Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Theo xu hướng phát triển của xã hội ngày nay, lĩnh vực công nghệ là một trong những lĩnh vực không thể thiếu với mạng lưới thông tin trên thế giới ngày càng phát triển. Việc ứng dụng công nghệ vào các xí nghiệp, cơ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.01 KB, 18 trang )

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU: THỰC TRẠNG SẢN XUẤT NGUYÊN
VẬT LIỆU MAY VIỆT NAM
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Bước sang thế kỉ 21 xu thế quốc tế hóa ngày càng mạnh mẽ, phân công lao động
ngày càng sâu sắc,hầu hết các quốc gia đều mở cửa nền kinh tế để tận dụng triệt để
hiệu quả so sánh của nước mình. Việt Nam đang trong giai đoạn đầu của quá trình
thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì ngành dệt may là một ngành
quan trọng không thể thiếu trong công cuộc xây dựng đất nước đi lên chủ nghĩa xã
hội. Bên cạnh vai trò cung cấp hàng hóa cho thị trường trong nước, ngành dệt may
hiện nay đã vươn ra thị trường nước ngoài, ngày càng giữ vị trí quan trọng trong
nền kinh tế Vệt Nam. Để quá trình sản xuất đảm bảo được chất lượng và hiệu quả
thì nguyên liệu may đóng vai trò quan trọng vì vậy nó luôn đòi hỏi nguyên phụ liệu
được đưa vào sản xuất phải đạt yêu cầu của cả khách hàng cũng như tiêu chuẩn của
sản phẩm may vốn có để có quá trình sản xuất nhịp nhàng và cho ra những sản
phẩm chất lượng nhất.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm tìm ra hướng đi đúng cho sự phát triển của
ngành may mặc của cả nước trong suốt các giai đoạn đã xảy ra và sẽ tiếp tục diễn
biến trong tương lai. Cụ thể là:
 Nghiên cứu thực trạng phát triển nội địa của may mặc
 Dự báo các yếu tố tác động đến thi trường tiêu thụ sản phẩm.


 Đề xuất các giải pháp thực hiện chiến lược phát triển thị trường cũng như
nâng cao tính cạnh tranh của các phân khúc sản phẩm.
3. Đối tượng nghiên cứu
Theo khảo sát của Viện Nghiên cứu Kinh tế Trung ương tại các DN có vốn đầu tư
nước ngoài, trong lĩnh vực may mặc, có 124 đầu mối cung cấp nguyên liệu và linh
kiện. Do nguồn cung tại chỗ quá ít, các DN buộc phải nhập khẩu
4. Phạm vi nghiên cứu


 Về nội dung nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng sản xuất
nguyên liệu may ở trong nước
 Về không gian: đề tài được nghiên cứu tại Việt Nam
 Về thời gian: Tập trung trong khoản thời gian từ 27/8 đến 9/9
5. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu định tính, thu thập dữ liệu thứ cấp.

PHẦN 2: NỘI DUNG CHÍNH
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1 Khái quát chung về nguyên vật liệu
NVL là đối tượng lao động được thể hiện dưới dạng vật hoá, là một trong ba yếu tố
cơ bản của quá trình sản xuất kinh doanh. Nó là thành phần chủ yếu cấu tạo nên
thành phẩm, là đầu vào của quá trình sản xuất và thường gắn với doanh nghiệp sản
xuất.
1.2 Phân loại nguyên vật liệu Trong doanh nghiệp
NVL rất đa dạng và phong phú vì vậy để thuận tiện cho quản lý cần phải phân loại
NVL


• Căn cứ vào vai trò và tác dụng của NVL trong sản xuất, NVL được chia thành các
loại sau:
Nguyên liệu, vật liệu chính: Là loại nguyên liệu, vật liệu khi tham gia vào quá trình
sản xuất thì cấu thành thực thể vật chất, thực thể chính của sản phẩm. Vì vậy khái
niệm nguyên liệu vật liệu chính gắn liền với từng doanh nghiệp sản xuất cụ thể như
vải trong các doanh nghiệp may, sắt thép trong nhà máy chế tạo cơ khí…
Vật liệu phụ: Là những loại vật liệu khi tham gia vào quá trình sản xuất, không cấu
thành thực thể chính của sản phẩm nhưng có thể kết hợp với vật liệu chính để hoàn
thiện nâng cao tính năng, chất lượng sản phẩm như: Thay đổi màu sắc hình dáng
bên ngoài, hoặc tạo điều kiện cho quá trình sản xuất được diễn ra bình thường,
hoặc phục vụ cho nhu cầu công nghệ, bảo quản, đóng gói…Ví dụ như khoá, nhãn
mác, chỉ trong các doanh nghiệp may.

Nhiên liệu: Là những thứ có tác dụng cung cấp nhiệt lượng trong quá trình sản xuất
kinh doanh. Nhiên liệu có thể tồn tại ở thể lỏng, thể rắn, thể khí như: Than, xăng
dầu, khí đốt… Phụ từng thay thế: Là những vật tư dùng để thay thế, sửa chữa máy
móc thiết bị, phương tiện vận tải, công cụ dụng cụ sản xuất: như chân vịt máy
khâu, suốt chỉ, kim khâu…trong các doanh nghiệp may.
Vật liệu và thiết bị xây dựng cơ bản: Là những loại vật liệu, thiết bị được sử dụng
cho công việc xây dựng cơ bản. Đối với thiết bị cơ bản bao gồm các thiết bị cần
lắp, không cần lắp, công cụ, khí cụ và vật kết cấu dùng để lắp đặt vào công trình
xây dựng cơ bản.
Vật liệu khác (phế liệu): Là những vật liệu chưa được sắp xếp vào các loại trên,
thuờng là các vật liệu loại ra từ quá trình sản xuất hoặc phế liệu thu hồi trong quá
trình thanh lý tài sản cố định. Tuỳ vào yêu cầu quản lý và hạch toán chi tiết mà
trong từng loại vật liệu nêu trên lại chia thành từng nhóm với những quy cách,


phẩm chất riêng. Mỗi loại trong nhóm được quy định một ký hiệu riêng tuỳ thuộc
vào doanh nghiệp sao cho thuận lợi để theo dõi. Cách phân loại này có tác dụng
làm cơ sở xác định mức tiêu hao, định mức dự trữ cho từng loại nguyên vật liệu
dùng cho sản xuất sản phẩm.
1.3 Đặc điểm nguyên vật liệu trong các doanh nghiệp sản xuất
NVL là tài sản dự trữ sản xuất thuộc nhóm hàng tồn kho, nhưng NVL có những
đặc điểm riêng khác với các loại tài sản khác của doanh nghiệp là khi tham gia vào
quá trình sản xuất kinh doanh NVL bị tiêu hao toàn bộ, không giữ nguyên hình thái
vật chất ban đầu và chuyển toàn bộ giá trị một lần vào chi phí kinh doanh trong
kỳ,tuy nhiên chuyển dịch lớn hay nhỏ của NVL tuỳ thuộc vào từng loại hình doanh
nghiệp sản xuất tạo ra giá trị sản phẩm.
1.4 Vai trò nguyên vật liệu trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty
Bất kỳ một doanh nghiệp nào khi tiến hành hoạt động cũng phải đầu tư nhiều loại
chi phí khác nhau, trong đó NVL chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí sản xuất
như trong giá thành sản xuất công nghiệp cơ khí từ 50% đến 60%, trong giá thành

sản xuất công nghiệp nhẹ chiếm khoảng 70%, trong giá thành sản xuất công nghiệp
chế biến chiếm tới 80%. Do vậy, cả số lượng và chất lượng sản phẩm đều bị quyết
định bởi NVL tạo ra nó nên yêu cầu NVL phải có chất lượng cao, đúng quy cách
chủng loại, chi phí NVL được hạ thấp, giảm mức tiêu hao NVL thì sản phẩm sản
xuất ra mới đạt yêu cầu giá thành hạ, nhằm thoả mãn nhu cầu của khách hàng.
NVL là tài sản thường xuyên biến động, nó đảm bảo cho dây truyền sản xuất diễn
ra liên tục, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Mặt khác, trong
doanh nghiệp sản xuất chi phí NVL thường chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ chi
phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Vì thế, tăng cường công tác kế toán, công tác
quản lý NVL tốt nhằm đảm bảo việc sử dụng tiết kiệm và hiệu quả NVL để giảm


bớt chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm có ý nghĩa quan trọng đối với các doanh
nghiệp.
1.5 Đánh giá nguyên vật liệu
Nguyên vật liệu là bộ phận của tài sản lưu động được phản ánh trong sổ kế toán và
trên báo cáo tài chính theo giá trị vốn thực tế. Đánh giá NVL là việc xác định giá
trị của NVL ở những thời điểm nhất định theo phương pháp cụ thể và những
nguyên tắc nhất định đảm bảo yêu cầu chân thực và thống nhất. Dưới tác động của
quy luật thị trường, trị giá bằng tiền của NVL thay đổi liên tục. Đặc biệt trong
doanh nghiệp sản xuất, chi phí NVL chiếm một tỷ trọng khá lớn trong tổng chi phí
sản xuất và ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận cuối cùng của doanh nghiệp. Vì vậy,
bên cạnh việc quản lý về số lượng, doanh nghiệp cần quan tâm quản lý cả về mặt
giá trị của NVL. Việc đánh giá NVL trong doanh nghiệp sẽ giúp doanh nghiệp theo
dõi được giá trị của số NVL nhập - xuất - tồn, làm cơ sở cho việc ra quyết định
trong sản xuất.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG SẢN XUẤT NGUYÊN VẬT LIỆU
2.1 TỔNG QUAN VỀ NGHÀNH SẢN XUẤT NGUYÊN VẬT LIỆU
Do không chủ động được nguồn nguyên liệu trong nước phải nhập khẩu nên các

doanh nghiệp Việt Nam trong những ngành sản xuất nêu trên không chỉ bị chi phối
về giá bán của các nhà cung cấp nguyên liệu, mà còn chịu sự tác động của diễn
biến tỷ giá hối đoái giữa đồng nội tệ (VND) với các đồng ngoại tệ, các vấn đề chi
phí liên quan thuế, thủ tục nhập khẩu... Mỗi khi thị trường cũng như giá nguyên
liệu quốc tế biến động bất lợi, các ngành sản xuất trong nước lại gặp rất nhiều khó
khăn.


Giá thành nguyên liệu biến động tăng không chỉ gây áp lực lớn về tài chính, mà
nhiều doanh nghiệp Việt Nam còn phải gặp thêm rủi ro khác trong quá trình nhập
khẩu là rất khó kiểm soát chất lượng hàng hóa. Đây là nguyên nhân quan trọng
khiến cho chi phí nguyên liệu trong giá thành sản xuất còn cao, chất lượng sản
phẩm cũng như năng lực cạnh tranh quốc tế của hàng hóa cũng như của doanh
nghiệp Việt Nam vẫn hạn chế.
Tại buổi giao ban tháng 5, Bộ Công thương cho biết, nguồn cung bông xơ trên thế
giới khan hiếm thời gian qua đã kéo giá nguyên liệu sản xuất dệt may trong nước
tăng mạnh, do ảnh hưởng từ việc Ấn Độ cấm xuất khẩu bông xơ và Pakistan đánh
thuế xuất khẩu bông sợi. Trong khi đó, Trung Quốc cũng đang tăng cường mua
nguyên liệu từ hầu hết các thị trường trên thế giới, kể cả mua từ Việt Nam.
Cũng bởi tình trạng khan hiếm nguyên liệu dẫn đến nhiều công ty bông thế giới
không muốn bán lô lớn cho các doanh nghiệp (DN) Việt Nam. Để duy trì sản xuất,
nhiều DN sản xuất sợi trong nước khắc phục bằng cách kết hợp tận dụng nguyên
liệu lẫn nhau để sản xuất, hoặc đặt mua nguyên liệu làm nhiều lần với số lượng
nhỏ. “Đây chỉ là giải pháp trước mắt, không tạo được sự chủ động cho DN để tiếp
nhận các đơn hàng”, đại diện Vụ Xuất nhập khẩu (Bộ Công thương) nhận xét.
Ông Nguyễn Đức Khiêm, Chủ tịch HĐQT, kiêm Tổng giám đốc Tổng công ty Việt
Thắng cho biết, nguyên liệu tăng giá mạnh nhất là sợi visco (bình quân tăng
10%/tháng). Tiếp đến là sợi cotton (từ 1,3 USD/kg lên 1,6 USD/kg)... Tuy nhiên,
đáng ngại hơn, do các hãng nước ngoài giao hàng chậm, nên xuất hiện tình trạng
khan hiếm nguyên liệu.

Mặc dù tình hình cung ứng một số nguyên liệu quan trọng cho ngành may mặc
đang gặp khó khăn, do giá thế giới tăng cao, song các DN sản xuất nguyên phụ liệu
trong nước cũng không mặn mà bán hàng cho DN. Trong khi nguồn cung nguyên


liệu trong nước không đáp ứng được, để chủ động được nguyên phụ liệu để sản
xuất, các DN chỉ trông chờ vào nhập khẩu. Vì vậy, dù là ngành có kim ngạch xuất
khẩu dẫn đầu trong 5 tháng qua (với 3,8 tỷ USD), nhưng theo thống kê của Bộ
Công thương, kim ngạch nhập khẩu nguyên phụ liệu (gồm bông, vải, sợi và các
loại phụ liệu khác) cũng lên tới 3,723 tỷ USD.
2.2 THỰC TRẠNG SẢN XUẤT NGUYÊN VẬT LIỆU

 Thực trạng sản xuất bông:
Sản xuất bông chưa đáp ứng được 1% nhu cầu trong nước
Ngành trồng bông và kéo sợi tại Việt Nam đã có lịch sử lâu đời nhưng nó chỉ trở
thành ngành trọng điểm trong khoảng 2 thập kỷ gần đây khi đất nước tiến vào công
cuộc Công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Theo hiệp hội bông sợi Việt Nam VCOSA,
năm 2000, sản lượng bông cả nước đạt 12.000 tấn thì đến năm 2010 chỉ còn 3.500
tấn – tức còn 30% sản lượng năm 2000. Nếu như năm 2000 bông trong nước đáp
ứng khoảng 20% nhu cầu kéo sợi thì đến năm 2010, tỷ lệ này chỉ còn 1,3% - đây là
một dấu hiệu rất đáng lo ngại đặc biệt giá bông thế giới biến động bất thường (đặc
biệt trong năm 2011, giá bông tăng gần 2,2 lần) đe dọa tới sự tăng trưởng ổn định
của ngành sợi Việt Nam nói riêng và toàn ngành dệt may nói chung. Diện tích
trồng bông của Việt Nam liên tục giảm
Diện tích trồng bông của Việt Nam liên tục giảm
Bảng 5: Tình hình sản xuất bông của Việt Nam
(từ 2013-2016)
Tiêu chí

2013/201


2014/201

2015/201

4

5

6


Diện tích
Trồng

2.5

1.2

1.0

1.27

0.6

0.5

trọt
(nghìn
ha)

Sản
lượng
Vải Bông
(Nghìn
tấn)
(=>Nguồn: Bộ Nông nghiệp, Tổng cục thống kê Việt Nam
và Cục xúc tiến thương mại Việt Nam)
Niên vụ 2013/2014 diện tích trồng bông là 2,5 nghìn héc-ta thì đến niên vụ
2016/17 chỉ đạt 1 nghìn héc-ta và cung ứng ra thị trường 0,5 nghìn tấn. Như vậy
sản lượng bông niên vụ 2015/2016 chưa đáp ứng được 1% nhu cầu trong nước.
Hiện tại Chính phủ Việt Nam cũng đã có các quy hoạch phát triển trồng cây bông
giai đoạn 2001 - 2010 và quy hoạch phát triển ngành công nghiệp dệt may Việt
Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Tuy nhiên, diện tích trồng bông vẫn
không cải thiện nhiều mà có chiều hướng giảm xuống (2015: 1,2 nghìn ha; 2016:
1,0 nghìn ha).
Nguyên nhân khiến diện tích trồng bông thu hẹp:
Việc trồng bông tại nước ta không có lợi thế cạnh tranh so với các quốc gia lớn
trồng bông như Trung Quốc, Ấn Độ, Mỹ (năng suất trồng bông ở Mỹ đạt 855
pounds/acre, tương đương với 960 kg/ha trong khi Việt Nam chỉ đạt khoảng 400
kg/ha). Nguyên nhân hàng đầu tác động bất lợi đến sản xuất bông là do Việt Nam
không có lợi thế so sánh do trồng bông thường đạt lợi thế theo quy mô. Tại Việt


Nam, những diện tích đất trống đạt từ vài chục đến vài trăm ha lại rất khan hiếm và
điều kiện thổ nhưỡng không thật sự phù hợp với cây bông. Muốn canh tác được
trên các vùng đất này cần đầu tư toàn diện từ cải thiện chất lượng đất, xây dựng hệ
thống thủy lợi và trang bị máy móc hiện đại để thu hoạch. Nếu đều tư toàn bộ như
vậy, chi phí sẽ rất lớn dẫn tới giá thành khó có thể cạnh tranh được với bông thế
giới. Việc trồng bông không có lợi thế cạnh tranh so với trồng các nông sản khác
như cà phê, điều, cao su… do đối với nông dân giá thu mua các loại nông sản này

cao hơn (giá thu mua bông khoảng 9.000 VNĐ/kg, tương đương 3,6 triệu/ha trong
khi 1 ha trồng mía người nông dân thu được khoảng 36 triệu/ha). Chủ yếu bông
trong nước là nhập khẩu
Cơ cấu nhập khẩu bông ở Việt Nam năm 2016

27.00%
Mỹ

Úc

49.00%
Brazil Khác

13.00%
11.00%

Nguồn: ICT, Tổng cục Hải Quan, FPTS Tổng hợp

 Thực trạng sản xuất Polyester Polyester:


chủ yếu nhập khẩu từ nước ngoài Polyester là chế phẩm từ dầu mỏ. Hiện tại Việt
Nam có các dự án để khai thác dầu như Nghi Sơn (Thanh Hóa), Vũng Rô (Phú
Yên), Petro (tại Bà Rịa Vũng Tàu và Quảng Ngãi). Tuy nhiên, các sản phẩm chủ
yếu là dầu thô và không chú trọng sản xuất các chế phẩm như hạt nhựa PET, do đó
toàn bộ đầu vào Polyester được nhập khẩu, chủ yếu từ Trung Quốc. Hàng năm, dệt
may Việt Nam phải nhập khoảng 250.000 - 300.000 tấn xơ polyester từ Đài Loan
(Trung Quốc) và một số nước Đông Nam Á.

Các dự án hóa dầu tại Việt Nam

Dự án

Công suất

Tình trạng

Năm hoàn thiện

(thùng/ngày)
Bà Rịa - Vũng 2.612

Đã hoạt động

2003

Tàu
Dung Quất
Nghi Sơn
Vũ Rô
Long Sơn
Nhơn Hới
Nam Vân

Đã hoạt động
Đang hoàn thiện
Đang hoàn thiện
Đang đề xuất
Đang đề xuất
Đang đề xuất


2009
2018
2018
N/A
N/A
N/A

Đang đề xuất

N/A

148.000
200.000
160.720
200.000
400.000
200.803

Phong
Cần Thơ
40.160
Nguồn: FPTS tổng hợp

 Máy móc thiết bị:


Máy móc thiết bị dệt sợi bao gồm máy chuẩn bị dệt sợi, máy chải thô, máy chải kỹ,
máy ghép cúi, máy kéo sợi... được chủ yếu nhập khẩu từ Trung Quốc, Nhật, Thụy
Sĩ, Ấn Độ, Đức, Đài Loan và Hàn Quốc.
Máy móc ngành sợi chưa đồng bộ với quy mô sản xuất còn nhỏ

Về công nghệ sản xuất sợi cotton, các doanh nghiệp sợi tại Việt Nam có thể sản
xuất sợi CD và sợi nồi cọc đáp ứng nhu cầu thị trường thế giới. Tuy nhiên, hiện tại
máy móc ngành sợi trong nước vẫn chưa được nâng cấp đồng bộ, một số nhà máy
vẫn sử dụng máy móc cũ nên chất lượng sợi không đồng đều giữa các nhà máy
Về công nghệ sản xuất sợi tổng hợp, hiện tại chỉ có 4 doanh nghiệp tại Việt Nam
sản xuất sản phẩm sợi dài (sợi filament) từ hạt nhựa (công nghệ Chips spinning) là
Sợi Thế Kỷ, Đông Thiên Phú, Hualon và Hưng Nghiệp Formosa. Các doanh
nghiệp sản xuất sợi tổng hợp khác trong nước sản xuất sợi ngắn (sợi staple) từ xơ
ngắn nhập khẩu. Chi tiết về công nghệ sản xuất sợi tổng hợp

CHƯƠNG 3: NHẬN XÉT – ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ
3.1 Nhận xét
 Thị trường máy móc công nghệ phục vụ ngành dệt may tại Việt Nam được
đánh giá có nhiều tiềm năng bởi những năm qua ngành may mặc không
ngừng phát triển cả về quy mô và số lượng xuất khẩu. Nắm bắt cơ hội này
nhiều đơn vị phân phối máy móc công nghệ đã nhảy vào cuộc để cung cấp
các giải pháp mới cho DN
 Hiện nay các công ty chủ yếu vẫn sản xuất theo tiêu chuẩn khách hàng
(OEM- Original Equiment Manufacture). Tuy nhiên, trở thành nhà cung ứng
đạt chuẩn OEM vẫn đang còn nhiều vấn đề lớn mà các doanh nghiệp hiện
nay gặp phải, cần cố gắng hơn nữa so với các nước Đông Á. Bởi vì có một
thực trạng mà ta vẫn thấy ở các doanh nghiệp dệt may đó là: Một số doanh
nghiệp khi gia công, thời gian đầu sản phẩm đạt yêu cầu, lấy được sự tin cậy


từ khách hàng. Nhưng những đơn hàng sau, sau khi được xuất khẩu sang thị
trường nước ngoài thì hàng loạt các lô hàng bị trả lại do không đạt yêu cầu
mà họ đặt ra.
 Ngành dệt may Việt Nam đang là ngành dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu, là
ngành giải quyết nhiều việc làm cho người lao động. Hiện nay nguyên liệu

chính cho ngành là bông xơ, tuy nhiên ngành vẫn phải nhập khẩu hơn 90%
nguyên liệu đầu vào => Còn phụ thuộc nhiều vào nguồn nhập khẩu
 Mạng lưới phân phối còn nhiều hạn chế, chưa mở rộng trao đổi, tăng khả
năng tiếp cận với nguồn đầu tư trong nước và quốc tế.
3.2 Đề xuất giải pháp
1. Đổi mới công nghệ
Đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ là nhân tố đóng vai trò quyết định đối với
sự phát triển của ngành dệt may. Vấn đề cấp bách hiện nay là cần mạnh dạng đổi
mới quy trình công nghệ, kết hợp đúng mức các trình độ công nghệ hiện có, đầu tư
mua sắm thiết bị Dệt May đồng bộ, đạt tiêu chuẩn kĩ thuật cao, loại bỏ dần các
thiết bị công nghệ lạc hậu, không còn thích hợp. Đầu tư công nghệ hiện đại, các
công nghệ thuộc thế hệ mới nhất trên thế giới cho các dự án đầu tư mới với quy mô
đủ lớn. Tập trung các dự án đầu tư mới, với quy mô đủ lớn, đủ tiềm lực về vốn để
tiếp cận công nghệ hiện đại tiên tiến nhất, công nghệ thế hệ mới nhất.
Bởi vì: Hàng dệt may có đặc điểm là có tính linh động cao trên thị trường,
chu kỳ sản phẩm ngắn, tính mốt thể hiện rõ, tính quốc tế cao. Do đó công nghệ
phải đổi mới nhanh và theo hướng hiện đại. Đổi mới máy móc thiết bị giúp năng
suất tăng cao, chất lượng sản phẩm được đảm bảo tốt hơn, đảm bảo số lượng các
đơn đặt hàng mà khách hàng yêu cầu. Khi thiết bị hiện đại, chúng ta có đủ điều
kiện để sản xuất những sản phẩm thời trang, các sản phẩm đa dạng hơn, nhiều mẫu
hơn, đáp ứng được những khách hàng khó tính. Khi các mặt hàng có chất lượng
tốt, kiểu dáng hấp dẫn dần dần Việt Nam sẽ xây dựng được thương hiệu về sản
phẩm dệt may của mình. Đối với các khâu kéo sợi, dệt, nhuộm, hoàn tất thì trình
độ công nghệ hiện đại sẽ trở thành yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của
ngành. Đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ phải nhằm đưa công nghiệp Dệt may
trở thành ngành mũi nhọn của nền kinh tế quốc dân. Ngành dệt may phải phát


triển với quy mô lớn và đạt trình độ tiến tiến, đủ sức hòa nhập với nền kinh tế
thế giới. Phát triển công nghiệp Dệt phải gắn liền với công nghiệp may nhằm

nâng cao chất lượng nguyên liệu các doanh nghiệp may, giảm bớt nhu cầu nhập
khẩu nguyên liệu nước ngoài, tạo điều kiện cung cấp vải sợi ổn định, chủ động
cho may hàng xuất khẩu, nâng cao giá trị gia tăng, góp phần tăng ngân sách
quốc gia và tăng tích luỹ để tiếp tục tái đầu tư cho công nghệ mới nhằm đáp ứng
yêu cầu của ngành may. Xu thế hiện nay, các doanh nghiệp dệt may trên thế giới
đang chuyển đến sản xuất tại Việt Nam nhiều hơn do vậy cần chú ý để tiếp nhận tốt
sự chuyển dịch này. Chúng ta cần tăng cường mối liên kết hợp tác với các tập đoàn
phân phối, bán lẻ lớn trên thế giới nhằm ổn định khách hàng và từng bước tham gia
vào các chuỗi liên kết của họ. Sự liên kết này còn nằm trong chuỗi liên kết giữa
các nhà sản xuất và cung ứng nguyên phụ liệu cùng hệ thống các nhà tiêu thụ sản
phẩm. Hướng phát triển của ngành cần được chuyên môn hóa và hợp tác hóa nên
do vậy cần đầu tư ngay vào công nghệ mới để tạo bước nhảy vọt về chất lượng và
mang lại giá trị gia tăng. Ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý và thanh
khoản hợp đồng gia công, triển khai quản lý rủi ro luồng hàng hóa, tăng cường
công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại, chuyển tải bất hợp pháp… giúp các
doanh nghiệp may có thể tối ưu hóa sản xuất, cắt giảm chi phí… Doanh nghiệp có
thể quản lý thông tin sản phẩm, quản lý nhà cung cấp, quản lý đơn vị sản xuất,
quản lý các đơn vị gia công và thầu phụ, quản lý nhà tiêu thụ và phân phối lẻ, quản
lý thương hiệu một cách dễ dàng, hiệu quả hơn. Đối với các dự án các nhà đầu tư
trong nước, cần phải cân nhắc kỹ càng trong việc lựa chọn công nghệ. Tập đoàn
Dệt May cần tư vấn, hỗ trợ về thông tin các nguồn cung cấp công nghệ, các thế hệ
công nghệ giúp các nhà đầu tư tránh được việc nhập khẩu các công nghệ đã lạc
hậu, công nghệ thải hồi của các nước, nhất là các nước công nghiệp mới như Hàn
Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản… Đầu tư cơ sở hạ tầng nhằm hình thành các khu
công nghiệp chuyên ngành sợi, dệt, nhuộm – may. Bao gồm hạ tầng cơ sở đường
xá, thoát nước, đặc biệt chú ý đến vấn đề xử lý nước thải, đây là vấn đề rất quan
trọng đối với các cơ sở in nhuộm, hoàn tất.
2. Trở thành nhà cung ứng đạt tiêu chuẩn khách hàng
Trong chuỗi giá trị toàn cầu của ngành Dệt may, các công ty của Việt Nam
nói chung và các công ty ở Bà Rịa – Vũng Tàu nói riêng hiện nay chủ yếu vẫn sản

xuất theo tiêu chuẩn khách hàng (OEM- Original Equiment Manufacture). Tuy
nhiên, trở thành nhà cung ứng đạt chuẩn OEM vẫn đang còn nhiều vấn đề lớn mà


các doanh nghiệp hiện nay gặp phải, cần cố gắng hơn nữa so với các nước Đông Á.
Bởi vì có một thực trạng mà ta vẫn thấy ở các doanh nghiệp dệt may đó là: Một số
doanh nghiệp khi gia công, thời gian đầu sản phẩm đạt yêu cầu, lấy được sự tin cậy
từ khách hàng. Nhưng những đơn hàng sau, sau khi được xuất khẩu sang thị trường
nước ngoài thì hàng loạt các lô hàng bị trả lại do không đạt yêu cầu mà họ đặt ra.
Như vậy, vừa mất thời gian, vừa tốn kém, vừa mất uy tín mà trong chuỗi cung ứng
toàn cầu, nếu bị mất uy tín một lần thì sẽ mất vị trí và rất khó lấy lại vị trí đó. Mục
tiêu mà Dệt may cần phấn đấu không chỉ dừng lại ở trở thành nhà cung ứng đạt
tiêu chuẩn khách hàng OEM mà cần phải sản xuất dưới dạng sản xuất thiết kế gốc
(ODM – Original Design Manufacture) hay là sản xuất nhãn hiệu gốc (OBM –
Own Brand Manufacture). Bởi vì hình thức OEM là công ty cung cấp sản xuất sản
phẩm theo thiết kế đặc biệt của người mua và sản phẩm được bán dưới nhãn hiệu
của người mua, công ty cung cấp hầu như rất ít quyền lực trong việc phân phối.
Tuy nhiên, với thực tế hiện nay, để tiến lên bước này thì trước tiên các
Doanh nghiệp phải trở thành nhà cung ứng đạt chuẩn khách hàng. Muốn như vậy
các Doanh nghiệp cần:

Xây dựng hình ảnh ngành dệt may Việt Nam với chất lượng, thời
trang, thân thiện với môi trường.


Tổ chức các lớp đào tạo để nâng cao trình độ cho người lao động.



Quán triệt tới các công nhân về chất lượng của sản phẩm.




Mỗi lô hàng xuất đi cần phải kiểm tra cẩn thận, kĩ lương hơn.


Doanh nghiệp dệt may cần đẩy nhanh quá trình xây dựng tiêu chuẩn
SA8000 để đáp ứng được yêu cầu của khách hàng, đặc biệt là đối với thị trường
Hoa Kỳ.


Uy tín của doanh nghiệp với khách hàng phải đặt lên hàng đầu…

3. Phát triển lĩnh vực thiết kế
Trong chuỗi giá trị toàn cầu khâu đem lại lợi nhuận cao nhất là thiết kế mẫu,
cung cấp nguyên phụ liệu và thương mại. Muốn phát triển được lĩnh vực này một
cách có hiệu quả, các doanh nghiệp Dệt may cần:


– Có sự hỗ trợ từ phía Nhà Nước
– Nghiên cứu các thiết kế sản phẩm mới mang những nét đặc trưng riêng.
Sản xuất các sản phẩm có sự khác biệt hóa cao, có tính độc đáo, hiện đại và đẳng
cấp.
– Nắm bắt được xu thế thời trang của thế giới
– Phát triển thị trường thời trang Việt Nam tại các đô thị và các thành phố
lớn
– Tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại và kêu gọi đầu tư trong nước
và khu vực, tổ chức các hội nghị, hội thảo, diễn đàn về dệt may quốc tế, khu vực…
để giúp các doanh nghiệp dệt may Việt Nam và các nước trong khu vực, quốc tế
gặp gỡ, học hỏi, tăng cường hợp tác liên kết cùng nhau giúp đỡ, định hướng phát

triển trường , chủ động nắm bắt được nhu cầu khách hàng và tiếp đó, đưa ra những
thiết kế phù hợp.
4. Phát triển nguyên phụ liệu.
Để ngành may mặc phát triển bền vững cần phải đầu tư ngành công nghiệp hỗ trợ,
hoàn thiện chuỗi cung ứng.
Bà Rịa – Vũng Tàu đứng đầu số về nhập khẩu nguyên liệu
Theo đánh giá của ngành công thương, may mặc hiện vẫn được xem là lĩnh vực
phải nhập khẩu nhiều nguyên liệu nhất. Trong số 12 doanh nghiệp may mặc đang
hoạt động trên địa bàn tỉnh phải nhập khẩu nguyên liệu có đến 9 doanh nghiệp phải
nhập khẩu nguyên liệu từ Trung Quốc. Tỷ lệ nhập khẩu lớn về nguyên, nhiên liệu,
nhất là nguyên liệu gia công sản xuất… thể hiện tính gia công trong ngành còn lớn,
phụ thuộc nhiều vào thị trường cung cấp ở nước ngoài. Do đó, khi giá cả thế giới
biến động tăng sẽ làm tăng chi phí sản xuất trong nước, giảm khả năng cạnh tranh
của hàng hóa xuất khẩu. Ông Phạm Văn Hữu, Giám đốc công ty TNHH May Quốc
tế Việt An, CCN Hắc Dịch (huyện Tân Thành) cho biết, một trong những nguyên
nhân của tình trạng này là do nguyên phụ liệu trong nước không đa dạng về chủng
loại, mẫu mã, chất lượng kém nên doanh nghiệp buộc phải nhập khẩu. Các doanh
nghiệp cũng đang xem xét khả năng thay thế bằng các nguồn cung từ trong nước
(nguyên liệu không đòi hỏi công nghệ cao), cố gắng đưa tỷ lệ nội địa hóa lên 5055%.
Mặc dù hiện nay trên địa bàn tỉnh đã có sản phẩm sợi vừa xuất khẩu đi các nước,
vừa cung cấp nguyên liệu cho nội địa, nhưng vẫn phải nhập khẩu các loại vải đã


nhuộm. Nguyên nhân là hiện nay tỉnh đang hạn chế thu hút đầu tư lĩnh vực nhuộm
do lo ngại ảnh hưởng đến môi trường vì lượng nước thải độc hại. Ông
G.Narasimha Rao, Giám đốc tài chính Công ty TNHH Mei Sheng Textiles Việt
Nam (Cụm CN Ngãi Giao, huyện Châu Đức) cũng cho hay, Mei Sheng Textiles có
công suất sản xuất gần 50.000 tấn sợi/năm, nhưng hơn 90% nguyên phụ liệu phải
nhập khẩu. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến đến quá trình sản xuất của DN.
Phải tăng tỷ lệ nội địa hóa

Ông Yasuzumi Hirotaka, Giám đốc điều hành văn phòng Xúc tiến thương mại Nhật
Bản (Jetro) tại TP. Hồ Chí Minh cho biết, tỷ lệ nội địa hóa của hàng hóa Việt Nam
thời gian qua đã cải thiện đáng kể. Tuy nhiên vẫn còn quá thấp so với các nước
trong khu vực và nhu cầu thực tế. Do vậy để hỗ trợ cho các công ty thì cần đẩy
mạnh thu hút đầu tư từ nước ngoài. Đồng thời, tỉnh BR-VT nên tạo ra ưu đãi đầu tư
cho các ngành công nghiệp sử dụng nguyên vật liệu tại chỗ. Còn theo Bộ Công
thương, đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may còn khá
hạn chế (hiện có 307 dự án với hơn 5,1 tỷ USD). Các công đoạn như dệt, nhuộm,
phụ liệu… vẫn chưa thu hút nhiều sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài. Do
vậy, trong khi chờ các Hiệp định thương mại tự do có hiệu lực, các DN trong nước
cần chủ động mở rộng năng lực, đầu tư các khâu nguyên phụ liệu, hoàn thiện chuỗi
cung ứng.
Để nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, gia tăng năng lực cạnh tranh cũng như sự phát triển
bền vững của ngành dệt may, Bộ Công thương đã thông qua Quy hoạch phát triển
ngành công nghiệp dệt may Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
Trong đó, tỉnh BR-VT được định hướng sẽ phát triển CCN dệt may (không có
nhuộm) tại KCN Đất Đỏ. Ngoài ra tỉnh còn được định hướng phát triển một số nhà
máy sản xuất nguyên phụ liệu, thiết bị phụ tùng cơ khí cho ngành dệt may. Đây là
một tín hiệu thuận lợi nhằm từng bước gia tăng tỷ lệ nội địa hóa cho ngành này
trên địa bàn tỉnh.
/>5. Xây dựng mạng lưới phân phối.
Để có thể triển khai các hoạt động xúc tiến thương mại, các doanh nghiệp
may Việt Nam cần phải liên kết với nhau về nhân lực và tài chính, với trung tâm là
Hiệp hội Dệt – May Việt Nam. Mục tiêu trước mắt là tham gia các hội chợ thương
mại quốc tế để giới thiệu các thương hiệu doanh nghiệp có tiếng, như Việt Tiến,
May 10, Nhà Bè… với các mẫu mã chất lượng cao đã từng gia công cho khách


nước ngoài, nhằm tìm kiếm các nhà buôn trực tiếp mà không cần qua khâu môi
giới. Còn các khâu phân phối khác, thì… tiếp cận dần. Khuyến khích các công ty

lớn thiết lập mối quan hệ lâu dài với các nhà nhập khẩu và bán lẻ nước ngoài, tăng
thêm giá trị gia tăng cho các sản phẩm bằng cách sử dụng công nghệ thời trang,
chú trọng tới thị trường nội địa và cải thiện đời sống của công nhân. Xây dựng các
tổ chức marketing và hệ thống nước,khu vực và các hãng với các tổ chức quốc tế
cống hiến cho sự phát triển tiêu chuẩn, tích cực hỗ trợ ngành, nghiên cứu và phát
triển , và có thực tiễn tốt. Hỗ trợ tham gia các triển lãm,mhội chợ thương mại quốc
tế để tăng khả năng tiếp cận với các người mua tiềm năng. Tìm kiếm và tận dụng
những cơ hội để làm việc trực tiếp với các khách hàng cuối cùng; xây dựng thương
hiệu mạnh riêng cho ngành dệt may Việt Nam nhằm thúc đẩy sự phát triển của
ngành dệt may Việt Nam





×