Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tiểu luận giải pháp phát triển thị trường tài chính việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.27 KB, 21 trang )

Thị trường tài chính Việt Nam – Thực trạng và giải pháp phát triển

LỜI MỞ ĐẦU
Thị trường tài chính là một sản phẩm bậc cao của nền kinh tế thị
trường-hay nói chính xác hơn,là nền kinh tế tiền tệ, ở đó,bên cạnh các thị
trường khác,thị trường tài chính hoạt động như là một sự kết nối giữa người
cho vay đầu tiên và người sử dụng cuối cùng, tạo ra vô số các giao dịch, và ở
mỗi giao dịch, dù động cơ nào ,cũng tạo ra các dòng chảy về vốn trong một
nền kinh tế - như là sự lưu thông máu trong một cơ thể - một nền kinh tế hoạt
động lành mạnh và có hiệu quả chỉ khi nào thị trường này cũng hoạt động có
hiệu quả như thế, và ngược lại.
Thị trường tài chính giúp cho việc sử dụng vốn có hiệu quả hơn, không
chỉ đối với người có tiền đầu tư mà còn cả với người vay tiền để đầu tư.
Người cho vay sẽ có lãi thông qua lãi suất cho vay. Người đi vay vốn phải
tính toán sử dụng vốn vay đó hiệu
Thị trường tài chính là chiếc cầu nối giữa cung và cầu vốn trong nền
kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi chuyển nguồn vốn nhàn rỗi sang nơi thiếu vốn
để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế. Thông qua thị trường tài chính hình
thành giá mua giá bán các loại cổ phiếu, trái phiếu, kỳ phiếu, giấy nợ ngắn
hạn, dài hạn…hình thành nên tỷ lệ lãi suất đi vay, lãi suất cho vay, lãi suất
ngắn, trung hạn và dài hạn.
Ở Việt Nam ,kể từ khi nền kinh tế chuyển sang vận hành theo cơ chế thị
trường, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập kinh tế khu vực và thế giới,gia
nhập WTO, lĩnh vực tài chính là lĩnh vực mang tính nhạy cảm luôn đòi hỏi sự
đổi mới cả về mặt nhận thức và thực tiễn.
Sau một qúa trình học hỏi,tìm tòi và nghiên cứu .Dưới sự chỉ dẫn của
PSG.TS Vũ Anh Tuấn, tôi đã thực hiện xong đề án “thị trường tài chính Việt
Nam,thực trạng và giải pháp phát triển”. Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ
nhiệt tình của công ty chứng khoán Thủ Đô, cùng những bạn bè gần xa đã có
những lời tư vấn và góp ý chân thành.


Chương I: Những vấn đề lý luận về tài chính và thị trường
tài chính
1.1 Tài chính và thị trường tài chính
1.1.1 Tài chính
1.1.1.1 Bản chất của tài chính:
Lịch sử xã hội cho thấy tài chính ra đời và phát triển gắn liền với sự ra
đời của nhà nước và sản xuất hang hoá.
Tài chính là hệ thống quan hệ kinh tế biểu hiện trong quá trình hình
thành,phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ trong nền kinh tế.

1


Thị trường tài chính Việt Nam – Thực trạng và giải pháp phát triển

Cần phân biệt quan hệ hàng hoá-tiền tệ và quan hệ tài chính. Trong
quan hệ hàng hoá-tiền tệ,thì tiền biểu hiện như vật ngang giá, vật trung gian
và giá trị thay đổi hình thức tồn tại từ hàng sang tiền đối với người bán và
ngược lại đối với người mua.
Cần phân biệt quan hệ hàng hoá-tiền tệ và quan hệ tài chính. Trong
quan hệ hàng hoá-tiền tệ,thì tiền biểu hiện như vật ngang giá, vật trung gian
và giá trị thay đổi hình thức tồn tại từ hàng sang tiền đối với người bán và
ngược lại đối với nguời mua.
Trong quan hệ tài chính thì khác,giá trị thực sự dịch chuyển từ chủ thể
này sang chủ thể khác. Chẳng hạn, khi một doanh nghiệp nộp thuế cho nhà
nước, giá trị dịch chuyển từ quỹ tài chính doanh nghiệp sang ngân sách nhà
nước,do đó quan hệ vè thuế là quan hệ tài chính.
Trong thơì kỳ quá độ,quan hệ tài chính biểu hiện qua các quan hệ dưới
đây:
-Quan hệ tài chính giữa các doanh nghiệp, dân cư, các tổ chức xã hội

với nhà nước.
Đây là nhóm quan hệ giá trị có tính chất bắt buộc tập trung vào ngân
sách nhà nước và sự phân phối giá trị đó phải bảo đảm cho các hoạt động của
nhà nước diễn ra bình thường. Trong mối quan hệ này giá trị dịch chuyển theo
hai chiều từ dân cư,doanh nghiệp và các tổ chức vào ngân sách nhà nước và
ngược lại.
-Quan hệ tài chính giữa các doanh nghiệp, tổ chức xã hội, dân cư với
hệ thống ngân hàng.
Trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần,hệ thống các ngân hàng,
các tổ chức tín dụng ngày càng giữ vị trí quan trọng trong việc tài trợ vốn cho
các hoạt động xã hội nói chung, sản xuất kinh doanh nói riêng, tạo thuận lợi
phát triển mạnh mối quan hệ tài chính-quan hệ tín dụng-giữa các doanh
nghiệp, các tổ chức dân cư với ngân hàng.
-Quan hệ tài chính giữa các chủ thể kinh tế với thị trường .
Đây là mối quan hệ thể hiện sự mua bán các “quỹ tiền tệ” tồn tại dưới
các hình thức khác nhau.Tham gia mua bán trên thị trường tài chính là hầu hết
các chủ thể kinh tế trong xã hội.Nhà nước cũng tham gia vào nhóm quan hệ
tài chính này với tư cách như người mua và bán các quỹ tiền tệ. Nhà nước bán
quỹ tiền tệ của mình bằng việc phát hành công trái. Trong mối quan hệ tài
chính nói trên, quan hệ mua bán “ vốn” giữa các doanh nghiệp và nhân dân
đặc biệt quan trọng. Nhà nước cần tạo ra các điều kiện và biện pháp hữu hiệu
để vừa hướng dẫn, điều tiết sự hình thành và phát triển của thị truờng tài
chính theo phương hướng đã định.

2


Thị trường tài chính Việt Nam – Thực trạng và giải pháp phát triển

-Quan hệ tài chính trong nội bộ mỗi chủ thể (doanh nghiệp, tổ chức xã

hội, dân cư…) :
Quan hệ này biểu hiện ở sự dịch chuyển của giá trị trong quá trình hoạt
động của mỗi tổ chức thông qua việc chi trả lương, thưởng cho viên chức,
công nhân, nguời lao động; phân phối thu nhập giữa các thành viên trong nội
bộ mỗi chủ thể.
Thông qua hướng dẫn, điều tiết, nhà nước vừa đảm bảo cho các quan
hệ tài chính không phát triển tự phát như trong chủ nghĩa tư bản; vừa hướng
dẫn mối quan hệ này phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.[1 ,trg204 206 ]
1.1.1.2 Chức năng của tài chính: tài chính có 2 chức năng
Thứ nhất, chức năng phân phối
Tài chính tham gia vào cả phân phối lần đầu và phân phối lại. Phân
phối lần đầu diễn ra trong lĩnh vực sản xuất vật chất giữa các doanh nghiệp
với người lao động và nhà nước. Cụ thể là sau khi các doanh nghiệp tiêu thụ
được sản phẩm, số doanh thu này sẽ được phân phối cho các quỹ: quỹ bù đắp
tư liệu sản xuất, quỹ trả công cho người lao động, khoản nộp thuế cho ngân
sách nhà nước, khoản trả lợi tức cổ phần,phần còn lại là lợi nhuận của các
doanh nghiệp để mở rộng sản xuất và nâng cao phúc lợi của doanh nghiệp.
Phân phối lại nhằm đáp ứng nhu cầu chung cho xã hội như: duy trì bộ máy
nhà nước, phát triển văn hoá, xã hội, y tế, thể thao… Quá trình phân phối lại
thông qua ngân sách nhà nước và các tổ chức tài chính trung gian(công ty tài
chính, ngân hàng thương mại, hợp tác xã tín dụng, công ty bảo hiểm…)
Thứ hai, chức năng giám đốc
Chức năng giám đốc của tài chính biểu hiện ở chỗ,tài chính có vai trò
như người “giám sát”, “đôn đốc”, “kiểm tra”, “điều chỉnh” tình hình hoạt
động của các doanh nghiệp. Cơ sở của chức năng giám đốc là sự thống nhất
giữa sự vận động của các quỹ tiền tệ với quá trình hoạt động của nhà nước và
của các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Thông qua sự vận động
của các quỹ tiền tệ, nguời ta có thể biết được tình hình thực hiện hoạt động
của các doanh nghiệp để có giải pháp điều chỉnh.
1.1.1.3 Vai trò của tài chính

Một là, điều tiết kinh tế
Nhà nước thực hiện vai trò này thông qua sự kết hợp hai chức năng:
phân phối và giám đốc. Trên cơ sở kiểm tra, giám sát bằng đồng tiền, nhà
nước nắm được thực tế hoạt động của nền kinh tế, từ đó phát hiện ra những
vấn đề cần can thiệp, điều tiết. Bằng các chính sách phân phối, nhà nước điều
tiết nền kinh tế theo kế hoạch đã định. Nhà nước có thể dung biện pháp đầu tư

3


Thị trường tài chính Việt Nam – Thực trạng và giải pháp phát triển

thêm vốn, bổ sung vốn để đẩy mạnh những ngành phát triển kém và các lĩnh
vực trọng yếu của nền kinh tế quốc dân. Nhà nước cũng có thể dung biện
pháp giảm vốn đầu tư và hỗ trợ để hạn chế phát triển những ngành và những
khâu chưa cần thiết… Đồn thời, nhà nước cũng có thể thông qua việc nâng
cao hoặc hạ thấp thuế suất để điều tiết hoạt động đầu tư kinh doanh giữa các
ngành nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển cân đối theo đinh hướng, muc
tiêu.
Hai là, xác lập và tăng cường các quan hệ kinh tế-xã hội
Để làm lành mạnh hoá quan hệ tài chính, một mặt nhà nước cần có
những biện pháp cấp bách điều chỉnh các quan hệ tài chính kể cả biện pháp
cấp bách buộc các doanh nghiệp thanh toán nợ nần trong thời gian ngắn. Mặt
khác, nhà nước còn phải chủ động tạo điều kiện thúc đẩy sự ra đời các thị
trường vốn trung hạn,dai hạn, nhất là thị trường chứng khoán và hướng dẫn
chúng phát triển đúng hướng.
Ba là, tích tụ và tập trung vốn, cung ứng vốn cho các nhu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Trong nền kinh tế luôn diễn ra quá trình di chuyển nguồn tài chính hai
chiều từ lĩnh vực sản xuất sang lĩnh vực phi sản xuất, từ trong nước ra nước

ngoài và ngược lại, từ lĩnh vực phi sản xuất sang lĩnh vực sản xuất và từ nước
ngoài vào trong nước. Nếu nhà nước có chính sách tốt điều chỉnh các quan hệ
tài chính nảy sinh trong các quá trình di chuyển nói trên thì có thể thúc đẩy
quá trình tập trung vốn cho đầu tư phát triển,giảm bớt các chi phí không cần
thiết và thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài.
Bốn là, tăng cường tính hiệu quả của sản xuất, kinh doanh
Thông qua việc điều chỉnh các quan hệ thu-chi tài chính và phân phối
thu nhập, theo nguyên tắc khuyến khích vật chất, xử lý chính xác mối quan hệ
về lợi ích kinh tế giữa nhà nước, doanh nghiệp và người lao động, tài chính có
thể nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh; thông qua chức năng
giám đốc, tài chính duy trì kỷ luật tài chính, góp phần đẩy lùi lãng phí, tham
ô…
Năm là, hình thành quan hệ tích luỹ, tiêu dung hợp lý
Nhà nước cần thường xuyên thực hiện việc phân phối lại và điều chỉnh
sự phân phối từng bước cho phù hợp, có thể điều tiết bằng cách đánh thuế thu
nhập người có thu nhập cao, hỗ trợ người có thu nhập thấp hoặc cũng có thể
thành lập các quỹ xoá đói giảm nghèo, quỹ hỗ trợ tạo việc làm cho người
nghèo, nâng lương cho người lao động ở các ngành có thu nhập thấp…
Sáu là, củng cố liên minh công-nông, tăng cường vai trò của nhà nước
và an ninh quốc phòng.

4


Thị trường tài chính Việt Nam – Thực trạng và giải pháp phát triển

Lý luận và kinh nghiệm thực tiễn cho thấy một nền kinh tế tài chính
lành mạnh theo hướng tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ xã hội, sẽ tạo
ra cơ sở kinh tế-xã hội vững chắc cho việc củng cố liên minh công-nông-trí
thức, nền tảng cho việc tăng cường vai trò của nhà nước và an ninh quốc

phòng. [ 1 ,trg 206 – 208 ] [5, trg 547]
1.1.2 Thị trường tài chính
1.1.2.1 Định nghĩa: “Thị trường tài chính là nơi diễn ra hoạt động giao
dịch và mua bán quyền sử dụng những khoản vốn thông qua các phương thức
giao dịch và những công cụ tài chính nhất định”
Đối tượng được mua bán trên thị trường tài chính là các khoản vốn
Để mua bán các khoản vốn này, người ta sử dụng các công cụ giao dịch nhất
định. [14 , web ]
1.1.2.2 Phân loại thị trường tài chính
Có nhiều cách đến phân loại thị trường tài chính:
 Nếu phân loại theo công cụ tài chính trên thị trường thì ta có:
- Thị trường nợ
- Thị trường chứng khoán
 Nếu phân loại theo thời gian luân chuyển vốn, ta có:
- Thị trường tiền tệ: thị trường có thời gian luân chuyển vốn không quá 1 năm
- Thị trường vốn: thị trường có thời gian luân chuyển vốn trên 1 năm trở lên
 Nếu phân loại theo hình thức phát hành, thì ta có:
- Thị trường sơ cấp: thị trường phát hànhc chứng khoán lần đầu tiên
- Thị trường thứ cấp: thị trường mua đi bán lại các chứng khoán
Tuy nhiên, trong thực tế việc sử dụng các hình thức phân loại nào thì sẽ
tuỳ thuộc vào vấn đề mà người ta muốn nghiên cứu đến. Thông thường, khi
nói đến thị trường tài chính người ta thường phân ra theo 2 cách dưới. [ 14,
web ]

1.2 Cấu thành của thị trường tài chính
Trong một thị trường tài chính hiện đại, luôn có ba thành phần cơ bản sau
đây tham gia: Người sử dụng cuối cùng,các định chế tài chính trung gian, và
các nhà đầu tư.
1.2.1 Người sử dụng cuối cùng
Những doanh nghiệp, tư nhân khi cần đầu tư vốn cho kế hoạch kinh

doanh của mình. Họ có thể huy động nguồn vốn này trên thị trường tài chính,
bằng nhiều hình thức khác nhau thông qua các định chế tài chính trung gian.

5


Thị trường tài chính Việt Nam – Thực trạng và giải pháp phát triển

Họ là những người sử dụng nguồn vốn này để thực hiện các kế hoạch kinh
doanh, tạo ra lợi nhuân. Đồng thời, họ cũng có những nghĩa vụ của người vay
nợ đối với người cho vay.
1.2.2 Các định chế tài chính trung gian
 Các tổ chức nhận ký gửi
Các tổ chức nhận ký gửi bao gồm các ngân hàng thương mại, các hợp tác xã
tín dụng. Các tổ chức này có đặc điểm chung là nhận tiền gửi và sau đó đem
cho vay trực tiếp tới các cá nhân, tổ chức cần vốn và một phần khác đem đầu
tư vào chứng khoán. Như vậy, thu nhập của tổ chức này có được từ 2 nguồn:
thu nhập từ tiền lãi cho vay và đầu tư chứng khoán; thu nhập từ các khoản phí
dịch vụ.
 Các tổ chức không nhận ký gửi
Loại tổ chức này bao gồm các tổ chức như: công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí,
quỹ đầu tư [ 14 , web ]
1.2.3 Nhà đầu tư
Nhà đầu tư là những ngưòi sẵn sang bỏ vốn ra để đầu tư cho các dự án kế
hoạch. Trong lĩnh vực tài chính,họ chính là thành phần đầu vào tạo ra nguồn
vốn cho các doanh nghiêp. Họ là những người gửi tiết kiệm ngân hàng, mua
cổ phiếu,trái phiếu. Mong muốn của các nhà đầu tư là số vốn của mình bỏ ra
tạo ra được lợi nhuận.

1.3 Vai trò của thị trường tài chính

Thị trường tài chính có 3 chức năng kinh tế cơ bản sau:
 Thứ nhất, hình thành giá các tài sản tài chính.
Thông qua tác động qua lại giữa những người mua và những người
bán, giá của tài sản tài chính (chứng khoán) được xác định, hay nói cách
khác, lợi tức cần phải có trên một tài sản tài chính được xác định. Yếu tố
thúc đẩy các doanh nghiệp gọi vốn chính là mức lợi tức mà các nhà đầu tư
yêu cầu; và với đặc điểm này của thị trường tài chính đã phát tín hiệu cho
biết vốn trong nền kinh tế cần được phân bổ như thế nào giữa các tài sản
tài chính. Quá trình đó được gọi là quá trình hình thành giá.
 Thứ hai, cung cấp một cơ chế để cho các nhà đầu tư bán một tài sản
tài chính.
Với đặc tính này, thị trường tài chính là thị trường tạo ra tính thanh khoản.
Thiếu tính thanh khoản, các nhà đầu tư phải nắm giữ tài sản tài chính cho đến
khi nào đáo hạn, hoặc đối với cổ phiếu cho khi nào công ty tự nguyện thu hồi
hoặc nếu không tự nguyện thì phải chờ thanh lý tài sản. Mặc dù tất cả các thị

6


Thị trường tài chính Việt Nam – Thực trạng và giải pháp phát triển

trường tài chính đều có tính thanh khoản, nhưng mức độ thanh khoản sẽ là
khác nhau giữa chúng.
 Thứ ba, giảm bớt chi phí tìm kiến và chi phí thông tin.
Để các giao dịch có thể được diễn ra thì những người mua và người bán
phải tìm được nhau. Họ phải mất rất nhiều tiền và thời gian cho việc tìm kiếm
này, ảnh hưởng đến lợi nhuận kỳ vọng của họ. Chi phí đó là chi phí tìm kiếm.
Bên cạnh đó, để tiến hành đầu tư họ cần có các thông tin về giá trị đầu tư như
khối lượng và tính chắc chắn của dòng tiền kỳ vọng. Thị trường tài chính nhờ
có tính trung lập này – là nơi để người mua, người bán đến đó tìm gặp nhau,

là nơi cung cấp các thông tin một cách công khai và đầy đủ - nên có khối
lượng giao dịch và giá trị giao dịch lớn vì thế nó cho phép giảm đến mức thấp
nhất những khoản chi phí trên.
Thị trường tài chính phát triển cùng với trình độ phát triển của nền kinh tế,
đi từ đơn giản đến phức tạp. Ở trình độ phát triển ngày càng cao, thị trường tài
chính ngày càng có nhiều loại trung gian tài chính tham gia. Các trung gian tài
chính ngày càng tạo ra nhiều loại sản phẩm tài chính đa dạng, đáp ứng ngày
càng đầy đủ nhu cầu của các bên tham gia thị trường. [ 2 , trg 23 ]

Chương II: Thực trạng hoạt động của thị trường tài chính
ở nước ta thời gian qua
2.1 Quá trình hình thành và phát triển của thị trường tài chính
1991 tới nay
Với sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam vào tháng 7 năm
2000. Ta có thể dựa vào cột mốc đó để chia ra làm hai giai đoạn hình thành và
phát triển của thị trường tài chính
2.1.1 Giai đoạn từ 1990 đến 2000
Đây là giai đoạn đầu, phôi thai cho một thị trường tài chính hoạt động
theo cơ chế thị trường. Do chịu ảnh hưởng của một thời kỳ chiến tranh lâu
dài, và thời kỳ trước đổi mới, nền kinh tế ta hoạt động một cách quan liêu và
bao cấp kém hiệu quả. Sau đổi mới năm 1986, một thị trường tài chính Việt
Nam đã dần dần thành hình. Điển hình là qua những sự kiện như:
 Tháng 5/1990, Hội đồng Nhà nước đã thông qua và công bố hai pháp
lệnh về Ngân hang: Pháp lệnh ngân hang nhà nước và Pháp lệnh ngân
hang, Hợp tác xã tín dụng và Công ty tài chính. Hai pháp lệnh nói trên
đã tạo cơ sở pháp lý để đổi mới cơ bản tổ chức và hoạt động của hệ
thống ngân hang, được coi là mũi đột phá mở đầu cho sự nghiệp đổi
mới hệ thống ngân hang, chính sách tiền tệ, tín dụng trong giai đoạn
1990- 2000.


7


Thị trường tài chính Việt Nam – Thực trạng và giải pháp phát triển

 Về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước: nhằm thu hút thêm các nguồn
vốn, tạo nên động lực, ngăn chặn tiêu cực, thúc đẩy DNNN làm ăn có
hiệu quả. Văn kiện đại hội Đảng VII khẳng định “ cần thực hiện các
hình thức cổ phần hoá có mức độ phù hợp với tính chất và lĩnh vực sản
xuất- kinh doanh “
 Hệ thống bảo hiểm xã hội Việt Nam ra đời và bước vào hoạt động từ
1/10/1995 đánh dấu một bước tiến quan trọng trong định hướng phát
triển của Đảng và Nhà nước
 Các chính sách và quản lý thuế được đưa ra và sửa đổi liên tục nhằm
đáp ứng kịp với nhu cầu phát triển của đất nước
 Về tổ chức thị trường tiền tệ: trong những năm này, chính phủ và Ngân
hàng Nhà nước đã rất chú trọng tạo dựng hệ thống thị trường tiền tệ
(bao gồm thị trường tiền gửi, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, thị
trường trái phiếu kho bạc, nghiệp vụ mở… ). Tuy chưa có điều kiện
phát triển nhưng hệ thống thị trường tiền tệ đã góp phần tích cực trong
việc khắc phục tình trạng ách tắc của lưu thông, thanh toán, phân phối
và điều chỉnh các nguồn vốn ở một mức độ nhất định; đồng thời mở ra
nhiều cơ hội kinh doanh cho các chủ thể kinh tế.
Trong giai đoạn này, thị trường tài chính đã dần dần có những bước đột
phá và thành công nhất đinh. Nhưng mức độ huy động vốn trong dân, và
từ nước ngoài vẫn chiếm một tỷ lệ chưa cao.
2.1.2 Giai đoạn từ năm 2000 cho đến này
Cột mốc đánh dấu đáng chú ý nhất, có ảnh hưởng lớn nhất và đáng tự
hào nhất của thị truờng tài chính Viêt Nam. Đó chính là sự ra đời của thị
trường chứng khoán, một thị trường vốn- một kênh huy động vốn hiệu quả

nhất cho nền kinh tê. Từ khi thị trường chứng khoán ra đời, đã tạo nên những
bước chuyển đổi và nhảy vọt quan trọng. Thị trường tài chính lớn mạnh hơn,
giúp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Sau sở giao dich chứng khoán TP.Hồ Chí Minh, rồi đến lượt trung tâm
giao dich chứng khoán Hà Nội ra đời. Thị truờng tài chính lại bùng nổ, với
hàng loạt quỹ đầu tư trong nước và nước ngoài ra đời, các ngân hàng thương
mại cổ phần nhiều hơn, mức độ huy động vốn lớn hơn, tạo ra một súc mạnh
lớn cho nền kinh tế. Uớc tính mức vốn hoá của thị trường chứng khoán hiện
nay đã là 40% GDP. Con số này sẽ ngày càng được tăng lên trong những thời
gian tới. Có thể nói rằng, chưa bao giờ thị truờng tài chính Việt Nam lại phát
triển manh mẽ như lúc này. [ 4 , trg 331 - trg 337 ] [10, web] [9, web ]

2.2 Vai trò thị trường tài chính trong phát triển kinh tế thị trường
ở nước ta những năm qua

8


Thị trường tài chính Việt Nam – Thực trạng và giải pháp phát triển

Thị trường tài chính đóng vai trò là kênh dẫn vốn từ người tiết kiệm
đến người kinh doanh. giúp cho việc chuyển vốn từ người không có cơ hội
đầu tư sinh lợi đến những người có cơ hội đầu tư sinh lợi. Hiện nay, nguồn
vốn đầu tư đóng góp khoảng 50% - 55% tăng trưởng kinh tế hằng năm. Bởi
vậy, huy động vốn cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội là một khâu cốt yếu
của toàn bộ hệ thống các ngân hàng nước ta.
Trong điều kiện vốn ngân sách nhà nước có hạn, vốn tự có của doanh
nghiệp và người sản xuất còn ít ỏi, thì vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh chủ
yếu dựa vào vốn tín dụng ngân hàng. Để có vốn cho vay, các ngân hàng
thương mại (NHTM) đã huy động vốn trong xã hội, vốn trong dân, vốn nước

ngoài. Hệ thống ngân hàng huy động vốn cho đầu tư phát triển bằng đa dạng
các phương thức, như: giải tỏa vốn đọng trong số nợ xấu, phát hành cổ phiếu
và trái phiếu tăng vốn điều lệ, thu hút tiền gửi tiết kiệm và phát triển dịch vụ
ngân hàng.
Tổng nguồn vốn huy động của các NHTM và tổ chức tín dụng toàn
quốc trong 5 năm qua đạt tốc độ tăng khoảng 20% - 25%/năm, gấp hơn 3 lần
tốc độ tăng trưởng kinh tế. Cụ thể năm 2000 vốn huy động của hệ thống ngân
hàng tăng 26,5% so với năm trước, năm 2001 tăng 25,53%, năm 2002 tăng
17,7%, năm 2003 tăng 24,94%, năm 2004 tăng 30,39%, năm 2005 tăng 18%
và 6 tháng đầu năm 2006 tăng hơn 12%.
Có thể khẳng định, hệ thống ngân hàng đóng vai trò chủ lực đáp ứng
nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Đáng chú ý là các NHTM nhà nước chiếm trên
70% thị phần huy động vốn; thị phần của các NHTM cổ phần tuy còn khiêm
tốn, nhưng đang có xu hướng tăng nhanh. Bên cạnh các kênh huy động vốn
nói trên hệ thống ngân hàng còn là đầu mối đàm phán và ký kết, tổ chức tiếp
nhận vốn và cho vay nhiều dự án của WB, ADB,... về điện lực, giao thông
nông thôn, cải thiện môi trường, xóa đói giảm nghèo.
Huy động vốn của ngân sách chủ yếu bằng hình thức phát hành tín
phiếu Kho bạc nhà nước qua đấu thầu tại Ngân hàng Nhà nước, với sự tham
gia của các ngân hàng, tổ chức bảo hiểm, quỹ đầu tư...; phát hành trái phiếu
Chính phủ trong và ngoài nước, phát hành công trái và vốn của Công ty dịch
vụ tiết kiệm Bưu điện, vốn của Bảo hiểm xã hội chuyển cho Quỹ hỗ trợ phát
triển (nay là Ngân hàng Phát triển). Thêm vào đó còn có nguồn vốn ODA do
Ngân hàng Phát triển cho vay lại.
Trong giai đoạn 2001 - 2005, Chính phủ đã phát hành khoảng gần
60.000 tỉ đồng trái phiếu; trong đó 50.000 tỉ đồng phát hành qua Kho bạc Nhà
nước, 8.000 tỉ đồng phát hành qua đấu giá trên Trung tâm Giao dịch chứng
khoán Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh... Cuối năm 2005, Chính phủ cũng
lần đầu tiên phát hành 750 triệu USD trái phiếu ra thị trường quốc tế, thời hạn
trái phiếu là 10 năm. Giá bán cuối cùng của trái phiếu cho các nhà đầu tư


9


Thị trường tài chính Việt Nam – Thực trạng và giải pháp phát triển

nước ngoài bằng 98,223% mệnh giá, với lãi suất là 6,875%/năm, tính ra theo
lãi suất của nó, lãi suất của 100% mệnh giá trái phiếu là 7,125%/năm. So với
một số nước có mức độ tín nhiệm tương đương Việt Nam thì lãi suất trái
phiếu của Việt Nam thấp hơn. Cụ thể, lãi suất trái phiếu cùng kỳ hạn của Philip-pin là 8,075%/năm, của In-đô-nê-xi-a là 7,75%/năm. Toàn bộ số vốn phát
hành trái phiếu Chính phủ nói trên được Bộ Tài chính để Tổng công ty Công
nghiệp tàu thủy Việt Nam vay lại đầu tư cho các dự án đóng tàu.
Đến ngày 31-12-2005, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà
nước đã tham gia với tư cách "vốn mồi" để thực hiện trên 6.600 dự án thuộc
đối tượng hỗ trợ theo quy định của Chính phủ với tổng số vốn theo hợp đồng
tín dụng đã ký khoảng 160.000 tỉ đồng, đã giải ngân gần 110.000 tỉ đồng, dư
nợ 79.578 tỉ đồng. Cùng với hình thức hỗ trợ trực tiếp, hình thức bảo lãnh tín
dụng và hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cũng được đẩy mạnh. Đến nay đã có 1.846
dự án được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư với tổng số vốn hỗ trợ theo hợp đồng là
1.550 tỉ đồng và 5 dự án được bảo lãnh tín dụng đầu tư với tổng số vốn gần
30 tỉ đồng; với hai hình thức hỗ trợ gián tiếp này đã tạo vốn để huy động hàng
chục ngàn tỉ đồng từ các nhà đầu tư, tổ chức tín dụng cho đầu tư phát triển.
Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đã huy động gần 7.000 tỉ đồng trái phiếu
địa phương; riêng Hà Nội cũng huy động được hàng trăm tỉ đồng qua phát
hành trái phiếu xây dựng cầu Thanh Trì. Đây là một giải pháp rất quan trọng
để huy động vốn cho đầu tư phát triển, giảm sức ép về cung ứng vốn từ hệ
thống ngân hàng, phù hợp với thông lệ quốc tế.
Để giảm sự phụ thuộc vào vốn vay ngân hàng và được phép của Chính
phủ, một số loại trái phiếu doanh nghiệp cũng được phát hành để huy động
vốn trong xã hội, như: trái phiếu của Tổng công ty Điện lực Việt Nam, trái

phiếu của Tổng công ty Dầu khí... Tính đến nay, số vốn trái phiếu doanh
nghiệp phát hành cũng lên tới vài nghìn tỉ đồng. [ 7, web][9, web][12, web]
Một kênh huy động vốn quan trọng khác là cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nước theo hình thức bán đấu giá và bán cổ phần của Nhà nước trong các
doanh nghiệp cổ phần hóa mà cổ phiếu có tính thanh khoản cao, lợi nhuận
hấp dẫn, như: Vinamilk, Công ty Cao su miền Nam, một số nhà máy điện... đã
thu được hàng nghìn tỉ đồng cho ngân sách nhà nước. Đó là chưa kể hàng
chục ngàn tỉ đồng đã được huy động trong doanh nghiệp tư nhân.

2.3 Thành tựu và những vấn đề cần đặt ra
Việt Nam đã có những bước đi hết sức quan trọng trong việc mở cửa
hội nhập với nền kinh tế thế giới. Việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO) mở ra nhiều cơ hội mới cho Việt Nam trên con đường phát triển đất
nước. Hệ thống pháp luật ngày càng thông thoáng được đưa vào áp dụng

10


Thị trường tài chính Việt Nam – Thực trạng và giải pháp phát triển

nhằm mở mang chính sách tài chính và ngân hàng đáp ứng với yêu cầu hội
nhập
Môi trường đầu tư kinh doanh tiếp tục được cải thiện mạnh mẽ, đặc biệt
Luật Doanh nghiệp và Luật đầu tư chung có hiệu lực từ tháng 7 năm 2006 là
một bước tiến mang tính đột phá. Thực tế đã mở ra nhiều cơ hội mới cho
cộng đồng các doanh nghiệp trong và ngoài nước, thị trường hàng hóa và
dịch vụ được mở rộng với những luật lệ rõ ràng và minh bạch hơn.Nước ta
mở cửa mạnh mẽ nền kinh tế tạo ra rất nhiều cơ hội cho các nhà đầu tư và
dòng vốn từ các nền kinh tế lớn chảy vào gia tăng đáưng kể.
Đặc biệt là sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam vào tháng 7

năm 2000 đã đánh dấu một cột mốc quan trọng trong sự phát triển của thị
trường tài chính. Thị trường chứng khoán ra đời càng lúc càng lớn mạnh, đầu
tiên là trung tâm giao dịch chứng khoán Hồ Chí Minh( giờ đã chuyển thành
Sở giao dịch chứng khoán ) ,rồi đến trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội.
Mức vốn hóa trên thị trường chứng khoán hiện nay đã chiếm 40% GDP. Đây
là những thành tựu đáng tự hào vì đã đạt được. Tuy nhiên, để nền kinh tế đất
nước phát huy được hết tiềm năng, thì việc thiết lập một cơ sở hạ tầng tài
chính hiệu ích là vô cùng quan trọng.
Trong đó việc cải thiện các yếu tố kinh tế cơ bản và các cải cách chính
sách đang thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn tại Việt Nam. Sự phát
triển của thị trường tài chính bao gồm thị trường vốn và thị trường tiền tệ có
tầm quan trọng đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất nước.
Trong đó sự phát triển thị trường trái phiếu cũng như kế hoạch cổ phần
hóa có tác động mạnh mẽ đến thị trường cổ phiếu sẽ tạo thêm nhiều cơ hội
cho các nhà đầu tư tham gia lớn hơn. Phát triển hội nhập kinh tế khu vực và
thế giới cũng nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng của tín dụng nội địa một cách
lành mạnh, đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu hữu hiệu.
Trong thực tiễn đã có những tiến bộ đáng kể đối với hệ thống ngân hàng và
hội nhập thị trường vốn quốc tế. Khu vực ngân hàng tiếp tục phát triển mạnh
và kế hoạch cổ phần hóa các ngân hàng quốc doanh có ảnh hưởng rất lớn đến
sự phát triển của thị trường này. Do đó cần quan tâm tới các vấn đề cổ phần
hóa trong ngành ngân hàng, tình trạng nợ xấu đe dọa đến sự ổn định của hệ
thống tổ chức tín dụng và các ngân hàng nước ngoài đóng vai trò đáng kể
trong việc phát triển thị trường tài chính.
Việt Nam đã thực hiện hàng loạt biện pháp cải cách, trong đó có nhiều
nỗ lực đối với việc đơn giản hóa các thủ tục đầu tư kinh doanh cho mọi loại
hình doanh nghiệp. Thực tế đòi hỏi tiếp tục tăng cường hơn nữa sự lành mạnh
toàn diện để xây dựng một hệ thống ngân hàng có thể đủ sức chống chọi lại
được những biến động trong các dòng vốn đóng vai trò rất quan trọng cho sự
phát triển kinh tế - xã hội. Đó là một hệ thống ngân hàng phát triển mạnh các


11


Thị trường tài chính Việt Nam – Thực trạng và giải pháp phát triển

dịch vụ hiện đại mang lại nhiều tiện ích cho đầu tư và có thể điều phối được
nguồn vốn vào Việt Nam một cách có hiệu quả là hết sức cần thiết.
Việt Nam ngày nay phải nỗ lực nhiều hơn nữa nhằm phát triển một thị
trường vốn năng động, thiết lập cơ sở hạ tầng tín dụng có thể đáp ứng được
nhu cầu tăng trưởng kinh tế. Song song đó là xây dựng mạng công nghệ thông
tin hoàn chỉnh, thiết lập hệ thống đánh giá tín nhiệm đáng tin cậy và những
hành lang pháp lý phù hợp cho việc phát triển mạnh nguồn vốn của doanh
nghiệp. Đặc biệt là đẩy mạnh tốc độ cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước
và đưa những doanh nghiệp này tham gia thị trường chứng khoán.
Đây là một cam kết thúc đẩy mạnh hơn nữa sự phát triển của thị trường
tài chính rộng lớn và qua đó nâng cao lòng tin đối với các nhà đầu tư. Việt
Nam đang tiếp tục hoàn thiện các khuôn khổ pháp lý theo hướng tiếp cận
thông lệ quốc tế, tăng cường các biện pháp chống tham nhũng, chống rửa tiền,
cải cách hành chính, lành mạnh hệ thống tài chính; duy trì tốc độ tăng trưởng
bền vững, thúc đẩy quá trình quản trị doanh nghiệp, phát triển nguồn nhân
lực, cơ cấu lại các khu vực kinh tế nhà nước và tạo ra sự bình đẳng cho tất cả
các thành phần kinh tế.
Sự phát triển của Việt Nam nói chung và TPHCM nói riêng là hướng về
phía trước và có một lộ trình cụ thể thực hiện điều này với một dân số trẻ
trung đầy lạc quan sẽ gặt hái được thành công hậu WTO. Các tập đoàn nước
ngoài đầu tư mạnh hơn vào Việt Nam chính vì tiềm năng của đất nước và họ
đánh giá tương lai nước ta sớm trở thành một trong những nền kinh tế năng
động nhất tại châu Á. TPHCM không thể bỏ lỡ cơ hội nhanh chân xây dựng
nơi đây là một trung tâm tài chính của khu vực Đông Nam Á, trong đó xác

định thu hút đầu tư nước ngoài về lĩnh vực tài chính - ngân hàng là một nhiệm
vụ trọng tâm, tạo động lực cho kinh tế Việt Nam hội nhập hiệu quả vào kinh
tế khu vực và thế giới. [9 ,web] [13, web]

Chương III: Giải pháp thúc đẩy phát triển thị trường tài
chính
3.1 Định hướng mở rộng và phát triển thị trường tài chính Việt
Nam hội nhập thế giới
Trên cơ sở quán triệt quan điểm của Đảng về phát triển nhanh, hiệu quả
và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã
hội và bảo vệ môi trường; coi trọng phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm,
xây dựng đồng bộ nền tảng cho một nước công nghiệp là yêu cầu cấp thiết.
Định hướng phát triển tài chính được hoạch định và thực thi dựa trên những
quan điểm sau:

12


Thị trường tài chính Việt Nam – Thực trạng và giải pháp phát triển

 Tài chính là mạch máu của nền kinh tế; có vai trò quan trọng trong việc
thúc đẩy và mở đường cho sự phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế,
thực hiện các chính sách xã hội, đảm bảo quốc phòng và an ninh; là
công cụ sắc bén để Nhà nước quản lý và điều tiết vĩ mô, thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của
nền kinh tế.
 Chính sách tài chính quốc gia phải hướng vào giải phóng triệt để các
nguồn lực trong nước. Đồng thời, xây dựng chính sách động viên hợp
lý, hiệu quả mọi nguồn lực quốc gia cho phát triển kinh tế-xã hội.
 Chính sách phân phối và sử dựng các nguồn lực tài chính phải đảm bảo

hợp lý và hiệu quả để khuyến khích phát triển sản xuất; thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; giải quyết hài
hòa lợi ích của các chủ thể tham gia vào quá trình phân phối; tăng
cường kiểm tra giám sát tài chính, đảm bảo sử dụng tiết kiệm triệt để
mọi nguồn lực tài chính quốc gia.
 trong hội nhập và hợp tác tài chính quốc tế, mở rộng quan hệ tài chính
đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế về tài chính để phát triển nền tài
chính quốc gia.
 Quản lý nhà nước về tài chính bằng pháp luật, đảm bảo tính thống
nhất,minh bạch, kỷ cương và hiện đại hóa nền tài chính quốc gia; xây
dựng đội ngũ công thức tài chính giỏi về chuyên môn, có đạo đức nghề
nghiệp, trong sạch, chí công, vô tư. [4 ,trg 163 – 165]

3.2 Các giải pháp mở rộng thị trường tài chính
3.2.1 Thứ nhất, khai thác và động viên cao độ đi đôi với phân phối hợp lý
và sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính để đầu tư phát triển kinh tế-xã
hội. Tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, hấp dẫn, thúc đẩy mọi thành phần
kinh tế trong và ngoài nước tham gia đầu tư phát triển kinh tế-xã hội. Phân
phối và sử dụng hợp lý, tiết kiệm có hiệu quả nguồn lực đầu tư của toàn xã
hội, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển đồng bộ các vùng, thực
hiện các mục tiêu phát triển kinh tế gắn với đảm bảo công bằng xã hội.
3.2.2 Thứ hai, đổi mới và phát triển doanh nghiệp theo hướng nâng cao
chất lượng, hiệu quả sản xuất kinh doanh và năng lực cạnh tranh. Bên cạnh
việc đẩy nhanh quá trình đổi mới sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước cần xây
dựng cơ chế chính sách tài chính doanh nghiệp ổn định, bình đẳng, minh
bạch; tăng cường quyền tự chủ kinh doanh, tự chủ tài chính và tự chịu trách
nhiệm của các doanh nghiệp trong đầu tư và huy động vốn.

13



Thị trường tài chính Việt Nam – Thực trạng và giải pháp phát triển

3.2.3 Thứ ba, đổi mới chính sách tiền tệ, nâng cao năng lực của hệ thống
ngân hàng. Phối hợp đồng bộ giữa chính sách tiền tệ với chính sách tài khoá,
đảm bảo an toàn tài chính và sự ổn định kinh tế vĩ mô.
Mở rộng hệ thống ngân hàng, cả về số lượng lẫn chất lượng.Tạo điều
kiện thúc đẩy và là nhân tố quan trọng giúp lưu thông tiền tệ, làm cho thị
trường tài chính lưu động hơn,tạo tính thanh khoản cao.
Hiện nay, Có thể thấy rằng, các ngân hàng Việt Nam ngày càng có vai
trò quan trọng đối với nền kinh tế. Hiện ngân hàng đã là kênh huy động, cung
ứng vốn chính cho nền kinh tế với 30% vốn đầu tư phát triển hàng năm và
40% tổng nhu cầu vốn của các doanh nghiệp được tài trợ bởi tín dụng ngân
hàng. Tuy còn thấp hơn so với một số nước khác, nhưng tổng dư nợ tín dụng
qua hệ thống ngân hàng vào cuối năm 2005 đã trên 60% GDP, cao hơn mức
bình quân chung của các nước có thu nhập thấp.
Không những thế, nếu trong những năm giữa thập niên 1990, phần lớn (hơn
ba phần tư) nguồn vốn của các ngân hàng đổ vào các doanh nghiệp nhà nước,
thì đến cuối năm 2005, con số này chỉ còn khoảng 30%.
Ngoài ra, các sản phẩm dịch vụ, nhất là dịch vụ ngân hàng bán lẻ, ngày
càng đa dạng và phong phú hơn. Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày một
quyết liệt hơn, các ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng nước ngoài
ngày càng lớn mạnh và đóng vai trò tích cực hơn rất nhiều.
Để xây dựng nên một hệ thống ngân hàng lớn mạnh cả về qui mô lẫn chất
lượng. Giải pháp được đưa ra là cổ phần hóa, kêu gọi các nhà đầu tư chiến
lược nước ngoài. Việc có các nhà đầu tư chiến lược là điều hết sức quan trọng.
Họ sẽ giúp nâng cao khả năng quản trị, xây dựng chiến lược dài hạn... Bằng
chứng là hệ thống ngân hàng các nước đông Âu đã tốt lên rất nhiều nhờ các
nhà đầu tư chiến lược. Đây cũng là lý do khiến các ngân hàng thương mại nhà
nước Trung Quốc không ngần ngại bán ngay cổ phần cho những đại gia như

Bank of America, HSBC, Royal Bank of Scotland
Hiện nay,một số ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam đã có những
bước tiến rất vượt bậc. Họ đã có những nhà đầu tư chiến lược quan trọng từ
nước ngoài, không những mức độ vốn hóa trên thị trường của các ngân hàng
trên thị trường càng lúc càng tăng nhanh chóng, mà trình độ quản lý cũng
được cải thiện và mang tính chuyên nghiệp cao.
Trên thị trường hiện nay đã có hai ngân hàng niêm yết trên thị trường
chứng khoán tập trung đó là ngân hàng thương mại cổ phần SACOMBANK
và ngân hàng thương mại Á Châu (ACB). Sắp tới đây, nhưng đại gia ngân
hàng lớn cũng chuẩn bị cổ phần hóa, mà điển hình la Vietcombank , hay ngân
hàng đầu tư và phát triển BIDV cũng đã có kế hoạch cổ phần hóa trong năm
2008.

14


Thị trường tài chính Việt Nam – Thực trạng và giải pháp phát triển

3.2.4 Thứ tư, phát triển thị trường tài chính, thị trường dịch vụ tài chính,
đáp ứng yêu cầu thu hút các nguồn lực tài chính cho đầu tư phát triển.
Thị trường vốn, đặc biệt là thị trường chứng khoán. Cần được mở rộng
và phát triển hơn nữa. Hiện tại vốn hóa thị trường chứng khoán VN đã đạt
khoảng 45% GDP, nếu tính cả trái phiếu thì tương đương hơn 50% GDP. Theo
Phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng, tốc độ tăng trưởng của thị trường chứng
khoán thời gian qua đã đáp ứng khá tốt nhu cầu của nhà đầu tư trong và ngoài
nước.
Tuy nhiên, thị trường chứng khoán vốn nhạy cảm nên để phát triển
nhanh và bền vững trong những năm sắp tới, các cơ quan quản lý phải xây
dựng một thị trường chứng khoán hiện đại. Để làm được điều đó, việc đầu tư
phải tập trung vào một số yếu tố quan trọng như xây dựng hệ thống pháp lý

đồng bộ, tạo điều kiện cho thị trường phát triển nhưng vẫn phải có sự giám
sát, phân tích, dự báo chặt chẽ; sử dụng công nghệ hiện đại; đào tạo đội ngũ
cán bộ có năng lực cao, thích ứng được xu hướng tăng của thị trường.
Theo số liệu của Ủy ban chứng khoán Nhà nước, đến nay cả hai sàn
HOSE và HASTC đã có 225 doanh nghiệp niêm yết. Mới đầu, chỉ có những
doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp lên sàn, đến nay dần dần đã mở rộng
sang tài chính, ngân hàng, thực phẩm, dược phẩm, công nghệ thông tin, xây
dựng... Không chỉ doanh nghiệp trong nước mà cả những doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài cũng tham gia niêm yết, giúp thị trường ngày càng trở
nên sôi động hơn. [11, web][13, web][ 9,web]
Để phát triển thị trường chứng khoán ngày càng bền vững, và quy mô
ngày càng cao càng rộng. Cần phải có những chính sách phù hợp và hợp lý.
Những chính sách của Chính phủ, Ủy ban chứng khoán nhà nước đều có
những sự tác động sâu xa đến thị trường chứng khoán. Điển hình như, chỉ thi
03 của Ủy ban chứng khoán vừa mới đây, đã làm cho thị trường có những tác
động nhất định. Hay là dự thảo về thuế thu nhập chứng khoán, đều là những
chính sách có ảnh hưởng rất mạnh đến sự phát triển của thị trường chứng
khoán.
Không nổi đình đám như thị trường chứng khoán và ngân hàng nhưng
trong tuần qua, thị trường bảo hiểm VN cũng có những hoạt động đáng chú ý.
Liên quan đến chứng khoán, Công ty môi giới bảo hiểm Gras Savoye Willis
Vietnam đã có buổi giới thiệu về loại hình bảo hiểm cho các công ty chứng
khoán Việt Nam. Theo kế hoạch, công ty này sẽ liên hệ với các công ty môi
giới chứng khoán để mở rộng sản phẩm này tại Việt Nam trong thời gian tới.
Xét trong bối cảnh TTCK VN hiện nay, đây là thời điểm rất tốt để phát triển
loại hình bảo hiểm này cho các công ty chứng khoán tại Việt Nam.
Một đại gia trong ngành bảo hiểm là Tổng Công ty Bảo hiểm Bảo Minh
(Bảo Minh) sẽ trở thành nhà bảo hiểm gốc đứng đầu trong hợp đồng bảo hiểm

15



Thị trường tài chính Việt Nam – Thực trạng và giải pháp phát triển

hàng không năm 2007 vừa ký với Tổng Công ty Hàng không Việt Nam
(Vietnam Airlines). Tổng giá trị bảo hiểm của hợp đồng này là trên 4 tỷ USD,
trong đó giá trị bảo hiểm máy bay là trên 2,5 tỷ USD, bảo hiểm trách nhiệm là
gần 1,5 tỷ USD và trên 8 triệu lượt hành khách sẽ được bảo hiểm theo các
điều khoản của hợp đồng này.
Mới đây nhất, lãnh đạo Công ty Bảo Việt Nhân thọ miền Nam cho rằng
khi Việt Nam thực hiện các cam kết thương mại WTO thì hoạt động đầu tư sẽ
càng phát triển mạnh mẽ. Theo đó, mục tiêu doanh thu đầu tư của Bảo Việt
Nhân thọ miền Nam trong năm 2007 dự kiến khoảng 1.200 tỷ đồng.
Năm 2006, tổng phí khai thác mới của Bảo Việt Nhân thọ miền Nam tăng
trưởng trên 12%, tổng chi trả giải quyết quyền lợi bảo hiểm năm 2006 trên
140 tỷ đồng, trong đó chi trả đáo hạn chiếm trên 60%, chi trả quyền lợi định
kỳ và lãi chia hợp đồng cho các khách hàng chiếm trên 12%.
3.2.5Thứ năm, mở rộng hoạt động tài chính đối ngoại và chủ động hội
nhập quốc tế về tài chính nhằm củng cố và phát triển nền tài chính quốc gia.
Những cam kết mở cửa thị trường đang dần thực hiện, các tổ chức tài
chính nước ngoài ngày càng tiếp cận sát hơn thị trường Việt Nam, với chiến
lược dài hạn và hết sức rõ ràng, họ đang tạo những chỗ đứng hết sức vững
chắc, điển hình như ANZ, HSBC, Standard Chartered Bank, Citi Bank,
Dragon Capital... Việc giành thắng lợi và chiếm lĩnh thị trường của họ là điều
hiển nhiên.
Đối với các doanh nghiệp trong nước, thì cần phải củng cố chính sách,
phương hướng hoạt động để có thể cạnh tranh với các tổ chức tài chính hàng
đầu thế giới. Khi mà Việt Nam đã là thành viên của tổ chức thương mại thế
giới WTO. Điều kiện hội nhập, đòi hỏi các tổ chức tài chính Việt Nam muốn
tồn tại và phát triển thì cần phải có những bước đi rõ ràng và chắc chắn.

3.2.6 Thứ sáu, nâng cao năng lực và hiệu quả giám sát tài chính, đảm bảo
lành mạnh hoá tài chính và an ninh tài chính quốc gia. Đồng thời, đẩy mạnh
cải cách hành chính trong lĩnh vực tài chính, đảm bảo hoạt động tài chính
thông suốt, chất lượng và hiệu quả.

3.3 Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính
Để đạt mục tiêu huy động vốn đầu tư toàn xã hội cho tăng trưởng kinh tế,
cần hết sức chú trọng các giải pháp về huy động khai thác các nguồn lực tài
chính. Có thể nói trọng tâm của các giải pháp huy dộng các nguồn lực tài
chính cho tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn tới không chỉ chú trọng tới huy
động các nguồn nội lực, mà còn chú trọng đến các nguồn vốn nước ngoài, kể
cả dưới hình thức đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
3.3.1 Về chính sách tài khoá

16


Thị trường tài chính Việt Nam – Thực trạng và giải pháp phát triển

Tập trung cải cách cơ chế xây dựng dự toán ngân sách Nhà nước, trong
đó chú trọng đến kế hoạch ngân sách trung và ngắn hạn mang tính khả thi gắn
với việc quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra, nhằm phục vụ tốt cho việc
thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong quá trình hội nhập.
Đồng thời, tiến hành rà soát tổng thể các cơ chế, chính sách hiện hành để bảo
đảm tuân thủ các nguyên tắc của WTO và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế,
bao gồm cơ chế chính sách tài chính liên quan trợ cấp.
Nâng cao vai trò định hướng phân bổ và sử dụng nguồn lực tài chính
Nhà nước trong đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, trong đó vốn đầu tư của
ngân sách Nhà nước tập trung chủ yếu cho xây dựng, nâng cấp kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội, và bảo đảm vốn cho các công trình trọng điểm quốc gia

và các mục tiêu, nhiệm vụ ưu tiên của chiến lược như đầu tư phát triển con
người nhằm tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, điều chỉnh cơ cấu đầu tư
để đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện chính sách tài
chính cho tăng trưởng bền vững, xoá đói, giảm nghèo.
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế phân cấp, vừa bảo đảm tập trung thống nhất,
vai trò chủ đạo và điều phối của ngân sách trung ương, vừa phân cấp mạnh đi
đôi với tăng cường trách nhiệm và tính chủ động trong quản lý ngân sách của
các bộ, ngành địa phương và đơn vị thụ hưởng kinh phí ngân sách.
3.3.2 Về cải cách hệ thống chính sách thuế và hải quan
Triển khai có hiệu quả chương trình cải cách hệ thống thuế đến năm
2010 với mục tiêu xây dựng một hệ thống chính sách thuế đồng bộ, công
bằng, hiệu quả, minh bạch và công khai nhằm khuyến khích các thành phần
kinh tế phát triển, bảo đảm nguồn lực tài chính lâu dài và bền vững, đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế. Cụ thể, ban
hành Luật Thuế thu nhập cá nhân; sửa đổi Luật thuế giá trị gia tăng nhằm bảo
đảm công bằng và đơn giản, hoàn thiện phương pháp tính thuế, khấu trừ phù
hợp với thông lệ quốc tế; sửa đổi Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt theo hướng mở
rộng đối tượng chịu thuế và không phân biệt đối xử giữa hàng sản xuất trong
nước, hàng nhập khẩu; Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp nhằm giảm mức
thuế suất, diện miễn giảm và hướng tới thống nhất mức ưu đãi giữa các thành
phần kinh tế; hoàn thiện chính sách thuế về sử dụng đất, thuế tài nguyên như
ban hành Luật Thuế bảo vệ môi trường, Luật Thuế tài sản. Xây dựng và triển
khai Luật Quản lý thuế; áp dụng rộng rãi cơ chế tự khai, tự nộp thuế trong
quản lý thuế kết hợp với hiện đại hoá công tác quản lý thuế, hiện đại hoá hệ
thống hải quan; chuẩn bị các điều kiện cần thiết về hệ thống pháp lý để nhanh
chóng gia nhập Nghị định thư sửa đổi Công ước Kyoto của Hải quan Thế
giới.
3.3.3 Về thị trường vốn

17



Thị trường tài chính Việt Nam – Thực trạng và giải pháp phát triển

Tiếp tục phát triển thị trường vốn thành một kênh huy động vốn dài
hạn, an toàn, có hiệu quả cao cho đầu tư phát triển và từng bước hội nhập với
thị trường vốn khu vực và thế giới. Đa dạng hoá các loại trái phiếu Chính phủ
làm chuẩn mực cho các công cụ nợ; khuyến khích và tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp huy động vốn dưới hình thức phát hành cổ phần, trái phiếu; đẩy
mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là gắn cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nước với việc niêm yết trên thị trường chứng khoán nhằm tăng
cường khả năng huy động vốn và tạo tiền đề phát triển thị trường chứng
khoán. Hoàn thiện thể chế hoạt động của thị trường chứng khoán, phát triển
hệ thống các định chế tài chính trung gian, mở rộng thị trường giao dịch
chứng khoán có tổ chức (qua Sở Giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch
chứng khoán) và xây dựng thị trường giao dịch chứng khoán phi tập trung.
Tăng cường tính công khai, minh bạch của thị trường; thực hiện giám
sát và cưỡng chế thực thi nghiêm ngặt; áp dụng nguyên tắc quản trị công ty
theo thông lệ quốc tế đối với các công ty niêm yết, công ty đại chúng. Từng
bước mở rộng sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường
chứng khoán Việt Nam theo cam kết hội nhập; tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp Việt Nam, trước mắt là các doanh nghiệp lớn, tham gia vào thị trường
vốn quốc tế.
3.3.4 Về cải cách doanh nghiệp
Xây dựng và hoàn thiện chính sách, cơ chế tài chính doanh nghiệp, bảo
đảm bình đẳng, ổn định, minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi để các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khai thác và phát huy mọi nguồn lực bên
trong và bên ngoài doanh nghiệp phát triển sản xuất, kinh doanh và nâng cao
sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Hoàn thiện chính sách,
cơ chế tài chính theo hướng đẩy nhanh quá trình đổi mới, sắp xếp gắn liền với

việc tăng cường năng lực tài chính cho các doanh nghiệp nhà nước. Mở rộng
diện các doanh nghiệp nhà nước cần cổ phần hoá, kể cả các tổng công ty và
doanh nghiệp lớn trong các lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông. Đổi
mới căn bản chính sách, cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp nhà nước trên
cơ sở tách bạch rõ chức năng quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực sản xuất
kinh doanh với chức năng đại diện chủ sở hữu vốn của Nhà nước tại doanh
nghiệp; xoá bỏ cơ chế chủ quản; áp dụng cơ chế nhà nước đặt hàng việc sản
xuất, cung cấp các hàng hoá và dịch vụ công ích. Tổng công ty Đầu tư và kinh
doanh vốn Nhà nước từng bước đảm nhiệm vai trò quản lý đại diện chủ sở
hữu vốn Nhà nước tại doanh nghiệp và chức năng đầu tư tài chính. Thực hiện
cơ chế tín dụng đầu tư Nhà nước thông qua Ngân hàng phát triển Việt Nam;
tạo cơ chế chính sách để các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận được với thị
trường vốn (như Quỹ Bảo lãnh tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa…).

18


Thị trường tài chính Việt Nam – Thực trạng và giải pháp phát triển

3.3.5 Về quản lý tài sản công
Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý tài sản công theo hướng tạo ra cơ sở
pháp lý đẩy đủ và đồng bộ để quản lý chặt chẽ và khai thác có hiệu quả nguồn
lực từ đất đai, tài nguyên và công sản. Kiểm soát chặt chẽ việc đầu tư, mua
sắm và sử dụng tài sản công đi đôi với việc tăng cường phân cấp quản lý tài
sản, gắn quyền lợi với trách nhiệm, gắn kết quả với chi phí. Từng bước phát
triển thị trường nhà đất lành mạnh, đặc biệt là thể chế chính sách đối với hoạt
động chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nhằm phát huy những tác động tích
cực đến phát triển kinh tế - xã hội.
3.3.6 Về hoạt động tài chính đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế về tài chính

Xác định lộ trình hợp lý đối với phát triển và tự do hoá từng bước
luồng vốn trong điều kiện hội nhập, thực hiện đa dạng hoá nguồn vốn, đa
phương hoá quan hệ đối tác; hoàn thiện công tác quản lý nợ nước ngoài, quản
lý nguồn vốn Hỗ trợ phát triển chính thức ODA; xây dựng hệ thống giám sát
nợ, hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả các dự án, chương trình sử dụng
vốn vay nước ngoài; tổ chức việc thanh toán nợ đúng hạn. Hoàn thiện bộ máy,
tăng cường nhân lực trong quản lý nợ nước ngoài. Hoàn thiện khung pháp lý
về tài chính theo chuẩn mực quốc tế để hội nhập thành công; điều chỉnh và
xây dựng cơ chế, chính sách tài chính phù hợp với các cam kết song phương
và đa phương, chủ động phát triển các định chế tài chính, ngân hàng, thương
mại có trọng điểm, có thời gian và lộ trình rõ ràng, minh bạch.
Tăng cường công khai, minh bạch trong hệ thống tài chính, xây dựng
và tăng cường công tác kế toán, kiểm toán, thanh tra giám sát, công bố thông
tin đối với các hoạt động thu chi tài chính, ngân sách. Thực hiện chế độ kiểm
toán và công bố thông tin bắt buộc đối với các cấp ngân sách, các đơn vị sử
dụng ngân sách và các công ty nhà nước. Phân định trách nhiệm và tăng
cường phối hợp giữa cơ quan kiểm toán nhà nước, thanh tra tài chính, kiểm
soát nội bộ, mở rộng sử dụng dịch vụ kiểm toán độc lập đối với các đơn vị
thu, chi tài chính, ngân sách. Tổ chức triển khai có hiệu quả việc thực hiện
Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và Luật Phòng, chống tham nhũng.
Nâng cao năng lực giám sát của các cơ quan dân cử, các tổ chức xã hội nghề
nghiệp và nhân dân. Thực hiện chế độ trách nhiệm đối với người đứng đầu cơ
quan đơn vị trong việc sử dụng ngân sách; áp dụng chế tài xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực tài chính - ngân sách.
3.3.7 Về cải cách hành chính trong lĩnh vực tài chính
Đồng bộ hoá hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và cải cách thủ tục
hành chính về tài chính; hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, củng cố và kiện

19



Thị trường tài chính Việt Nam – Thực trạng và giải pháp phát triển

toàn tổ chức bộ máy quản lý tài chính - ngân sách; tiêu chuẩn hoá cán bộ tài
chính, xây dựng đội ngũ công chức tài chính đủ về số lượng, có cơ cấu hợp lý
và có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao. Hiện đại hoá quản lý tài chính ngân sách, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật để nâng cao năng lực và
hiệu quả quản lý trước hết là lĩnh vực thuế, hải quan, kho bạc; tiến tới thực
hiện thống nhất các quy trình nghiệp vụ quản lý, điều hành công tác tài chính
theo tiêu chuẩn quản lý chất lượng quốc tế. [7, web] [8, web]

KẾT LUẬN
Thị trường tài chính đóng một vai trò to lớn trong sự nghiệp phát triển,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nó là dòng mạch máu lưu thông và
nuôi sống cho toàn bộ nền kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường cung và cầu gặp nhau tạo thành thị trường.
Giá cả hàng hoá xuất hiện nhằm giải quyết trạng thái cân bằng cung và cầu là
yêu cầu cấp bách. Vốn để đầu tư cho phát triển kinh doanh, phát triển sản xuất
là yếu tố sông còn đối với các thành phần kinh tế vì vậy vốn có vị trí to lớn
trong nền kinh tế
Thị trường tài chính Việt Nam từ sau giai đoạn đổi mới cho đến nay đã
có những bước tiến vượt bậc, sự ra đời của thị trường chứng khoán đã thực sự
làm biến đổi thị trường tài chính nước ta cả về chất và lượng. Chúng ta có
quyền hy vọng, và mong muốn một tương lai tươi sáng và tốt đẹp hơn cho đất
nước. Việt Nam bước vào thời kỳ hội nhập, đã là thành viên của tổ chức
thương mại WTO, đã trúng cử trở thành thành viên không thường trực của
Hội đồng bảo an Liên hợp quốc nhiêm kỳ 2008-2009. Vì thế đòi hỏi vị thế
của Việt Nam trên trường Quốc tế phải nâng cao hơn nữa, muốn làm được
điều này kinh tế phải phát triển, đất nước phải đổi mới. Bên cạnh những yếu
tố khác,thì thị trường tài chính là một yếu tố cấp thiết cung cấp nguồn vốn,
tạo tính thanh khoản cao trên thị trừơng, giúp đẩy mạnh quá trình công nghiệp

hoá, hiện đại hoá đất nước.
Một lần nữa, xin gửi lời cảm ơn của tôi đến sự giúp đỡ của các bạn bè
gần xa đã giúp tôi hoàn thành đề án này. Xin chân thành cảm ơn thầy giáoPGS.TS Vũ Anh Tuấn đã hướng dẫn tôi.

20


Thị trường tài chính Việt Nam – Thực trạng và giải pháp phát triển

21



×