Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Nợ công và khủng hoảng nợ công thực trạng nợ công ở việt nam và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (299.62 KB, 17 trang )

LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIÊN TÊ]

MỤC LỤC
Lời Mở Đầu......................................................................................................2
Nợ công và khủng hoảng nợ công ……………………………………3
1. Nợ công………………………………………………………………...3
a. Định nghĩa………………………………………………………3
b. Nguyên nhân làm xuất hiện tình trạng nợ công………………...3
c. Phân loại nợ công……………………………………………….3
d. Các chỉ tiêu xác định tình trạng nợ công………………………..5
2. Khủng hoảng nợ công…………………………………………………5
a. Định nghĩa………………………………………………………5
b. Nguyên nhân gây ra tình trạng khủng hoảng nợ công………….5
Khủng hoảng nợ công hiện nay………………………………………….6
1. Tình hình chung ở Châu Âu…………………………………………..6
2. Tình hình ở Hi Lạp……………………………………………………7
a. Thực trạng khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp……………………7
b. Các gói cứu trợ cho Hy Lạp…………………………………….8
c. Tác động của nợ công đến tình hình tài chính tiền tệ………….9
3. Hiệu ứng Domino và hệ lụy đến tăng trưởng toàn cầu………………10
Thực trạng nợ công ở Việt Nam và giải pháp…………………………...11
1. Thực trạng nợ công ở Việt Nam hiện nay…………………………….11
a. Tình hình nợ công ở Việt Nam trong những năm gần đây…….11
b. Nguyên nhân dẫn đến nợ công ở Việt Nam……………………12
2. Các giải pháp đưa Việt Nam thoát khỏi khủng hoảng nợ công………14
I.

I.

II.


Kết Luận……………………………………………………………………17

LỜI MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết, những năm 2007- cuộc khủng hoảng kinh tế trên
toàn cầu đã làm cho nhiều quốc gia gặp phải tình trạng trì trệ khó khan cho nền
kinh tế. Hậu quả để lại của cuộc khủng hoảng này là không nhỏ, nhiều ngân hàng,
công ty lớn bị phá sản, thất nghiệp gia tăng… Và có thể khẳng định rằng nợ công
vừa là một nguyên nhân khủng hoảng nhưng cũng là một hậu quả do khủng hoảng
mang lại. Tình trạng nợ công gia tăng liên tục ở cả các nước vượt quá sự tăng trưởng của
nền kinh tế (GDP) gây ra tình trạng mất kiểm soát trong khả năng chi trả của quốc gia
1


LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIÊN TÊ]
khiến nền kinh tế phục hồi rất chậm chạp, và đứng trước nguy cơ tiếp tục khủng
hoảng. Bất kể từ những nước phát triển, giàu nhất thế giới như Mỹ hay Nhật Bản cho
tới những quốc gia phát triển ở châu Âu như Đức, Pháp, Hy Lạp, Tây Ban Nha,… hay
Trung Quốc “chủ nợ lớn nhất của Mỹ và các quốc gia”, tất cả các “đại gia” này đều đang
mắc một khoản nợ công không hề nhỏ. Đặc biệt những nước như Hi lạp, Ireland, Bồ Đào
Nha… các nước này hiện đang là tiêu điểm của nợ công trên toàn thế giới. Việt Nam trong
nền kinh tế thị trường và hội nhập cũng không tránh khỏi tình trạng trên.
Vì vậy nhóm chúng tôi quyết định chọn đề tài “Nợ công và khủng hoảng nợ
công” để phần nào hiểu rõ hơn thực trạng nợ công trên toàn cầu, cũng như
Chính phủ Việt Nam những năm qua. Bên cạnh đó là một số đề xuất giúp nước ta
thoát khỏi tình trạng này.

2


LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIÊN TÊ]


Nợ công và khủng hoảng nợ công

I.
1.

Nợ công
a. Định nghĩa
Theo luật quản lý nợ công số 29/2009/QH12 ngày 17/06/2009, nợ công bao gồm: Nợ

Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ của chính quyền địa phương. Như vậy, Các
khoản vay như vay vốn ODA, phát hành trái phiếu chính phủ (trong cũng như ngoài nước),
trái phiếu công trình đô thị hay một tập đoàn kinh tế vay nợ nước ngoài được chính phủ bảo
lãnh đều được xem là nợ công.
→ Nợ chính phủ, còn gọi là nợ công hoặc nợ quốc gia, là tổng giá trị các khoản tiền mà
chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi vay.
b.

Nguyên nhân làm xuất hiện tình trạng nợ công

Chúng ta có những lý do cụ thể riêng và diễn biến khác nhau đối với từng quốc gia
cụ thể, tuy nhiên cũng có một số nguyên nhân đều diễn ra ở các nước trên thế giới:
-

Thâm hụt ngân sách: tăng chi tiêu, chi tiêu công ngày càng tăng, thiếu sự kiểm soát, thiếu

-

chặt chẽ nhưng nguồn thu giảm sút, không đáp ứng kịp nhu cầu chi tiêu công.
Chính phủ gia tăng huy động vốn nhưng các dự án đầu tư kém hiệu quả, sự tiếp cận dễ dãi


-

với nguồn vốn đầu tư nước ngoài, việc sử dụng, quản lý vốn không hiệu quả
Trái phiếu chính phủ mất giá, mức tín nhiệm bị hạ thấp.
Tăng khối lượng phát hành trái phiếu để lấy tiền trang trải chi phí an sinh xã hội, để bù đắp

-

thâm hụt ngân sách.
Mâu thuẫn giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ khi kích cầu.
Khủng hoảng tiết kiệm nội địa.
Các con số thông kê thiếu minh bạch, thay đổi niềm tin của giới đầu tư….
c.

Phân loại nợ công

Phân theo nguồn vay bao gồm: vay trong nước, vay nước ngoài.
• Vay trong nước: Chính phủ vay thông qua phát hành công cụ nợ.
• Vay nước ngoài: khoản vay ngắn hạn, trung - dài hạn phải trả lãi hoặc không phải trả lãi
do Nhà nước, Chính phủ, doanh nghiệp và tổ chức khác của Việt Nam vay của chính phủ
nước ngoài, tổ chức tài chính quốc tế, cá nhân nước ngoài.
Phân theo chủ thể đi vay bao gồm: Chính phủ, chính quyền địa phương, doanh nghiệp và
các tổ chức tài chính, tín dụng được Chính phủ bảo lãnh.
• Nợ Chính phủ: khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài, được ký kết
nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ tài chính ký kết,
phát hành, ủy quyền phát hành theo quy định của pháp luật. Nợ chính phủ không bao gồm

3



LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIÊN TÊ]
khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ
trong từng thời kỳ.
• Nợ được Chính phủ bảo lãnh: khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng vay
trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh.
• Nợ chính quyền địa phương: khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương ký kết, phát hành hoặc ủy quyền phát hành.
Phân theo loại hình vay bao gồm: vay hỗ trợ phát triển chính thức (vay ODA), vay ưu đãi,
vay thương mại.
• Vay hỗ trợ phát triển chính thức (vay ODA): khoản vay nhân danh Nhà nước, Chính phủ
Việt Nam từ nhà tài trợ là chính phủ nước ngoài, tổ chức tài trợ song phương, tổ chức liên
quốc gia hoặc tổ chức liên chính phủ có yếu tố không hoàn lại (thành tố ưu đãi) đạt ít nhất
35% đối với khoản vay có ràng buộc, 25% đối với khoản vay không ràng buộc.
• Vay ưu đãi là khoản vay có điều kiện ưu đãi hơn so với vay thương mại nhưng thành tố ưu






đãi chưa đạt tiêu chuẩn của vay ODA.
Vay thương mại là khoản vay theo điều kiện thị trường.
Phân theo thời hạn vay bao gồm: vay ngắn hạn, vay trung – dài hạn.
Khoản vay ngắn hạn là khoản vay có kỳ hạn dưới một năm.
Khoản vay trung - dài hạn là khoản vay có kỳ hạn từ một năm trở lên.
Phân theo loại lãi suất bao gồm: lãi suất cố định, lãi suất thả nổi.
Phân theo chủ nợ và nhóm chủ nợ: chủ nợ chính thức, chủ nợ tư nhân.
Chủ nợ chính thức: gồm chủ nợ song phương là các Chính phủ hoặc cơ quan đại diện cho


Chính phủ và chủ nợ đa phương là các tổ chức tài chính quốc tế đa phương.
• Chủ nợ tư nhân: gồm các ngân hàng thương mại, người sở hữu trái phiếu, các chủ nợ tư
-

nhân khác không thuộc chính phủ hoặc không đại diện cho chính phủ.
Phân theo công cụ nợ: gồm thỏa thuận vay, tín phiếu, trái phiếu, công trái và các công cụ nợ
khác.
d.

Các chỉ tiêu xác định tình trạng nợ công

Nợ công so với tổng sản phẩm quốc dân (GDP)
Nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP
Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài so với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu
Nợ chính phủ so với GDP
Nợ chính phủ so với thu ngân sách nhà nước
Nghĩa vụ nợ chính phủ so với thu ngân sách nhà nước
Nghĩa vụ nợ dự phòng so với thu ngân sách nhà nước
Hạn mức vay thương mại nước ngoài, bảo lãnh vay nước ngoài của Chính phủ
Thông thường người ta sử dụng chỉ tiêu nợ công so với tổng sản phẩm quốc dân
(GDP) để xác định tình trạng nợ công của một quốc gia.
4


LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIÊN TÊ]
2.

Khủng hoảng nợ công
a. Định nghĩa
Khủng hoảng nợ công là tình trạng nợ công tăng cao (vỡ nợ), làm chao đảo nền kinh


tế do sự mất cân đối giữa thu và chi ngân sách quốc gia. Nhu cầu chi nhiều quá, trong khi
thu không đáp ứng nổi, chính phủ đi vay tiền thông qua nhiều hình thức như phát hành công
trái, trái phiếu, hiệp định tín dụng,… để chi, từ đó dẫn đến tình trạng nợ. Thâm hụt ngân
sách kéo dài làm cho nợ công gia tăng. Nợ không trả sớm, để lâu thành "lãi mẹ đẻ lãi con"
và ngày càng chồng chất thêm.
b. Nguyên nhân chủ yếu gây ra tình trạng khủng hoảng nợ công:

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến nợ nần, mỗi nước tuỳ từng thời kỳ lại có nguyên nhân
khác nhau, nhưng tình trạng nợ công ở nhiều nước đều có chung một số nguyên nhân cơ
bản:
-

Gia tăng mạnh chi tiêu từ ngân sách nhà nước: lương và chi phí hoạt động của bộ máy nhà
nước ở các cấp có xu hướng ngày càng nhiều, các chương trình kinh tế, xã hội, văn hoá,
giáo dục, y tế, an ninh, quốc phòng, đầu tư phát triển có sở hạ tầng không ngừng tăng …,
đặc biệt, hậu quả to lớn của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu vừa qua đã buộc nhiều nước

-

phải chi rất nhiều để khắc phục.
Chính phủ không minh bạch trong kê khai số liệu: sự kiểm soát chi tiêu và quản lý nợ của
Nhà nước yếu kém, không chặt chẽ, thậm chí bị buông lỏng và tình trạng thất thoát, lãng phí
trong đầu tư và chi tiêu, cùng với tệ tham nhũng phát triển ở nhiều nước (điển hình Hy Lạp).
- Các nguồn thu (chủ yếu từ thuế) tăng không kịp với nhu cầu chi, thậm chí một số loại thuế
chịu áp lực phải cắt giảm. Như thuế quan và phí hải quan của hầu hết các nước phải cắt
giảm hoặc loại bỏ để phù hợp với các quy định của WTO và các thoả thuận thương mại
khác mà các quốc gia tham gia. Trong khi đó, vấn đề quản lý các nguồn thu, gặp không ít
khó khăn ở nhiều nước do tình trạng trốn thuế, tệ tham nhũng, hối lộ, kiểm soát không chặt


-

và xử lý không nghiêm của các cơ quan chức năng.
Tâm lý ảo tưởng về sức mạnh, uy tín quốc gia dẫn đến tình trạng vay nợ tràn lan, đầu tư quá
trớn, thiếu tính toán...với suy nghĩ chính phủ dư sức bù đắp thâm hụt ngân sách bằng nguồn
dự trữ ngoại tệ dồi dào và cả vay nợ (điển hình Argentina).
- Chính phủ không kịp thời khống chế hành vi cho vay thiếu trách nhiệm của một số ngân
hàng khi nền kinh tế tăng trưởng nóng và nhà đất tạo thành bong bóng. Mặt khác Chính
phủ đã lựa chọn bao cấp các ngân hàng này khi họ bị thua lỗ. (điển hình Ireland)

5


LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIÊN TÊ]
- Tỷ lệ tiết kiệm trong nước thấp đồng nghĩa với việc thâm hụt ngân sách của quốc gia sẽ khó

có thể bù đắp bằng các nguồn vốn nội địa và phải đi vay vốn từ nước ngoài.

Khủng hoảng nợ công hiện nay

II.
1.

Tình hình chung ở châu Âu
Khủng hoảng nợ công ở EU xuất phát từ Hy Lạp vào cuối năm 2009, Hy Lạp rơi vào

tình trạng lâm nguy về tài chính công với thâm hụt ngân sách ở mức 13,9% GDP, vượt gấp
4 lần giới hạn cho phép của SGP1. Mức thâm hụt ngân sách này cùng với khoản nợ công trị
giá 236 tỉ Euro, chiếm 115% GDP của Hy Lạp trong năm 2009 đã gấp tới 2 lần quy định về
nợ công trong SGP đã khiến Hy Lạp lâm vào cuộc khủng hoảng nghiêm trọng. Cuộc khủng

hoảng ở Hy Lạp xảy ra khi các nước EU chưa phục hồi sau cuộc khủng hoảng kinh tế đã lan
thành “đại dịch” toàn châu lục, khiến một loạt nước EU khác lâm vào khủng hoảng nợ công.
Sau một thập kỷ gần như đình trệ, tăng trưởng kinh tế của Bồ Đào Nha được dự báo
là rất yếu (0,6% năm 2010 và 1,1% năm 2011). Thâm hụt ngân sách nhà nước lên đến 9,4%
trong năm 2009. Nợ công cũng ở mức 76,6% GDP trong năm 2009 và có thể lên tới 84,6%
trong năm 2010.
Cùng với Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, từng tận hưởng hơn một thập kỷ kinh tế tăng
trưởng nhanh, từ lâu vẫn được đánh giá là nước có ngân sách cân bằng, mức nợ công thấp,
hiện cũng đang đứng trước những khó khăn không dễ tháo gỡ do nền kinh tế mất đi sức
cạnh tranh, tỷ lệ thất nghiệp tăng vọt. Thâm hụt ngân sách của Tây Ban Nha lên tới 11,2%
trong năm 2009 và có thể cao gấp ba mức trần của EU trong năm 2010. Chính phủ Tây Ban
Nha đã chi quá nhiều cho phúc lợi thất nghiệp và các biện pháp kích cầu sau khủng hoảng.
Tình hình tại bốn nền kinh tế lớn ở châu Âu là Anh, Pháp, Italy và Đức cũng đáng lo
ngại. Nợ công của Italy trong những tháng đầu năm 2010 vào khoảng 120,1% GDP, trong
khi thâm hụt ngân sách của Anh ở mức gần 12% GDP. Pháp cũng phải tạm ngừng mọi chi
tiêu cho khu vực công trong vài năm tới để giảm thâm hụt ngân sách, trong khi Đức đang
phải vật lộn để cân bằng mức thâm thủng ngân sách khổng lồ.
2.

Một vài nét về tình hình ở Hi Lạp
a. Thực trạng khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp
Hy Lạp được đặt vào tình trạng khủng hoảng nợ công kể từ cuối năm 2009, khi

Chính phủ mới của nước này thừa nhận rằng Chính phủ tiền nhiệm đã công bố những số
liệu kinh tế không trung thực, đặc biệt là về thâm hụt ngân sách.

1 Hiệp ước ổn định và tăng trưởng của Liên minh châu Âu EU

6



LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIÊN TÊ]
Thực tế thâm hụt ngân sách của nước này năm 2009 là 13,6% không phải là 6,7%
GDP như đã từng được báo cáo, cao hơn nhiều hạn mức thâm hụt ngân sách 3% GDP cho
phép đối với các nước thành viên EU. Đến năm 2010, báo cáo của OECD2 cho thấy nợ công
của Hy Lạp đã lên tới con số 330 tỷ Euro, tương đương với 147.8% GDP. Các chuyên gia
kinh tế dự đoán dù Hy Lạp có thực hiện được kế hoạch thắt lưng buộc bụng kéo dài 3 năm,
nợ

của

Hy

Lạp

đến

năm

2012

vẫn

tăng

lên

mức

172%


GDP.

Thâm hụt ngân sách trong 8 tháng đầu năm 2011 của Hy Lạp lên tới 18,1 tỷ euro
(24,67 tỷ USD), tăng mạnh so với 14,813 tỷ euro cùng kỳ năm ngoái. Như vậy, Hy Lạp
đang cùng lúc đối mặt với những vấn đề nan giải: nợ công quá cao (147,8%), thâm hụt ngân
sách lớn (13,6% GDP năm 2010), thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai lớn (trung bình vào
khoảng 9% GDP – so với mức trung bình của toàn khu vực Eurozone là 1%). Mức thâm hụt
ngân sách và thâm hụt cán cân vãng lai của Hy Lạp đều vượt quá trần quy định cho phép

2 Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (Organization for Economic Cooperation and Development)

7


LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIÊN TÊ]
của Liên minh Tiền tệ và Kinh tế châu Âu (EMU), đặc biệt vi phạm Hiệp ước Bình ổn và
Tăng trưởng của Liên minh châu Âu (EU) với quy định trần thâm hụt ngân sách 3% GDP.
Biểu đồ dưới cho thấy mức thâm hụt ngân sách của một số quốc gia Châu Âu:

(Nguồn: Morgan Stanley)
Việc ngụy tạo các số liệu nhằm che dấu thực trạng đất nước đã khiến uy tín của
Chính phủ Hy Lạp bị suy giảm nặng nề. Cả 3 hãng xếp hạng tín nhiệm lớn nhất thế giới
hiện đều đều hạ mức tín nhiệm của Hy Lạp xuống mức gần thấp nhất, đồng thời cảnh báo
nguy cơ vỡ nợ của nước này là rất cao. Lợi suất trái phiếu chính phủ Hy Lạp kỳ hạn 2 năm
đã tăng trên 60%, trong khi đó kỳ hạn 1 năm đã vượt 110%, đồng nghĩa với việc Hy Lạp
gặp nhiều khó khăn trong việc huy động vốn từ thị trường vốn quốc tế và chỉ có thể mong
đợi các khoản cứu trợ đặc biệt từ IMF, ECB3, một số quốc gia khác.
b.


Các gói cứu trợ cho Hy Lạp

Dưới sự nhất trí của 27 nước thành viên, quỹ Bình ổn Tài chính châu Âu (EFSF) đã
được thành lập ngày 9/5/2010, với mục tiêu duy trì sự ổn định cho khu vực EU thông qua
việc hỗ trợ các nước châu Âu, trong đó có Hy Lạp, những nước gặp khó khăn về tài chính.
Tháng 5/2010, các nhà lãnh đạo Eurozone và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) công bố gói
cứu trợ kỳ hạn 3 năm trị giá 110 tỷ EUR dành cho Hy Lạp. Sau đó, tháng 10/2010 IMF cho
3Ngân hàng Trung ương Châu Âu (European Central Bank)

8


LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIÊN TÊ]
Hy Lạp vay thêm 2,5 tỷ EUR, nâng tổng giá trị các khoản vay khẩn cấp mà IMF dành để
ngăn chặn khả năng vỡ nợ của nước này lên 10,58 tỷ EUR. Trong khoảng thời gian từ tháng
5/2010 và 6/2011, Ngân hàng Trung ương Châu Âu đã mua khoảng 45 tỷ EUR trái phiếu
chính phủ Hy Lạp. Ngoài ra, các khoản hỗ trợ thanh khoản mà ECB dành cho các ngân
hàng Hy Lạp đã tăng từ 47 tỷ EUR vào tháng 1/2010 lên 98 tỷ EUR vào tháng 5/2011.
Tuy vậy, khoản cứu trợ này dường như không giải quyết được vấn đề vì tới đầu tháng
9/2011, EU tiếp tục thông báo về việc sẽ triển khai gói cứu trợ thứ hai dành cho Hy Lạp.
Sau nhiều tháng tranh cãi, ngày 22/2/2012, các bộ trưởng tài chính khu vực Eurozone đã
thông qua thỏa thuận về một gói cứu trợ khổng lồ mới trị giá 130 tỷ Euro dành cho Hy Lạp.
Để nhận được gói cứu trợ trên, đổi lại Hy Lạp phải chấp nhận thực hiện mọi biện pháp tiết
kiệm có thể, nhằm giảm dần khoản nợ công xuống còn 120,5% GDP vào năm 2020. Chính
phủ Hy Lạp cần đến gói giải cứu này để tránh nguy cơ vỡ nợ vào ngày 20/3, khi các gói vay
đáo hạn đến kỳ trả nợ. Theo phóng viên BBC tại Brussels, thỏa thuận này có nghĩa Hy Lạp
sẽ cần phải tiến hành các biện pháp cắt giảm chi tiêu công mạnh tay hơn nữa. Nếu không,
nợ của Hy Lạp vào năm 2020 vẫn sẽ ở mức 129% GDP.
c.


Tác động của nợ công Hi Lạp đến tình hình tài chính tiền tệ

Đối với chính Hy Lạp:
Khủng hoảng tài chính trong nước. Hệ lụy đầu tiên Hy Lạp phải đối mặt là mất khả
năng tiếp cận thị trường tài chính quốc tế hoặc những điều kiện ưu đãi đi kèm các khoản
vay sẽ mất đi, chi phí lãi vay sẽ ở mức rất cao hoặc thậm chí không huy động được nguồn
vốn.
Ảnh hưởng nặng nề đến hệ thống ngân hàng khu vực Châu Âu và thế giới
Đức và Pháp là 2 nước chủ nợ lớn nhất của Hy Lạp. Theo ước tính của các chuyên
gia kinh tế, thiệt hại của các ngân hàng Pháp và Đức nếu Hy Lạp vỡ nợ lần lượt là 56,9 và
23,8 tỷ USD. Ngoài ra, việc Hy Lạp vỡ nợ cũng gây thiệt hại lớn cho ngân hàng Anh, Bồ
Đào Nha, Mỹ, Hà Lan, Nhật…ảnh hưởng đến an toàn hệ thống ngân hàng toàn cầu…

9


LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIÊN TÊ]

(Nguồn: Bank of International Settlement)
Top 10 những nước có giá trị các khoản nợ trực tiếp với Hy Lạp lớn nhất

(Nguồn: Cơ quan nghiên cứu thuộc Quốc hội Mỹ)
Bên cạnh đó, do những bất ổn, nghi ngờ gia tăng đối với những ngân hàng có liên
quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới những khoản nợ của Hy Lạp, các ngân hàng khác sẽ ngần
ngại gia hạn tín dụng cho nhau vì lo sợ vỡ nợ, hoặc các ngân hàng sẽ yêu cầu các khoản thế
chấp lớn hơn, gây ra làn sóng bán tài sản trên diện rộng. Đây là có thể là lịch sử lặp lại của
vụ phá sản Lehman Brothers4, dẫn tới sự sụp đổ của một loạt các thể chế tài chính lớn.

Hiệu ứng domino và hệ lụy đến tăng trưởng kinh tế toàn cầu
4 Đây là ngân hàng lớn thứ 4 của Mỹ bị phá sản năm 2008


10


LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIÊN TÊ]
Nếu Hy Lạp vỡ nợ, không trả đủ tiền, không trả được tiền cho các trái chủ sẽ tạo tiền
đề cho một loạt sự đổ vỡ tiếp sau đó. Lo lắng một cuộc khủng hoảng, đổ vỡ toàn cầu đang
tới gần khiến tâm lý thận trọng của nhà đầu tư tăng lên, ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động
đầu tư, chi tiêu của cá nhân…làm giảm tăng trưởng GDP của cả khu vực. Ngoài ra, các nền
kinh tế lớn cũng phải chia sẻ một phần nguồn lực tài chính của các chương trình hỗ trợ kinh
tế trong nước cho các gói cứu trợ Hy Lạp, qua đó giảm tăng trưởng kinh tế trong nước.
Như đã nói ở trên, Hy Lạp vỡ nợ đồng nghĩa với việc chi tiêu toàn cầu đặc biệt là từ Châu
Âu giảm sút. Ngoài ra, nước Mỹ cũng đang đứng trên bờ vực của suy thoái. Việc 2 đối tác
xuất khẩu chính của Trung Quốc gặp khó khăn khiến nhu cầu hàng hóa Trung Quốc có thể
giảm mạnh. Sự sụt giảm này được đánh giá là có tác động lớn tới Trung Quốc, có thể buộc
chính phủ phải từ bỏ cuộc chiến chống lạm phát để giữ cho nền kinh tế đang phát triển.
Bất ổn chính trị và xã hội
Việc Hy Lạp cũng như các quốc gia khác trong khu vực thực thi các chính sách thắt
lưng buộc bụng đã làm làm dấy lên làn sóng biểu tình phản đối trong khu vực đồng thời
cũng

làm

tăng

lên

những

bất


ổn



hội

khác.

Ngoài ra những cuộc đàm phán giữa các thành viên trong khu vực cho thấy những bất đồng
chính trị đang ngày càng lớn dần giữa các nước.
Đối với Việt Nam
Do đồng EUR giảm giá, nên các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường
EU sẽ bị đắt lên tương đối, do dó ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu của Việt nam vào thị
trường này. Dù Hy Lạp không phải là một nền kinh tế lớn ở châu Âu và quan hệ thương
mại, dòng vốn đầu tư với Việt Nam không lớn, nhưng Việt Nam sẽ chịu tác động gián
tiếp nếu cuộc khủng hoảng này nổ ra. Cuộc khủng hoảng nợ của châu Âu có thể gây gián
đoạn thương mại toàn cầu, ảnh hưởng tới nhu cầu xuất khẩu của châu Á, trong đó có Việt
Nam và khiến “các nguồn tiền nóng” chảy vào khu vực Châu Á giảm sút, góp gây mất cân
đối cán cân tổng thể của các quốc gia trong đó có Việt Nam.
III.
1.

Thực trạng nợ công ở Việt Nam và giải pháp
Thực trạng nợ công ở Việt Nam hiện nay
a. Tình hình nợ công ở Viêt Nam trong những năm gần đây
Tình hình nợ công ở Việt Nam liên tục tăng trong những năm gần đây. Theo số liệu

của The Economist5, vào năm 2001, nợ công của Việt Nam mới là chưa đầy 9 tỷ USD, bình
5 Tập đoàn báo chí của Anh.


11


LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIÊN TÊ]
quân mỗi người gánh số nợ công xấp xỉ 112 USD, và nợ công mới tương đương 28% GDP.
Tính tới thời điểm 16h40 ngày 12/10/2010 theo giờ Việt Nam, số nợ công toàn cầu được
hiển thị trên đồng hồ nợ công trên The Economist đạt mức 39.942.437.066.497 USD (gần
40 nghìn tỷ USD), và hiện nay, tổng nợ công của Việt Nam hiện là 50,935 tỷ USD, tương
đương 51,6% GDP.( hiện nay là khi nào zậy pé???)
Theo báo cáo của Bộ Tài chính tại kỳ họp Quốc hội vừa qua, ước tính đến ngày
31/12/2010 nợ công là 56,7% GDP, nợ chính phủ là 44,5% GDP và nợ nước ngoài của quốc
gia là 42,2% GDP. Trong bối cảnh khủng hoảng nợ công đang có nguy cơ lan rộng ở Châu
Âu, nhiều nhận định cho rằng, kinh tế Việt Nam đang đứng trước những rủi ro. Tuy nhiên,
nợ công đang ở mức cao nhưng với các khoản vay nước ngoài phần lớn đều là vay dài hạn,
với lãi suất ưu đãi, hiện tại nợ công không gây sức ép cho ngân sách nhà nước về nghĩa vụ
trả nợ đến hạn. Theo Bộ Tài chính hiện các chỉ số nợ của Việt Nam đang ở mức an toàn và
nợ công đang được quản lý chặt chẽ theo quy định của Luật Quản lý nợ công, các khoản nợ
trong nước và nước ngoài đều được thanh toán đầy đủ, không có nợ xấu. So với các nước
đang phát triển có cùng hệ số tín nhiệm thì chỉ số nợ công và nợ nước ngoài của Việt Nam ở
mức trung bình.
b. Nguyên nhân dẫn đến nợ công tại Việt Nam


Thứ nhất: Thâm hụt ngân sách
Nguồn thu (chủ yếu là thuế) giảm sút là nguyên nhân dẫn tới tình trạng thâm hụt ngân sách,
gia tăng nợ công. Trốn thuế, hoạt động kinh tế ngầm ở Việt Nam là nhân tố làm giảm
nguồn thu ngân sách (theo đánh giá của WB6, kinh tế không chính thức ở Việt Nam ở
mức 15,6% GDP). Hệ thống thuế với nhiều mức thuế cao và bộ luật phức tạp cùng với sự
điều tiết thiếu hiệu quả đã góp phần dẫn đến tình trạng trốn thuế và kinh tế ngầm phát




triển.
Tăng chi tiêu công quá nhiều. Trong nhiều năm nay, thu ngân sách đã tăng đáng kể nhưng
ngân sách nhà nước vẫn chỉ đáp ứng “khoảng 60% nhu cầu chi cần thiết tối thiểu”, theo báo
cáo về tình hình thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 2006 – 2010 của bộ Kế hoạch
và đầu tư, Bộ thừa nhận, ngoài mức thâm hụt ngân sách cao (từ 5 – 6,9% GDP trong những
năm gần đây), còn có những khoản chi ngoài ngân sách mà nếu đưa hết vào chi ngân sách
thì mức bội chi có thể lên đến trên 10%.

6 Ngân hàng thế giới.

12


LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIÊN TÊ]


Chi một khối lượng tiền lớn để kích thích nền kinh tế. Bội chi của Việt Nam luôn ở mức 5%
GDP từ nhiều năm gần đây. Trong khi tỷ lệ tăng trưởng của Việt Nam chỉ đạt 6,23%, thì tỷ
lệ lạm phát lên tới 22,97%, tỷ lệ bội chi ngân sách ở mức 4,58% GDP. Đứng trước tình hình
khủng hoảng, suy thoái kinh tế thế giới diễn biến ngày càng phức tạp, từ đầu năm 2009
Chính phủ đã đưa ra gói kích thích kinh tế có tổng giá trị gần 10% GDP. Về cơ bản nó đã
đạt được mục tiêu đề ra là ngăn chặn được đà suy giảm kinh tế tuy nhiên nó mang đến hệ
lụy: thâm hụt ngân sách của Việt Nam lên đến 87,3 nghìn tỷ đồng (gần 7% so với GDP).
Ngoài ra, không thể không nhắc đến mâu thuẫn của chính sách tiền tệ và chính sách tài
khóa. Độ trễ của các chính sách đã tác động đến không ít đến nền kinh tế, không kịp lúc dẫn




đến mức cung tiền tăng, lạm phát, tăng chi nhưng không hiệu quả.
Bên cạnh đó, Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ tham nhũng cao, việc nhận tiền hối
lộ còn khá phổ biến từ Trung ương đến địa phương.
Thứ hai: Sử dụng, quản lý vốn kém hiệu quả.
Nước ta chú trọng đến việc tăng trưởng, coi đầu tư là một động lực để tăng trưởng,
do đó chính phủ gia tăng huy động vốn như vay nước ngoài, phát hành trái phiếu
chính phủ….để đầu tư vào các dự án. Việc chính phủ đã chi tiêu quá tay (phần lớn
cho cơ sở hạ tầng) mà hầu như không quan tâm đến các kế hoạch trả nợ dẫn đến mức nợ
ngày càng tăng. Chúng ta cần vay nên sự tiếp cận với nguồn vốn đầu tư nước ngoài dễ dãi,
không chọn lọc, không cân nhắc nhà đầu tư, dẫn đến những dự án đầu tư đó không mang
lại hiệu quả cao, lãng phí nguồn vốn vay.
Thứ ba: Mức lãi suất ngày càng cao.
Việt Nam gia nhập nhóm nước thu nhập trung bình, các khoản vay quốc tế
ưu đãi sẽ dần không còn nữa mà thay vào đó là các khoản vay thương mại với lãi
suất cao hơn rất nhiều. Mức lãi suất cao khiến việc vay mới và tài trợ nợ công trở nên đắt
đỏ hơn, do vậy ảnh hưởng tới tính bền vững của nợ công. Tương tự như vậy, khi
Chính phủ phát hành trái phiếu quốc tế, phải trả cũng cao hơn so với các đối thủ
cạnh tranh (như Indonesia và Philippines) do mức độ rủi ro cao hơn.
Thứ tư: Về nguyên tắc, nợ công của Việt Nam bao gồm nợ của Chính phủ, phần vay của các
chính quyền địa phương, của doanh nghiệp do Chính phủ bảo lãnh. Tuy nhiên, nhiều chuyên
gia khuyến cáo cần tính tới cả phần doanh nghiệp Nhà nước tự đi vay, vì khoản vay của
doanh nghiệp hiện chiếm khoảng 10% tổng dư nợ công, cũng là khoản đáng lo ngại nhất bởi
phần lớn là vay hạn ngắn. Và suy cho cùng nếu doanh nghiệp có vấn đề gì, Nhà nước với tư

13


LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIÊN TÊ]
cách chủ sở hữu cũng sẽ phải đứng ra xử lý thay, đơn cử như trường hợp của một tập

đoàn kinh tế quy mô lớn gần đây Vinashin.
Thứ năm: tốc độ tăng trưởng GDP.
Tính bền vững của nợ công không chỉ phụ thuộc vào cán cân ngân sách mà
còn phụ thuộc vào một số nhân tố khác. Đầu tiên là tốc độ tăng trưởng GDP. Tốc
độ tăng GDP cao là điều kiện cần để tăng nguồn thu và đạt thặng dư ngân sách. Tuy
nhiên, nếu tăng trưởng GDP chỉ do tăng các yếu tố đầu vào vật chất (vốn và lao động) mà
không tăng được năng suất thì chắc chắn đến một lúc nào đó, tốc độ tăng trưởng sẽ
giảm. Có vẻ như điều này sẽ xảy ra cho Việt Nam trong khoảng 7-10 năm tới, vì
theo Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, trong những năm gần đây tốc
độ tăng năng suất của Việt Nam khá thấp, và tăng trưởng GDP chủ yếu nhờ vào việc
gia tăng lao động và vốn. Theo dự báo của EIU, tốc độ tăng GDP trung bình hằng
năm của Việt Nam sẽ giảm còn khoảng 5% sau năm 2020 và 3-4% sau năm 2030.
Thứ sáu: không minh bạch, rõ ràng trong thống kê, trong các con số. Khủng hoảng nợ công
cũng đến do việc chính phủ không minh bạch các số liệu, chính phủ cố gắng vẽ nên
bức tranh sáng, màu hồng về tình trạng ngân sách về những chính sách sắp ban
hành để khắc phục những khó khăn về ngân sách hay vấn đề kinh tế vĩ mô thì
hiệu lực của những chính sách đó sẽ bị hạn chế nhiều. Cũng chính điều này, mức tín
nhiệm của quốc gia dần hạ bậc, nguồn vốn do giới đầu tư nươc ngoài giảm dần, trái phiếu
chính phủ ngày càng mất giá.
Thứ bảy: khủng hoảng tiết kiệm nội địa. Tiết kiệm trong nước thấp dẫn đến việc
vay nợ cho chi tiêu công cao dẫn đến nợ công ngày càng tăng cao. Ngoài ra, hệ
thống lương hưu cũng tạo nên những gánh nặng không nhỏ cho chi tiêu công. Nếu so
sánh giữa mức gia tăng nợ công trong thời gian qua với tốc độ tăng trưởng GDP
thì việc Việt Nam mang nợ như hiện nay là không đáng. Không thể lấy một số
nước có tỷ lệ nợ so với GDP tới 200% để biện minh bởi họ là những nền kinh tế
phát triển, việc vay nợ được quản lý rất chặt và đầu tư hiệu quả. Việt Nam thì
chưa làm được điều này.
2.

Giải pháp từng bước đưa Việt Nam thoát khỏi khủng hoảng nợ công

Những năm gần đây nền kinh tế Việt Nam luôn có tốc độ tăng trưởng khá, ngay cả

năm 2009 khi kinh tế thế giới đang ở đà suy thoái, nhiều nền kinh tế lớn tăng trưởng âm thì
tốc độ tăng GDP của Việt Nam vẫn đạt 5,3%. Những năm tới, đối với Việt Nam nợ công vẫn
là nguồn tài chính quan trọng bù đắp thâm hụt ngân sách để chi đầu tư cho các mục tiêu
14


LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIÊN TÊ]
tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững. Tuy nhiên, việc gia tăng liên tục vay nợ công
cũng tạo ra rủi ro tiềm ẩn đối với ngân sách nhà nước, nhất là các rủi ro tài khoá. Để nợ
công được quản lý chặt chẽ, nâng cao hiệu quả sử dụng, giữ vững uy tín quốc gia, đảm bảo
an ninh tài chính, hạn chế rủi ro, nước ta cần nghiên cứu thực hiện:
Một là, bài học rút ra từ khủng hoảng nợ công ở EU, Chính phủ cần xây dựng kế hoạch vay
nợ công phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch thu, chi ngân sách nhà
nước trong từng giai đoạn. Xác định rõ mục đích vay, tài trợ thâm hụt ngân sách, tái cơ cấu
nợ, cho vay lại, tài trợ các chương trình, dự án đầu tư quan trọng, hay nhằm đảm bảo an
ninh tài chính quốc gia. Kế hoạch cần quy định rõ đối tượng sử dụng các khoản vay, hiệu
quả dự kiến, xác định thời điểm, số vốn vay từng giai đoạn, tránh tình trạng tiền vay không
được sử dụng trong thời gian dài hoặc chưa thực sự có nhu cầu sử dụng. Đảm bảo tính bền
vững về quy mô, tốc độ tăng trưởng của nợ công, có khả năng thanh toán trong nhiều tình
huống khác nhau, hạn chế rủi ro, chi phí. Muốn vậy, cần thiết lập ngưỡng an toàn nợ công,
thường xuyên đánh giá các rủi ro phát sinh từ các khoản vay nợ Chính phủ trong mối liên hệ
với GDP, thu ngân sách nhà nước, tổng kim ngạch xuất khẩu, cán cân thương mại, dự trữ
ngoại hối, dự trữ tài chính, quỹ tích lũy để trả nợ…
Hai là, tăng cường năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế bằng cách tăng năng suất lao
động, tăng chất lượng, sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu, thị trường đầu tư; sử dụng chính
sách tài khóa có hiệu quả, ổn định lại các yếu tố vĩ mô khác đảm bảo tăng trưởng bền
vững trong dài hạn, tuyệt đối không chạy theo chỉ tiêu tăng trưởng cao.
Ba là, đảm bảo tính an toàn, bền vững nợ, kiểm soát chặt chẽ, nâng cao hiệu quả các khoản

vay để cho vay lại và các khoản vay được Chính phủ bảo lãnh. Các khoản vay này thường
phát sinh khi doanh nghiệp cần huy động một lượng vốn lớn trên thị trường vốn quốc tế,
nhưng không đủ uy tín để tự mình đứng ra vay nợ. Khi đó, Chính phủ có thể giúp doanh
nghiệp tiếp cận với các nguồn vốn quốc tế với quy mô lớn, lãi suất thấp. Chính phủ là người
đứng ra vay nợ nhưng không phải là người sử dụng cuối cùng mà là các chủ dự án, các đơn
vị, doanh nghiệp thụ hưởng ngân sách...thực chất các khoản vay này là nghĩa vụ ngân sách
dự phòng, làm nảy sinh nguy cơ ngân sách nhà nước phải trang trải, gánh chịu hậu quả, rủi
ro các khoản nợ khi doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc mất khả năng thanh toán. Để bảo đảm
hiệu quả, cần hết sức cẩn trọng, phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản: kiểm tra, giám sát chặt
chẽ, thường xuyên quá trình sử dụng các khoản vay nợ, các khoản vay được Chính phủ bảo
lãnh, nhất là tại các đơn vị sử dụng trực tiếp vốn vay – tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà
15


LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIÊN TÊ]
nước, ngân hàng thương mại, các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng; không vay ngắn hạn để đầu tư
dài hạn; vay thương mại nước ngoài chỉ sử dụng cho các chương trình, dự án có khả năng
thu hồi vốn trực tiếp, bảo đảm khả năng trả nợ, chỉ nên ưu tiên cho các chương trình, dự án
trọng điểm của Nhà nước, thuộc các lĩnh vực ưu tiên cao của quốc gia, khuyến khích phát
triển mô hình hợp tác công - tư (PPP); cần có sự đổi mới quy trình, tiêu thức phù hợp và
chuẩn hóa để tạo căn cứ lựa chọn và thông qua các dự án đầu tư, nhà đầu tư theo lĩnh vực và
yêu cầu đầu tư, mục tiêu kinh tế-xã hội, môi trường, cũng như các lợi ích quốc gia; tiếp tục
đẩy mạnh cổ phần hóa, giảm, thu hẹp tỷ trọng và giảm thiểu số lượng doanh nghiệp mà Nhà
nước giữ cổ phần chi phối, chỉ duy trì doanh nghiệp 100% vốn nhà nước trong những
ngành, lĩnh vực mà nhà nước cần độc quyền, giữ vị trí then chốt của nền kinh tế.
Bốn là, cần xác định được mức thuế suất hợp lý để đạt được mức thuế tối ưu,
nâng cao hiệu quả công tác thu thuế, đồng thời nhanh chóng hoàn thiện các luật thuế, bãi bỏ
những khoản phí, lệ phí không còn phù hợp.
Năm là, công khai, minh bạch, có trách nhiệm giải trình trong quản lý nợ công. Nợ công cần
được tính toán, xác định đầy đủ trong quyết toán ngân sách nhà nước, phải được cơ quan

chuyên môn xác nhận. Kiểm toán Nhà nước với tư cách là cơ quan độc lập về kiểm tra tài
chính nhà nước cần được quy định rõ nhiệm vụ kiểm toán nợ công trong Luật Quản lý nợ
công và Luật Kiểm toán nhà nước. Kiểm toán Nhà nước kiểm tra, xác nhận số liệu nợ, đánh
giá tính bền vững của nợ Chính phủ so với GDP, trong mối quan hệ với bảo đảm an ninh tài
chính quốc gia; cơ cấu nợ, tỷ lệ vay nợ nước ngoài trong tổng số nợ; cơ chế quản lý nợ, mục
đích sử dụng các khoản vay nợ (nhất là nợ nước ngoài); tính minh bạch và đầy đủ trong các
khoản nợ… giúp Chính phủ có số liệu xác thực và thực trạng trung thực để đề ra các giải
pháp tổng thể bảo đảm bền vững của ngân sách trong tương lai. Kiểm toán nợ công cần
được tiến hành thường xuyên để có thể kiểm soát kịp thời các rủi ro trong quản lý.
KẾT LUẬN
Như vậy, nợ công và khủng hoảng nợ công không còn là vấn đề xa lạ đối với chúng ta nữa.
Giờ đây vấn đề này đang đặt ra một yêu cầu cấp bách cho tất cả những quốc gia đang gặp
phải khó khăn này cũng như những quốc gia khác cần tìm cách ngăn chặn và rút ra bài học
cho mình.

16


LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIÊN TÊ]
Mối đe dọa về khủng hoảng nợ công vẫn đang tiếp diễn và có nguy cơ lan rộng ra các quốc
gia khác ở châu Âu (Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Italia…) cũng như ảnh hưởng đến các quốc
gia khác trên toàn thế giới, trong đó có Việt Nam. Nghiên cứu về nợ công, những nguyên
nhân, tác động và ảnh hưởng của nó để từ đó có được những giải pháp phù hợp trong việc
quản lý nợ công và ngăn ngừa khủng hoảng nợ công là vấn đề cấp bách và cần được thực
hiện ngay.
Trên đây chỉ là một bài tiểu luận nhỏ mà chúng tôi muốn đề cập về nợ công và khủng hoảng
nợ công, mong là có phần nào tháo gỡ vướng mắc của mọi người. Xin chân thành cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS.Sử Đình Thành – TS. Vũ Thị Minh Hằng, “LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN
TỆ”, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia TP.HCM 2006.

2. “LUẬT QUẢN LÝ NỢ CÔNG”, Số 29/2009/QH12 ngày 17/06/2009
4. Các WEBSITE:
/> /> /> /> /> /> />
17



×