Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

CHUYÊN đề mở RỘNG CHO VAY MUA ôtô đối với KHÁCH HÀNG cá NHÂN tại CHI NHÁNH NGÂN HÀNG đầu tư và PHÁT TRIỂN ĐÔNG đô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (551.43 KB, 59 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Khi Việt Nam gia nhập WTO ngày 7/11/2006 giảm hàng rào thuế quan
đối với các mặt hàng, đặc biệt là ôtô được nhập khẩu vào nước ta ngày càng
nhiều. Qua quá trình tìm hiểu em thấy nhu cầu mua ôtô ngày càng tăng và Ngân
hàng tham gia vào lĩnh vực này để hỗ trợ các khách hàng khi họ có nhu cầu vay
mua ôtô mà chưa đủ vốn, hoạt động này làm tăng tiện ích cho khách hàng và
mang lại cho nền kinh tế một sự phát triển nhất định. Vì vậy em chọn đề tài:
“Mở rộng cho vay mua ôtô đối với khách hàng cá nhân tại chi nhánh Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Đông Đô”. Đây là một trong những sản phẩm của
hoạt động tín dụng tiêu dùng nên nghiên cứu vấn đề này giúp em hiểu rõ hơn về
hoạt động tín dụng tiêu dùng của Ngân hàng.
Chuyên đề này bố cục gồm 3 chương:
Chương I: Lý Thuyết Về Hoạt Động Cho Vay Tiêu Dùng Của Ngân
hàng Thương Mại
ChươngII: Thực Trạng Về Hoạt Động Cho Vay Mua Ôtô Đối Với
Khách Hàng Cá Nhân Tại BIDV Đông Đô
Chương III: Giải Pháp Mở Rộng Hoạt Động Cho Vay Mua Ôtô Đối
Với Khách Hàng Cá Nhân Tại BIDV Đông Đô
Phạm vi nghiên cứu bài viết: Đề tài nghiên cứu hoạt động cho vay tiêu
dùng của Ngân hàng thương mại nói chung, thực trạng cho vay mua ôtô đối với
khách hàng cá nhân của chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam và
những giải pháp mở rộng cho vay mua ôtô.
Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu sử dụng phương
pháp biện chứng và lôgic khái quát tổng quan, phân tích luận giải vấn đề, đồng
thời sử dụng phương pháp phân tích thống kê hoạt động kinh tế để phân tích lý
luận và luận giải thực tiễn. Đặc biệt sử dụng phương pháp chỉ số, phương pháp
so sánh khái quát và tổng hợp, sử dụng chỉ số thống kê để phân tích.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn chỉ bảo của cô giáo hướng dẫn
cùng với sự giúp đỡ của các anh chị phòng tín dụng 1 - chi nhánh Ngân hàng
1



Đầu tư và Phát triển Đông Đô để em có thể xây dựng và hoàn thiện chuyên đề
này.
Em xin chân thành cảm ơn!

2


CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY MUAÔTÔ ĐỐI VỚI
KHÁCH HÀNG CÁ NHÂN
1.1. Tổng quan về Ngân hàng thương mại và phân loại Ngân hàng
1.1.1. Khái niệm NHTM
Ngân hàng là một trong những trung gian tài chính quan trọng nhất của nền
kinh tế. Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền
tệ, vì vậy là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của chính phủ nhằm
ổn định kinh tế. Tuỳ thuộc vào từng cách tiếp cận mà có những quan điểm khác
nhau về Ngân hàng. Ngân hàng có thể được định nghĩa thông qua chức năng,
các dịch vụ mà Ngân hàng cung cấp hay vai trò của nó trong nền kinh tế.
Ngân hàng thương mại là: “ Một trung gian tài chính thực hiện nhiệm vụ
lưu chuyển vốn từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn để tìm kiếm lợi nhuận”.
1.1.2 Các loại hình Ngân hàng
Có thể phân chia Ngân hàng theo nhiều tiêu thức khác nhau tuỳ theo yêu
cầu của người quản lý:
- Các loại Ngân hàng thương mại chia theo hình thức sở hữu:
+ Ngân hàng sở hữu tư nhân: Là Ngân hàng do cá nhân thành lập bằng vốn
của cá nhân. Loại Ngân hàng này thường nhỏ, phạm vi hoạt động trong từng địa
phương. Các Ngân hàng thường gắn liền với các doanh nghiệp và cá nhân ở địa
phương. Chủ Ngân hàng thường rất am hiểu tình hình của người này, vì vậy hạn
chế được sự lừa đảo của khách. Tuy nhiên do sự kém đa dạng, nên khi địa

phương đó gặp rủi ro (ví dụ thiên tai, mất mùa…) Ngân hàng thường không
tránh được tổn thất.
+Ngân hàng sở hữu của các cổ đông (Ngân hàng cổ phần): Ngân hàng này
được thành lập thông qua phát hành (bán) các cổ phiếu. Việc nắm giữ cổ phiếu
cho phép người sở hữu cổ phiếu có quyền tham gia quyết định các hoạt động
của Ngân hàng, tham gia chia cổ tức từ thu nhập của Ngân hàng đồng thời phải
gánh chịu các tổn thất có thể xảy ra. Do vốn sở hữu được hình thành thông qua
3


tập trung, các Ngân hàng cổ phần hoá có khả năng tăng vốn nhanh chóng, vì vậy
thường là các Ngân hàng lớn. Các tổ hợp Ngân hàng lớn nhất hiện nay thường là
các Ngân hàng cổ phần. Các Ngân hàng cổ phần thường có phạm vi hoạt động
rộng, hoạt động đa năng, có nhiều chi nhánh hoặc công ty con. Khả năng đa
dạng hoá cao nên các Ngân hàng cổ phần có thể giảm rủi ro gây nên bởi tính
chuyên môn hoá (thiên tai của một vùng, sự suy thoái của một ngành hoặc một
quốc gia…), song chúng thường phải gánh chịu rủi ro từ cơ chế quản lý phân
quyền (nhiều chi nhánh được phân quyền lớn và hoạt động tương đối độc lập với
trụ sở của Ngân hàng mẹ, giám đốc chi nhánh này có thể có hành vi lạm dụng
hoặc bất cẩn gây tổn thất cho Ngân hàng).
+ Ngân hàng sở hữu Nhà nước: đây là loại hình Ngân hàng mà vốn sở hữu
do Nhà nước cấp, có thể là Nhà nước Trung ương hoặc Tỉnh, Thành phố. Các
Ngân hàng này được thành lập nhằm thực hiện một số mục tiêu nhất định
thường là do chính sách của chính quyền Trung ương hoặc địa phương qui định.
Tại các nước đi theo con đường phát triển Xã hội chủ nghĩa, Nhà nước thường
quốc hữu hoá các Ngân hàng tư nhân hoặc cổ phần lớn, hoặc tự xây dựng nên
các Ngân hàng. Những Ngân hàng sở hữu Nhà nước thường được Nhà nước hỗ
trợ về tài chính và bảo lãnh phát hành giấy nợ, do vậy rất ít khi bị phá sản. Tuy
nhiên, trong nhiều trường hợp, các Ngân hàng này phải thực hiện các chính sách
của Nhà nước có thể gây bất lợi cho hoạt động kinh doanh.

+ Ngân hàng liên doanh: Ngân hàng này được hình thành dựa trên góp vốn
của hai hoặc nhiều bên, thường là giữa Ngân hàng trong nước với Ngân hàng
nước ngoài để tận dụng các ưu thế của nhau.
- Các loại hình Ngân hàng thương mại chia theo tính chất hoạt động:
+ Hoạt động chuyên doanh và đa năng
Ngân hàng hoạt động theo xu hướng chuyên doanh: Loại Ngân hàng này
chỉ tập trung cung cấp một số dịch vụ Ngân hàng ví dụ như chỉ cho vay đối với
xây dựng cơ bản, hoặc đối với nông nghiệp, hoặc chỉ cho vay (không bảo lãnh
hoặc cho thuê)…Tính chuyên môn hoá cao cho phép Ngân hàng có được đội
ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm, tinh thông nghiệp vụ. Tuy nhiên loại Ngân hàng
4


này thường gặp rủi ro lớn khi ngành hoặc lĩnh vực hoạt động mà Ngân hàng
phục vụ sa sút. Ngân hàng đơn năng có thể là Ngân hàng nhỏ, phạm vi hoạt
động hẹp, trình độ cán bộ không đa dạng, hoặc là những Ngân hàng sở hữu của
công ty (nhiều tập đoàn công nghiệp tổ chức Ngân hàng để phục vụ cho các
thành viên của tập đoàn).
Ngân hàng đa năng: Là Ngân hàng cung cấp mọi dịch vụ Ngân hàng cho
mọi đối tượng. Đây là xu hướng hoạt động chủ yếu hiện nay của các Ngân hàng
thương mại. Ngân hàng đa năng thường là Ngân hàng lớn (hoặc sở hữu công ty).
Tính đa dạng sẽ giúp Ngân hàng tăng thu nhập và hạn chế rủi ro.
+ Hoạt động Ngân hàng bán buôn và Ngân hàng bán lẻ:
*Hoạt động Ngân hàng bán buôn: Cung cấp các dịch vụ cho các Ngân
hàng, các công ty tài chính, cho Nhà nước, cho các doanh nghiệp vốn. Những
Ngân hàng có hoạt động bán buôn phát triển thường là Ngân hàng lớn hoạt động
tài chính tại các trung tâm tài chính quốc tế, cung cấp các khoản tín dụng lớn.
*Hoạt động Ngân hàng bán lẻ: Cung cấp các dịch vụ trực tiếp cho doanh
nghiệp, hộ gia đình và các cá nhân, với các khoản tín dụng nhỏ. Dịch vụ bán lẻ
thường kết hợp đa tiện ích, được xây dựng trên cơ sở công nghệ hiện đại. Ví dụ

thẻ tín dụng vừa là phương tiện cung cấp các khoản vay vừa là phương tiện để
thanh toán, truy vấn trên tài khoản…cung cấp dịch vụ Ngân hàng 24h/ngày.
Xu hướng hiện nay là các Ngân hàng cung cấp kết hợp cả dịch vụ bán lẻ và
bán buôn.
- Các loại hình Ngân hàng thương mại chia theo cơ cấu tổ chức:
+Ngân hàng sở hữu công ty: Các tập đoàn kinh tế (công nghiệp, thương
mại, dịch vụ) thường tổ chức thành lập Ngân hàng nhằm cung cấp dịch vụ tài
chính cho các đơn vị thành viên của tập đoàn hoặc ngoài tập đoàn.
+Ngân hàng đơn nhất và Ngân hàng có chi nhánh: Ngân hàng đơn nhất
được hiểu là Ngân hàng không có chi nhánh, tức là các dịch vụ Ngân hàng chỉ
do 1 hội sở Ngân hàng cung cấp. Ngân hàng có chi nhánh thường là Ngân hàng
có vốn tương đối lớn, cung cấp dịch vụ Ngân hàng thông qua nhiều đơn vị Ngân
hàng. Việc thành lập chi nhánh thường bị kiểm soát chặt chẽ bởi Ngân hàng Nhà
5


nước thông qua các quy định về mức vốn sở hữu, về chuyên môn của đội ngũ
cán bộ, về sự cần thiết của dịch vụ Ngân hàng trong vùng.Ngân hàng bao gồm
nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài
chính nói riêng, trong đó Ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất
về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các Ngân hàng.
1.2. Hoạt động cho vay tiêu dùng của Ngân hàng
1.2.1. Khái niệm cho vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu
của người tiêu dùng, bao gồm cá nhân và hộ gia đình.Các nguồn cho vay tiêu
dùng là nguồn tài chính quan trọng giúp người vay có thể trang trải các nhu cầu
trong cuộc sống trước khi họ có đủ khả năng về tài chính để hưởng thụ: Đây là
một nguồn tài chính quan trọng giúp những người vay này trang trải nhu cầu nhà
ở, đồ dùng gia đình và xe cộ…Bên cạnh đó, những chi tiêu cho nhu cầu giáo
dục, y tế và du lịch…cũng có thể được tài trợ bởi cho vay tiêu dùng

Nhu cầu của con người hết sức đa dạng và phong phú, uôn muốn nhu cầu
đó được thoả mãn một cách nhanh chóng và thuận tiện nhất. Tuy nhiên để thoả
mãn nhu cầu đó đặc biệt là những tài sản có giá trị lớn thì họ phải tích luỹ một
khoảng tài chính để đảm bảo khả năng thanh toán và thời gian tích luỹ tương đối
dài. Chính vì mâu thuẫn giữa nhu cầu tiêu dùng và khả năng thanh toán mà hình
thành nên nhu cầu vay vốn từ Ngân hàng.
Bên cạnh đó, hầu hết các nhà sản xuất đều mong muốn vừa tiêu thụ được
hàng hoá một cách nhanh chóng vừa đảm bảo được thu nhập. Vậy nên khi các
Ngân hàng tài trợ cho người tiêu dùng không chỉ thoả mãn nhu cầu chi tiêu cho
chính khách hàng mà còn thoả mãn cả những nhà sản xuất điều này kích thích
nền kinh tế phát triển hơn. Nền kinh tế phát triển thì thu nhập của người dân
ngày càng tăng, một bộ phận trong số họ có thu nhập cao và ổn định điều này
tạo nên một nguồn trả nợ chắc chắn nếu Ngân hàng triển khai hoạt động cho vay
tiêu dùng.
Xuất phát từ những yêu cầu đó, cho vay tiêu dùng được hình thành và phát
triển mạnh ở một số quốc gia trên thế giới trong những năm 1920-1930. Một số
6


phòng tín dụng tiêu dùng lớn mạnh đã được thành lập. Còn ở Việt Nam cách đây
khoảng 20 năm trở về trước, khái niệm “cho vay tiêu dùng” còn khá mới mẻ
nhưng trong một vài năm trở lại đây hoạt động cho vay tiêu dùng đã phát triển
mạnh mẽ và trở thành mục tiêu của nhiều tổ chức tín dụng.
1.2.2. Đặc điểm của cho vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng chính là một hoạt động tài trợ của Ngân hàng thương
mại vì vậy cũng giống như hoạt động tín dụng khác cho vay tiêu dùng cũng có
những đặc trưng cơ bản của như: Đối tượng khách hàng, mục đích cho vay, lãi
suất, nguồn trả nợ…Bên cạnh đó, có những đặc điểm không giống với những
hình thức tín dụng khác.
1.2.2.1. Đặc điểm về đối tượng cho vay tiêu dùng

Trong cho vay tiêu dùng đối tượng chính là các cá nhân và hộ gia đình, hầu
hết các cá nhân khi tiến hành vay vốn của Ngân hàng để đáp ứng cho mục đích
tiêu dùng đều có thu nhập cao và ổn định. Hơn thế, họ có nhu cầu chi tiêu vượt
quá thu nhập của mình đây cũng chính là những điểm khác biệt so với đối tượng
khách hàng là các doanh nghiệp. Đối với các khách hàng cá nhân, vay vốn Ngân
hàng sẽ giúp họ nhận được cuộc sống đầy đủ ở hiện tại mà chỉ khả năng thanh
toán trong tương lai mới đáp ứng được. Các cá nhân nói đến ở đây là những
người có đầy đủ năng lực pháp lý, thuộc nhiều thành phần khác nhau (các cán
bộ công chức nhà nước, các lao động tự do…) và hơn hết là phải đáp ứng được
điều kiện vay vốn của Ngân hàng.
1.2.2.2. Đặc điểm về mục đích cho vay tiêu dùng
Mục đích của cho vay tiêu dùng là nhằm phục vụ nhu cầu tiêu dùng của các
cá nhân, hộ gia đình chứ không phải từ mục đích kinh doanh như một số hình
thức tín dụng khác. Nhu cầu đó chủ yếu phục vụ cho những mục đích như: mua
sắm, sửa chữa nhà ở, mua xe hơi…
1.2.2.3. Đặc điểm về nhu cầu và quy mô cho vay tiêu dùng
Thông thường quy mô của khỏan vay tiêu dùng không lớn do đối tượng
khách hàng là cá nhân, hộ gia đình. Khi nền kinh tế phát triển mạnh, nhu cầu chi
tiêu của người dân tăng cao, số lượng khách hàng vay tiêu dùng càng nhiều do
7


đó dư nợ cho vay tiêu dùng tăng. Hơn thế, tâm lý của mỗi người là muốn thoả
mãn nhu cầu tiêu dùng trước khi có đủ khả năng tài chính vì vậy ngày càng
nhiều khách hàng vay vốn Ngân hàng.
1.2.2.4. Đặc điểm về rủi ro của cho vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng thường có mức độ rủi ro thấp do các khách hàng vay là
những người có thu nhập cao, ổn định và các khoản vay thường nhỏ. Khi khách
hàng vay Ngân hàng họ chứng minh khả năng tài chính cũng như thu nhập của
mình. Vì vậy rủi ro khi khách hàng mất việc làm gặp rắc rối về vấn đề tài chính

thì khả năng trả nợ là rất khó khăn.
1.2.2.5. Đặc điểm về lãi suất cho vay tiêu dùng
Lãi suất cho vay tiêu dùng cao do chi phí thẩm định cao để đủ bù đắp
những chi phí lớn trong việc thẩm định khách hàng. Thông thường trước đây, lãi
suất cho vay tiêu dùng thường được giữ cố định chứ không thả nổi như các hình
thức tín dụng khác. Còn hiện nay, trong môi trường cạnh tranh đã buộc các
Ngân hàng thay đổi, lãi suất cho vay tiêu dùng đã có sự thả nổi nhưng đấy là sự
thả nổi chưa hoàn toàn. Nhìn chung lãi suất vẫn được xác định dựa trên lãi suất
dựa trên lãi suất cơ bản.
1.2.2.6. Đặc điểm về nguồn trả nợ của các khoản cho vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu của khách hàng chưa
có khả năng thanh toán tại thời điểm hiện tại, hoàn toàn không tài trợ nhằm mục
đích kinh doanh. Vậy nên nguồn trả nợ của khách hàng cũng không lấy từ lợi
nhuận do khoản vay mang lại như một số hình thức cho vay khác. Mặt khác,
khách hàng thường trả nợ cho Ngân hàng bằng một phần hay toàn bộ thu nhập
hàng tháng của mình. Do vậy, từ việc Ngân hàng thương mại tài trợ cho các cá
nhân, hộ gia đình trong việc chi tiêu qua đó thúc đẩy những khách hàng về tâm
lý tích luỹ, tiết kiệm, động lực làm việc dẫn tới năng suất lao tăng. Vì vậy mà
Ngân hàng thường đưa ra những chỉ tiêu như: Thu nhập ổn định, có trình độ học
vấn…làm tiêu chí quan trọng để quyết định trong việc cho khách hàng vay hay
không.

8


1.2.3. Lợi ích của cho vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng mang lại nguồn thu lớn cho Ngân hàng thương mại và
bên cạnh đó nó còn mang lại lợi ích cho khách hàng , cho cả sự phát triển chung
của toàn xã hội.
1.2.3.1. Lợi ích đối với Ngân hàng

Cho vay tiêu dùng mang lại nhiều lợi nhuận cho Ngân hàng bởi vì lãi suất
của cho vay tiêu dùng cao. Hơn thế nữa, hiện nay nhu cầu vay tiêu dùng tăng
mạnh nên nguồn thu từ hoạt động tín dụng tiêu dùng ngày càng lớn.
Thông qua hoạt động cho vay tiêu dùng Ngân hàng càng tăng cường thêm
mối quan hệ với khách hàng- khách hàng cá nhân. Khi Ngân hàng tài trợ cho
khách hàng cá nhân, hộ gia đình thoả mãn nhu cầu chi tiêu của mình khi họ chưa
đủ khả năng về tài chính sẽ giúp Ngân hàng củng cố và tăng cường thêm về hình
ảnh của mình trong mắt khách hàng đặc biệt là khách hàng cá nhân. Qua đó vị
trí của Ngân hàng dần dần được khẳng định trong tâm trí của đông đảo khách
hàng. Thêm vào đó bên cạnh hoạt động cho vay, Ngân hàng cũng phải tiến hành
huy động vốn mà nguồn vốn dồi dào với chi phí thấp là nguồn vốn huy động từ
dân cư. Vậy nên hoạt động cho vay tiêu dùng sẽ giúp Ngân hàng dễ dàng hơn
trong việc huy động tiền gửi từ dân cư và quan hệ của Ngân hàng với các doanh
nghiệp, đơn vị sản xuất, các hãng bán lẻ cũng được củng cố và tăng cường. Từ
đó, Ngân hàng có nhiều cơ hội tiếp cận với nhiều đối tượng khách hàng và lợi
nhuận của Ngân hàng ngày càng tăng.
Hoạt động cho vay tiêu dùng còn góp phần đa dạng danh mục sản phẩm
dịch vụ mà Ngân hàng cung cấp. Điều này là rất cần thiết đối với Ngân hàng để
trở thành một Ngân hàng đa năng, nhất là trong môi trường cạnh tranh gay gắt
như hiện nay và hoạt động này còn giúp Ngân hàng phân tán rủi ro, mở rộng thị
trường. Qua đó, Ngân hàng có nhiều sự lựa chọn cho việc sử dụng đồng vốn của
mình, thu nhập tăng lên: Ví dụ như hiện nay thị trường chứng khoán đang sụt
giảm thì hoạt động cho vay cầm cố chứng khoán không phải là một vấn đề hấp
dẫn nữa thì Ngân hàng chuyển sang cho vay tiêu dùng với lãi suất cao hơn và
mang lại nhiều lợi nhuận hơn so vay cầm cố chứng khoán trong giai đoạn này.
9


Thêm vào đó thông qua hoạt động cho vay tiêu dùng Ngân hàng sẽ giới thiệu
cho nhiều khách hàng hơn các sản phẩm dịch vụ của mình: Cho vay mua ôtô,

cho vay mua nhà, cho vay đi du học…
1.2.3.2. Lợi ích đối với khách hàng
Ngay khi hoạt động cho vay tiêu dùng ra đời thì họat động cho vay tiêu
dùng ra đời nó đã mang lại nhiều lợi ích cho khách hàng: Nhờ các khoản cho
vay tiêu dùng mà cuộc sống của các khách hàng cá nhân, hộ gia đình được cải
thiện và nâng cao khi mà khả năng tài chính hiện tại chưa đáp ứng đủ nhu cầu
của họ. Quan trọng hơn, các khoản cho vay tiêu dùng có thể giúp khách hàng
trong những trường hợp cấp bách như viện phí, chi phí học hành…
Nhờ có hoạt động cho vay tiêu dùng mà khách hàng có thể kết hợp khả
năng tài chính hiện tại với tương lai và họ được hưởng cuộc sống tốt hơn, có
điều kiện tiếp cận với những dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, có cơ hội nâng cao
trình độ học vấn…
1.2.3.3. Lợi ích đối với kinh tế-xã hội
Cho vay tiêu dùng thúc đẩy nền sản xuất phát triển vì ngoài tác động kích
cầu làm tăng cầu về hàng hoá, dịch vụ thì cho vay tiêu dùng hướng tới thoả mãn
nhu cầu thiết yếu của cá nhân, hộ gia đình. Như vậy hàng hoá được tiêu thụ một
cách nhanh chóng, khả năng thanh toán của người tiêu dùng được đảm bảo vì
thế người sản xuất sẽ tăng sản lượng hàng hoá để đáp ứng nhu cầu của người
tiêu dùng. Bên cạnh đó, một khi người lao động có được những điều kiện vật
chất tốt sẽ tạo nên tâm lý thoải mái trong làm việc, trình độ của họ được nâng,
hiệu quả làm việc tăng dẫn đến năng suất lao động tăng lên, cho vay tiêu dùng là
một đòn bẩy kinh tế quan trọng. Ngoài ra, cho vay tiêu dùng đã làm giảm được
tình trạng cho vay nặng lãi, lành mạnh hoá quan hệ tài chính.
Như chúng ta đã biết không phải nhu cầu nào cũng đủ khả năng thanh toán
tại thời điểm hiện tại, mà nhiều lúc con người ta còn phải chờ 5 năm đến 10 năm
hay lâu hơn thế mới có khả năng đáp ứng nhu cầu đó. Vì vậy cho vay tiêu dùng
là một giải pháp đáp ứng nhu cầu đó ở hiện tại. Từ đó đời sống của cá nhân, hộ
gia đình được nâng cao và cải thiện cả về vật chất lẫn tinh thần. Khi nhu cầu của
10



con người được cải thiện thì hiệu quả làm việc cao dẫn đến nền kinh tế phát triển
là tất yếu.
1.2.4. Các loại cho vay tiêu dùng
*Căn cứ vào mục đích vay: Cho vay tiêu dùng được chia ra làm hai loại:
- Cho vay tiêu dùng cư trú: Là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu
mua sắm, xây dựng và cải tạo nhà ở của khách hàng là cá nhân hoặc hộ gia đình.
- Cho vay tiêu dùng phi cư trú: Là các khoản cho vay tài trợ cho việc trang
trải các chi phí mua sắm xe cộ, đồ dùng gia đình, chi phí học hành, giải trí và du
lịch…
*Căn cứ vào phương thức hoàn trả: Cho vay tiêu dùng chia làm ba loại:
- Cho vay tiêu dùng trả góp: Đây là hình thức cho vay tiêu dùng trong đó
người đi vay trả nợ (gồm số tiền gốc và lãi) cho Ngân hàng nhiều lần, theo
những kỳ hạn nhất định trong thời hạn nhất định trong thời hạn cho vay. Phương
thức này thường được áp dụng cho các khoản vay có giá trị lớn hoặc thu nhập
từng định kỳ của người đi vay không đủ khả năng thanh toán hết một lần số nợ
vay.
Đối với loại cho vay tiêu dùng này, các Ngân hàng thường chú ý tới một
số vấn đề cơ bản, có tính nguyên tắc sau:
- Loại tài sản được tài trợ
Thiện chí trả nợ của người đi vay sẽ tốt hơn nếu tài sản hình thành từ tiền
vay đáp ứng nhu cầu thiết yếu đối với họ lâu dài trong tương lai. Khi lựa chọn
tài sản để tài trợ, Ngân hàng thường chú ý đến điều này nên thường chỉ muốn tài
trợ cho nhu cầu mua sắm những tài sản có thời hạn sử dụng lâu bền hoặc có giá
trị lớn. Vì với những loại tài sản này người tiêu dùng sẽ hưởng những tiện ích từ
chúng trong một thời gian dài.
- Số tiền phải trả trước
Thông thường, Ngân hàng yêu cầu người đi vay phải thanh toán trước một
phần giá trị tài sản cần mua sắm-số tiền này được gọi là số tiền trả trước -Phần
còn lại, Ngân hàng sẽ cho vay. Số tiền trả trước cần phải đủ lớn để một mặt làm

cho người đi vay nghĩ rằng chính họ là chủ sở hữu của tài sản, mặt khác có tác
11


dụng hạn chế rủi ro cho Ngân hàng. Một khi không cảm nhận được rằng mình là
chủ sở hữu của tài sản hình thành từ tiền vay thì người đi vay có thể sẽ có thái
độ miễn cưỡng trong việc trả nợ. Ngoài ra, khi khách hàng không trả nợ, trong
nhiều trường hợp Ngân hàng đành phải thụ đắc và phải phát mại tài sản để thu
hồi nợ. Hầu hết các tài sản đã qua sử dụng đều bị giảm giá trị-tức là giá trị thị
trường nhỏ hơn giá trị hạch toán của tài sản cho nên số tiền trả trước có một vai
trò rất quan trọng giúp Ngân hàng hạn chế rủi ro.
Số tiền trả trước nhiều hay ít thường tuỳ thuộc vào các yếu tố sau:
+ Loại tài sản: Đối với các loại tài sản có mức độ giảm giá nhanh thì số tiền
trả trước nhiều và ngược lại, đối với các tài sản có mức độ giảm giá chậm thì số
tiền trả trước ít.
+ Thị trường tiêu thụ tài sản sau khi đã sử dụng: Tài sản sau khi đã sử dụng
nếu vẫn có thể được tiếp tục mua, bán dễ dàng thì số tiền trả trước có xu hướng
thấp, ngược lại nếu tài sản đã qua sử dụng mà rất khó tìm được thị trường tiêu
thụ thì số tiền trả trước có xu hướng cao hơn.
+ Môi trường kinh tế.
+ Năng lực tài chính của người đi vay.
- Chi phí tài trợ
Là chi phí mà người đi vay phải trả cho Ngân hàng cho việc sử dụng vốn.
Chi phí tài trợ chủ yếu bao gồm lãi vay và các chi phí khác có liên quan. Chi phí
tài trợ phải trang trải cho được chi phí vốn tài trợ, chi phí hoạt động rủi ro, đồng
thời mang lại một phần lợi nhuận thoả đáng cho Ngân hàng.
- Điều khoản thanh toán:
Khi xác định các điều khoản liên quan đến việc thanh toán nợ của khách
hàng, Ngân hàng thường chú ý tới một số vấn đề sau:
+ Số tiền thanh toán mỗi định kỳ phải phù hợp với khả năng về thu nhập,

trong mối quan hệ hài hoà với các nhu cầu chi tiêu khác của khách hàng.
+ Giá trị của tài sản tài trợ không được thấp hơn số tiền tài trợ chưa được
thu hồi.

12


+ Kỳ hạn trả nợ phải thuận lợi cho việc trả nợ của khách hàng. Kỳ hạn trả
nợ thường theo tháng. Vì lẽ thông thường nguồn trả nợ chính của người vay tiêu
dùng là lương được nhận hàng tháng.
+ Thời hạn tài trợ không nên quá dài. Thời hạn trả nợ bị giới hạn bởi thời
gian hoạt động của tài sản tài trợ. Thời hạn tài trợ quá dài dễ làm giá trị tài sản
tài trợ bị giảm giá mạnh. Hơn nữa, khi thời hạn tài trợ quá dài thì thiện chí trả nợ
của người đi vay cũng như việc thu hồi nợ thường gặp nhiều rắc rối.
- Vấn đề phân bổ lãi cho vay theo thời gian
Khi sử dụng phương pháp gộp để tính lãi, các Ngân hàng thường tiến hành
phân bổ lại phần lãi cho vay đã được tính. Việc phân bổ có thể được thực hiện
theo định kỳ gắn liền với các kỳ thanh toán hoặc cũng có thể được thực hiện
theo quý hay theo năm tài chính. Tuy nhiên, việc phân bổ lãi cho vay theo năm
tài chính thường được các Ngân hàng áp dụng nhiều hơn.
- Vấn đề trả nợ trước hạn
Thông thường, người đi vay được quyền thanh toán tiền vay trước hạn mà
không bị phạt. Nếu tiền trả góp được tính theo phương pháp lãi đơn và phương
pháp hiện giá thì vấn đề rất đơn giản, người đi vay phải thanh toán toàn bộ vốn
gốc còn thiếu và lãi vay của kỳ hạn hiện tại (nếu có) cho Ngân hàng. Tuy nhiên,
nếu tiền trả góp được tính bằng pháp gộp thì vấn đề có phần phức tạp hơn. Vì
theo phương pháp gộp, lãi được tính dựa trên cơ sở giả định rằng tiền vay sẽ
được khách hàng sử dụng cho đến lúc kết thúc hợp đồng, cho nên nếu khách
hàng trả nợ trước hạn thì thời hạn nợ thực tế sẽ khác với thời hạn nợ giả định
ban đầu và như vậy số tiền lãi phải trả cũng có sự thay đổi. Trong trường hợp

này, Ngân hàng thường áp dụng các phương pháp giống như các phương pháp
phân bổ lãi cho vay nói trên để tính ra số lãi thực sự phải thu dựa trên thời hạn
nợ thực tế.
- Cho vay tiêu dùng phi trả góp: Theo phương pháp này tiền vay được
khách hàng thanh toán cho Ngân hàng chỉ một lần khi đến hạn. Thường thì các
khoản cho vay tiêu dùng phi trả góp chỉ được cấp cho các khoản vay có giá trị
nhỏ với thời hạn không dài.
13


- Cho vay tiêu dùng tuần hoàn: Là các khoản cho vay tiêu dùng trong đó
Ngân hàng cho phép khách hàng sử dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành loại séc
được phép thấu chi dựa trên tài khoản vãng lai. Theo phương thức này, trong
thời hạn tín dụng được thoả thuận trước, căn cứ vào nhu cầu chi tiêu và thu nhập
kiếm được từng kỳ, khách hàng được Ngân hàng cho phép thực hiện việc vay và
trả nợ nhiều kỳ một cách tuần hoàn, theo một hạn mức tín dụng.
Lãi phải trả mỗi kỳ có thể tính dựa trên một trong ba cách sau:
1) Lãi được tính dựa trên số dư nợ đã được điều chỉnh: Theo phương pháp
này số dư nợ được dùng để tính lãi là số dư nợ cuối cùng của mỗi kỳ sau khi
khách hàng đã thanh toán nợ cho Ngân hàng.
2) Lãi được tính dựa trên số dư nợ trước khi được điều chỉnh: Theo cách
này số dư nợ dùng để tính lãi là số dư nợ mỗi kỳ có trước khi khoản nợ được
thanh toán.
3) Lãi được tính trên cơ sở dư nợ bình quân.
*Căn cứ vào nguồn gốc của khoản nợ: Cho vay tiêu dùng gồm:
- Cho vay tiêu dùng gián tiếp: Là hình thức cho vay trong đó Ngân hàng
mua các khoản nợ phát sinh do những công ty bán lẻ đã bán chịu hàng hoá hay
dịch vụ cho người tiêu dùng.

14



Sơ đồ cho vay tiêu dùng gián tiếp
(1)
(4)

NGÂN HÀNG

CÔNG TY BÁN LẺ

(5)
(2)

(6)

(3)

NGƯỜI TIÊU DÙNG

(1) Ngân hàng và công ty bán lẻ ký kết hợp đồng mua bán nợ. Trong hợp
đồng Ngân hàng thường đưa ra các điều kiện về đối tượng khách hàng được bán
chịu, số tiền bán chịu tối đa và loại tài sản bán chịu…
(2) Công ty bán lẻ và người tiêu dùng ký kết hợp đồng mua bán chịu hàng
hoá. Thông thường người tiêu dùng phải trả trước một phần giá trị tài sản.
(3) Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng.
(4) Công ty bán lẻ bán hộ chứng từ bán chịu hàng hoá cho Ngân hàng.
(5) Ngân hàng thanh toán tiền cho công ty bán lẻ.
(6) Người tiêu dùng thanh toán tiền trả góp cho Ngân hàng.
Cho vay tiêu dùng gián tiếp có một số ưu điểm sau:
+ Cho phép Ngân hàng dễ dàng tăng doanh số cho vay tiêu dùng.

+ Cho phép Ngân hàng giảm được chi phí trong cho vay.
+ Là nguồn gốc của việc mở rộng quan hệ với khách hàng và các hoạt động
Ngân hàng khác.
+ Trong trường hợp có quan hệ với những công ty bán lẻ tốt, cho vay tiêu
dùng gián tiếp an toàn hơn cho vay tiêu dùng trực tiếp.
Bên cạnh một số ưu điểm vừa kể, cho vay tiêu dùng gián tiếp có một số
nhược điểm sau:
+ Ngân hàng không tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng đã được bán
chịu.
+ Thiếu sự kiểm soát của Ngân hàng khi công ty bán lẻ thực hiện việc bán
chịu hàng hoá.
15


+ Kỹ thuật nghiệp vụ cho vay tiêu dùng gián tiếp có tính phức tạp cao.
Do những nhược điểm kể trên nên có rất nhiều Ngân hàng không mặn mà
với cho vay tiêu dùng gián tiếp. Còn những Ngân hàng nào tham gia vào hoạt
động này thì đều có các cơ chế kiểm soát tín dụng rất chặt chẽ.
Cho vay tiêu dùng gián tiếp thường được thực hiện thông qua các phương
thức sau:
+ Tài trợ truy đòi toàn bộ: Theo phương thức này khi bán cho Ngân hàng
các khoản nợ mà người tiêu dùng đã mua chịu, công ty bán lẻ cam kết sẽ thanh
toán cho Ngân hàng toàn bộ các khoản nợ nếu khi đến hạn người tiêu dùng
không thanh toán cho Ngân hàng.
+ Tài trợ truy đòi hạn chế: Theo phương thức này, trách nhiệm của công ty
bán lẻ đối với các khoản nợ người tiêu dùng mua chịu không thanh toán chỉ giới
hạn trong một chừng mực nhất định, phụ thuộc vào các điều khoản đã được thoả
thuận giữa Ngân hàng với công ty bán lẻ. Dưới đây là các thoả thuận thường gặp
trong trường hợp truy đòi hạn chế:
Công ty bán lẻ phải chịu trách nhiệm thanh toán một phần nợ trong trường

hợp (1) nếu người mua chịu không đủ tiền để trả trước một số tiền nhất định khi
mua chịu hoặc (2) không đủ các tiêu chuẩn tín dụng do Ngân hàng đề ra.
Công ty bán lẻ cam kết chịu trách nhiệm cho toàn bộ số nợ đã bán chịu cho
đến khi Ngân hàng thu hồi được một số lượng các khoản nợ nhất định đúng hạn.
Toàn bộ trách nhiệm thanh toán nợ của công ty bán lẻ được giới hạn theo
một tỷ lệ nhất định so với tổng số nợ trong một thời hạn nhất định.
Toàn bộ trách nhiệm thanh toán nợ của công ty bán lẻ được giới hạn trong
phạm vi số tiền dự phòng ký gửi tại Ngân hàng. Thường số tiền dự phòng được
trích từ chênh lệch giữa chi phí tài trợ mà Ngân hàng tính cho công ty bán lẻ.
Đây là trường hợp được Ngân hàng áp dụng phổ biến nhất.
Số tiền dự phòng ký gửi tại Ngân hàng có tác dụng hạn chế rủi ro cho Ngân
hàng khi người mua chịu không trả nợ hoặc trả nợ trước hạn.
+ Tài trợ miễn truy đòi: Theo phương thức này sau khi bán các khoản nợ
cho Ngân hàng, công ty bán lẻ không còn chịu trách nhiệm cho việc chúng có
16


được hoàn trả hay không. Phương thức này chứa đựng rủi ro cao cho Ngân hàng
nên chi phí tài trợ thường được Ngân hàng tính cao hơn so với các phương thức
nói trên và các khoản nợ được mua cũng được kén chọn rất kỹ. Ngoài ra, chỉ có
công ty bán lẻ rất được Ngân hàng tin cậy mới được áp dụng phương thức này.
+ Tài trợ có mua lại: Khi thực hiện cho vay tiêu dùng gián tiếp theo phương
thức miễn truy đòi hoặc truy đòi một phần, nếu rủi ro xảy ra người tiêu dùng
không trả nợ thì Ngân hàng thường phải thanh lý tài sản để thu hồi nợ. Trong
trường hợp này, nếu có thoả thuận trước thì Ngân hàng có thể bán trở lại cho
công ty bán lẻ phần nợ mình chưa được thanh toán, kèm với tài sản đã được thụ
đắc trong một thời hạn nhất định.
- Cho vay tiêu dùng trực tiếp: Là các khoản cho vay tiêu dùng trong đó
Ngân hàng trực tiếp tiếp xúc và cho khách hàng vay cũng như trực tiếp thu nợ từ
người này.

Cho vay tiêu dùng trực tiếp thường được thực hiện theo sơ đồ sau:
Sơ đồ cho vay tín dụng trực tiếp
(3)

NGÂN HÀNG

(1)

CÔNG TY BÁN LẺ

(5)

(2)

(4)

NGƯỜI TIÊU DÙNG

(1) Ngân hàng và người tiêu dùng ký kết hợp đồng vay.
(2) Người tiêu dùng trả trước một phần số tiền mua tài sản cho công ty bán
lẻ.
(3) Ngân hàng toán số tiền mua tài sản còn thiếu cho công ty bán lẻ.
17


(4) Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng.
(5) Người tiêu dùng thanh toán tiền vay cho Ngân hàng.
So với cho vay tiêu dùng gián tiếp, cho vay tiêu dùng trực tiếp có một số
ưu điểm sau:
+ Trong cho vay tiêu dùng trực tiếp Ngân hàng có thể tận dụng được sở

trường của nhân viên tín dụng. Những người này thường được đào tạo chuyên
môn và có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực tín dụng cho nên các quyết định tín
dụng trực tiếp của Ngân hàng thường có chất lượng cao hơn so với trường hợp
chúng được quyết định bởi những công ty bán lẻ hoặc những nhân viên tín dụng
của công ty bán lẻ. Ngoài ra, trong hoạt động của mình nhân viên tín dụng Ngân
hàng có xu hướng chú trọng đến việc bán cho được nhiều hàng. Bên cạnh đó, tại
các Ngân hàng các quyết định tín dụng thường được đưa ra vội vàng và như vậy
có thể có nhiều khoản tín dụng được cấp ra một cách không chính đáng. Hơn
nữa, trong một số trường hợp, do quyết định nhanh, công ty bán lẻ có thể từ chối
cấp tín dụng đối với khách hàng tốt của mình. Nếu người cấp tín dụng là Ngân
hàng, điều này có thể được hạn chế.
+ Cho vay tiêu dùng trực tiếp có ưu điểm là linh hoạt hơn so với cho vay
tiêu dùng gián tiếp.
+ Khi khách hàng có quan hệ trực tiếp với Ngân hàng, có rất nhiều lợi thế
có thể phát sinh, có khả năng làm thoả mãn quyền lợi cho cả hai phía khách
hàng lẫn Ngân hàng.
1.2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến cho vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố, chúng ta có thể
chia ra thành hai nhóm nhân tố cơ bản đó là: Nhóm nhân tố vĩ mô và nhóm nhân
tố vi mô.
1.2.5.1. Nhóm nhân tố vĩ mô
Thứ nhất là môi trường pháp luật: Pháp luật là công cụ quản lý của nhà
nước. Mỗi cá nhân, tổ chức đều chịu sự chi phối của nhà nước và các Ngân hàng
thương mại cũng không phải là ngoại lệ. Hơn thế hoạt động kinh doanh của các
18


Ngân hàng là một lĩnh vực hết sức nhạy cảm- kinh doanh tiền tệ thì sự giám sát
của nhà nước là hết sức quan trọng và cần thiết. Những quy định của các cơ
quan chức năng có thẩm quyền giúp cho hoạt động tín dụng các Ngân hàng và

các tổ chức tài chính lành mạnh hơn và góp phần nâng cao chất lượng tín dụng,
chất lượng phục vụ người dân cũng như toàn bộ nền kinh tế.
Trước hết, các quy định pháp luật sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới phương
hướng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng trong đó có định hướng cho vay
tiêu dùng. Nếu tại một quốc gia nào đó hạn chế hoặc không cho phép Ngân hàng
tiến hành nghiệp vụ cho vay tiêu dùng thì Ngân hàng đó sẽ không thực hiện hoạt
động cho vay này. Còn nếu quy định luật pháp liên quan tới hoạt động này quá
lỏng lẻo thì hoạt động tín dụng này không thể lành mạnh được. Vì vậy cần có
các quy định cụ thể, rõ ràng được xây dựng một cách chuẩn mực, có hệ thống về
cho vay tiêu dùng để hoạt động này ngày càng mở rộng hơn.
Ngoài ra, hệ thống pháp luật cũng tác động đến cộng đồng dân cư trong
xã hội, các doanh nghiệp, các tổ chức khác…đây là những khách hàng của Ngân
hàng và từ đó tác động đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nói chung và
hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng.
Thứ hai là môi trường kinh tế-chính trị: Đây cũng chính là một nhân tố
không kém phần quan trọng so với môi trường pháp luật. Những chỉ tiêu như:
thu nhập quốc dân (GDP), tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ lạm phát, chỉ số giá tiêu
dùng, tỷ lệ thất nghiệp…Phản ánh trung thực thực trạng nền kinh tế của một
quốc gia. Nếu nền kinh tế của một quốc gia tăng trưởng và phát triển ổn định thì
đời sống của người dân có xu hướng phát triển theo, nhu cầu tiêu dùng trong xã
hội tăng mạnh. Vì vậy, khi xã hội phát triển thì thu nhập bình quân đầu người
tăng dẫn đến chi tiêu cho tiêu dùng tăng mạnh.
Tình hình chính trị tác động mạnh đến nền kinh tế cũng như cho vay tiêu
dùng: Nếu như một quốc gia thường xuyên xảy ra bạo loạn, chiến tranh, bất ổn
về chính trị thì nền kinh tế đó sẽ không thể phát triển. Do vậy tại những nước
này, các hoạt động của Ngân hàng cũng sẽ bị đình trệ và không chỉ ảnh hưởng
đến hoạt động cho vay tiêu dùng mà còn ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh
19



nói chung của Ngân hàng. Vì vậy, phải có một nền kinh tế bền vững và chính trị
ổn định thì kinh tế đất nước mới phát triển.
Thứ ba là môi trường văn hoá-xã hội: Các yếu tố thuộc môi trường văn
hoá-xã hội bao gồm: tập quán xã hội, thói quen tiêu dùng, trình độ dân trí, thị
hiếu của người dân, an ninh trật tự, an toàn xã hội…có tác động không nhỏ đến
hoạt động cho vay tiêu dùng. Nếu người dân luôn có mong muốn thoả mãn
những nhu cầu của mình một cách nhanh chóng, luôn muốn cải thiện và nâng
cao mức sống thì cho vay tiêu dùng sẽ có cơ hội phát triển. Còn ngược lại, nếu
người dân có thói quen không thích mua sắm, không có thói quen tiêu dùng quá
mức những gì mà họ có ở hiện tại thì xu hướng của họ là sẽ tiết kiệm chứ không
phải đến Ngân hàng để vay vốn chi tiêu.
1.2.5.2. Nhóm các nhân tố vi mô
Nhóm các nhân tố vi mô xuất phát từ cả hai phía khách hàng và Ngân
hàng thương mại.
Thứ nhất là những nhân tố xuất phát từ phía khách hàng:
‫٭‬Khả năng tài chính của khách hàng: Đây là một chỉ tiêu quan trọng mà
Ngân hàng quan tâm khi khách hàng vay vốn. Trong quá trình thẩm định, Ngân
hàng không chỉ quan tâm đến tình hình tài chính của khách hàng mà còn quan
tâm tới thu nhập hiện tại và khả năng trả nợ của khách hàng: Những khách hàng
có thu nhập cao, ổn định thì Ngân hàng sẽ muốn cho vay và trong cho vay tiêu
dùng thì đây là tiêu chí quan trọng và các Ngân hàng xem nó là chỉ tiêu quan
trọng trong vấn đề cấp tín dụng cho khách hàng. Trên thực tế các khoản cho vay
thường tiêu dùng thường có những cam kết trả nợ của khách hàng được bảo đảm
dựa trên thu nhập của họ. Vì vậy, người có thu nhập cao tiến hành trả nợ thì ít
gây ảnh hưởng trong đến cuộc sống hàng ngày của họ, ít ảnh hưởng đến tình
hình tài chính của gia đình họ và khoản tín dụng mà Ngân hàng cấp sẽ an toàn
hơn rất nhiều.
‫٭‬Đạo đức của khách hàng: Nhân tố này ảnh hưởng đến hành vi trả nợ của
khách hàng. Nếu khách hàng có đạo đức tốt, chấp hành tốt quy định trả nợ gốc


20


và lãi của Ngân hàng. Còn nếu khách hàng không có đạo đức tốt thì rất khó khăn
trong việc thu hồi nợ.
‫٭‬Tài sản đảm bảo: Là cơ sở để phòng ngừa rủi ro tín dụng, nếu khi khách
hàng vay vốn mà họ có tài sản đảm bảo thì sẽ an toàn hơn cho Ngân hàng: Khi
khách hàng không có khả năng thanh toán thì Ngân hàng có thể phát mại tài sản
để thu hồi một phần hay toàn bộ nợ của khách hàng đó. Vậy nên ở Việt Nam,
hầu hết các Ngân hàng khi cấp tín dụng cho khách hàng đều yêu cầu khách hàng
phải có tài sản đảm bảo.
Hai là nhóm nhân tố xuất phát từ phía Ngân hàng:
‫٭‬Công tác thẩm định: Quá trình thẩm định trong cho vay tiêu dùng gặp
nhiều khó khăn đây chính là nguyên nhân gây ra thời gian thẩm định khá dài nên
khách hàng không mặn mà lắm với cho vay tiêu dùng. Cho nên, Ngân hàng tiến
hành khâu này một cách nhanh chóng nhưng vẫn đảm bảo chính xác, không gây
phiền hà cho khách hàng sẽ tạo được ấn tượng tốt với khách hàng. Điều này sẽ
tạo ra một ấn tượng tốt đối với khách hàng cá nhân trong cho vay tiêu dùng.
‫٭‬Nguồn nhân lực: Là nhân tố quan trọng không chỉ ảnh hưởng đến hoạt
động cho vay tiêu dùng mà còn ảnh hưởng tới hầu hết các nghiệp vụ khác của
Ngân hàng. Nếu cán bộ Ngân hàng có đạo đức nghề nghiệp cao, có tinh thần
trách nhiệm thì hoạt động tín dụng sẽ hạn chế được phần nào rủi ro và tạo ra khả
năng phát triển rất lớn. Bên cạnh đó, việc tiếp xúc và giao tiếp trực tiếp giữa
nhân viên tín dụng và khách hàng diễn ra thường xuyên nên vai trò của nhân
viên tín dụng là rất quan trọng. Vậy nên các Ngân hàng cần có đội ngũ nhân
viên có năng lực, có trình độ, có tư cách đạo đức, chất lượng nghề nghiệp.
‫٭‬Nguồn vốn của Ngân hàng: Một điều vô cùng quan trọng trong việc mở
rộng, đi sâu vào các hoạt động cho vay tiêu dùng đấy chính là nguồn vốn. Nếu
một Ngân hàng có vốn càng lớn sẽ đầu tư nhiều vào trang thiết bị, nguồn nhân
lực…cho hoạt động cho vay tiêu dùng. Thông qua đó, cho vay tiêu dùng ngày

càng được mở rộng và phát triển sâu hơn và Ngân hàng sẽ tăng hạn mức cho vay
tiêu dùng.

21


1.3.Các chỉ tiêu phản ánh việc mở rộng hoạt động cho vay mua ôtô đối với
khách hàng cá nhân
Để dánh giá mức độ mở rộng cho vay của Ngân hàng thường sử dụng một
số chỉ tiêu sau:
- Doanh số cho vay
Doanh số cho vay là tổng số tiền mà Ngân hàng đã cho vay trong thời kỳ
(tháng, quý, năm) đây là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh quy mô cho vay qua các
năm
- Dư nợ cho vay
Dư nợ cho vay là chỉ tiêu tích luỹ qua các thời kỳ, là số tiền mà Ngân hàng
hiện đang còn cho vay đến một thời điểm nhất định: Dư nợ cho vay là số tiền mà
Ngân hàng hiện đang còn cho vay tính đến một thời điểm nhất định.
Dư nợ cho vay kỳ này = Dư nợ cho vay kỳ trước + Doanh số cho vay trong
kỳ- Doanh số cho vay trong kỳ
Khi dư nợ cho vay mua tăng so với kỳ trước tức là doanh số cho vay trong
kỳ lớn hơn doanh số thu nợ trong kỳ, ta có sự mở rộng cho vay đối với Ngân
hàng
- Tỷ trọng dư nợ cho vay ( R)
Đây là chỉ tiêu tương đối phản ánh quy mô các món cho vay trong tổng số
món vay được Ngân hàng giải ngân
R= Dư nợ cho vay/Tổng dư nợ
Là chỉ tiêu tương đối phản ánh mức độ mở rộng cho vay nhanh hay chậm.
Công thức xác định:
K= =

+ Nếu K>0 thì dư nợ kỳ này lớn hơn kỳ trước nên cho vay tăng, phản ánh
sự mở rộng đối với cho vay.
+ Nếu K<0 thì dư nợ cho vay kỳ này nhỏ hơn kỳ trước
- Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn

22


Khi các khoản cho vay mua ôtô đối với khách hàng cá nhân đến hạn thanh
toán mà khách hàng chưa trả được nợ và Ngân hàng không có quyết định cơ cấu
lại thời hạn nợ thì khoản cho vay đó chuyển thành nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn = Nợ quá hạn cho vay/tổng dư nợ cho vay
Đây là chỉ tiêu đánh giá chất lượng cho vay và khả năng thu hồi nợ và là
chỉ tiêu quan trọng để Ngân hàng đánh giá và ra quyết định mở rộng hoạt động
cho vay.
Hoạt động cho vay mua ôtô cũng là hoạt động tín dụng của Ngân hàng vì
vậy nó có những đặc điểm giống cho vay tiêu dùng và các chỉ tiêu phản ánh việc
mở rộng cho vay mua ôtô cũng giống như các chỉ tiêu của hoạt động cho vay.

23


Chương II
THỰC TRẠNG CHO VAY MUA ÔTÔ PHỤC VỤ ĐỜI SỐNG ĐỐI VỚI
KHÁCH HÀNG CÁ NHÂN
2.1. Khái quát về Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, chi nhánh
Đông Đô
2.1.1. Quá trình phát triển
2.1.1.1. Lịch sử hình thành
Giai đoạn 1957-1980, Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam-tiền thân của Ngân

hàng Đầu tư Phát triển Việt Nam được thành lập trực thuộc Bộ Tài Chính với
quy mô ban Đầu gồm 11 chi nhánh, 200 nhân viên với nhiệm vụ chủ yếu là cấp
phát, quản lý vốn kiến thiết cơ bản từ nguồn vốn ngân sách cho tất cả các lĩnh
vực kinh tế, xã hội.
Giai đoạn 1981-1989, Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam được đổi tên thành
Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam với nhiệm vụ chủ yếu là cấp phát, cho vay và quản lý vốn đầu tư xây dựng
cơ bản thuộc kế hoạch nhà nước tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế.
Giai đoạn 1990-1994, Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam đổi tên
thành Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) với nhiêm vụ được thay
đổi về cơ bản: Ngoài việc tiếp tục nhận vốn Ngân sách để cho vay các dự án
thuộc kế hoạch nhà nước thì BIDV đã thực hiện huy động các nguồn vốn trung
dài hạn để cho vay đầu tư phát triển: Kinh doanh tiền tệ tín dụng và dịch vụ
Ngân hàng chủ yếu trong lĩnh vực xây lắp phục vụ đầu tư phát triển.
Giai đoạn 1995-2000, BIDV được phép kinh doanh đa năng tổng hợp như
một Ngân hàng thương mại, phục vụ chủ yếu cho đầu tư phát triển của đất nước.
Đây là thời kỳ BIDV đã khẳng định được vị trí, vai trò là Ngân hàng thương mại
hàng đầu tại Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
với danh hiệu đơn vị anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới.
Giai đoạn 2001 đến nay, BIDV đã triển khai đồng bộ đề án cơ cấu lại
được chính phủ phê duyệt. Dự án hiện đại hoá Ngân hàng và hệ thống thanh
24


toán do Ngân hàng thế giới tài trợ tiến tới phát triển thành một Ngân hàng đa
năng hàng đầu của Việt Nam, hoạt động ngang tầm với các Ngân hàng mang
tầm khu vực năm 2010.
Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Đông Đô được thành lập trên cơ
sở nâng cấp phòng giao dịch 2 tại 14-Láng Hạ, đi vào hoạt động từ 31/07/2004
theo quyết định số 191/QĐ-HĐQT ngày 05/07/2004 Của Hội Đồng Quản Trị

Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, là một trong những cơ sở tiên phong
đi đầu trong hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chú trọng triển
khai nghiệp vụ Ngân hàng bán lẻ, lấy phát triển dịch vụ và đem lại tiện ích cho
khách hàng làm nền tảng: hoạt động theo mô hình giao dịch một cửa với quy
trình nghiệp vụ Ngân hàng hiện đại và công nghệ tiên tiến theo đúng dự án hiện
đại hoá Ngân hàng Việt Nam hiện nay.
Việc thành lập chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Đông Đô phù hợp
với tiến trình thực hiện chương trình cơ cấu lại, gắn liền với đổi mới toàn diện
và phát triển vững chắc với nhịp độ tăng trưởng cao, phát huy truyền thống phục
vụ đầu tư phát triển, đa dạng hoá khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế, phát
triển nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ Ngân hàng, nâng cao hiệu quả an
toàn hệ thống theo đòi hỏi của cơ chế thị trường và lộ trình hội nhập, làm nòng
cốt cho việc xây dựng tập đoàn tài chính đa năng, vững mạnh, hội nhập quốc tế.
* Mục tiêu của BIDV
-Là một đơn vị thành viên hoạt động trong lĩnh vực hệ thống Ngân hàng
thương mại, hoạt động theo mô hình giao dịch một cửa và cung ứng sản phẩm
dịch vụ theo tiêu chuẩn của Ngân hàng khu vực.
-Chính sách và định hướng khách hàng: Cung ứng sản phẩm dịch vụ cho
khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế: Trong đó đặc biệt là doanh nghiệp
ngoài quốc doanh, doanh nghiệp vừa và nhỏ, dịch vụ Ngân hàng của các cá
nhân.
-Chính sách sản phẩm dịch vụ: Xác định là đơn vị điển hình về phát triển
và ứng dụng.
* Kế hoạch cổ phần hoá
25


×