Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu việc làm của lao động nông thôn ở thành phố cần thơ tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (669.57 KB, 24 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
--------------------------------

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Chuyên ngành: Kinh tế Nông nghiệp
Mã số: 9620115

PHẠM ĐỨC THUẦN

ĐÁNH GIÁ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NHU CẦU
VIỆC LÀM CỦA LAO ĐỘNG NÔNG THÔN
Ở THÀNH PHỐ CẦN THƠ

Cần Thơ, 2018


CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
Người hướng dẫn: PGS.TS. Dương Ngọc Thành

Luận án được bảo vệ trước hội đồng chấm luận án tiến sĩ cấp trường
Họp tại: Hội trường ….., Trường Đại học Cần Thơ).
Vào lúc ….. giờ ….. ngày ….. tháng ….. năm …..

Phản biện 1: …………………
Phản biện 2: ………………..

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
Trung tâm Học liệu, Trường Đại học Cần Thơ.
Thư viện Quốc gia Việt Nam.




DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
1. Xác định những thuận lợi và khó khăn - cơ hộ và thử thách của lao động trong
việc làm và học nghề của thành phố Cần Thơ, Số 47-5+6/2012, Tạp chí Quản
lý kinh tế (CEM), Bộ kế hoạch và Đầu tư, trang 3-18.
2. Đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tìm việc làm của người lao động
nông thôn trên địa bàn thành phố Cần Thơ, Tạp chí Khoa học Số 36c (2015)
trường Đại học Cần Thơ, trang 97-104.

3. Đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến việc tham gia đào tạo nghề của lao động
nông thôn trên địa bàn thành phố Cần Thơ, Tạp chí Khoa học Số 40d (2015),
trường Đại học Cần Thơ, trang 83-91.
4. Chương 3: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lao động và việc làm nông thôn”, Sách:
“Lao động việc làm và đào tạo nghề nông thôn vùng đồng bằng sông Cửu
Long (thực trạng và định hướng)”, Nhà xuất bản trường Đại học Cần Thơ,
trang 36-60.
5. Chương 7: Kinh nghiệm và định hướng giải pháp đào tạo nghề, giải quyết việc
làm trong tiến trình công nghiệp hóa và đô thị hóa, Sách: “Lao động việc làm
và đào tạo nghề nông thôn vùng đồng bằng sông Cửu Long (thực trạng và
định hướng)”, Nhà xuất bản Đại học Cần Thơ, trang 131-160.


Chương 1
GIỚI THIỆU
1.1 Lý do chọn đề tài
Lao động và việc làm luôn là một trong những vấn đề bức xúc có tính toàn cầu,
là mối quan tâm của toàn thể nhân loại nói chung và mỗi quốc gia nói riêng. Đối với
mỗi quốc gia, giải quyết việc làm là giải pháp căn bản để ổn định chính trị và phát
triển kinh tế. Cùng với sự tăng dân số và quá trình đô thị hóa ngày càng cao nên đã

dẫn đến tình trạng đất nông nghiệp bình quân trên đầu người giảm xuống, xảy ra tình
trạng đất chật người đông, thiếu việc làm là một điều tất yếu; thực trạng này đã và
đang là rào cản ảnh hưởng đến tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương
và quốc gia. Thực trạng nguồn lực lao động của thành phố trong thời gian qua của
người lao động chưa đáp ứng nhu cầu tuyển dụng lao động của doanh nghiệp, nhu cầu
tuyển dụng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật có xu hướng tăng, sự chênh lệch
về nhu cầu tuyển dụng theo giới tính giữa nam và nữ, giữa khu vực thành thị và nông
thôn.
Vấn đề giải quyết việc làm cho lao động các vùng nông thôn nói riêng và lao
động của toàn thành phố nói chung đang là vấn đề cấp thiết đặt ra cho chính quyền
của mỗi địa phương ở từng cấp của thành phố. Áp lực lao động và việc làm ngày càng
tăng, nhu cầu việc làm cho lao động nông thôn đang là vấn đề thời sự. Hiện tại chưa
có nghiên cứu cụ thể nào về vấn đề việc làm của người lao động nông thôn tại vùng
đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), và từ thực trạng trên đề tài: “Đánh giá các nhân
tố ảnh hưởng đến nhu cầu việc làm của lao động nông thôn ở thành phố Cần Thơ”
được lựa chọn nghiên cứu.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu việc làm
của lao động nông thôn nhằm đề xuất các giải pháp đáp ứng nhu cầu việc làm cho lao
động nông thôn, góp phần tạo thêm thu nhập cho lao động nông thôn trong thời gian
tới phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
(1) Đánh giá thực trạng đào tạo nghề và việc làm của lao động nông thôn (trong
lĩnh vực nông nghiệp, làm thuê trong nông nghiệp và phi nông nghiệp) trên địa bàn
thành phố Cần Thơ;
(2) Xác định và đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu việc làm của người
lao động nông thôn (trong lĩnh vực nông nghiệp, làm thuê trong nông nghiệp và phi
nông nghiệp) trên địa bàn thành phố Cần Thơ;
(3) Đề xuất các giải pháp đáp ứng nhu cầu việc làm cho lao động nông thôn

trong thời gian tới.
1.3. Phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Nội dung nghiên cứu
(1) Mô tả tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước về nhu cầu việc
làm để làm cơ sở lý thuyết.
1


(2) Trên cơ sở lý thuyết, luận án xây dựng mô hình nghiên cứu để phân tích,
đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu việc làm của bản thân người lao động ở
thành phố Cần Thơ.
(3) Luận án mô tả thực trạng và kết quả đào tạo nghề và việc làm của lao động
nông thôn (trong lĩnh vực nông nghiệp, làm thuê trong nông nghiệp và phi nông
nghiệp) trên địa bàn thành phố Cần Thơ;
(4) Luận án xác định các nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu việc làm của bản thân
người lao động ở thành phố Cần Thơ. Qua kết quả phân tích để đề xuất các giải pháp
giải pháp nào cần được thực hiện nhằm góp phần giúp người lao động nông thôn đáp
ứng nhu cầu việc làm trong thời gian tới.
1.3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của luận án này là nhu cầu việc làm của bản thân
người lao động được hình thành trong khu vực nông thôn và theo từng đối tượng lao
động nông thôn trên địa bàn thành phố Cần Thơ. Đối tượng khảo sát của luận án (lao
động nông nghiệp, lao động làm thuê trong nông nghiệp và lao động phi nông nghiệp)
là những người lao động trong độ tuổi lao động tại khu vực nông thôn, các đối tượng
này tham gia lao động và làm việc trong khu vực nông thôn.
1.3.3. Phạm vi không gian và thời gian
- Về thời gian: thu thập số liệu thứ cấp từ năm 2013 đến 2016 và số liệu sơ cấp
năm 2015-2016.
- Về không gian: địa bàn nghiên cứu của đề tài tại các huyện Phong Điền, Thới
Lai, Cờ Đỏ và Vĩnh Thạnh trong khu vực nông thôn, những huyện này có những đặc

trưng về sản xuất nông nghiệp và nguồn lao động nông thôn chiếm khoảng 68,1% trên
tổng số lao động nông thôn trong độ tuổi lao động của thành phố Cần Thơ.
Chương 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU THAM KHẢO
2.1 Các khái niệm
2.1.1 Khái niệm về nhu cầu việc làm

Nhu cầu việc làm là những khả năng của bản thân người lao động để thích nghi
với điều kiện môi trường làm việc nhằm thỏa mãn theo mong muốn có việc làm hoặc
tìm kiếm công việc cho bản thân người lao động.
2.1.2 Khái niệm về nhóm đối tượng nghiên cứu
On-Farm là người lao động nông thôn có đất đai nông nghiệp và làm việc, sản
xuất trên đất đai của họ (gọi tắt là làm nông nghiệp).
Off-Farm là người lao động nông thôn làm việc trong lĩnh vực sản xuất nông
nghiệp, không trực tiếp sản xuất nông nghiệp trên đất của chính họ, mà họ làm thuê,
sản xuất nông nghiệp trên đất của người khác (gọi tắt là làm thuê trong nông nghiệp).
Non-Farm là người lao động nông thôn làm việc trong lĩnh vực phi nông nghiệp
(như: công nghiệp, xây dựng, dịch vụ, thương mại), các ngành nghề không trực tiếp
sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp (gọi tắt là phi nông nghiệp).
2


2.2 Các nghiên cứu về đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu các lý thuyết về hành vi gia đình của Howard N. Barnum (1978),
cung ứng lao động của Orazio Attanasio (2004), lý thuyết nông dân ghét rủi ro của
Frank Ellis (1993), các lý thuyết tạo việc làm cho người lao động củaTrần Xuân Cầu
và Mai Quốc Khánh (2008), lựa chọn bộ ba - làm việc kiếm tiền, làm việc ở nhà và
nghỉ ngơi của Tạ Đức Khánh (2009).
2.3 Về các mô hình nghiên cứu tìm việc làm
Kế thừa các nghiên cứu: Wayne Howard, Michael Swidinsky (2000) về cung

lao động ở Canada; Bamlaku A. Alemu, E-A Nuppenau and H. Boland (2008) về nông
hộ trong các khu nông nghiệp ở Etiopia; Junior Davis (2006) đa dạng hóa công việc
và các hoạt động có lợi khác của nông dân nông thôn; Tăng Minh Trí (2016), Lê
Nguyễn Đoan Khôi (2014), Trương Minh Đức (2011), Hoàng Thị Hồng Lộc và
Nguyễn Quốc Nghi (2014) về nhu cầu việc làm của người lao động cũng cần có động
lực dựa trên phân tích các biến nhân tố có ảnh hưởng đến nhu cầu việc làm của bản
thân người lao động.
Nghiên cứu phân tích của Hồ Thị Diệu Ánh (2015) đã chỉ ra các yếu tố tác động
đến quá trình tự tạo việc làm của lao động nông thôn, trong đó phân tích các nhóm yếu
tố và từng yếu tố ảnh hưởng đến tự tạo việc làm của lao động nông thôn.
2.4 Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu
Cách tiếp cận về đối tượng của luận án là nhu cầu việc làm của lao động nông
thôn, hay nói cách khác là nhu cầu của bản thân người lao động. Tuy nhiên, các nghiên
cứu trước đây chỉ tập trung phân tích về nhu cầu việc làm của bản thân lao động nông
thôn, cơ hội tìm kiếm việc làm của người lao động nông thôn, cũng như nội dung xây
dựng giải pháp giải quyết việc làm cho lao động nông thôn có nhu cầu việc làm.
Về việc làm: việc nghiên cứu về đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho lao
động nông thôn của các tác giả nêu trên, cho thấy trình độ học vấn đã ảnh hưởng phần
nào đến việc lựa chọn nghề nghiệp của người lao động. Nếu lao động có trình độ học
vấn càng cao thì sẽ có nhiều cơ hội lựa chọn nghề nghiệp của mình, chương trình đào
tạo nghề cho lao động có vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng lực lao động
trong thời kỳ đô thị hóa đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay. Việc đào tạo nghề không
đáp ứng nhu cầu thực tế của việc làm thì không đảm bảo chất lượng công việc được
tốt và người lao động rất khó khăn trong vấn đề tìm việc làm sau khi được đào tạo; để
lao động tìm được công việc phù hợp với khả năng của mình, lao động cần nhiều kênh
thông tin tìm việc làm.
Tuy nhiên, lao động nông thôn là không thường xuyên tiếp cận các thông tin
về tuyển dụng, không tham gia các hoạt động tư vấn việc làm, chưa mạnh dạn tự tìm
kiếm việc làm cho bản thân, do hạn chế tay nghề và khả năng giao tiếp kém. Bên cạnh
đó, nhu cầu việc làm của người lao động nông thôn đang là hiện trạng thực tế cần được

nghiên cứu, tìm hiểu những nhân tố ảnh hưởng nhu cầu việc làm cho lao động nông
thôn và trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp giải quyết việc làm cho lao động nông thôn
được tốt hơn và hiệu quả trong giai đoạn phát triển của thành phố Cần Thơ.
Khung nghiên cứu: các mô hình nghiên cứu được kế thừa chưa đi sâu vào
nghiên cứu nhu cầu việc làm của người lao động nông thôn, chưa phân định rõ nhân
tố từ bên ngoài, nhân tố về khả năng của bản thân người lao động ảnh hưởng đến nhu
3


cầu việc làm của người lao động nông thôn. Từ đó, tổng hợp nghiên cứu về nhóm nhân
tố và nhân tố có ảnh hưởng đến nhu cầu việc làm của người lao động nông thôn trên
địa bàn thành phố Cần Thơ để xây dựng khung nghiên cứu, với 07 nhóm nhân tố.
Về mô hình nghiên cứu nhân tố: kế thừa việc xây dựng các nhóm nhân tố tại
mục (i) của khung nghiên cứu và các nghiên cứu về mô hình nhân tố đã được nêu của
các tác giả nghiên cứu trước đây; đặc biệt về mô hình nghiên cứu của Hồ Thị Diệu
Ánh (2015) thì kết quả có 03 nhóm các yếu tố ảnh hưởng đến tự tạo việc làm của lao
động nông thôn trên địa bàn tỉnh Nghệ An, để làm cơ sở tiếp cận, kế thừa và xây dựng
mô hình phân tích cho luận án.
Về mô hình nghiên cứu hồi quy: với kết quả phân tích của các nghiên cứu về
mô hình hồi quy đã phân tích, trong đó các nhân tố có hưởng đến đào tạo nghề, việc
làm của lao động nông thôn, như: độ tuổi, giới tính, trình độ học vấn, số nhân khẩu,
thu nhập,… làm cơ sở kế thừa và xây dựng cho phương pháp phân tích của luận án.
Trong đó, phương pháp tiếp cận nghiên cứu của Hồ Thị Diệu Ánh (2015) phân tích
hồi quy Binary Logistic sử dụng biến phụ thuộc dạng nhị phân để ước lượng các xác
suất sự kiện xảy ra với những thông tin của biến độc lập có được (0= không tự tạo việc
làm; 1= tự tạo việc làm phi nông nghiệp).
Vì vậy, nghiên cứu của luận án đi sâu phân tích về nhu cầu việc làm lao động
nông thôn (ý muốn của bản thân người lao động) theo từng đối tượng lao động nông
nghiệp, lao động làm thuê trong nông nghiệp, lao động phi nông nghiệp), là một luận
án bổ sung thêm cho các nghiên cứu trước, gồm các nôi dung sau:

(1) Nghiên cứu năng lực, đào tạo nghề, việc làm của lao động nông thôn (trong
lĩnh vực nông nghiệp, thuê nông nghiệp và phi nông nghiệp);
(2) Nghiên cứu các nhân tố độc lập ảnh hưởng đến nhu cầu việc làm của người
lao động nông thôn (trong lĩnh vực nông nghiệp, thuê nông nghiệp và phi nông
nghiệp);
(3) Tập trung các giải pháp đáp ứng nhu cầu việc làm cho lao động nông thôn
trong thời gian tới.
Chương 3
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Phương pháp tiếp cận
Cách tiếp cận của luận án là kế thừa nghiên cứu mô hình về khung nghiên cứu
ở Chương 2, để các nhân tố có ảnh hưởng đến nhu cầu việc làm của lao động nông
thôn; cũng là luận cứ khoa học để xây dựng cácnhân tố phù hợp cho nội dung trong
khung nghiên cứu của luận án, làm cơ sở để đề xuất giải pháp đáp ứng nhu cầu lao
động nông thôn trong thời gian tới.
Để có đáp ứng được nhu cầu của công việc cần tìm kiếm, đòi hỏi người lao
động phải có năng lực, trình độ, sức khỏe,… và khi đã có môi trường làm việc, thì
người lao động xem xét các điều kiện, cập nhật thông tin để phát triển nghề nghiệp,
tạo thu nhập cao hơn, an toàn hơn. Cho nên việc kế thừa mô hình nghiên cứu đã nêu
trong Chương 2 về Tổng quan tài liệu tham khảo và kết hợp với các mục tiêu nghiên
cứu đặt ra của luận án, khung nghiên cứu của luận ánđược khái quát trên cơ sở lý
4


thuyết, lý luận về lao động việc làm và thu thập thông tin để phân tích những nhân tố
tác động của nhu cầu việc làm của lao động nông thôn.
3.2. Khung nghiên cứu
Với việc thực hiện khung nghiên cứu này (Hình 3.1), luận án tập trung nghiên
cứu về những nhân tố bên trong của người lao động nông thôn có ảnh hưởng như thế
nào đến nhu cầu việc làm của bản thân; song song đó, phân tích các nhân tố bên ngoài

có ảnh hưởng đến việc tìm kiếm việc làm đáp ứng nhu cầu của người lao động nông
thôn trên địa bàn thành phố Cần Thơ.
1. Nhóm Sinh học cơ bản
- Tuổi
- Giới tính
- Tình trạng sức khỏe
2. Nhóm Khả năng
- Trình độ học vấn
- Trình độ chuyên môn
- Kinh nghiệm làm việc
3. Nhóm Sinh kế
- Số người phụ thuộc
- Lợi nhuận (tích lũy)
- Thất nghiệp

NHÂN TỐ BÊN TRONG

NHU CẦU
1. Nhóm Sự thay đổi điều kiện kinh tế - xã hội
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
- Chuyển dịch cơ cấu lao động
- Đầu tư vào giáo dục
2. Nhóm Doanh nghiệp
- Doanh nghiệp tuyển dụng lao động
- Mức lương trả cho người lao động
- Hiệu quả của các Chương trình đào tạo nghề
3. Nhóm Chính sách của địa phương
- Đào tạo nghề
- Việc làm
- Vay vốn

- Thông tin việc làm
4. Nhóm Điều kiện làm việc
- Nơi làm việc
- Đất sản xuất

VIỆC
LÀM

NHÂN TỐ BÊN NGOÀI

- An toàn lao động
Hình 3.1: Khung lý thuyết nghiên cứu của đề tài
Nguồn: Tác giả tổng hợp và đề xuất

5


Nghiên cứu của luận án đi sâu phân tích về nhu cầu việc làm lao động nông
thôn (ý muốn của bản thân người lao động) theo từng đối tượng lao động nông nghiệp,
lao động làm thuê trong nông nghiệp, lao động phi nông nghiệp), là một luận án bổ
sung thêm cho các nghiên cứu trước, gồm các nôi dung sau: (i) Nghiên cứu năng lực,
đào tạo nghề, việc làm của lao động nông thôn (trong lĩnh vực nông nghiệp, thuê nông
nghiệp và phi nông nghiệp); (ii) Nghiên cứu các nhân tố độc lập ảnh hưởng đến nhu
cầu việc làm của người lao động nông thôn (trong lĩnh vực nông nghiệp, thuê nông
nghiệp và phi nông nghiệp); (iii) Tậptrung các giảipháp đáp ứng nhu cầu việc làm cho
lao động nông thôn trong thời gian tới.
3.5 Phương pháp thu thập dữ liệu
- Thu thập số liệu thứ cấp về đào tạo nghề, việc làm, chính sách tổng hợp từ các
Sở, ngành, địa phương, các tài liệu nghiên cứu đã công bố.
- Thu thập số liệu sơ cấp phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên, số quan sát được

xác định theo công thức N=5*m (trong đó: N là kích thước số quan sát tối thiểu; m: là
tổng số biến quan sát) của J.F., Anderson, R.E., Tatham, R.L., Black, W.C. (1998).
Tổng số quan sát 530, trong đó lao động nông nghiệp là 210 quan sát, lao động làm
thuê trong nông nghiệp là 110 quan sát, lao động phi nông nghiệp là 210 quan sát.
3.6 Phương pháp phân tích dữ liệu
3.6.1 Phân tích sự hài lòng về nhu cầu việc làm của bản thân người lao động nông
thôn
Phương pháp tiếp cận: cách tiếp cận của luận án là vận dụng lý thuyết mô hình
phân tích nhân tố khám phá (Exploratory Factor Analysis, EFA) để đo lường các nhân
tố có ảnh hưởng đến nhu cầu việc làm của lao động nông thôn. Từ nghiên cứu Hồ Thị
Diệu Ánh (2015) về tự tạo việc làm của lao động nông thôn chịu sự ảnh hưởng lớn các
yếu tố thuộc về gia đình, các mối quan hệ của gia đình với các hộ khác, với hàng xóm
với cộng đồng dân cư là những ảnh hưởng tác động đến khả năng khởi nghiệp trong
lĩnh vực phi nông nghiệp của người lao động nông thôn, sử dụng thang đo như sau:
không quan trọng, quan trọng, trung bình, quan trọng nhiều, rất quan trọng, để làm cơ
sở vận dụng nghiên cứu, phân tích, đánh giá các nhân tố có ảnh hưởng đến nhu cầu
việc làm; cũng là cơ sở sở khoa học để phân tích nhân tố nào có tác động đến nhu cầu
việc làm của lao động nông thôn, làm luận cứ để đề xuất giải pháp đáp ứng nhu cầu
lao động nông thôn trong thời gian tới.
Trên cơ sở đó, mô hình nghiên cứu phân tích sử dụng phương pháp phân tích
hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha bằng thang đo Likert theo lý thuyết về thang đo của
A. H. Maslow (1932), với 5 cấp độ để ý kiến về sự hài lòng của bản thân lao động
nông thôn đến nhu cầu việc làm: 1= Rất không đồng ý; 2= Không đồng ý; 3= Ít đồng
ý; 4= Đồng ý; 5= Rất đồng ý.
3.6.2 Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu việc làm của lao động nông
thôn
Đối với cách tiếp cận về mô hình phân tích hồi quy để đo lường các nhân tố có
nhu cầu việc làm theo mô hình của theo Wayne Howard, Michael Swidinsky (2000),
để đo lường các nhân tố có ảnh hưởng đến nhu cầu việc làm của lao động nông thôn
được sử dụng mô hình phân tích của nông hộ trong các khu nông nghiệp ở Etiopia của

Bamlaku A. Alemu, E-A Nuppenau and H. Boland (2008) gồm 05 biến độc lập chính
6


và 15 biến độc lập phụ; Richard J. Smith and Richard W. Blundell (1986) yếu tố thu
nhập của hộ gia đình tác động đến việc làm; Agnes C. Rola and Ian Coxhead (2003),
David Stifel (2010) phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến việc làm của lao động nông
thôn trong lĩnh vực nông nghiệp và phi nông nghiệp; trong phương pháp tiếp cận
nghiên cứu của Hồ Thị Diệu Ánh (2015) phân tích hồi quy Binary Logistic sử dụng
biến phụ thuộc dạng nhị phân để ước lượng các xác suất sự kiện xảy ra (0= không tự
tạo việc làm; 1= tự tạo việc làm phi nông nghiệp) và với những thông tin của biến độc
lập có được 13 biến độc lập).
k

k

j

j

Pi
P(Y = 1)
) = Ln [
] α + ∑ βi X i + ∑ γj Dj + ui
Ln (
1 − Pi
P(Y = 0) 0
Trên cơ sở đó, mô hình nghiên cứu phân tích hồi quy (Binary Logistic model)
được sử dụng, với biến phụ thuộc là việc người lao động có xảy ra hay không về nhu
cầu việc làm, biến phụ thuộc Y lúc này có hai giá trị Y = 1: có nhu cầu việc làm (tìm/

chuyển đổi thêm việc làm mới,..); Y = 0: không có nhu cầu việc làm (đang có việc làm
ổn định- không muốn chuyển đổi).
Mô hình hồi quy lý thuyết tổng quát có dạng
k

k

j

j

Pi
P(Y = 1)
Ln (
) = Ln [
] α + ∑ βi Xi + ∑ γj Dj + ui
1 − Pi
P(Y = 0) 0

Trong đó:Ln (

Pi
1−Pi

)là tỷ số log-odds, tỉ số này là một hàm tuyến tính của các

biến giải thích Xivà Dj.
Với P(Y=1) = P0: xác suất khi lao động có nhu cầu việc làm (về nhu cầu việc
làm trong lĩnh vực nông nghiệp, làm thuê nông nghiệp và phi nông nghiệp);
P(Y=0) = 1-P0: xác suất khi lao động không có nhu cầu việc làm (về nhu cầu

việc làm trong lĩnh vực nông nghiệp và phi nông nghiệp).
k

k

j

j

P0
Ln (
) = α0 + ∑ βi Xi + ∑ γj Dj + ui
1 − P0

Tiếp theo phân tích bảng chéo (Cross-Tabulation) nhằm tập trung xác định và
phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu việc làm của người lao động nông thôn
theo từng đối tượng. Theo Wagner A. Kamakura và Michel Wedel (1997), phân tích
này dùng để kiểm tra “có hay không” mối quan hệ giữa hai yếu tố trong tổng thể, đây
là loại kiểm định độc lập.
Kiểm định chi bình phương (χ2- Chi-square) phù hợp khi hai yếu tố nghiên cứu
là biến định tính hay định lượng rời rạc.
Giả thuyết trong kiểm định có nội dung như sau:
H0: không có mối quan hệ giữa các biến (độc lập).
H1: có mối quan hệ giữa các biến (phụ thuộc).
7


Giá trị kiểm định Chi Bình phương (χ2- Chi-square) trong kết quả phân tích sẽ
cung cấp mức ý nghĩa của kiểm định (P - Value). Nếu mức ý nghĩa nhỏ hơn hoặc bằng
(mức ý nghĩa phân tích ban đầu = 0,05) thì kiểm định hoàn toàn có ý nghĩa hay nói

cách khác bác bỏ giả thuyết H0, nghĩa là các biến có mối liên hệ với nhau. Ngược lại
thì các biến không có mối liên hệ với nhau.
Chương 4
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1 Thực trạng đào tạo nghề của người lao động nông thôn
Số liệu khảo sát dựa trên người lao động tham gia học nghề và được cấp chứng
chỉ nghề do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp, cho thấy có 61,7% lao động nông
thôn được đào tạo nghề, phần lớn trình độ của người lao động nông thôn khu vực nông
thôn thấp, chủ yếu là tiểu học, rất ít người lao động có trình độ trung cấp và cao đẳng.
Tuy nhiên, cũng có một số khó khăn khi người lao động khi tham gia đào tạo nghề:
sau học nghề không xin được việc làm, hạn chế đối tượng tham gia đào tạo nghề,
ngành nghề đào tạo không phù hợp, chất lượng dạy nghề thấp, học lý thuyết nhiều, ít
thực hành, học phí lớp học cao.
Nguyên nhân đào tạo nghề cho lao động nông thôn không hiệu quả chiếm
khoảng 22,7%: (1) đối với đối tượng lao động nông nghiệp cho rằng nguyên nhân chủ
yếu là do đào tạo nghề chưa thật sự đáp ứng nhu cầu của địa phương, thời gian đào tạo
chưa phù hợp, lý thuyết nhiều, chênh lệch giữa lý thuyết học và thực tiển ngoài xã hội,
trình độ tiếp thu đối với một số người còn chậm, các lớp dài hạn người nghèo không
tham gia học được; (2) đối với đối tượng lao động làm thuê trong nông nghiệp cho
rằng chủ yếu là không tìm được việc làm sau học nghề; (3) đối với đối tượng lao động
phi nông nghiệp cho rằng chủ yếu là do cơ sở đào tạo thiếu trang thiết bị thực hành,
nặng về lý thuyết, thời gian đào tạo nghề không phù hợp, không tìm được việc làm sau
học nghề.
Bên cạnh đó, chính quyền địa phương chưa có khảo sát về nhu cầu lao động
trên địa bàn và khả năng đáp ứng của người lao động nông thôn; công tác đào tạo nghề
của địa phương còn mang tính phụ động (đào tạo theo chỉ tiêu kế hoạch), số lượng
người và trình độ của lao động nông thôn không phù hợp (đưa vào danh sách đào tạo
cho đủ số lượng người, không sắp xếp trình độ theo từng lớp cụ thể), thông tin đào tạo
nghề tại địa phương chưa rộng rãi (chỉ thông báo trân bảng thông tin của xã, phường).
4.2 Thực trạng việc làm của người lao động nông thôn

Theo số liệu khảo sát về tình trạng việc làm, ở nông thôn tỷ lệ người lao động
có việc làm là 49,79%. Phần lớn người lao động nông nghiệp với nghề nghiệp chủ yếu
là nghề nông, đang có một việc làm ổn định, do có kinh nghiệm làm việc là nghề nông,
tạo được nguồn thu cho bản thân và gia đình, họ tham gia sản xuất theo truyền thống
của gia đình, khi có thời gian nông nhàn họ mới chuyển sang một số ngành nghề theo
khả năng của họ.
Về nghề nghiệp của người lao động nông thôn làm thuê trong nông nghiệp
chiếm tỷ lệ thấp, nghề nghiệp của người lao động thuê nông nghiệp có nghề nghiệp
cũng là nghề nông thì họ đang dự định thay đổi việc làm, đang tìm việc, chờ việc làm
mới do công việc làm thuê mang tính chất thời vụ, với thời gian nông nhàn hoặc không
có đất sản xuất người lao động tìm kiếm việc làm khác để tăng thêm thu nhập;
8


Về người lao động phi nông nghiệp thì trong đó ngành nghề dịch vụ tại khu vực
phi nông nghiệp chủ yếu là hộ khá giả (buôn bán phân bón, kinh doanh nhỏ lẻ tại nơi
cư ngụ) hoặc các ngành nghề dịch vụ có liên quan đến nông - thủy sản, kế đến một tỷ
lệ không nhỏ làm nội trợ, một số ít làm thuê nghề phi nông nghiệp (cán bộ, dịch vụ,
mua bán nhỏ,…), người lao động đi làm phi nông nghiệp mong muốn thay đổi việc
làm khác để có nguồn thu nhập tốt hơn nơi làm việc cũ.
4.3 Thực trạng nhu cầu việc làm của người lao động nông thôn
Với nhu cầu cải thiện thu nhập của bản thân nói riêng và tác động nhiều nhất
đến thu nhập là do quá trình đô thị hóa, thì người lao động tự thân vận động, tìm kiếm
thêm việc làm hoặc chuyển đổi việc làm hiện tại để đảm bảo nhu cầu của bản thân và
gia đình.
Nhóm lao động nông nghiệp, lao động có nhu cầu cải thiện thu nhập trên mảnh
đất của mình thì cần thêm nhiều các về kỹ thuật như: nhân giống cây trồng (cây ăn
trái, lúa) và vật nuôi (bò, heo), kỹ thuật nuôi thủy sản (tôm càng xanh, cá), bảo quản
nông sản (cây ăn trái, hoa màu) sau thu hoạch, kỹ thuật trồng rau màu theo hướng an
toàn; bảo vệ thực vật đối với cây ăn trái. Công việc của lao động nông nghiệp tham

gia trực tiếp sản xuất nông nghiệp với 40,1%, đây là lao động chính ở gia đình, chủ
yếu chăn nuôi, sản xuất lúa là chính, do họ tận dụng từ kinh nghiệm và cập nhật kỹ
thuật sản xuất qua các lớp tập huấn của địa phương tổ chức nhằm tạo ra nguồn thu
nhập từ sản phẩm trên mảnh đất của mình; bên cạnh đó, do trình độ của người lao
động nông nghiệp phần lớn ở trình độ tiểu học và trung học cơ sở, nên họ vẫn tiếp tục
có nhu cầu việc làm từ sản xuất nông nghiệp. Với lý do cần có việc làm và có nhu cầu
việc làm trong lao động nông nghiệp chủ yếu là thu nhập hiện nay thấp (12,4%), muốn
thay đổi cuộc sống (12,0%), cần đa dạng thu nhập cho gia đình (10,3%), muốn sống
và làm việc gần nhà (14,1%).
Với nhóm lao động làm thuê trong nông nghiệp, có nhu cầu việc làm khá cao
(chiếm 89,1%), do đối tượng đa phần là ít và không đất canh tác, người lớn tuổi, không
có trình độ, đã quen với công việc làm thuê chân tay. Tuy nhiên, trong nhóm hộ này
có nhu cầu việc làm của họ là chuyển sang làm thuê trong nông nghiệp cho các doanh
nghiệp, cơ sở làm nông nghiệp có quy mô lớn, có diện tích nhiều, có nhiều điều kiện
làm việc đỡ cực nhọc hơn, không cần chuyên môn, được hưởng các quyền lợi nhiều
hơn (đóng bảo hiểm y tế, trả thưởng thêm, có thời gian nghỉ phù hợp,…). Đối với nhu
cầu việc làm của lao động làm thuê trong nông nghiệp chủ yếu là tận dụng thời gian
nhàn rỗi (12,1%), cuộc sống gia đình đang khó khăn (12,4%), cần đa dạng thu nhập
cho gia đình (25,3%). Phần lớn lao động làm thuê trong nông nghiệp chủ yếu là lao
động tay chân và làm việc theo mùa vụ, do lao động làm thuê trong nông nghiệp ở
vùng nông thôn phần lớn là lao động lớn tuổi (nhóm tuổi nhóm tuổi từ 51-60 tuổi
chiếm 34,6%), nên họ tiếp tục có nhu cầu việc làm trong việc làm thuê trong nông
nghiệp; ngoài ra, do nguồn lao động thanh niên trẻ đi làm việc ở các doanh nghiệp
hoặc các khu công nghiệp, nên trong thời gian sản xuất, thu hoạch nông nghiệp rất cần
thuê lao động (gặt lúa, phun thuốc, làm đất, bón phân, bơm nước,…) thì sẽ có thu nhập
cao mức bình thường và có việc làm suốt trong mùa vụ đó. Thu nhập bình quân của
nhóm làm thuê nông nghiệp khoảng hơn 2 triệu đồng/ tháng nhưng chủ yếu vào mùa
vụ chính, ngoài mùa vụ thì thu nhập thấp hơn.
Còn đối với nhóm lao động phi nông nghiệp có nhu cầu tìm và chuyển đổi việc
làm chiếm 87,1%. Hiện nay và trong thời gian tới quá trình công nghiệp hóa và đô thị

9


hóa tiếp tục phát triển mạnh, cùng với việc chuyển đổi cơ cấu lao động từ nông nghiệp
sang lĩnh vực phi nông nghiệp (công nghiệp, xây dựng, thương mại và dịch vụ) tất yếu
xảy ra. Do đó, nhu cầu đào tạo nghề của lao động hiện nay cũng nghiêng về lĩnh vực
phi nông nghiệp sẽ nhiều hơn và nhu cầu việc làm sẽ cao hơn như: nhóm việc làm
thương mại - dịch vụ (buôn bán nhỏ, sửa điện thoại di động, trang điểm, uốn/ hớt tóc,
may gia dụng, trang điểm, nấu ăn, nhân viên phục vụ nhà hàng,...); nhóm việc công
nghiệp (sửa xe ô tô, sửa xe mô tô, hàn, tiện, sửa máy nông nghiệp, máy công nghiệp,
điện tử, điện gia dụng, điện lạnh), sửa điện công nghiệp, lái ô tô,...); nhóm việc làm
tiểu thủ công nghiệp (đan lát, lục bình, dây nhựa, chằm nón, dệt chiếu, đan lợp, việc
làm sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ cao cấp); nhóm việc làm xây dựng và nghề khác
(mộc, mộc mỹ nghệ, trang trí nội thất, tin học, tiếp thị và bán hàng). Với lý do lao
động phi nông nghiệp cần có nhu cầu việc làm chủ yếu là thu nhập hiện nay thấp
(14,8%), tìm việc làm ổn định hơn (13,9%), cuộc sống gia đình đang khó khăn
(11,9%), cần đa dạng thu nhập cho gia đình (13,7%).
Với lý do không cần có nhu cầu việc làm trong lao động nông nghiệp chủ yếu
là đã có thu nhập và công việc ổn định (15,8%), có vốn đầu tư (13,7%), có nhiều kinh
nghiệm (12,4%). Đối với lý do không cần có nhu cầu việc làm trong lao động làm thuê
trong nông nghiệp chủ yếu là đã có thu nhập và công việc ổn định (25,4%), yêu cầu
cao chuyên môn (18,2%). Còn đối với lý do không cần có nhu cầu việc làm trong lao
động phi nông nghiệp chủ yếu là thích công việc hiện tại (13,5%), có nghề truyền
thống gia đình (25,3%), gia đình có đất sản xuất (17,5%). Kết quả khảo sát cũng cho
thấy người lao động có nhu cầu việc và sớm có được làm việc khi việc đào tạo cho lao
động nông thôn có sự liên kết giữa Trung tâm dạy nghề và giới thiệu việc làm ở các
huyện với doanh nghiệp đào tạo theo nhu cầu tuyển dụng lao động. Riêng các nhóm
nghề còn lại như công nghiệp (xây dựng, cơ khí, cơ điện lạnh, điện tử công nghiệp,
điện dân dụng,…) chủ yếu lao động tự tìm việc làm nên cơ hội tìm được việc làm thấp
và không ổn định. Nhóm nghề nghiệp tiểu thủ công nghiệp (đan thảm lục bình, đan

giỏ nhựa, kết hạt cườm, dệt chiếu, đan ghế mây tre,...) là do phần lớn lao động phụ nữ
thường tận dụng thời gian làm thêm để tạo thu nhập cho gia đình.
Phương thức chuyển đổi việc làm: người lao động trong khu vực nông thôn
hiện nay có nhiều tác động (quá trình hình thành các khu đô thị mới, dịch chuyển dần
đất ở khu vực nông nghiệp sang đất chuyên dụng, đất công nghiệp và đất thương mại
dịch vụ) trực tiếp đến người lao động (phần lớn diện tích đất nông nghiệp ngày càng
thu hẹp, việc chuyển đổi cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp - xây dựng,
thương mại và dịch vụ), dẫn đến nhu cầu chuyển đổi việc làm của lao động ngày càng
tăng và người lao động cũng muốn thay đổi và thích ứng để phù hợp với nhu cầu cuộc
sống và thay đổi của địa phương. Với lao động nông nghiệp thì việc sản xuất nông
nghiệp trong nông thôn thường có tính thời vụ trong nông nghiệp, phụ thuộc vào điều
kiện tự nhiên. Do đó, việc chuyển đổi việc làm của người lao động nông nghiệp chủ
yếu là chuyển đổi nghề phù hợp với năng lực, kỹ năng cá nhân (12,6%), đầu tư vốn
trong sản xuất nông nghiệp (80,3%); đối với việc chuyển đổi việc làm của người lao
động Làm thuê trong nông nghiệp chủ yếu là chọn nghề có thu nhập cao hơn (chọn
nghề có thu nhập cao hơn%); còn đối với việc chuyển đổi việc làm của người lao động
phi nông nghiệp chủ yếu là tìm việc làm mới (18,1%), chọn nghề có thu nhập cao hơn
(34,3%).

10


4.3 Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu việc làm của lao động nông
thôn (phân tích EFA)
Kỹ thuật phân tích nhân tố khám phá (EFA) được sử dụng để phân tích các
nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu việc làm của lao động nông thôn, từ thực trạng đánh
giá các điều kiện kinh tế và chính sách của địa phương tác động đến việc làm của lao
động nông thôn, với các đối tượng nghiên cứu: lao động nông nghiệp, lao động thuê
nông nghiệp và lao động phi nông nghiệp.
Thang đo được sử dụng như sau:

1= Rất không đồng ý; 2= Không đồng ý; 3= Ít đồng ý;
4= Đồng ý; 5= Rất đồng ý.
Các biến tham gia vào phân tích nhân tố bao gồm:
X1 = Tuổi
X12 = Đầu tư cho giáo dục
X2 = Giới tính
X13 = Doanh nghiệp tuyển dụng lao động
X3 = Tình trạng sức khỏe
X14 = Mức lương trả cho người lao động
X15 = Hiệu quả của các chương trình đào
X4 = Trình độ học vấn
tạo nghề
X5 = Trình chuyên môn
X16 = Đào tạo nghề
X6 = Kinh nghiệm làm việc
X17 = Việc làm
X7 = Số người phụ thuộc
X18 = Vay vốn
X8 = Lợi nhuận
X19 = Thông tin việc làm
X9 = Thất nghiệp
X20 = Nơi làm việc
X10 = Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
X21 = Đất sản xuất
X11 = Chuyển dịch cơ cấu lao động X22 = An toàn lao động
Việc phân tích những nhân bên trong và bên ngoài ảnh hưởng đến nhu cầu việc
làm của người lao động nông nghiệp để làm rõ ý kiến của bản thân người lao động có
thể đáp ứng các yêu cầu của việc làm trong thời gian tới, gồm các nhóm nhân tố bên
trong và bên ngoài (với 22 biến độc lập):
- Nhóm sinh học cơ bản, gồm có 03 nhân tố được xác định (tuổi, giới tính, tình

trạng sức khỏe);
- Nhóm khả năng, gồm có 03 nhân tố được xác định (trình độ học vấn, trình độ
chuyên môn, kinh nghiệm làm việc);
- Nhóm Sinh kế, gồm có 03 nhân tố (số người phụ thuộc, lợi nhuận, thất nghiệp);
- Nhóm Sự thay đổi điều kiện kinh tế - xã hội và chính sách, gồm có 07 nhân tố
(chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu lao động, đầu tư vào giáo dục, đào
tạo nghề, việc làm, vay vốn và thông tin việc làm );
- Nhóm Doanh nghiệp và điều kiện làm việc, gồm có 06 nhân tố (doanh nghiệp
tuyển dụng lao động, mức lương trả cho người lao động, hiệu quả của các Chương
trình đào tạo nghề, nơi làm việc, đất sản xuất và an toàn lao động).
 Đối với lao động nông nghiệp
- Phần lớn độ tuổi lao động tập trung ở độ tuổi từ 31-40, chiếm tỷ lệ 24,7%, đây
là nhóm tuổi có quyết định mạnh dạn hơn trong việc đầu tư phát triển kinh tế hộ.
11


- Giữa giới tính nam và nữ không có chênh lệch trong sản xuất nông nghiệp và
trực tiếp làm việc trên đất đai của họ;
- Người lao động nông nghiệp có khỏe mạnh (từ 95% trở lên), một số ít già yếu,
bệnh tật không lao động, để đảm đương các công việc chủ yếu là chân tay.
- Trình độ học vấn và trình chuyên môn: phần lớn tỷ lệ người lao động nông
nghiệp có là tiểu học và trung học cơ sở, nên công việc của người lao động nông
nghiệp tập trung trên đất của họ, cũng không có nhu cầu đào tạo để nâng trình độ.
- Với kinh nghiệm làm việc trong khu vực nông thôn thì người lao động nông
nghiệp (trên 10 năm chiếm 65,2%) chủ yếu phần lớn người dân khu vực nông thôn
còn nguồn lực về đất đai, do vẫn tạo được thu nhập trong họ gắn bó với việc sản xuất
nông nghiệp việc sản xuất nông nghiệp.
- Số người phụ thuộc chủ yếu là lao động chưa đến tuổi lao động và người già
yếu, chiếm tỷ lệ ít trong gia đình người lao động. Một trong những gánh nặng cho
người lao động chính trong hộ gia đình.

- Nguồn thu nhập có thể là động lực để người lao động quyết định tìm kiếm
việc làm (có nhu cầu việc làm) để có thu nhập nhiều hơn, người lao động sẽ tiếp tục
đầu tư thêm cho sản xuất nông nghiệp (theo kết quả khảo sát thu nhập trung bình của
người lao động trên địa bàn nghiên cứu phần lớn thu nhập từ 1-3 triệu đồng/tháng).
- Phần lớn người lao động nông nghiệp đang có một việc làm và dự định thay
đổi (30,5%), nên cũng có nhu cầu cầu việc làm trong thời gian nhàn rỗi .
- Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu lao động có ảnh hưởng
đến chuyển đổi việc làm của người lao động nông nghiệp chủ yếu là chuyển đổi nghề
phù hợp với năng lực, kỹ năng cá nhân (12,6%), đầu tư vốn trong sản xuất nông nghiệp
(80,3%).
- Các chính sách về đầu tư cho giáo dục, đào tạo nghề, việc làm, vay vốn tạo
điều kiện cho người lao động nông nghiệp tìm tìm kiếm việc làm dễ dàng hơn, tăng
thu nhập và cải thiện cuộc sống của người lao động.
Tóm lại, các nhân tố bên trong và bên ngoài nêu trên có ảnh hưởng đến việc
làm và thu nhập của người lao động nông nghiệp trong khu vực nông thôn, phần lớn
người lao động nông nghiệp sản xuất nông nghiệp trên đất của chính mình, gần nhà,
hoặc trong khu vực ấp, là điều kiện người lao động sử dụng có hiệu quả nguồn lực đất
đai, kinh nghiệm, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, tăng thu nhập
cho lao động. Tuy nhiên, một trong những gánh nặng cho người lao động chính trong
hộ gia đình là có số người phụ thuộc cao (chủ yếu: nội trợ, đang học, còn nhỏ, thất
nghiệp, mất sức lao động và những lao động dưới 15 và trên 60 tuổi) nên gặp khó khăn
việc thu chi trong sinh hoạt hàng ngày của hộ.
 Đối với lao động làm thuê trong nông nghiệp
- Phần lớn độ tuổi lao động tập trung ở độ tuổi từ 41-50 tuổi (chiếm 65%), theo
khảo sát do hiện nay ở các vùng nông thôn dưới tác động của quá trình đô thị hóa,
phần lớn lao động chuyển sang lao động phi nông nghiệp để có thu nhập cao và có thể
làm suốt năm, trong khi đó, lao động ở vùng nông thôn làm thuê trong nông nghiệp
chỉ làm theo mùa vụ là chính và là lao động lớn tuổi.
12



- Phần lớn độ tuổi lao động tập trung ở độ tuổi từ 41-50 tuổi (chiếm 65%), theo
khảo sát do hiện nay ở các vùng nông thôn dưới tác động của quá trình đô thị hóa,
phần lớn lao động chuyển sang lao động phi nông nghiệp để có thu nhập cao và có thể
làm suốt năm, trong khi đó, lao động ở vùng nông thôn làm thuê trong nông nghiệp
chỉ làm theo mùa vụ là chính và là lao động lớn tuổi.
- Tỷ lệ người lao động làm thuê trong nông nghiệp có trình độ thấp chiếm phần
lớn, cũng không có nhu cầu đào tạo để nâng trình độ, diện tích đất sản xuất nông
nghiệp ít, nên họ có nhu cầu công việc phù hợp với kinh nghiệm về sản xuất nông
nghiệp để có thu nhập trang trải cuộc sống.
- Thu nhập chủ yếu từ làm thuê trong sản xuất nông nghiệp, chủ yếu là lao động
tay chân và làm việc theo mùa vụ, ngoài ra họ làm các công việc khác để tạo thêm thu
nhập như: trồng trọt, chăn nuôi trên diện tích nhỏ của gia đình; tham gia làm thuê các
ngành nghề phi nông nghiệp. Việc thỏa thuận thuê mướn và trả tiền công cho lao động
làm thuê trong nông nghiệp không có tiền công (lương) cố định, nên thu nhập của
người thuê nông nghiệp không ổn định, nên mức thu nhập từ làm thuê trong nông
nghiệp không cao do với việc làm việc làm trong lĩnh vực phi nông nghiệp.
- Người lao động làm thuê trong nông nghiệp luôn trong tình trạng thất nghiệp
khu không tìm được các công việc làm thuê trong sản xuất nông nghiệp, do sản xuất
nông nghiệp mang tính thời vụ, nên thời gian nhàn rỗi họ luôn tìm các công việc khác
(phi nông nghiệp) để có thu nhập, người lao động làm thuê trong nông nghiệp phần
lớn không có đất sản xuất.
- Người lao động làm thuê trong nông nghiệp do có trình độ thấp, điều kiện gia
đình khó khăn, nên việc tham gia chính sách đào tạo nghề rất ít tham gia, ngành nghề
tham gia đào tạo chủ yếu là lái máy kéo, máy cấy, máy cày,… ngoài ra, nguyên nhân
đào tạo nghề cho lao động nông thôn không hiệu quả chiếm khoảng 20,7%, trong đó
đối với đối tượng lao động làm thuê nông nghiệp cho rằng chủ yếu là không tìm được
việc làm sau học nghề.
- Qua kết quả quan sát, theo tính chất công việc mà lao động chọn những nơi
làm việc làm khác nhau, những lao động làm thuê trong nông nghiệp tập trung khu

vực gần nhà (hoặc trong địa bàn xã) để làm việc, nhằm giảm thấp nhất các chi phí đi
lại và sinh hoạt hàng ngày.
Tóm lại, người lao động làm thuê trong nông nghiệp phần lớn không có đất sản
xuất hoặc có rất ít đất, nên người lao động làm thuê trong nông nghiệp có nhiều thời
gia nhàn rỗi để tham gia sản xuất nông nghiệp dựa vào sức khỏe, tuổi tác, kinh nghiệm
sản xuất nông nghiệp, điều kiện sản xuất,… nhằm tạo thu nhập để giải quyết các chi
phí cần thiết trong sinh hoạt.
 Đối với lao động phi nông nghiệp
- Lực lượng lao động phi nông nghiệp thì nhóm tuổi 31-50 chiếm tỷ lệ cao
(31,4%) so với các nhóm tuổi khác, do phần lớn lao động có thâm niên trong các cơ
sở kinh doanh, công ty hoặc làm thuê trong các lĩnh vực ngoài nông nghiệp, có thu
nhập ổn định.
- Lao động phi nông nghiệp nữ tập trung tại địa phương (buôn bán nhỏ, đan lát,
đan nón, đan lụt bình, uốn tóc, công nhân,…), còn lao động phi nông nghiệp nam có
13


các công việc chủ yếu như: công nhân, thợ sắt, thợ hồ, bốc vác, buôn bán,… qua khảo
sát, phần lớn lực lượng lao động trẻ tập trung làm việc trong khu vực phi nông nghiệp,
- Lao động phi nông nghiệp cũng có trình độ thấp, nên trong tương lai họ có
nhu cầu đào tạo để nâng trình độ để tìm kiếm việc làm có thu nhập ổn định. Theo khảo
sát người lao động phi nông nghiệp tại địa phương vẫn có trình độ còn rất thấp (cấp 1:
28%, cấp 2: 33,5% và cấp 3: 23%) so với nhu cầu công việc cần tuyển dụng của doanh
nghiệp có ứng dụng công nghệ cao.
- Người lao động phi nông nghiệp với ngành nghề chủ yếu là mua bán nhỏ,
buôn bán vật tư nông nghiệp, may,… người lao động thích ứng với điều kiện kinh tế
tại địa phương sinh sống.
- Với số lao động chính trong mỗi hộ gia đình có từ 01 đến 02 người và số
người phụ thuộc ít nhất từ 01 đến 02 người (chủ yếu là con cái trong độ tuổi đi học).
Do đó, nhu cầu chi tiêu trong gia đình cũng tăng lên, tạo thêm nhiều áp lực trong việc

tìm kiếm việc làm để có thu nhập đảm bảo các chi tiêu của người lao động phi nông
nghiệp trong nông thôn.
- Thu nhập chủ yếu từ các công việc phi nông nghiệp khác nhau như: thu nhập
theo thời vụ, lương hàng tháng, lương công nhật hay lương theo sản phẩm, kết quả
khảo sát phần lớn việc làm trong lĩnh vực phi nông nghiệp đa dạng, nên thu nhập trung
bình của lao động phi nông nghiệp từ 2-3 triệu đồng/tháng.
- Do tính chất công việc và mức lương chưa đảm bảo cuộc sống, theo khảo sát
cho thấy khoảng 20% lao động cho rằng họ gặp phải những công việc bấp bênh và thu
nhập không ổn định; nguyên nhân đối với lao động phi nông nghiệp là lương thấp, đi
làm xa nhà, bệnh nghề nghiệp/môi trường độc hại (do trình độ của người lao động
thấp, công việc chủ yếu là làm thuê);
- Trong quá trình đô thị hóa, phát triển các khu công nghiệp, định hướng phát
triển kinh tế, xã hội đã có nhiều tác động trực tiếp đến người lao động, giải quyết được
số lượng lớn lao động ở địa phương, lao động có nhiều lựa chọn việc làm, thu nhập
của lao động là công nhân ổn định hơn so với làm thuê trong nông nghiệp, người lao
động có có điều kiện và cơ hội được đào tạo nghề, các doanh nghiệp tại đia phương
(trong và ngoài khu và cụm công nghiệp) có nhu cầu tuyển dụng lao động từ 18-35
tuổi, chủ yếu là lao động phổ thông, giúp người lao động tiếp cận để có việc làm, góp
phần giảm thất nghiệp tại địa phương.
- Phần lớn người lao động phi nông nghiệp chưa có kinh nghiệm đều được
doanh nghiệp đào tạo lại (tập huấn chuyên môn, vừa thử việc vừa được đào tạo lại),
do việc đào tạo ngành nghề chưa gắn với đầu ra (nơi tuyển dụng), ngành nghề không
phù hợp với nhu cầu xã hội. Hiệu quả của các chương trình đào tạo nghề tốt sẽ góp
phần giảm tỷ lệ thất nghiệp ở nông thôn và là yếu tố làm giảm chi phí của doanh
nghiệp. Nơi làm việc tập trung tại địa phương (tại huyện và huyện giáp ranh nơi cư
trú, chiếm 27%). Lao động phi nông nghiệp tập trung làm việc ở khu vực gần các
doanh nghiệp, khu công nghiệp trên địa bàn, nhằm giảm các chi phí đi lại, di chuyển,
với mong muốn có thu nhập ổn định hơn.
Tóm lại, trong 09 nhân tố bên trong và 12 nhân tố ngoài ảnh hưởng đến nhu
cầu lao động phi nông nghiệp trong khu vực; riêng nhân tố đất sản xuất không ảnh

hưởng đến lao động phi nông nghiệp, do nhu cầu việc làm của lao động phi nông
14


nghiệp tập trung tại các cơ sở, doanh nghiệp, khu công nghiệp, cụm công nghiệp đóng
trên địa bàn tập trung nhiều, thu hút phần lớn lao động tập trung làm việc, và có nhiều
chính sách thu hút lao động của doanh nghiệp, điều kiện làm việc,… góp phần tạo việc
làm và tăng nguồn thu nhập cho người lao động.
4.4 Đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu việc làm của người lao động
nông thôn (phân tích Binary Logistic)
Biến phụ thuộc Y - Nhu cầu việc làm của người lao động nông thôn (với các
đối tượng nghiên cứu: lao động nông nghiệp, lao động thuê nông nghiệp và lao động
phi nông nghiệp) với 2 giá trị:
Y = 1: có nhu cầu việc làm (tìm/ chuyển đổi thêm việc làm mới,..);
Y = 0 : không có nhu cầu việc làm (đang có việc làm ổn định- không muốn
chuyển đổi)
Các biến độc lập được đưa vào mô hình bao gồm:
X1 = Tuổi (trong độ tuổi lao động)

X8= Đất sản xuất (1=có đất sản xuất;
0=không đất sản xuất)
F1 = Nhóm sinh học cơ bản

X2= Giới tính (0=nữ; 1=nam)
X3= Tình trạng sức khỏe (0=không tham
F2 = Nhóm khả năng
gia lao động được; 1=khỏe mạnh)

X4 = Tình trạng việc làm (0=không thất
F3 = Nhóm sinh kế

nghiệp; 1=thất nghiệp)
X5 = Trình độ học vấn và chuyên môn
(0=không biết chữ; 1=cấp 1; 2=cấp 2; F4 = Nhóm điều kiện kinh tế - xã hội,
3=cấp 3; 4= trung cấp; 5=cao đẳng; chính sách
6=đại học; 7= trên đại học)
F5 = Nhóm doanh nghiệp, điều kiện làm
X6 = Số người phụ thuộc (người)
việc
X7 = Lợi nhuận (triệu đồng/tháng)
 Đối với lao động nông nghiệp
Các nhân tố có ảnh hưởng đến nhu cầu việc làm (các biến độc lập có ý nghĩa
thống kê) gồm: X1= Tuổi, X4 = Thất nghiệp, X8= Đất sản xuất, F1= Nhóm sinh học cơ
bản, F3= Nhóm sinh kế, F4= Nhóm điều kiện kinh tế - xã hội, chính sách và F5= Nhóm
doanh nghiệp, điều kiện làm việc; trong đó: người lao động nông nghiệp có tuổi cao
trong độ tuổi lao động có nhu cầu việc làm cao hơn lao động có tuổi trẻ. Kết quả nhu
cầu việc làm của người lao động nông nghiệp mong muốn có công việc thường xuyên
(do sản xuất theo mùa vụ, có thời gian rảnh rỗi) để tạo được nguồn thu nhập tăng thêm
cho bản thân, và người lao động nông nghiệp có đất sản xuất thì họ càng có nhu cầu
việc làm trên diện tích đất của họ (thời gian rảnh rỗi do sản xuất nông nghiệp theo mùa
vụ). Người lao động nông nghiệp luôn tìm kiếm các cây trồng, vật nuôi để tối ưu sản
xuất, nhằm tạo ra thu nhập từ công việc sản xuất nông nghiệp, sử dụng hiệu quả nguồn
lực đất đai của mình.
15


 Đối với lao động làm thuê trong nông nghiệp
Các nhân tố có ảnh hưởng đến nhu cầu việc làm (các biến độc lập có ý nghĩa
thống kê) gồm: X1= Tuổi, X4 = Thất nghiệp, X6 = Số người phụ thuộc, F1= Nhóm sinh
học cơ bản, F2= Nhóm khả năng và F3= Nhóm sinh kế; trong đó, F2= Nhóm khả năng
(có 03 nhân tố: trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm làm việc): biến

nhóm khả năng có giá trị âm, phản ánh trình độ học vấn, trình độ chuyên môn và kinh
nghiệm làm việc thấp thì người lao động làm thuê trong nông nghiệp càng có nhu cầu
việc làm thuê trong trong nông nghiệp cao, do các công việc thuê làm sản xuất nông
nghiệp không cần trình độ, chỉ cần lao động chân tay, có sức khỏe để đảm bảo công
việc được thuê mướn. Kết quả quan sát cho thấy người lao động làm thuê trong nông
nghiệp có trình độ thấp (có trường hợp không biết chữ), có độ tuổi lao động từ 45-60
tuổi, đã có kinh nghiệm trong việc làm thuê trong sản xuất nông nghiệp, có đất sản
xuất ít (có trường hợp không có đất sản xuất), chưa muốn thay đổi sang công việc phi
nông nghiệp.

16


Bảng 4.1: Kết quả phân tích hồi quy nhu cầu việc làm cùa lao động nông thôn thành phố Cần Thơ
Làm thuê trong nông
Nông nghiệp (n=210)
nghiệp (n=110)
Khoản mục
B
Wald
Sig.
B
Wald
Sig.

Phi nông nghiệp
(n=210)
B
Wald
Sig.


X1= Tuổi

0,173

7,856

0,000

0,534

9,155

0,001

-1,089

5.450

0,020

X2= Giới tính

0,018

0,016

0,739

-0,645


0,357

0,525

-0,637

1,385

0,239

X3= Tình trạng sức khỏe

0,237

0,867

0,350

1,476

1,264

0,207

0,509

0,738

0,390


X4 = Thất nghiệp

0,903

4,556

0,033

2,848

5,577

0,018

2,126

4,078

0,042

-0,029

0,254

0,394

-0,619

0,157


0,711

2,78

6,435

0,011

X6 = Số người phụ thuộc

0,431

1,879

0,182

2,371

6,679

0,007

0,966

8,332

0,004

X7 = Lợi nhuận


0,003

0,04

0,842

0,007

0,308

0,642

0,002

1,448

0,229

X8= Đất sản xuất

3,402

8,376

0,000

-0,801

1,663


0,216

-1,722

2,523

0,112

F1= Nhóm sinh học cơ bản

2,526

7,527

0,000

2,348

2,726

0,068

-0,43

0,069

0,792

F2= Nhóm khả năng


0,118

0,568

0,451

-1,467

3,568

0,059

2,157

3,121

0,081

F3= Nhóm sinh kế

1,804

7,169

0,000

3,097

3,328


0,068

-1,196

2.905

0,084

F4= Nhóm điều kiện kinh tế - xã hội, chính sách

2,953

3,984

0,042

-2,219

0,061

0,805

0,229

5.363

0,024

F5= Nhóm doanh nghiệp, điều kiện làm việc


3,283

9,588

0,000

-1,879

0,516

0,473

-0,225

0,161

0,506

-6,196 8,387
0,000 -7,421 12,257 0,000
Nguồn: Tổng hợp, xử lý từ kết quả điều tra 530 quan sát TPCT, 2015-2016.

2,951

2,07

0,150

X5 = Trình độ học vấn và chuyên môn


Hằng số

17


 Đối với lao động phi nông nghiệp
Các nhân tố có ảnh hưởng đến nhu cầu việc làm (các biến độc lập có ý nghĩa
thống kê) gồm: X1= Tuổi, X5 = Trình độ học vấn và chuyên môn, X4 = Thất nghiệp,
X6 = Số người phụ thuộc, F2= Nhóm khả năng F3= Nhóm sinh kế và F4= Nhóm điều
kiện kinh tế - xã hội, chính sách; trong đó có 02 giá trị âm:
- X1= Tuổi: biến tuổi có giá trị âm, cho thấy tuổi của người lao động phi nông
nghiệp không có nhu cầu việc làm, phản ánh tuổi của lao động tuổi càng cao thì khả
năng tìm kiếm việc làm càng thấp. Kết quả nhu cầu việc làm của người lao động phi
nông nghiệp mong muốn tập trung ở lao động trẻ hơn sẽ tạo được nguồn thu nhập
cao hơn; tuổi càng cao thì gặp cản trở vì sức khỏe, nên không đảm bảo công việc
được tốt, nhưng một số công việc khác cũng gián tiếp (nội trợ, giữ trẻ) giúp người
lao động phi nông nghiệp trong gia đình giảm các chi phí lúc khó khăn.
- F3= Nhóm sinh kế (có 03 nhân tố: số người phụ thuộc, lợi nhuận, thất
nghiệp): biến nhóm sinh kế có giá trị âm, cho thấy số người phụ thuộc ít (hoặc không
có), lợi nhuận thấp, không thất nghiệp thì người lao động phi nông nghiệp cũng luôn
cần có nhu cầu việc làm để đảm bảo cuộc sống của họ, do phần lớn người lao động
phi nông nghiệp không có đất sản xuất của riêng mình.
Tóm lại, qua kết quả đã phân tích như trên nhu cầu việc làm của người lao
động nông thôn trong khu vực nông thôn đang có chiều hướng tăng, do các điều kiện
kinh tế - xã hội tại khu vực nông thôn có sự phát triển như: chuyển dịch giống cây
trồng vật nuôi, tái cơ cấu ngành nông nghiệp, hình thành các khu đô thị mới, các
trung tâm thương mại,… được quy hoạch và triển khai; do đó, người lao động trong
khu vực nông thôn có nhiều cơ hội tìm kiếm và lựa chọn việc làm phù hợp với năng
lực của bản thân và điều kiện của gia đình người lao động, tạo nguồn thu nhập tốt

hơn.
Trên cơ sở phân tích hồi quy, với kiểm định Chi bình phương (χ2- Chi-square)
để kiểm định giả thuyết không có sự khác biệt về nhu cầu việc làm giữa các nhóm
đối tượng lao động nông nghiệp, lao động làm thuê trong nông nghiệp và lao động
phi nông nghiệp ở thành phố Cần Thơ.
Bảng 4.2: Kiểm định giả thuyết nhu cầu việc làm và đối tượng lao động
Đối tượng lao động
Lao động nông nghiệp
Lao động làm thuê trong nông
nghiệp
Lao động phi nông nghiệp
Tổng

Có nhu cầu
việc làm
Quan
(%)
sát

Không có nhu
cầu việc làm
Quan
(%)
sát

Tổng

136

32,6


74

65,5

210

98

23,5

12

10,6

110

43,9
27
23,9
100,0
113
100,0
Nguồn: Tổng hợp, xử lý từ kết quả điều tra 530 quan sát TPCT, 2015-2016.

210
530

183
417


Với kết quả kiểm định Chi bình phương χ2 = 40,31 và mức khác biệt 1%, cho
thấy có sự khác biệt về nhu cầu việc làm của lao động nông thôn giữa lao động nông
nghiệp, lao động làm thuê trong nông nghiệp và lao động phi nông nghiệp ở thành
18


phố Cần Thơ, hay nói cách khác là bác bỏ giải thuyết không có sự có sự khác biệt về
nhu cầu việc làm của lao động nông thôn.
 Đối với lao động nông nghiệp: lao động nông nghiệp có nhu cầu việc
làm,họ mong muốn có công việc thường xuyên (do sản xuất theo mùa vụ, có thời
gian rảnh rỗi), nên họ tìm kiếm công việc phù hợp với năng lực và kinh nghiệm sản
xuất nông nghiệp của mình để tạo thêm thu nhập từ sản xuất nông nghiệp trên nguồn
lực sẵn có là đất đai sản xuất của mình, như hợp tác với các doanh nghiệp hoặc tham
gia tổ hợp tác, hợp tác xã trong sản xuất nông nghiệp.
 Đối với lao động làm thuê trong nông nghiệp: kết quả quan sát cho thấy
người lao động thuê nông nghiệp có trình độ thấp (có trường hợp không biết chữ),
có độ tuổi lao động từ 45-60 tuổi, có trường hợp dù tuổi đã quá tuổi lao động theo
quy định nhưng còn khả năng lao động vẫn tiếp tục tham gia làm thuê trong sản xuất
nông nghiệp (do họ đã có kinh nghiệm trong việc làm thuê trong sản xuất nông
nghiệp). Bên cạnh đó, trong gia đình số người phụ thuộc có ảnh hưởng rất lớn đối
với người lao động làm thuê trong nông nghiệp (lao động chính của gia đình), nên
người lao động làm thuê trong nông nghiệp rất cần việc làm để tạo thêm nguồn thu
nhập trang trải các khoản chi tiêu trong gia đình, phản ánh người lao động thuê nông
nghiệp có nhu cầu việc làm cao.
 Đối với lao động phi nông nghiệp: với các chính sách phát triển kinh tế
- xã hội của địa phương (chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu lao động),
người lao động trong nông thôn có khuynh hướng chuyển sang lao động phi nông
nghiệp, góp phần và tạo điều kiện cho lao động phi nông nghiệp có nhiều cơ hội về
việc làm (như: chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, kinh tế hộ gia đình theo mô

hình kết hợp; phát triển mạnh các làng nghề truyền thống đi đôi với xây dựng làng
nghề mới, phát triển tiểu thủ công nghiệp tại các xã, chế biến nông - thủy sản,…);
bên cạnh đó, nhu cầu việc làm của người lao động phi nông nghiệp tập trung ở lao
động trẻ hơn, cơ hội được đào tạo nghề và làm việc trong môi trường mang tính
chuyên môn cao và thu nhập cao hơn.
4.5 Những giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm cho người lao động ở
nông thôn thành phố Cần Thơ
 Giải pháp chủ yếu đối với lao động nông nghiệp
- Đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
- Phát triển kinh tế hộ gia đình.
- Phát triển kinh tế tập thể, nòng cốt là hợp tác xã.
- Đẩy mạnh công tác dạy nghề cho người lao động ở nông thôn.
 Giải pháp chủ yếu đối với lao động làm thuê trong nông nghiệp có nhu
cầu việc làm
- Lao động làm thuê tham gia các lớp đào tạo nghề sử dụng cơ giới, máy móc
trong sản xuất nông nghiệp.
- Lãnh đạo địa phương khuyến khích phát triển các mô hình trang trại, mô
hình sản xuất nông nghiệp có sử dụng nhiều lao động.
- Lao động làm thuê tham gia các tổ hợp tác, hợp tác xã.
- Thực hiện tốt các chương trình hỗ trợ vay vốn cho người lao động.
19


 Giải pháp chủ yếu đối với lao động lao động phi nông nghiệp
- Chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp.
- Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Tạo việc làm cho người lao động ở vùng nông thôn qua chính sách giải quyết
việc làm.
- Tạo việc làm cho người lao động ở nông thôn qua xuất khẩu lao động.
Tóm lại, trên cơ sở các giải pháp đã đề xuất cho từng đối tượng lao động nêu

trên, luận án kiến nghị lãnh đạo của thành phố, các cấp, các ngành và địa phương có
liên quan cần tập trung một số giải pháp trọng tâm để góp phần thúc đẩy kinh tế nông
nghiệp phát triển và giải quyết tốt công tác lao động, việc làm và góp phần thúc đẩy
kinh tế - xã hội tại địa phương nói riêng và thành phố nói chung cùng phát triển đồng
bộ.
- Đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu kinh tế (công nghiệp, nông nghiệp, nông thôn),
trong đó: Phát triển kinh tế tập thể, nòng cốt là hợp tác xã.
- Đẩy mạnh công tác dạy nghề cho người lao động ở nông thôn, trong đó, chú
trọng đào tạo nghề cho người xuất khẩu lao động.
- Phát triển kinh tế hộ gia đình, phát triển các mô hình trang trại, mô hình sản
xuất nông nghiệp có sử dụng nhiều lao động.
- Thực hiện các giải pháp thu hút đầu tư, trong đó tập trung phát triển doanh
nghiệp vừa và nhỏ.
- Giải quyết tốt chính sách giải quyết việc làm, tạo việc làm cho người lao
động ở vùng nông thôn.
- Mở rộng đối tượng được vay vốn tạo việc làm.
Chương 5
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
5.1 Kết luận
Trên cơ sở phỏng vấn trực tiếp 530 người trong độ tuổi lao động., và được sử
dụng phân tích nhân tố khám phá (EFA - Exploratory Factor Analysis) và mô hình
hồi quy (Binary Logistic) để phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu việc làm
của người lao động nông thôn tại 4 huyện trên địa bàn thành phố Cần Thơ, có thể rút
ra những kết luận như sau:
- Thực trạng công tác giải quyết việc làm, đã góp phần cải thiện tình trạng thất
nghiệp thông qua chính sách việc làm, đầu tư cơ sở vật chất cho các trường đào tạo
nghề công lập, cải thiện cơ chế hỗ trợ thu hút đầu tư,… Tuy nhiên, thực trạng công
tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn chưa đạt hiệu quả cao, chưa thật sự đáp ứng
nhu cầu của địa phương, người lao động chưa tìm được việc làm sau học nghề, cơ sở
đào tạo thiếu trang thiết bị thực hành, nặng về lý thuyết, thời gian đào tạo nghề không

phù hợp; do đó, trong công tác đào tạo nghề cần có sự khảo sát, đánh giá về nhu cầu
đào tạo theo từng đối tượng lao động nông thôn, phù hợp với điền kiện tại địa
phương,… để có cơ sở góp phần vào việc giải quyết tốt công tác giải quyết việc làm
cho người lao động sau khi đào tạo nghề trên địa bàn thành phố.
- Lao động động nông thôn đa phần có nhu cầu việc làm, với lý do là mong
muốn có thu nhập để ổn định cuộc sống; tuy nhiên, từ kết quả phân tích hồi quy thì
có sự khác biệt về nhu cầu việc làm giữa các nhóm đối tượng lao động trong nông
thôn, và đã làm rõ về giả thuyết nghiên cứu đặt ra. Trong cả 3 nhóm đối tượng lao
20


động thì có chung các nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu việc làm của lao động nông
thôn gồm: tuổi, tích lũy, thất nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu
lao động, chính sách đầu tư cho giáo dục, chính sách đào tạo nghề, chính sách việc
làm, chính sách vay vốn và thông tin việc làm. Ngoài ra, đối với lao động nông nghiệp
thì các nhân tố: đất sản xuất, tình trạng sức khỏe, tuyển dụng lao động của doanh
nghiệp, mức lương trả cho người lao động, hiệu quả của các chương trình đào tạo
nghề, nơi làm việc, an toàn lao động có ảnh hưởng đến nhu cầu việc làm của lao
động; còn đối với đối tượng lao động làm thuê trong nông nghiệp và đối tượng lao
động phi nông nghiệp thì các nhân tố: trình độ học vấn, trình chuyên môn, kinh
nghiệm làm việc và số người phụ thuộc có ảnh hưởng đến nhu cầu việc làm của lao
động.
- Trong thời gian tới các giải pháp để thực hiện tốt công tác giải quyết việc
làm, đào tạo nghề nhằm góp phần giúp người lao động nông thôn đáp ứng nhu cầu
việc làm như sau: (1) Đối với người lao động nông nghiệp: đẩy mạnh chuyển đổi cơ
cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn; phát triển kinh tế hộ gia đình; phát triển kinh tế
tập thể, nòng cốt là hợp tác xã; đẩy mạnh công tác dạy nghề cho người lao động ở
nông thôn. (2) Đối với lao động phi nông nghiệp: chuyển dịch cơ cấu ngành công
nghiệp; phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ; tạo việc làm cho người lao động ở vùng
nông thôn qua chính sách giải quyết việc làm; tạo việc làm cho người lao động ở

nông thôn qua xuất khẩu lao động. (3) đào tạo nghề sử dụng được cơ giới hóa trong
sản xuất nông nghiệp (sử dụng máy kéo, máy gieo hạt, máy cấy, máy thu hoạch),
lãnh đạo địa phương khuyến khích phát triển các mô hình trang trại, mô hình sản
xuất nông nghiệp có sử dụng nhiều lao động, tích cực tham gia các tổ hợp tác, hợp
tác xã làm các dịch vụ sản xuất nông nghiệp như: cấy, bón phân, thuốc, làm đất, thu
hoạch (lúa, rau màu, mía, đậu,…).
5.2 Kiến nghị
- Để có giải pháp toàn diện về giải quyết việc làm cho lao động của thành phố
và khắc phục các hạn chế mà đề tài đã nêu, cần có nghiên cứu về thị trường cung cầu lao động cho từng nền kinh tế, từng khu vực kinh tế, từng địa phương, từng vùng;
trong đó, cần xem xét đến quá trình hội nhập quốc tế, trình độ của người lao động,
nhu cầu tuyển dụng lao động của nhà đầu tư nước ngoài, tính thời vụ của việc làm,
sự tác động từ các chính sách của Trung ương và địa phương ảnh hưởng đến người
lao động như thế nào.
- Lãnh đạo của thành phố và các cấp, các ngành và địa phương, hàng năm cần
có khảo sát, đánh giá về công tác đào tạo nghề và công tác giải quyết việc làm để có
cơ sở bố trí nguồn kinh phí đối ứng và các nguồn lực thực hiện các chương trình, dự
án hỗ trợ tạo việc làm cho người lao động nông thôn; trong đó, cần tập trung đầu tư,
phát triển mạng lưới cơ sở dạy nghề, xây dựng hoàn thiện các điều kiện nâng cao
chất lượng đào tạo nghề, và huy động nhiều thành phần xã hội tham gia dạy nghề.

21



×