Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu tại Ngân hàng Đầu tư và phát triển Bình Định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (465.39 KB, 92 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Sau nhiều năm tăng trưởng đột biến (40%/năm), ngành chế biến và
xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam đã nhanh chóng trở thành một trong những ngành
xuất khẩu chủ lực, với kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 1,5 tỷ USD vào năm
2005, góp phần tăng thu ngoại tệ cho quốc gia.
Từ năm 2000 cho đến nay, các doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu
tăng nhanh về số lượng và qui mô đầu tư, trong đó tập trung ở một số tỉnh
miền Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, Bình Định và Huế, đưa năng lực chế biến
và xuất khẩu gỗ trong nước tăng từ 40% đến 50% mỗi năm. Riêng tỉnh Bình
Định hiện có hơn 90 doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu và hiện là mặt hàng
chủ lực của tỉnh, được Chính phủ đưa vào chương trình xúc tiến thương mại
trọng điểm của quốc gia tại Chỉ thị số 19/2004/CT-TTg ngày1-6-2004.
Trong thời gian qua, Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và phát triển Bình
Định đã hỗ trợ cho các doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu trên địa bàn tỉnh,
đặc biệt là hoạt động cho vay, vốn vay từ Ngân hàng đã giúp các doanh
nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư mới và cải tiến sản xuất của
mình. Tuy nhiên, hiện tại các doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu tại tỉnh
Bình Định có năng lực cạnh tranh kém hơn các doanh nghiệp cùng ngành
nghề tại các tỉnh Đông Nam Bộ, các doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu
trong tỉnh thường nhận hợp đồng gia công cho phía đối tác hoặc xuất khẩu
dưới hình thức gián tiếp nên không xây dựng được thương hiệu riêng trên thị
trường thế giới, do vậy hiệu quả từ hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp
này chưa cao; thiếu vốn đầu tư một trong các nguyên nhân tồn tại trên của
doanh nghiệp. Vì vậy, trong thời gian tới mở rộng cho vay đối với các doanh
nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu sẽ tiếp tục hỗ trợ cho các doanh nghiệp này cải
thiện những yếu kém của mình, đồng thời mở rộng cho vay đối với các doanh
1
nghiệp này cũng giúp Ngân hàng thực hiện được kế hoạch tăng trưởng tín
dụng trong 05 năm tới.
Như vậy, đứng trên giác độ Ngân hàng đề tài ”Mở rộng cho vay đối với
các doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu tại Ngân hàng Đầu tư và phát triển


Bình Định” được đặt ra để nghiên cứu là mang tính cấp thiết.
• Mục tiêu nghiên cứu
Luận giải những vấn đề cơ bản về cho vay của Ngân hàng thương mại
đối với các doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu.
Phân tích, đánh giá thực trạng cho vay đối với doanh nghiệp chế biến
gỗ xuất khẩu tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và phát triển Bình Định.
Đề xuất các giải pháp mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp chế biến
gỗ xuất khẩu tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và phát triển Bình Định.
• Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: nghiên cứu hoạt động cho vay đối với doanh
nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và phát triển
Bình Định.
Phạm vi nghiên cứu:
Hoạt động cho vay của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và phát triển Bình
Định đối với doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu trên địa bàn tỉnh Bình Định.
Thời gian nghiên cứu: từ năm 2001 đến năm 2005.
• Phương pháp nghiên cứu đề tài
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử tác
giả sử dụng các phương pháp:
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp tổng hợp
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp điều tra.
2
• Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về cho vay đối với doanh nghiệp chế
biến gỗ xuất khẩu của Ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng cho vay đối với doanh nghiệp chế biến gỗ xuất
khẩu tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và phát triển Bình Định.

Chương 3: Giải pháp mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp chế biến
gỗ xuất khẩu tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và phát triển Bình Định.
3
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
CHẾ BIẾN GỖ XUẤT KHẨU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Khái quát chung về hoạt động cho vay của NHTM
1.1.1 Các hoạt động cơ bản của NHTM
Ngân hàng đã hình thành, tồn tại và phát triển hàng trăm năm nay, và
nó sẽ không ngừng phát triển lớn mạnh cùng với sự phát triển của nền kinh tế
thế giới. Vậy, bản chất của Ngân hàng là gì mà ngân hàng có thể tồn tại và
phát triển lâu dài đến như vậy?
Hình thức ngân hàng đầu tiên - ngân hàng của các thợ vàng hoặc người
cho vay nặng lãi - thực hiện cho vay đối với các cá nhân (chủ yếu là những
người giàu) nhằm mục đích chủ yếu là phục vụ tiêu dùng. Do lợi nhuận từ
cho vay rất cao nhiều chủ ngân hàng đã lạm dụng ưu thế của chứng chỉ tiền
gửi (lưu thông thay vàng hay bạc), phát hành chứng chỉ tiền gửi khống để cho
vay. Thực trạng này đã đẩy nhiều ngân hàng đến chỗ mất khả năng thanh toán
và phá sản. Sự sụp đổ của các ngân hàng đã gây khó khăn cho hoạt động
thanh toán, ảnh hưởng xấu đến hoạt động buôn bán. Hơn nữa, lãi suất cao nên
các nhà buôn ít thích sử dụng nguồn vay này. Do đó, nhiều nhà buôn tự thành
lập ngân hàng gọi là ngân hàng thương mại. Như vậy, ngân hàng thương mại
được hình thành xuất phát từ tư bản thương nghiệp. Ngân hàng thương mại
cũng thực hiện các nghiệp vụ truyền thống của ngân hàng như huy động tiền
gửi, thanh toán, cất giữ hộ và cho vay. Tuy nhiên, điểm khác biệt giữa ngân
hàng thương mại và ngân hàng thợ vàng trước đó là ngân hàng thương mại
chủ yếu cho các nhà buôn vay dưới hình thức chiết khấu thương phiếu.
Cùng với sự phát triển kinh tế, công nghệ và những khuynh hướng
trong thời đại mới (sự gia tăng cạnh tranh, sự gia tăng nhanh chóng trong
danh mục dịch vụ, sự gia tăng chi phí vốn, phi quản lý hoá...) buộc các ngân

4
hàng thương mại phải mở rộng các dịch vụ của mình, các ngân hàng thương
mại không chỉ thực hiện các dịch vụ truyền thống mà còn phải thực hiện các
dịch vụ mới như cho vay tiêu dùng, tư vấn tài chính, quản lý tiền mặt, dịch vụ
thuê mua thiết bị, cho vay tài trợ dự án, và các dịch vụ bảo hiểm...
Vậy, Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục
các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ
thanh toán - và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ
chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Điều 20 Luật các Tổ chức tín dụng (Luật số 02/1997/QH10) chỉ rõ:
“Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động
ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan”. Trong đó, hoạt
động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội
dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng tiền này để cấp tín dụng và cung
ứng các dịch vụ thanh toán.
Các ngân hàng thương mại đã và đang thay đổi một cách phù hợp để
đáp ứng các yêu cầu mới của nền kinh tế hiện đại. Tuy nhiên, các dịch vụ
truyền thống của ngân hàng vẫn không thay đổi, nó bao gồm các hoạt động
quan trọng sau:
Mua bán ngoại tệ
Lịch sử cho thấy rằng một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên
được thực hiện là trao đổi ngoại tệ - Ngân hàng đứng ra mua bán loại tiền này
lấy loại tiền khác và hưởng chi phí dịch vụ, chẳng hạn bán USD lấy VND và
ngược lại. Sự trao đổi đó là rất quan trọng đối với các thương gia sang vùng
khác hoặc nước khác để buôn bán, hay đối với khách du lịch họ cần đồng bản
tệ để dễ dàng trao đổi, mua bán ở quốc gia mà họ tới. Trong thị trường tài
chính ngày nay, việc mua bán ngoại tệ chỉ do các ngân hàng lớn thực hiện bởi
vì độ rủi ro cao và đòi hỏi có trình độ chuyên môn.
5
Nhận tiền gửi

Hoạt động cho vay đem lại nguồn thu nhập lớn nhất cho ngân hàng, do
đó, ngoài phần vốn tự có các ngân hàng tìm cách huy động được tiền gửi để
có thể cho vay nhiều hơn, một trong những nguồn quan trọng là các khoản
tiền gửi (thanh toán và tiết kiệm). Trong cuộc cạnh tranh để tìm và giành
được các khoản tiền gửi, các ngân hàng phải trả lãi cho các khoản tiền gửi
như là phần thưởng cho khách hàng về việc sẵn sàng hy sinh nhu cầu tiêu
dùng trước mắt và cho phép ngân hàng sử dụng tạm thời để kinh doanh.
Chiết khấu thương phiếu và cho vay thương mại
Cho vay của ngân hàng gắn liền với quá trình hình thành ngân hàng,
chính nhu cầu tiền cho sản xuất kinh doanh, nhu cầu cho tiêu dùng mà những
người có tiền đã thành lập nên ngân hàng để đáp ứng nhu cầu thực tế đó.
Ngay từ ban đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho
vay đối với các doanh nhân địa phương, những người bán các khoản nợ
(khoản phải thu) của các khách hàng cho ngân hàng để lấy tiền mặt. cho vay
thương mại: cho vay trực tiếp để kinh doanh, chiết khấu thương phiếu. Đó là
bước chuyển tiếp từ chiết khấu thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với
khách hàng và hầu hết các khoản cho vay này là ngắn hạn. Bên cạnh cho vay
truyền thống là cho vay ngắn hạn, các ngân hàng ngày càng trở nên năng
động trong việc tài trợ các dự án dài hạn như xây dựng nhà máy, đầu tư bất
động sản, đất đai... tuy rủi ro của tín dụng dài hạn cao nhưng lãi lại lớn.
Bảo quản vật có giá:
Dịch vụ này xuất hiện rất sớm trong hoạt động của Ngân hàng. Ngay từ
khi hình thành ngân hàng đã lưu giữ vàng và vật có giá khác của khách hàng
trong kho và thu phí bảo quản. Hình thức này hấp dẫn khách hàng bởi họ
nhận được giấy chứng nhận do ngân hàng ký phát từ việc gửi các vật trên và
giấy chứng nhận đó có thể được lưu hành như tiền - đó là hình thức đầu tiên
6
của séc và thẻ tín dụng. Ngày nay, việc lưu giữ vật có giá trong ngân hàng
giảm hẳn do khách hàng phải mất phí cho việc gửi vàng hoặc vật có giá đó,
còn nếu họ gửi bằng tiền thì lại có thêm thu nhập, vì vậy người ta có xu

hướng đổi vàng hoặc vật có giá sang tiền để gửi để không phải sử dụng dịch
vụ trên.
Cung cấp các tài khoản giao dịch
Thanh toán qua ngân hàng mở đầu cho giai đoạn thanh toán không
dùng tiền mặt, tức là người gửi tiền không cần phải đến ngân hàng để lấy tiền
thanh toán để thanh toán mà có thể dùng séc, thẻ điện tử, uỷ nhiệm chi, nhờ
thu,... việc cung cấp các tài khoản giao dịch đã giúp cho các giao dịch kinh
doanh được thực hiện nhanh chóng, an toàn hơn.
Tài trợ cho các hoạt động của Chính phủ:
Khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của ngân hàng đã
thu hút sự chú ý của Chính phủ. Vì vậy, ngay từ thời kỳ đầu hình thành ngân
hàng, Chính phủ đã tìm cách kiểm soát hoạt động của ngân hàng để tài trợ
cho các hoạt động của mình. Ngày nay, Chính phủ giành quyền cấp phép hoạt
động và kiểm soát các ngân hàng, các ngân hàng được cấp giấy phép thành
lập với điều kiện là họ phải cam kết thực hiện một mức độ nào đó các chính
sách của Chính phủ và tài trợ cho Chính phủ. Các ngân hàng phải mua trái
phiếu của Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà
ngân hàng huy động được; hoặc phải cho vay với các điều kiện ưu đãi cho các
doanh nghiệp của Chính phủ.
Ngoài các hoạt động cơ bản trên, ngân hàng còn phát triển thêm những
dịch vụ mới đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế hiện đại như: cho thuê thiết bị
trung và dài hạn, bảo lãnh, ủy thác, tư vấn, môi giới đầu tư chứng khoán, dịch
vụ bảo hiểm...
1.1.2. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
7
Cho vay là hoạt động truyền thống của NHTM và cho đến nay nó vẫn
là hoạt động chủ yếu và mang lại nhiều thu nhập nhất cho ngân hàng mặc dù
đã có thêm nhiều dịch vụ mới đóng góp vào thu nhập của ngân hàng.
Có nhiều quan điểm khác nhau về cho vay: có quan điểm đồng nhất
cho vay với tín dụng, lại có quan điểm cho vay chỉ là một trong các hình thức

cấp tín dụng cho khách hàng. Trong phạm vi đề tài nghiên cứu này, ta thống
nhất quan điểm về cho vay như sau:
Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết
khách hàng phải hoàn trả cả gốc lẫn lãi trong khoản thời gian xác định.
Với quan niệm cho vay như trên thì ta có nhiều cách phân loại cho vay
khác nhau tùy theo yêu cầu của khách hàng và mục tiêu quản lý của ngân
hàng. Thông thường có những cách phân loại như sau:
Căn cứ vào mục đích sử dụng tiền vay:
+ Cho vay kinh doanh: là loại cho vay để bù đắp các chi phí phục vụ
cho mục đích kinh doanh, từ đầu tư thiết bị, xây dựng nhà xưởng cho đến chi
phí mua vật tư hàng hoá, chi trả lương công nhân...
+ Cho vay tiêu dùng: là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng
như mua sắm các vật dụng đắt tiền, ngày nay ngân hàng còn thực hiện các
khoản cho vay để trang trải các chi phí thông thường của đời sống thông qua
phát hành thẻ tín dụng.
Căn cứ vào thời hạn sử dụng tiền vay:
+ Cho vay ngắn hạn: loại cho vay này có thời hạn từ 12 tháng trở
xuống và được sử dụng để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động và thiếu hụt tạm
thời của các doanh nghiệp, nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của các cá nhân. Đối với
ngân hàng thương mại tín dụng ngắn hạn chiếm tỷ trọng cao nhất và đem lại ít
rủi ro hơn so với tín dụng trung và dài hạn.
8
+ Cho vay trung hạn: khoản cho vay này có thời hạn từ 1 đến 5 năm
cho vay trung hạn chủ yếu để đáp ứng các nhu cầu đầu tư mua sắm tài sản cố
định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh,
xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Trong
nông nghiệp, chủ yếu cho vay trung hạn để đầu tư vào các đối tượng như:
máy cày, máy bơm, xây dựng vườn cây công nghiệp như cà phê, điều...; máy
bơm điện...
+ Cho vay dài hạn: là khoản cho vay có thời hạn trên 5 năm. Cho vay

dài hạn thường được cung cấp để đáp ứng nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà
ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp
mới...
Nghiệp vụ truyền thống của các ngân hàng thương mại là cho vay ngắn
hạn, nhưng từ những năm 70 trở lại đây các ngân hàng thương mại đã chuyển
sang kinh doanh tổng hợp và một trong những nội dung đổi mới đó là nâng
cao tỷ trọng cho vay trung và dài hạn trong tổng số dư nợ của ngân hàng.
Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng
+ Cho vay không đảm bảo: là loại cho vay không có tài sản thế chấp,
cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín
của bản thân khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, trung thực trong
kinh doanh, có khả năng tài chính mạnh, quản trị có hiệu quả thì ngân hàng có
thể cho vay dựa vào uy tín của khách hàng đó mà không cần một nguồn thu
nợ thứ hai bổ sung.
+ Cho vay có đảm bảo: là loại cho vay được ngân hàng cung ứng phải
có tài sản thế chấp, hoặc cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ ba.
Đối với khách hàng không có uy tín cao với ngân hàng, khi vay vốn đòi
hỏi phải có sự bảo đảm. Sự bảo đảm này giúp cho ngân hàng có thêm nguồn
thứ hai, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn.
9
Một số cách phân loại cho vay khác như: cho vay theo ngành kinh tế
(công nghiệp, nông nghiệp...), theo đối tượng tín dụng (tài sản lưu động, tài
sản cố định), theo mục đích (sản xuất, tiêu dùng...). Cách phân loại như thế
này giúp ngân hàng đánh giá hoạt động cho vay của mình theo ngành nghề,
đối tượng,... từ đó đưa ra các biện pháp điều chỉnh cho vay theo chính sách tín
dụng của ngân hàng.
1.2. Cho vay đối với các doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu của
ngân hàng thương mại
1.2.1. Đặc điểm và vai trò của doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu
a) Đặc điểm của doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu

Doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu là doanh nghiệp được thành lập
theo qui định của Luật doanh nghiệp, sản xuất kinh doanh các sản phẩm được
chế biến từ gỗ (nguyên liệu đầu vào là nguyên liệu thô: gỗ tròn; nguyên liệu
qua sơ chế: dăm gỗ và các loại gỗ công nghiệp như: ván ép, gỗ ghép, gỗ
lạng...), các sản phẩm của doanh nghiệp này là: bàn ghế ngoài trời, giường tủ
và đồ nội thất bằng gỗ và các sản phẩm này được bán sang nước ngoài.
Từ một nước xuất khẩu gỗ nguyên liệu là chủ yếu, Việt Nam đã vươn
lên thành một nước xuất khẩu sản phẩm gỗ có tên tuổi trong khu vực. Hiện có
hơn 1200 doanh nghiệp CBGXK tại Việt Nam trong đó tập trung ở các tỉnh
miền Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, Bình Định và Huế, đưa năng lực chế biến
và xuất khẩu gỗ trong nước tăng từ 40% đến 50% mỗi năm. Có khoảng gần
200 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, còn lại là các doanh nghiệp Việt
Nam, các doanh nghiệp này đều có đặc điểm chung như sau:
Hầu hết các doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu Việt Nam là doanh
nghiệp vừa và nhỏ nên có những đặc điểm riêng của doanh nghiệp vừa và nhỏ
như: qui mô vốn bé, trình độ công nghệ lạc hậu thiếu thông tin và trình độ tổ
chức quản lý còn nhiều yếu kém đặc biệt trong lĩnh vực lập kế hoạch và xây
10
dựng chiến lược phát triển lâu dài cho doanh nghiệp, thương hiệu của sản
phẩm chưa được xây dựng vững mạnh. Hơn nữa, mặt hàng này xuất khẩu ra
thị trường thế giới nên gặp rất nhiều đối thủ cạnh tranh có tên tuổi trên thị
trường, họ có lợi thế cả về qui mô, chất lượng và uy tín. Như vậy với qui mô
chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ nên các doanh nghiệp chế biến gỗ xuất
khẩu gặp rất nhiều khó khăn trong việc cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu
đồ gỗ.
Hiện nay, nguyên liệu gỗ chiếm 60% - 70% giá thành sản phẩm. Trong
khi đó, trong nước chỉ đáp ứng gần 20% nguyên liệu gỗ cho chế biến gỗ xuất
khẩu, còn lại hơn 80% nguyên liệu gỗ phải nhập khẩu từ nước ngòai, thêm
vào đó các nước cấm xuất khẩu gỗ nguyên liệu ngày càng tăng. Như vậy, phải
phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu gỗ nhập khẩu từ nước ngoài và số lượng

ngày càng hạn chế là yếu tố bất ổn đối với các doanh nghiệp chế biến gỗ xuất
khẩu. Để hạn chế bất ổn này buộc các doanh nghiệp phải có một lượng vốn
lưu động lớn dành cho dự trữ nguyên vật liệu.
Một đặc điểm quan trọng nữa là về đầu ra của các doanh nghiệp chế
biến gỗ xuất khẩu, các doanh nghiệp này sản xuất chủ yếu theo hợp đồng và
sản xuất theo thời vụ, tập trung vào thị trường nước ngoài chủ yếu vào các thị
trường như: EU, Nhật Bản, Mỹ... đây là những thị trường khó tính. Để đảm
bảo nhận được tiền thanh toán từ phía người mua các doanh nghiệp không chỉ
phải đáp ứng yêu cầu về chất lượng sản phẩm mà còn phải đáp ứng các yêu
cầu khắc khe trong các điều kiện thanh toán. Vì vậy, các doanh nghiệp
CBGXK cần có sự hỗ trợ của ngân hàng về dịch vụ thanh toán quốc tế.
Do các doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu hiện nay vừa nhỏ lại vừa
phân tán, phát triển tự phát thiếu sự liên kết dù các doanh nghiệp Việt Nam có
lợi thế là nguồn nhân công rẻ, tay nghề khéo léo, kỹ thuật tinh xảo và sản
phẩm đạt chất lượng tương đương hàng nước ngoài, giá bán thấp hơn 20% so
11
với hàng hóa cùng loại của nước ngoài vẫn khó cạnh tranh. Khách hàng quốc
tế thường đặt yêu cầu cao về sự “an toàn” của các hợp đồng, trong khi các
doanh nghiệp Việt Nam không liên kết được với nhau trong sản xuất. Các
doanh nghiệp ít vốn nên khó có đủ khả năng để tiếp thị sản phẩm, quảng bá
thương hiệu của mình ra nước ngoài. Vì vậy, đa số các doanh nghiệp thường
nhận hợp đồng gia công cho phía đối tác hoặc xuất khẩu dưới hình thức gián
tiếp.
Qui mô vốn của doanh nghiệp nhỏ bé, vốn tự tài trợ càng bé hơn, trong
khi đó các hợp đồng cung cấp sản phẩm gỗ cho nước ngoài giá trị trung bình
từ 10 - 20 tỷ đồng và có khi còn cao hơn, điều này buộc các doanh nghiệp
phải đi vay rất nhiều. Hơn nữa, đây là những doanh nghiệp sử dụng rất nhiều
các dịch vụ ngân hàng liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu như: cung cấp
các tài khỏan giao dịch, thanh toán quốc tế, mua bán ngoại tệ… Vì vậy, đây là
một thị trường đầy tiềm năng mà các ngân hàng cần xem xét để mở rộng hoạt

động cho vay của mình.
b) Vai trò của doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu
Từ khi hình thành và phát triển cho đến nay các doanh nghiệp chế biến
gỗ xuất khẩu đã có vai trò to lớn trong sự phát triển kinh tế của đất nước,
những vai trò quan trọng đó là:
Thứ nhất, sự phát triển của các doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu đã
góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, tăng thu nhập quốc
dân, đặc biệt là tăng nguồn thu ngoại tệ góp phần giảm thâm hụt cán cân
thanh toán quốc tế. Hiện có hơn 1200 doanh nghiệp chế biến gỗ trong cả nước
tạo việc làm cho hơn 250.000 lao động.
Thứ hai, với sự phát triển ngày càng lớn mạnh của ngành chế biến gỗ
xuất khẩu đã giúp Việt Nam có uy tín trên thị trường thế giới về lĩnh vực chế
biến, góp phần quảng cáo các ngành chế biến khác như: chế biến thủy sản,
12
nông sản... và quảng cáo cho ngành thủ công mỹ nghệ của Việt Nam (đan,
thêu, dệt may) từ đó đưa tên tuổi Việt Nam ngày càng lớn mạnh trên thương
trường quốc tế.
Thứ ba, các doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu cũng giúp người lao
động Việt Nam làm việc trong môi trường cạnh tranh quốc tế, có nhiều kinh
nghiệm trong sản xuất kinh doanh với nước ngoài từ đó nâng cao trình độ lao
động trong nước.
Và cuối cùng là doanh nghiệp có vai trò khuyến khích cả nhà nước và
nông dân trồng rừng phủ xanh đất trống, đồi núi trọc góp phần giảm sa mạc
hóa quỹ đất sản xuất đang ngày càng khan hiếm. Từ khi các doanh nghiệp chế
biến gỗ xuất khẩu phát triển, rừng càng có giá trị về mặt kinh tế thì Nhà nước
mới quan tâm quy hoạch các vùng rừng kinh tế và giao rừng cho người dân,
từ đó việc chặt phá rừng giảm đi và tỷ lệ đất trống đồi núi trọc cũng giảm hẳn;
góp phần giảm ô nhiễm môi trường, thiên tai và sử dụng hiệu quả tài nguyên
đất của quốc gia.
1.2.2. Hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu

của ngân hàng thương mại
1.2.2.1. Các hình thức cho vay đối với doanh nghiệp chế biến gỗ xuất
khẩu
Cho vay ngắn hạn
Cho vay ngắn hạn là khoản cho vay có thời hạn ít hơn hoặc bằng 12
tháng. Các doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu như trên đã nói, có đặc điểm
là sản xuất theo thời vụ và đa số sản phẩm của doanh nghiệp là xuất khẩu nên
đây là đối tượng khách hàng vay ngắn hạn chủ yếu của ngân hàng.
Ngân hàng có thể có các phương thức cho vay ngắn hạn như sau:
+ Cho vay theo hạn mức tín dụng
13
Đây là khoản cho vay theo đó ngân hàng thoả thuận cấp cho khách
hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ.
Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Phương thức này được áp dụng phổ biến
đối với các doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu, bởi vì nguồn nguyên liệu gỗ
nhập khẩu không ổn định và khan hiếm nên các doanh nghiệp phải mua
nguyên liệu gỗ để dự trữ nguyên liệu cho sản xuất, việc vay theo hạn mức sẽ
giúp doanh nghiệp chớp được thời cơ mua nguyên liệu, chủ động trong sản
xuất.
Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh,
nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp.
+ Cho vay từng lần (cho vay theo món)
Đây là phương thức cho vay ngắn hạn đối với các doanh nghiệp chế
biến gỗ xuất khẩu do không có điều kiện vay thường xuyên, mà doanh nghiệp
vay vốn khi có đơn đặt hàng hoặc mới vay ngân hàng.
Mỗi lần vay, doanh nghiệp phải làm đơn và trình ngân hàng theo
phương án sử dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và kí hợp
đồng cho vay, xác định quy mô, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và
yêu cầu đảm bảo của món vay nếu cần. Mỗi món vay được tách biệt thành các
hồ sơ khác nhau. Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản. Ngân hàng

có thể kiểm soát từng món vay tách biệt.
+ Cho vay theo hạn mức thấu chi
Thấu chi là một kỹ thuật cấp tín dụng cho khách hàng, theo đó ngân
hàng cho phép khách hàng chi vượt số dư trên tài khoản thanh toán của khách
hàng để thực hiện các giao dịch thanh toán kịp thời cho nhu cầu sản xuất kinh
doanh.
Để được vay theo hạn mức thấu chi, các khách hàng phải là những
khách hàng quen biết, thường xuyên giao dịch qua ngân hàng, tình hình tài
14
chính tương đối ổn định. Ngân hàng và khách hàng cần xác định và thoả
thuận bằng văn bản về hạn mức thấu chi và thời hạn hiệu lực của hạn mức đó
để áp dụng.
Hạn mức thấu chi được xác định trên cơ sở số dư bình quân tài khoản
tiền gửi thanh toán của khách hàng và tỷ lệ hạn mức thấu chi thoả thuận giữa
hai bên.
Cho vay theo hạn mức thấu chi là loại hình cho vay có nhiều ưu điểm
vì giảm bớt được nhiều thủ tục vay vốn rườm rà, tiết kiệm chi phí cho cả ngân
hàng lẫn khách hàng vay vốn.
+ Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng
Thẻ tín dụng (Credit card) là loại thẻ ngân hàng phát hành cho những
khách hàng sử dụng để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, hoặc rút tiền mặt tại
các ATM. Đối với những khách hàng thoả mãn điều kiện của ngân hàng phát
hành thẻ - sau khi ký hợp đồng tín dụng thẻ với ngân hàng, ngân hàng này cấp
cho khách hàng 1 thẻ tín dụng với một số tiền được cài sẵn trong bộ nhớ theo
hạn mức tín dụng đã được hai bên thoả thuận, khách hàng loại này không nhất
thiết phải duy trì số dư trên tài khoản tiền gửi của mình, vì đã có hạn mức tín
dụng khách hàng sử dụng để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ trong phạm vi
hạn mức tín dụng đã chấp thuận trong hợp đồng tín dụng.
Để thúc đẩy việc sử dụng thẻ rộng rãi và phù hợp với nhu cầu chi tiêu
và thu nhập của khách hàng, ngân hàng phát hành thẻ sẽ quy định mức trả nợ

tối thiểu tính trên dư nợ tín dụng thẻ, tỷ lệ này thường từ 20% - 50% dư nợ tín
dụng thẻ.
Cho vay trung và dài hạn
Các doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu có nhu cầu vay trung và dài
hạn để mua trang thiết bị, xây dựng nhà xưởng, cải tiến kỹ thuật, mua công
nghệ để phát triển sản xuất kinh doanh. Nếu tính toán được hiệu quả kinh tế,
15
có khả thi mà thiếu vốn thì ngân hàng sẽ cho vay. Nhu cầu vay vốn trung và
dài hạn của doanh nghiệp ngày càng gia tăng do nhu cầu hiện đại hoá máy
móc thiết bị, nâng cao chất lượng sản phẩm gia tăng trong môi trường cạnh
tranh gay gắt và yêu cầu khắt khe của các nước nhập khẩu sản phẩm gỗ
Các hình thức cho vay trung và dài hạn:
+ Cho vay trung và dài hạn (cho vay theo dự án)
Đây là loại hình cho vay được xem xét mở rộng gần đây tại các NHTM
quốc doanh đối với các doanh nghiệp. Theo đó, các dự án của doanh nghiệp
có nhu cầu vay vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, cải tạo, nâng cấp máy
móc thiết bị, sẽ được ngân hàng giải quyết cho vay nếu thấy dự án đó có hiệu
quả.
+ Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng
Để đề phòng trường hợp đơn vị chủ đầu tư đã sử dụng hết hạn mức tín
dụng mà công trình dự án đầu tư chưa hoàn thành do phát sinh chi phí vượt
dự toán. Ngân hàng và chủ đầu tư cần xác định trước một hạn mức tín dụng
dự phòng. Ngân hàng sẽ cho vay theo hạn mức dự phòng nếu xảy ra trường
hợp nói trên.
Phương pháp tính hạn mức tín dụng dự phòng:
Trong đó tỷ lệ dự phòng từ 10% - 30% tuỳ theo tính chất của công trình
và dự án đầu tư.
Đơn vị chủ đầu tư phải trả cho ngân hàng một khoản phí gọi là phí cam
kết. Phí này tính theo tỷ lệ % trên hạn mức tín dụng dự phòng.
+ Cho vay hợp vốn

Trường hợp một công trình, dự án đầu tư có tổng dự toán lớn vượt quá
giới hạn cho vay thì áp dụng phương pháp cho vay hợp vốn. Theo đó ngân
16
H n m c tín d ng   T l 
trung v d i h nà à  d phòng
H n m c tín d ng d phòng =   
x
hàng tiếp nhận hồ sơ vay vốn của khách hàng sẽ đóng vai trò là “ngân hàng
đầu mối” (hay ngân hàng chủ trì) sẽ kêu gọi các ngân hàng khác cùng tham
gia cho vay (hợp vốn) và phân bổ hạn mức cho từng ngân hàng thành viên.
Ngân hàng đầu mối sẽ trực tiếp giải ngân, lập phương án thu nợ, thu lãi, đồng
thời phân bổ mức thu nợ, thu lãi cho các ngân hàng thành viên theo tỷ lệ vốn
của từng ngân hàng tham gia.
1.2.2.2. Quy trình cho vay của ngân hàng thương mại đối với doanh
nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu
Quy trình tín dụng: là văn bản quy định các bước và nội dung nghiệp
vụ phải được thực hiện đối với cán bộ lãnh đạo và cán bộ nghiệp vụ, quan hệ
tác nghiệp giữa các đơn vị trong quá trình cấp tín dụng ngắn hạn, trung và dài
hạn dưới hình thức cho vay, chiết khấu chứng từ có giá của ngân hàng.
Trong hoạt động cho vay các NHTM luôn mong muốn hạn chế, phòng
ngừa rủi ro và nâng cao chất lượng tín dụng, để thực hiện được điều này buộc
các ngân hàng phải tuân thủ theo một quy trình nghiêm ngặt trong cho vay.
Do đó, quy trình cho vay đối với các doanh nghiệp CBGXK tại Chi nhánh
NHĐT Bình Định cũng phải tuân thủ theo những quy định hiện hành liên
quan đến quá trình cho vay do Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam ban
hành và phù hợp với những đặc điểm riêng của doanh nghiệp CBGXK.
Quy trình cho vay được bắt đầu từ khi cán bộ tín dụng - bộ phận quan
hệ trực tiếp - tiếp nhận hồ sơ khách hàng và kết thúc khi thanh lý hợp đồng tín
dụng, được tiến hành theo các bước sau:
- Thẩm định trước khi cho vay

- Kiểm tra, giám sát trong khi cho vay
- Kiểm tra, giám sát, tổ chức thu hồi nợ sau khi cho vay
Quy trình cho vay được tiến hành qua các bước cụ thể như bảng 1.1
17
Bảng 1.1 Quy trình tín dụng tổng quát
Các giai đoạn
của quá trình
Nguồn và nơi
cung cấp thông
tin
Nhiệm vụ của ngân
hàng
Kết quả của một giai
đoạn
1. Tiếp nhận và
hướng dẫn khách
hàng về hồ sơ
vay vốn
Khách hàng cung
cấp
Tiếp nhận, hướng dẫn
khách hàng về hồ sơ
vay vốn, kiểm tra tính
đầy đủ, hợp pháp, hợp
lệ.
Hoàn thành hồ sơ,
chuyển sang giai đoạn
thẩm định
2. Thẩm định các
điều kiện tín

dụng
- Hồ sơ từ giai đoạn
1 chuyển sang
- Các thông tin từ
phòng phỏng vấn,
hồ sơ lưu trữ,
nguồn khác
Tổ chức thẩm định hồ
sơ vay vốn. Phòng tín
dụng phối hợp với
phòng nguồn vốn,
thanh toán quốc tế để
thực hiện.
Báo cáo kết quả thẩm
định để chuyển sang
bộ phận có thẩm
quyền xét duyệt cho
vay.
3. Quyết định
cho vay
- Thông tin từ giai
đoạn 2 chuyển sang
- Nguồn khác
Các bộ phận có thẩm
quyền xem xét và
quyết định cho vay
hay không.
- Quyết định cho vay
hoặc từ chối cho vay
- Tiến hành ký hợp

đồng tín dụng nếu
đồng ý cho vay
4. Giải ngân,
kiểm tra, giám
sát
- Quyết định cho
vay và các hợp
đồng liên quan
- Báo cáo định kỳ
của khách hàng
- Nguồn thông tin
trực tiếp thông qua
kiểm tra, giám sát
khách hàng.
Hoàn thiện các điều
kiện để giải ngân, giải
ngân và kiểm tra,
giám sát quá trình vay
vốn, sử dụng vốn, trả
nợ của khách hàng.
- Khách hàng nhận
tiền vay để tiến hành
phương án kinh doanh
- Đánh giá tình hình sử
dụng vốn vay, khả
năng trả nợ
- Đánh giá biện pháp
bảo đảm tiền vay
5. Thu nợ, thu
lãi, phí và xử lý

phát sinh
- Kết quả đánh gía
của giai đoạn trên
- Các hợp đồng và
các chứng từ khác
- Theo dõi việc trả nợ
gốc, lãi, phí
- Tiến hành thu nợ,
thu lãi và phí
- Xử lý phát sinh nếu

- Thu hồi vốn vay và
lãi
- Đưa ra các biện pháp
xử lý phát sinh nếu có
(nợ xấu)
6. Kết thúc hợp
đồng tín dụng
- Thông tin nội bộ
ngân hàng
- Thông tin khác
Tất toán khoản vay,
thanh lý hợp đồng,
giải chấp tài sản đảm
bảo tiền vay và lưu hồ

- Hợp đồng tín dụng
kết thúc và thanh lý tài
sản đảm bảo.
18

Tiếp nhận hồ sơ vay vốn
Hồ sơ vay vốn là cơ sở đầu tiên để ngân hàng xem xét cho vay. Khi
một khách hàng có nhu cầu đề nghị Ngân hàng đầu tư và phát triển cung cấp
sản phẩm tín dụng, cán bộ tín dụng trao đổi với khách hàng, và tùy thuộc vào
khách hàng cũ hay mới, vay với qui mô lớn hay nhỏ từ đó xác định các thủ
tục cần thiết, tư vấn cho khách hàng về hồ sơ vay vốn.
Sau khi nhận được hồ sơ vay vốn của khách hàng, cán bộ tín dụng xem
xét lại chi tiết hồ sơ vay vốn, đảm bảo đã nhận được tất cả thông tin, tài liệu
cần thiết và thấy đạt yêu cầu thì chuyển sang giai đoạn thẩm định.
Phân tích, thẩm định các điều kiện tín dụng
Phân tích, thẩm định các điều kiện tín dụng nhằm mục đích đánh giá
khả năng sử dụng vốn và trả nợ của khách hàng. Để đạt mục đích trên ngân
hàng phải tiến hành phân tích và thẩm định hồ sơ vay vốn theo những nội
dung sau:
- Phân tích, thẩm định khách hàng:
Thứ nhất, tìm hiểu và phân tích về khách hàng, tư cách và năng lực
pháp lý, năng lực điều hành, năng lực sản xuất kinh doanh, mô hình tổ chức,
bố trí lao động trong doanh nghiệp
Thứ hai, thẩm định, đánh giá khả năng tài chính của khách hàng
Thứ ba, phân tích tình hình quan hệ với ngân hàng
- Thẩm định về khả năng đáp ứng nguồn vốn, lãi suất, thời hạn cho vay
của bản thân ngân hàng.
- Phân tích, thẩm định dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh.
- Thẩm định các biện pháp đảm bảo tiền vay
- Chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng
Sau khi hoàn thành phân tích, thẩm định. Cán bộ thẩm định lập báo cáo
thẩm định hoàn chỉnh chuyển cho cán bộ tín dụng, cán bộ tín dụng sau khi rà
19
soát, xem xét rồi lập tờ trình kèm với hồ sơ vay vốn trình trưởng phòng tín
dụng, trưởng phòng tín dụng tiếp tục trình lãnh đạo ngân hàng phê duyệt. Tờ

trình tín dụng được cán bộ tín dụng ký thể hiện rằng cán bộ tín dụng là người
đề xuất phê duyệt cho vay và chấp nhận trách nhiệm với đề xuất của mình và
chịu trách nhiệm quản lý khoản vay sau khi phê duyệt. Nếu khoản vay vượt
thẩm quyền của chi nhánh thì sẽ được trình lên Ngân hàng Đầu tư và phát
triển Việt Nam kiểm tra, thẩm định lại kết quả đã thẩm định tại Chi nhánh.
Như vậy, kết quả thẩm định của giai đoạn này cộng với những thông tin
về thị trường và một số thông tin khác, chính sách tín dụng, mục tiêu của
ngân hàng… là những cơ sở để ngân hàng quyết định cho vay hay không đối
với một khách hàng.
Quyết định cho vay
Căn cứ bộ hồ sơ vay vốn, căn cứ đề xuất của cán bộ thẩm định/tái thẩm
định và trưởng phòng tín dụng, khỏan vay sẽ được Ban lãnh đạo ngân hàng
phê duyệt cho vay:
Trực tiếp xem xét và quyết định (trong phạm vi được ủy quyền)
- Duyệt đồng ý cho vay
- Đề nghị các phòng giải trình thêm vướng mắc (nếu có)
- Duyệt cho vay có điều kiện
- Không đồng ý cho vay, lý do
Đưa ra hội đồng tín dụng tư vấn trước khi quyết định đối với khoản vay
lớn hoặc phức tạp theo quy định của Chi nhánh.
Trường hợp vượt quyền phán quyết của chi nhánh, hồ sơ vay vốn, sau
khi có đầy đủ chữ ký ở cấp chi nhánh sẽ trình lên Ngân hàng Đầu tư và phát
triển Việt Nam để giải quyết theo qui định.
Hồ sơ đã được phê duyệt sẽ được chuyển sang cho cán bộ tín dụng
quản lý giải ngân.
20
Giải ngân, kiểm tra giám sát khoản vay
Giải ngân là nghiệp vụ cấp tiền cho khách hàng trên cơ sở mức tín dụng
đã cam kết theo hợp đồng. Giai đoạn này chỉ được thực hiện khi ngân hàng
quyết định cho vay. Giai đoạn này thể hiện hàng loạt các nghiệp vụ ở các

khâu khác nhau trong Ngân hàng.
Kiểm tra, giám sát khoản vay là quá trình thực hiện các bước công việc
sau khi cho vay nhằm hướng dẫn, đôn đốc người vay sử dụng đúng mục đích,
có hiệu quả số tiền vay, hoàn trả nợ gốc, nợ vay đúng hạn, đồng thời thực
hiện các biện pháp thích hợp nếu người vay không thực hiện đầy đủ, đúng hạn
theo cam kết. Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam quy định việc kiểm
tra, giám sát khoản vay được tiến hành định kỳ hoặc đột xuất với 100% khoản
vay, một hay nhiều lần tùy thuộc theo độ an toàn khoản vay.
Thu nợ gốc, lãi, phí và xử lý phát sinh
Cán bộ tín dụng theo dõi việc thu nợ theo dõi việc thu nợ theo từng hợp
đồng tín dụng đã ký cho từng dự án, nếu thấy có vấn đề gì thì đưa ra các biện
pháp xử lý để hạn chế rủi ro cho ngân hàng.
Thanh lý hợp đồng tín dụng
Thời hạn hiệu lực của hợp đồng tín dụng theo thỏa thuận trong hợp
đồng tín dụng đã ký kết: khi bên vay trả xong nợ gốc và lãi thì hợp đồng tín
dụng đương nhiên hết hiệu lực. Ngân hàng tiến hành giải chấp tài sản và lưu
hồ sơ tín dụng.
Trên đây là các bước tổng quát của một quy trình tín dụng do Ngân
hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam quy định. Tuy nhiên, đối với từng trường
hợp khách hàng cụ thể, lĩnh vực cụ thể thì nội dung chi tiết của quy trình sẽ
khác nhau. Đối với quy trình tín dụng ngắn hạn thì nội dung thẩm định là đơn
giản hơn quy trình tín dụng trung và dài hạn, hơn nữa, nội dung chi tiết của
21
quy trình tín dụng ngắn hạn sẽ được thực hiện đơn giản hơn quy trình tín
dụng trung và dài hạn.
Doanh nghiệp CBGXK có đặc điểm là phải dự trữ gỗ cho các hợp đồng
sản xuất theo thời vụ. Do đó, loại hình cho vay ngắn hạn và theo hạn mức
được áp dụng chủ yếu cho các doanh nghiệp để đáp ứng nhu cầu dự trữ gỗ
nguyên liệu. Như vậy, quy trình tín dụng đối với doanh nghiệp CBGXK phải
có những chi tiết khác biệt để phù hợp với những điểm khác biệt này.

1.3. Mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu
của NHTM
1.3.1. Các chỉ tiêu đánh giá mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp
chế biến gỗ xuất khẩu của ngân hàng thương mại
Để đánh giá mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp CBGXK tại NHTM
người ta thường sử dụng các chỉ tiêu sau
• Số lượng doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu vay vốn
Chỉ tiêu này thể hiện số lượng doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu có
quan hệ vay vốn với ngân hàng qua các năm.
• Thị phần cho vay đối với các doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu

Thị phần cho vay đối với doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu phản ảnh
thị phần phục vụ của ngân hàng đối với các doanh nghiệp này trên địa bàn
hoạt động của ngân hàng. Chỉ tiêu này được so sánh qua các năm hoặc đem so
sánh với các NHTM khác để đánh giá mở rộng của ngân hàng đối với doanh
nghiệp CBGXK.
22
Th ph n cho vay i v i    
doanh nghi p ch bi n =  
g xu t kh u  
S l ng doanh nghi p ch bi n g      
xu t kh u vay v n t i ngân h ng à   
T ng s doanh nghi p ch bi n     
g xu t kh u trên a b nà   
ngân h ng ho t ngà  
• Doanh số cho vay, thu nợ đối với các doanh nghiệp CBGXK
Doanh số cho vay của ngân hàng đối với doanh nghiệp CBGXK thể hiện
khối lượng cho vay của ngân hàng đối với doanh nghiệp. Chỉ tiêu này được so
sánh qua các năm, so với tổng doanh số cho vay của ngân hàng để đánh giá
mở rộng cho vay của ngân hàng đối với DN CBGXK.

Doanh số thu nợ đối với doanh nghiệp CBGXK cho ta thấy được tình
hình thu nợ vay của ngân hàng khi cho doanh nghiệp CBGXK vay.
• Dư nợ cho vay đối với các doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu:
Chỉ tiêu này phản ánh quy mô cho vay đối với các doanh nghiệp chế biến
gỗ xuất khẩu trong hoạt động cho vay của ngân hàng. So sánh chỉ tiêu này
qua các năm cho thấy mức độ thay đổi qui mô cho vay đối với doanh nghiệp
chế biến gỗ xuất khẩu trong tổng dư nợ cho vay của ngân hàng.
So sánh dư nợ cho vay đối với doanh nghiệp CBGXK với tổng dư nợ
cho vay của ngân hàng ta thấy được mức độ mở rộng cho vay hiện tại của
ngân hàng đối với các doanh nghiệp này.
Việc mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp còn được đánh giá qua cơ
cấu dư nợ cho vay theo thời hạn.
Tỷ trọng dư nợ cho vay ngắn hạn đối với các doanh nghiệp chế biến gỗ
xuất khẩu:
Chỉ tiêu này phản ảnh cơ cấu cho vay ngắn hạn trong toàn bộ dư nợ cho
vay đối với các doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu. So sánh chỉ tiêu này qua
23
D n cho vay i v i doanh nghi p    
T tr ng d n cho vay     ch bi n g xu t kh u     
i v i doanh nghi p ch =    
bi n g xu t kh u     D n cho vay c a ngân h ng à  
T tr ng d n cho vay ng n h n      D n ng n h n c a doanh nghi p    
i v i doanh nghi p ch bi n = ch bi n g xu t kh u          

g xu t kh u   T ng d n cho vay i v i     
các doanh nghi p ch bi n g xu t     
các năm cho thấy mức độ mở rộng cho vay ngắn hạn đối với các Doanh
nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu của ngân hàng.
Tỷ trọng dư nợ trung và dài hạn đối với doanh nghiệp chế biến gỗ xuất
khẩu:

Chỉ tiêu này phản ánh tỷ trọng dư nợ trung và dài hạn trong tổng dư nợ
cho vay đối với các doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu. So sánh chỉ tiêu này
qua các năm ta thấy mức mở rộng cho vay đầu tư của ngân hàng đối với các
doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu.
1.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến mở rộng cho vay đối với các doanh
nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu
1.3.2.1. Các nhân tố thuộc về NHTM
Mở rộng cho vay luôn được đặt ra đối với các NHTM, tuy nhiên khả
năng mở rộng cho vay chịu tác động của nhiều nhân tố, mà trước hết là các
nhân tố thuộc về ngân hàng. Các nhân tố thuộc về ngân hàng bao gồm:
Chính sách tín dụng của ngân hàng
Chính sách tín dụng phản ảnh cương lĩnh tài trợ của một ngân hàng, trở
thành hướng dẫn chung cho cán bộ tín dụng và các nhân viên ngân hàng, tăng
cường chuyên môn hoá trong phân tích tín dụng, tạo sự thống nhất chung hoạt
động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời.
Một chính sách tín dụng luôn luôn phải trả lời các câu hỏi: quy mô của
tín dụng là bao nhiêu? Thời hạn cho vay bao nhiêu là thích hợp? Sử dụng các
hình thức cho vay nào? Lĩnh vực cho vay nào đang có xu hướng phát triển?
Như vậy, chính sách tín dụng của ngân hàng quyết định khả năng mở
rộng cho vay đối với các doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu.
24
D n cho vay trung v d i h n i v i à à    !
T tr ng d n cho vay trung doanh nghi p ch bi n g xu t kh u         
v d i h n i v i doanh nghi p = à à   ! "
ch bi n g xu t kh u      T ng d n cho vay i v i các     
doanh nghi p ch bi n g xu t     
kh u
Nguồn vốn của ngân hàng
Quy mô nguồn vốn của ngân hàng quyết định số lượng cho vay, quy
mô khoản vay mà ngân hàng đó có thể cung cấp. Hoạt động cho vay luôn

mang lại rủi ro cho ngân hàng, vì vậy, để hạn chế rủi ro cho các ngân hàng
nói riêng và an toàn tài chính tiền tệ cho nền kinh tế nói chung, NHTW
thường qui định một tỷ lệ dư nợ cho vay tối đa so với tổng số vốn tự có của
ngân hàng; đối với một khách hàng hay một lĩnh vực, ngành nghề thì tỷ lệ này
được qui định theo các mức khác nhau. Chẳng hạn, theo điều 79 Luật các tổ
chức tín dụng số 07/1997/QHX của Việt Nam qui định: tổng dư nợ cho vay
đối với một khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng.
Theo đó, một ngân hàng có quy mô vốn lớn có thể cung cấp một khối lượng
tín dụng lớn và thời hạn tín dụng có thể dài hơn. Vậy, khả năng mở rộng cho
vay đối với các doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu phụ thuộc vào quy mô
vốn của ngân hàng.
Khả năng và kinh nghiệm của đội ngũ nhân viên
Tăng trưởng tín dụng là mục tiêu không thể thiếu trong các kế hoạch
ngắn hạn cũng như dài hạn của ngân hàng. Để đạt được mục tiêu tăng trưởng
tín dụng hàng năm, ngân hàng phải có những biện pháp mở rộng cho vay
thích hợp. Tuy nhiên, khi mở rộng cho vay đối với một ngành nghề hay một
lĩnh vực, ngân hàng phải xem xét khả năng về trình độ chuyên môn, kinh
nghiệm của đội ngũ nhân viên mình trong lĩnh vực, ngành nghề đó; nếu
không thì ngân hàng phải xem xét lại việc mở rộng cho vay như vậy có an
toàn không đối với ngân hàng. Như vậy, tuỳ theo khả năng chuyên môn, kinh
nghiệm của đội ngũ nhân viên mà ngân hàng mở rộng cho vay trong phạm vi
mà nhân viên mình có thể đảm đương được để né tránh rủi ro. Hơn nữa, tùy
thuộc nhân viên có khả năng, kinh nghiệm trong những ngành nghề nào, lĩnh
vực nào mà cho vay vào lĩnh vực, ngành nghề đó.
25

×