;
họ phải trung thành với công ty, không được sử dụng những cơ hội của
công ty để tư lợi cho bản thân. Bên cạnh đó, người đại diện cũng có trách
nhiệm thông báo thông tin về phần vốn góp, cổ phần mà mình nắm giữ tại
các công ty khác để công ty được đại diện có thể kiểm soát. Mặt khác, người

Khoản 1 Điều 134 Bộ luật dân sự 2015.
Khoản 2 Điều 141 Bộ luật dân sự 2014.
20
Khoản 1 Điều 13 Luật doanh nghiệp 2014.

18
19

11


đại diện sẽ phải chịu trách nhiệm khi vi phạm nghĩa vụ gây thiệt hại cho
công ty. 21
1.1.3. Người quản lý công ty có những trách nhiệm gì?
1.1.3.1. Trách nhiệm tuân thủ pháp luật, điều lệ công ty:
Người quản lý có trách nhiệm tuân thủ quy định pháp luật, điều lệ
công ty và quyết định của cơ quan quản lý công ty. Điều lệ công ty và quyết
định của cơ quan quản lý công ty là những quy định mà tự công ty đặt ra,
bắt buộc người quản lý thực hiện để công ty đạt hiệu quả hoạt động cao
nhất. Người quản lý phải chịu sự giám sát của các cơ quan quản lý công ty.
Bên cạnh việc tuân theo những quy định đó, người quản lý cần tuân thủ cả
quy định pháp luật, những quy tắc có tính xử sự chung, nhằm đảm bảo
không xâm hại lợi ích các chủ thể khác trong quá trình tìm kiếm lợi nhuận
cho công ty.
Luật doanh nghiệp 2014 không quy định rõ việc người quản lý công
ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) có phải tuân theo quyết định của HĐTV
hay không. Tương tự, Luật doanh nghiệp 2014 chỉ quy định người quản lý
CTCP tuân thủ quyết định của Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ)22 mà không
nêu rõ có cần tuân thủ quyết định của HĐQT hay không. Tuy nhiên, thông
qua các quy định khác như thành viên và cổ đông có quyền khởi kiện người
quản lý nếu họ không thực hiện các quyết định của HĐTV, HĐQT23, có thể
gián tiếp hiểu rằng người quản lý có nghĩa vụ tuân theo các quyết định của
HĐTV, HĐQT.
Một vấn đề đặt ra là khi điều lệ và nghị quyết của cơ quan quản lý
công ty (HĐTV, ĐHĐCĐ, HĐQT) không tuân thủ quy định pháp luật thì

người quản lý có phải tuân theo hay không? Việc xem xét một quyết định
có phù hợp với quy định pháp luật hay không sẽ do tòa án hoặc các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền thực hiện, còn người quản lý không có nghĩa vụ
Điều 14 Luật doanh nghiệp 2014.
Điểm a Khoản 1 Điều 160 Luật doanh nghiệp 2014.
23
Điểm b Khoản 1 Điều 160, Điểm b Khoản 1 Điều 74 Luật doanh nghiệp 2014.
21
22

12


thực hiện điều đó. Do vậy, người quản lý vẫn phải tuân thủ các quyết định
của HĐTV hoặc ĐHĐCĐ, HĐQT mặc dù các quyết định đó có thể vi phạm
pháp luật.24
1.1.3.2. Trách nhiệm thông báo cho công ty:
Người quản lý công ty có nghĩa vụ thông báo kịp thời, đầy đủ, chính
xác cho công ty về doanh nghiệp mà họ và người có liên quan của họ làm
chủ hoặc có cổ phần, phần vốn góp chi phối và công khai lợi ích.25 Người
quản lý phải thông báo sớm nhất có thể ngay sau khi có cổ phần hoặc phần
vốn góp chi phối trong một doanh nghiệp khác. Việc thông báo này nhằm
tránh xảy ra các trường hợp xung đột quyền lợi giữa công ty mà người quản
lý làm việc và công ty mà người quản lý nắm quyền chi phối. Việc thông
báo này phải đảm bảo tính chính xác của thông tin, tránh tình trạng người
quản lý cố tình lợi dụng để tư lợi cho công ty mình có cổ phần hoặc phần
vốn góp chi phối.
1.1.3.3. Trách nhiệm trung thành với công ty:
Người quản lý có trách nhiệm trung thành với lợi ích công ty và chủ
sở hữu công ty, không sử dụng thông tin, bí quyết, cơ hội kinh doanh của

công ty, không lạm dụng chức vụ, địa vị và sử dụng tài sản của công ty để
tư lợi hoặc phục vụ lợi ích cá nhân hoặc các cá nhân, tổ chức khác.26 Cốt
yếu của nghĩa vụ này là việc trung thành với lợi ích của công ty và chủ sở
hữu, thành viên, cổ đông. Người quản lý không được đặt mình vào vị trí
xung đột quyền lợi với công ty, không được đặt quyền lợi của mình hoặc
cá nhân, tổ chức khác cao hơn quyền lợi của công ty. Người quản lý không
được lợi dụng vị trí mình nắm giữ để làm lợi cho những chủ thể khác cũng
như tư lợi cho bản thân.
Tại Việt Nam, vi phạm nghĩa vụ này thường được thể hiện dưới dạng
người quản lý thành lập doanh nghiệp riêng cạnh tranh trực tiếp với công
Trương Nhật Quang, tlđd (9), tr. 374.
Điểm c Khoản 1 Điều 71, Khoản 4 Điều 83, Điểm d Khoản 1 Điều 160 Luật doanh nghiệp 2014.
26
Điểm b Khoản 1 Điều 71, Khoản 3 Điều 83, Điểm c Khoản 1 Điều 160 Luật doanh nghiệp 2014.
24
25

13


ty mình làm quản lý. Trong trường hợp này người quản lý đóng cả hai vai
trò: vừa là người quản lý công ty, vừa là chủ sở hữu một công ty khác. Điều
này dễ dẫn đến trường hợp người quản lý sử dụng thông tin từ doanh nghiệp
mình quản lý để cung cấp cho công ty mình sở hữu, tạo nên lợi thế cạnh
tranh cho công ty mình làm chủ.
Để khắc phục tình trạng này, Luật doanh nghiệp 2014 có quy định nhằm
hạn chế đối với công ty cổ phần (CTCP). Những người quản lý CTCP như
thành viên HĐQT, giám đốc, tổng giám đốc khi nhân danh cá nhân hoặc nhân
danh người khác để thực hiện các công việc liên quan đến công việc kinh doanh
của công ty thì phải giải trình để được nhận sự chấp thuận của HĐQT, Ban

kiểm soát. Việc giải trình phải nêu rõ nội dung và bản chất của công việc, giao
dịch đó để HĐQT, Ban kiểm soát đánh giá và phê duyệt. Quy định này giúp
tránh tình trạng người quản lý lợi dụng thông tin của công ty để làm lợi cho cá
nhân mình hoặc những chủ thể khác. Bên cạnh đó, quy định này cũng giúp tạo
tính minh bạch, công khai cho những giao dịch giữa công ty với những chủ thể
khác liên quan đến người quản lý. Không phải lúc nào giao dịch giữa công ty
người quản lý sở hữu với công ty người quản lý làm việc cũng vi phạm nghĩa
vụ của người quản lý. Do đó quy định này góp phần đảm bảo tính trung thành
của người quản lý khi bị đưa vào tình huống xung đột lợi ích. Đối với những
việc không được HĐQT, Ban kiểm soát thông qua hoặc người quản lý thực
hiện mà không thông báo, mọi lợi nhuận thu được đều sẽ thuộc về công ty.
1.1.3.4. Trách nhiệm trung thực, cẩn trọng:
Người quản lý có trách nhiệm trung thực, cẩn trọng, tốt nhất nhằm
đảm bảo lợi ích hợp pháp tối đa của công ty.27 “Trung thực” là ngay thẳng,
thật thà, còn “cẩn thận” là thận trọng trong hành động hoặc lời nói của
mình, tránh sơ suất để khỏi xảy ra điều bất lợi hoặc không hay. Nghĩa vụ
trung thực và cẩn trọng nhấn mạnh tính an toàn trong hành động của người
quản lý. Người quản lý không được làm gì gian dối hoặc gây bất lợi cho
công ty. Tuy nhiên, nếu cứ hành động một cách an toàn như vậy, các quyết
27

Điểm a Khoản 1 Điều 71, Khoản 2 Điều 83, Điểm b Khoản 1 Điều 160 Luật doanh nghiệp 2014.

14


định bạo dạng, sáng tạo sẽ không được thực hiện vì sẽ dễ vi phạm tính “cẩn
trọng” khi gây ra thiệt hại cho công ty. Khi không hành động như vậy,
người quản lý sẽ không vi phạm nghĩa vụ “cẩn trọng”.
Việc hành động nhằm bảo đảm lợi ích tối đa của công ty đã buộc

người quản lý phải hành động, thậm chí có thể hành động ngoài vùng an
toàn để thực hiện những quyết định táo bạo nhằm kiếm lợi nhuận lớn cho
công ty. Khi đó, nếu người quản lý hành động một cách quá an toàn hoặc
không hành động thì sẽ vi phạm nghĩa vụ “đảm bảo lợi ích tốt nhất của công
ty”.
Như vậy, về lý thuyết, người quản lý có thể bị kiện vì vi phạm nghĩa
vụ “đảm bảo lợi ích tốt nhất của công ty” mặc dù đã hành động một cách
“trung thực”, “cẩn trọng”. Tuy nhiên, thực tế cho thấy một người quản lý
không phải lúc nào cũng đưa ra quyết định đúng trong mọi trường hợp. Có
nhiều yếu tố ngoại cảnh có thể xuất hiện và tác động vào quyết định của
người quản lý đó, khiến quyết định đó mặc dù đúng vào tại thời điểm đưa
ra quyết định nhưng sai vào thời điểm thực hiện. Để bảo vệ mình trách khỏi
việc chịu trách nhiệm trước những quyết định sai đó, người quản lý cần
phải tự giải thích và chứng minh rằng quyết định của mình là hợp lý hoặc
ít nhất là không bất hợp lý dựa trên những thông tin đã có tại thời điểm đưa
ra quyết định.28
1.1.4. Hậu quả pháp lý phải gánh chịu khi người quản lý công ty vi
phạm trách nhiệm:
1.1.4.1. Trách nhiệm kỷ luật:
Người quản lý doanh nghiệp khi vi phạm các trách nhiệm vụ của
mình có thể phải chịu trách nhiệm kỷ luật. Hình thức kỷ luật thường áp
dụng là miễn nhiệm hoặc bãi nhiệm chức vụ của người quản lý. Việc miễn
nhiệm, bãi nhiệm người quản lý doanh nghiệp có thể thực hiện theo quy
định pháp luật, điều lệ công ty, nội quy lao động hoặc hợp đồng lao động.
28

Trương Nhật Quang, tlđd (9), tr. 367.

15



Các thành viên HĐQT hoặc thành viên Ban kiểm soát mà không tham gia
các hoạt động của HĐQT, Ban kiểm soát trong thời gian 6 tháng liên tiếp
sẽ bị miễn nhiệm hoặc bãi nhiệm, trừ trường hợp bất khả kháng.29
Điều lệ công ty, nội quy lao động có thể quy định những vi phạm
khác để miễn nhiệm hoặc bãi nhiệm người quản lý. Thỏa thuận giữa người
sử dụng lao động và người lao động là người quản lý cũng là một căn cứ để
xác định áp dụng hình thức miễn nhiệm hay bãi nhiệm đối với người quản
lý hay không.
1.1.4.2. Trách nhiệm hành chính:
Luật Doanh nghiêp 2014 không có quy định cụ thể về trách nhiệm
hành chính của người quản lý doanh nghiệp khi họ vi phạm nghĩa vụ. Trách
nhiệm hành chính chỉ được áp dụng cho công ty đại chúng và một số công
ty hoạt động trong lĩnh vực được quản lý chặt chẽ như ngân hàng, chứng
khoán, bảo hiểm. Những trách nhiệm này chủ yếu là cảnh cáo, phạt tiền,
nộp lại khoản tiền thu lợi bất hợp pháp cho công ty.
1.1.4.3. Trách nhiệm hình sự:
Không có một tội nào trong Bộ luật hình sự quy định riêng biệt đối
với trường hợp người quản lý vi phạm nghĩa vụ của mình. Tuy nhiên có rất
nhiều tội liên quan đến việc vi phạm nghĩa vụ của người quản lý trong việc
điều hành và quản lý doanh nghiệp. Các tội điển hình như tội trốn thuế; tội
cố ý công khai thông tin sai lệch hoặc che giấu thông tin trong lĩnh vực
chứng khoán; tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán; tội
thao túng thị trường chứng khoán; tội làm giả tài liệu hồ sơ chào bán, niêm
yết chứng khoán.30 Các tội này chủ yếu trong lĩnh vực thuế, tài chính, chứng
khoán.

Điều 156, Điều 169 Luật doanh nghiệp 2014.
Điều 200, Điều 209, Điều 210, Điều 210, Điều 211 Bộ luật hình sự ngày 27 tháng 11 năm 2015 (Bộ luật
hình sự 2015).

29
30

16


1.1.4.4. Trách nhiệm dân sự:
Trách nhiệm dân sự chủ yếu là trách nhiệm bồi thường lại những thiệt
hại mà người quản lý gây ra trong quá trình vi phạm nghĩa vụ của mình.
Trách nhiệm bồi thường sẽ có hai hướng là bồi thường thiệt hại theo hợp
đồng hoặc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Nếu điều lệ công ty, hợp
đồng lao động có quy định về trách nhiệm bồi thường thì có thể sẽ phát sinh
trách nhiệm bồi thường theo hợp đồng. Còn những trường hợp khác gây
thiệt hại sẽ áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Luật doanh nghiệp 2014 quy định một số trường hợp người quản lý
phải bồi thường thiệt hại phát sinh và hoàn trả các khoản thu được khi vi
phạm các nghĩa vụ sau: không triệu tập cuộc họp HĐTV công ty TNHH
hoặc họp ĐHĐCĐ CTCP, không triệu tập cuộc họp HĐQT CTCP, kiểm
phiếu biểu quyết tại cuộc họp ĐHĐCĐ sai, thông qua nghị quyết của HĐQT
sai, sai sót về nội dung và hình thức cổ phiếu, giao dịch với người có liên
quan của công ty TNHH hoặc CTCP mà không có sự chấp thuận của nội
bộ,…31
Thiệt hại gây ra có thể là thiệt hại cho công ty hoặc thiệt hại của thành
viên công ty TNHH, cổ đông CTCP hoặc bên thứ ba bất kỳ. Việc chứng
minh có thiệt hại trên thực tế, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi
phạm của người quản lý và thiệt hại là điều kiện bắt buộc để công ty, thành
viên, cổ đông hoặc bên thứ ba đi kiện được bồi thường.

1.2. Tổng quan về người quản lý “giấu mặt”:
1.2.1. Ai là người quản lý “giấu mặt”?

“Shadow director” – người quản lý “giấu mặt” là một khái niệm xuất
hiện rất sớm tại Anh, được định nghĩa lần đầu tiên trong luật công ty Anh
1980. Hiện nay, theo luật công ty Anh, người quản lý “giấu mặt” là “người
chỉ dẫn hoặc hướng dẫn các người quản lý của công ty, và các người quản
Khoản 3 Điều 67, Khoản 4 Điều 86, Khoản 2 Điều 120, Khoản 4 Điều 136, Khoản 5 Điều 145, Khoản 4
Điều 149, Khoản 5 Điều 153, Khoản 5 Điều 158 Luật doanh nghiệp 2014.
31

17


lý đó đã quen với việc hành động như vậy”32. Trong định nghĩa trên bao
gồm hai loại người quản lý là người quản lý “giấu mặt” và người quản lý
luật định. Người quản lý “giấu mặt” là người đưa ra các chỉ dẫn để người
quản lý luật định làm theo, và sự hướng dẫn này phải diễn ra nhiều lần, đủ
để người quản lý luật định quen với việc thực hiện các chỉ thị đó. Đặc biệt,
người quản lý “giấu mặt” không mang các chức danh người quản lý trên
thực tế, tuy nhiên vẫn phải có nghĩa vụ và trách nhiệm như một người quản
lý. Trong pháp luật công ty của Úc, vế sau trong định nghĩa người quản lý
đã đề cập đến người quản lý “giấu mặt”: “người không được bổ nhiệm làm
người quản lý vẫn được coi là người quản lý nếu họ hành động dưới quyền
của người quản lý; hoặc các người quản lý hoặc công ty đã quen với sự chỉ
dẫn đó”.33 Tương tự, người quản lý “giấu mặt” đã được định nghĩa gián tiếp
thông qua định nghĩa người quản lý trong luật công ty Singapore. Cụ thể,
người quản lý “giấu mặt” là những ai chỉ dẫn cho người quản lý hoặc đại
bộ phận người quản lý làm theo như thói quen. 34 Qua các định nghĩa trên,
một người có thể được coi là người quản lý “giấu mặt” khi: (i) họ không
nắm giữ các chức danh người quản lý, (ii) chỉ đạo và hướng dẫn các người
quản lý khác thực hiện theo, (iii) các người quản lý đã quen với việc chỉ
dẫn đó.

Pháp luật Việt Nam không có bất kỳ quy định nào định nghĩa trực
tiếp hay gián tiếp về người quản lý “giấu mặt”. Sự thiếu vắng những quy
định này không phải tại Việt Nam không có những người mang đặc tính
của người quản lý “giấu mặt”, mà đây chính là một khuyết điểm của hệ
thống pháp luật nước nhà. “Giấu mặt” là sự không xuất hiện, không trực

Article 250 United Kingdom Company Company Act 2006: “In the Companies Acts “shadow direct or”, in
relation to a company, means a person in accordance with whose directions or instructions the directors of the
company are accustomed to act.”
33
Division 1, part 1.2, chapter 1, section 9, Australia Corporation Act 2001: “director of a company or other
body means (b) unless the contrary intention appears, a person who is not validly appointed as a director if: (i)
they act in the position of a director; or (ii) the directors of the company or body are accustomed to act in
accordance with the person’s instructions or wishes.
34
Article 4 Singapore Companies Act 2006: ““director” includes… and includes a person in accordance with
whose directions or instructions the directors or the majority of the directors of a corporation are accustomed
to act and an alternate or substitute director;”
32

18


tiếp thực hiện hành vi. Người “giấu mặt” là những người đứng sau, không
trực tiếp thực hiện việc đưa ra các quyết định trên thực tế nhưng lại tác
động đến những người quản lý khác thực hiện ý chí của mình. Người quản
lý “giấu mặt” đã xuất hiện tại Việt Nam từ rất lâu, từ khi đất nước bắt đầu
mở cửa thị trường và hội nhập nền kinh tế thế giới. Thực tế cho thấy đã có
rất nhiều vụ việc xuất hiện bóng dáng của người quản lý “giấu mặt”. Năm
1997, Tăng Minh Phụng, vì muốn vay tiền ngân hàng mà đã thành lập hàng

loạt danh nghiệp để sử dụng tư cách pháp nhân. Ông thuê những người khác
giữ các chức vụ quản lý như người quản lý, chủ tịch HĐQT,… còn mình
thì không giữ bất kì chức vụ gì liên quan đến công ty nhưng chính ông lại
là người đứng sau điều khiển họ hết lần này đến lần khác.35 Theo pháp luật
nước ngoài, với những đặc điểm trên thì Minh Phụng sẽ được xem là người
quản lý “giấu mặt”. Tiến sĩ Bùi Xuân Hải trong một số bài viết của mình
cũng đã đề cập đến vấn đề người quản lý “giấu mặt” và đề xuất bổ sung các
quy định để xác định người quản lý “giấu mặt”. Tuy nhiên, sau hai lần sửa
đổi Luật Doanh nghiệp, kết quả là Luật doanh nghiệp 2005 và Luật doanh
nghiệp 2014 vẫn chưa khắc phục được bất cập này.
Việc xác định ai là người quản lý “giấu mặt” tại Việt Nam trong bài
viết này sẽ dựa theo các đặc điểm của người quản lý “giấu mặt” đã đề cập
ở trên. Người quản lý “giấu mặt” là những người không giữ các chức danh
quản lý tại công ty, đưa ra chỉ dẫn cho các người quản lý luật định để họ
làm theo và quen với việc làm theo đó.
Như đã đề cập ở các phần trước, người quản lý luật định là những
người quản lý được xác định theo quy định của pháp luật hoặc theo điều lệ
công ty. Những người quản lý này được xác định một cách rõ ràng thông
qua các chức danh mà họ mang và quyền cũng như nghĩa vụ của họ với tư
cách là một người quản lý. Tuy nhiên, xuất hiện một số trường hợp khi mà
người quản lý luật định không tự mình thực hiện quyền và nghĩa vụ của
Nguyễn Công Long (2007), “Bài học thời sự từ vụ án Minh Phụng – Epco 10 năm trước”,
truy cập
lần cuối ngày 08/01/2018.
35

19


mình nữa, họ bị những chủ thể khác chi phối trong quá trình đưa ra quyết

định. Những chủ thể chi phối này vì một lý do nào đó mà không thể nắm
giữ các chức danh quản lý để trực tiếp thực hiện việc điều hành và đưa ra
các quyết định. Từ đó đã hình thành nên một mối quan hệ giữa người quản
lý luật định với người quản lý “giấu mặt” để người quản lý “giấu mặt” gián
tiếp thực hiện quyền hạn của mình. Quyền hạn này là những thỏa thuận
ngầm giữa người quản lý “giấu mặt” và người quản lý luật định. Mối quan
hệ giữa hai người quản lý này thường là một mối quan hệ ẩn, không công
khai. Theo đó, trên danh nghĩa, người quản lý luật định sẽ là người trực
tiếp đưa ra các quyết định, ký kết các hợp đồng theo thẩm quyền của mình,
tuy nhiên quá trình nghiên cứu xem xét để đưa ra các quyết định thì người
quản lý thực định không thực hiện, quá trình này được thực hiện bởi người
quản lý “giấu mặt”. Nói đúng hơn, người quản lý “giấu mặt” đã thay người
quản lý luật định thực hiện quyền của họ, và người quản lý luật định chỉ là
người giúp các quyết định được thông qua một cách hợp pháp.
Một câu hỏi đặt ra là người quản lý “giấu mặt” có phải là người quản
lý thực tế hay không khi mà thực tế họ thực hiện công việc của những người
quản lý? Cả hai người quản lý này đều không phải là người quản lý luật
định, tuy nhiên giữa họ có những điểm khác biệt cơ bản. Người quản lý
thực tế hành động độc lập như một người quản lý, bản thân họ tự mình đưa
ra quyết định, không cần đưa ra chỉ dẫn cho người quản lý luật định. Người
quản lý thực tế được xem như một người quản lý, mặc dù không phù hợp
với quy định pháp luật. Một trường hợp ví dụ cho người quản lý thực tế là
người quản lý hết nhiệm kì nhưng công ty chưa chỉ định người quản lý
mới.36 Còn đối với người quản lý “giấu mặt”, họ không được coi là người
quản lý. Họ không chủ ý hành động với tư cách là một người quản lý, họ
chỉ làm một việc là đưa ra các chỉ dẫn cho người quản lý luật định. Người
quản lý “giấu mặt” muốn hành động phải có sự góp sức của người quản lý

36


Trương Nhật Quang, tlđd (9), tr. 356.

20


luật định, còn bản thân người quản lý thực tế họ chỉ hành động độc lập mà
không có bất kì sự tác động nào lên người quản lý luật định.37
Còn một chủ thể rất dễ nhầm lẫn với người quản lý “giấu mặt”, đó
chính là người cố vấn – những người đưa ra lời tư vấn trong những lĩnh vực
cụ thể. Để có thể phân biệt được hai chủ thể này không hề dễ. Họ đều là
những người đưa ra những lời tư vấn mang tính chỉ dẫn, hướng dẫn cho
người quản lý công ty làm theo. Tuy nhiên, những lời chỉ dẫn của người cố
vấn mang tính ảnh hưởng ít hơn, những lời chỉ dẫn tư vấn của họ được
người quản lý công ty xem xét và quyết định có thực hiện theo hay không.
Bản chất của những lời tư vấn này xuất phát từ nhu cầu của người quản lý
công ty khi họ cần có những sự chỉ dẫn, sự đánh giá để làm căn cứ giúp họ
tự mình đưa ra quyết định cuối cùng. Còn sự chỉ dẫn, hướng dẫn của người
quản lý “giấu mặt” có sức ảnh hưởng nhiều hơn so với những lời tư vấn của
cố vấn, sức ảnh hưởng này nhiều đến mức khiến người quản lý luật định
“đã quen” làm theo những chỉ dẫn dẫn đó. Điều này có nghĩa người quản
lý luật định chỉ có một sự lựa chọn duy nhất là luôn làm theo những chỉ dẫn
của người quản lý “giấu mặt”. Bản chất của những sự hướng dẫn, chỉ dẫn
này là một mệnh lệnh buộc làm theo chứ không tạo điều kiện cho người
quản lý công ty lựa chọn như sự tư vấn từ người tư vấn. Hơn nữa, sự chỉ
dẫn của người quản lý “giấu mặt” đi quá xa so với những lời tư vấn khi mà
những chỉ dẫn của họ can thiệp quá sâu vào công việc nội bộ công ty, khiến
cho người quản lý quen và hành động theo những chỉ dẫn đó như một thói
quen.38 Người quản lý luật định lúc này không còn hành động như một
người quản lý bình thường nữa, họ chỉ mang danh nghĩa là người quản lý,
còn mọi hành động của họ đều do người quản lý “giấu mặt” chi phối.

1.2.2. Người quản lý “giấu mặt” cần có trách nhiệm gì?
Ở nước ngoài, người quản lý “giấu mặt” là một chủ thể được công nhận.
Họ là những người có kiến thức, có khả năng quản lý nhưng vì một lí do nào
37
38

Nguyễn Thị Vân Anh, tlđd (13), tr. 24.
Trịnh Huyền Nhung, tlđd (12), tr.26.

21


×