Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Quy trình đánh giá rủi ro trong giai đoạn chuẩn bị kiểm toán tại công ty kiểm toán ernst young việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 83 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Nguyễn Thế Lộc

Cùng với sự hội nhập vào nền kinh tế thế giới, báo cáo tài chính được kiểm toán ngày
càng đóng vai trò quan trọng trong đời sống tài chính của hầu hết các doanh nghiệp. Luật pháp
nhiều nước khẳng định rằng, chỉ những báo cáo đã được xem xét và có chữ ký của kiểm toán
viên độc lập mới được coi là hợp pháp, làm cơ sở cho nhà nước tính thuế cũng như các bên
quan tâm khác ra các quyết định kinh tế trong mối quan hệ với doanh nghiệp. Trong nền kinh
tế thị trường, các đối tượng khác nhau sử dụng kết quả kiểm toán với nhiều mục đích khác
nhau. Đối với ngân hàng, những đối tượng cho vay vốn, họ cần biết rằng số vốn họ cho vay có
được sử dụng đúng mục đích hay không, tình hình tài chính của đơn vị có cho thấy khả năng
hoàn trả hay không. Đối với chủ sở hữu doanh nghiệp, các cổ đông, họ cần biết một cách đầy
đủ, đúng đắn về kết quả kinh doanh của doanh nghiệp… Tóm lại, kiểm toán mang lại sự thỏa
mãn cho những người sử dụng kết quả kiểm toán sự tin cậy, mức độ trung thực của các thông
tin tài chính mà họ được cung cấp.
Tuy nhiên, bất kỳ một hoạt động hay ngành nghề nào cũng tồn tại rủi ro và kiểm toán
cũng không phải là ngoại lệ. Hơn nữa, kiểm toán độc lập là một ngành nghề rất đặc biệt, nếu
như những ngành nghề khác chỉ phục vụ cho đối tượng là khách hàng thì đối với các công ty
kiểm toán và kiểm toán viên, đối tượng phục vụ không chỉ là khách hàng mà còn là công
chúng. Do đó việc giảm thiểu rủi ro xuống thấp ở mức chấp nhận được để đảm bảo chất lượng
của cuộc kiểm toán là một vấn đề mà hầu hết các công ty kiểm toán luôn phải đối mặt. Chính
vì thế, đòi hỏi các công ty kiểm toán và kiểm toán viên phải sử dụng các kỹ thuật đánh giá rủi
ro một cách hiệu quả nhằm duy trì sự cân bằng giữa chất lượng và chi phí cũng như tiết kiệm
thời gian.
Qua quá trình thực tập cùng với những cơ hội tiếp cận thực tế công việc, đề tài này xin
được đưa ra “Quy trình đánh giá rủi ro trong giai đoạn chuẩn bị kiểm toán tại công ty
kiểm toán Ernst & Young Việt Nam” nhằm giúp người đọc có một cái nhìn tổng quát về các
kỹ thuật kiểm toán mới thông qua việc áp dụng mô hình rủi ro kinh doanh trong quy trình
đánh giá rủi ro.
SVTH: Phạm Hoàng Thy



1


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Nguyễn Thế Lộc

Kết cấu của đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán trong giai đoạn chuẩn bị kiểm
toán
Chương 2: Quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán trong giai đoạn chuẩn bị kiểm toán tại công ty
kiểm toán Ernst & Young Việt Nam
Chương 3: Nhận xét và kiến nghị
Trong quá trình nghiên cứu và trình bày, do sự hạn chế về thời gian thực tập cùng một
số nguyên nhân khác, chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót, đề tài rất mong nhận
được sự đóng góp của thầy cô.

Chương 1:

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUY TRÌNH ĐÁNH GIÁ RỦI
RO KIỂM TOÁN TRONG GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ
KIỂM TOÁN

1.1 TỔNG QUAN VỀ RỦI RO KIỂM TOÁN
1.1.1 Rủi ro kiểm toán
Mục đích tổng quát của kiểm toán là cung cấp sự đảm bảo cho bên thứ ba là những
người sử dụng các thông tin tài chính rằng các thông tin họ được cung cấp có trung thực, hợp
lý hay không. Tuy nhiên, do hạn chế tiềm tàng trong quá trình kiểm toán cũng như trong hệ
thống kiểm soát nội bộ mà luôn luôn tồn tại một rủi ro không thể tránh khỏi, đó là báo cáo tài

chính vẫn còn chứa đựng những sai sót trọng yếu nhưng kiểm toán viên lại nhận xét chúng đã
được trình bày một cách trung thực và hợp lý.

SVTH: Phạm Hoàng Thy

2


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Nguyễn Thế Lộc

1.1.1.1 Khái niệm rủi ro kiểm toán:
Theo VSA 400 – Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ: “Rủi ro kiểm toán là rủi ro do
kiểm toán viên và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến nhận xét không thích hợp khi báo cáo tài
chính đã được kiểm toán còn có những sai sót trọng yếu”
Trường hợp kiểm toán viên đưa ra ý kiến không thích hợp rằng báo cáo tài chính đã
được kiểm toán còn có các sai sót trọng yếu trong khi trên thực tế các sai sót trọng yếu này
không tồn tại thì không được xem là rủi ro kiểm toán. Trong trường hợp này, các kiểm toán
viên thường xem xét lại hoặc mở rộng các thủ tục kiểm toán và yêu cầu khách hàng thực hiện
một số công việc cụ thể nhằm đánh giá lại sự thích hợp của các báo cáo tài chính. Các thủ tục
này sẽ giúp kiểm toán viên đưa ra nhận xét hợp lý hơn.
Về mặt lý thuyết, phạm vi rủi ro kiểm toán đi từ 0 (hoàn toàn không có rủi ro kiểm
toán) đến 1 (chắc chắn tồn tại rủi ro kiểm toán). Tuy nhiên trên thực tế, rủi ro kiểm toán luôn
luôn lớn hơn 0, các sai sót tiềm tàng luôn tồn tại vì những hạn chế tiềm tàng trong hệ thống kế
toán và kiểm toán.Thông thường, các nghiệp vụ chính sẽ được giám sát chặt chẽ bởi hệ thống
kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp nên ít có khả năng gia tăng các sai sót trọng yếu. Ngược
lại, những nghiệp vụ bất thường và các khoản ước tính kế toán của doanh nghiệp thường làm
gia tăng các sai sót trọng yếu. Do đó, kiểm toán viên cần phải giới hạn rủi ro kiểm toán ở mức
chấp nhận được bằng việc thiết kế các thủ tục kiểm toán hiệu quả nhằm thu thập đầy đủ các

bằng chứng kiểm toán làm cơ sở cho việc đưa ra ý kiến.
1.1.1.2 Các bộ phận của rủi ro kiểm toán:
Chúng ta có thể chia rủi ro kiểm toán thành 3 bộ phận, bao gồm:


Rủi ro tiềm tàng



Rủi ro kiểm soát

Hai loại rủi ro này có thể gọi chung là rủi ro có sai sót trọng yếu trên các báo cáo tài
chính chưa được kiểm toán, tồn tại do bản chất môi trường kinh doanh, ngành nghề hoạt động
cũng như sự hữu hiệu của hệ thống kiểm soát nội bộ tại đơn vị được kiểm toán.


Rủi ro phát hiện: rủi ro có sai sót trọng yếu trên báo cáo tài chính do kiểm toán

viên không phát hiện ra trong quá trình kiểm toán.

SVTH: Phạm Hoàng Thy

3


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Nguyễn Thế Lộc

Bảng 1.1: Rủi ro kiểm toán và các bộ phận rủi ro cấu thành


Rủi ro tiềm tàng

Có sai lầm cụ thể
nào hay không?


Rủi ro kiểm soát

Hệ thống kiểm soát
nội bộ có phát hiện
được hay không?
Không

Rủi ro phát hiện

Kiểm toán viên phát
hiện được bằng các
thủ tục kiểm toán
hay không?
Không

Rủi ro kiểm toán

Ý kiến sai

1.1.1.2.1 Rủi ro tiềm tàng
“Rủi ro tiềm tàng là rủi ro tiềm ẩn, vốn có do khả năng từng nghiệp vụ, từng khoản
mục trong báo cáo tài chính chứa đựng sai sót trọng yếu khi tính riêng lẽ hoặc tính gộp mặc dù
có hay không có hệ thống kiểm soát nội bộ” (đoạn 4 VSA 400)

Rủi ro có sai sót trọng yếu là khác nhau ở từng nghiệp vụ hay khoản mục trên báo cáo
tài chính. Ví dụ như: các khoản mục được tính toán bằng các phép tính phức tạp, cầu kì thì rủi
ro có sai sót sẽ cao hơn các khoản mục được tính toán một cách đơn giản; hay rủi ro có sai sót
của các tài khoản có số dư là kết quả của sự ước tính như dự phòng phải thu khó đòi, dự phòng
giảm giá hàng tồn kho sẽ cao hơn các tài khoản có số dư từ các số liệu có thật.
Ngoài ra, môi trường kinh doanh, bản chất của lĩnh vực hoạt động hoặc sự thay đổi của
các nhân tố bên ngoài cũng sẽ ảnh hưởng đến rủi ro tiềm tàng. Ví dụ như: với sự phát triển
mạnh của công nghệ thông tin, một số mặt hàng đặc biệt như máy tính, phần mềm rất dễ bị lỗi

SVTH: Phạm Hoàng Thy

4


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Nguyễn Thế Lộc

thời, điều này sẽ dẫn đến việc doanh nghiệp khai khống hàng tồn kho nếu các khoản dự phòng
giảm giá không được lập một cách hợp lý; hay trong tình hình khủng hoảng kinh tế hiện nay,
các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu có thể gặp nhiều khó khăn trong việc thu hồi các khoản
nợ phải thu từ đối tác, từ đó có thể dẫn dến khả năng sai sót cao ở khoản mục nợ phải thu trên
báo cáo tài chính do việc lập dự phòng chưa hợp lý.
1.1.1.2.2 Rủi ro kiểm soát
“Rủi ro kiểm soát là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng khoản
mục trong báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà hệ thống kế toán và hệ thống
kiểm soát nội bộ không ngăn ngừa hết hoặc không phát hiện và sửa chữa kịp thời” (đoạn 5
VSA 400)
Nguyên nhân của rủi ro kiểm soát bắt nguồn từ môi trường kiểm soát yếu kém của đơn
vị, thiếu các thủ tục kiểm soát hoặc thủ tục kiểm soát không hữu hiệu như thiết kế. Ở bất kỳ

đơn vị nào, dù đã đầu tư rất nhiều trong thiết kế và vận hành hệ thống, thì vẫn không thể có
một hệ thống kiểm soát nội bộ hoàn toàn hữu hiệu. Bởi lẽ ngay cả khi có thể xây dựng được
một hệ thống hoàn hảo về cấu trúc, tính hữu hiệu thật sự của nó vẫn tùy thuộc vào nhân tố chủ
yếu là con người, tức là phụ thuộc vào năng lực làm việc và tính đáng tin cậy của lực lượng
nhân sự…Nói cách khác, hệ thống kiểm soát nội bộ chỉ có thể cung cấp một sự đảm bảo hợp
lý giúp hạn chế tối đa những sai phạm chứ không thể đảm bảo tuyệt đối các sai phạm không
xảy ra.
Riêng tại các đơn vị xử lý số liệu trong môi trường tin học, tuy có những thuận lợi như
sẽ ít gặp sai lầm trong tính toán, số tổng cộng và số dư được cập nhật thường xuyên, tiết kiệm
thời gian, nhân lực… nhưng bên cạnh đó lại xuất hiện các rủi ro kiểm soát khác với môi
trường thủ công như:


Kế toán viên cố tình nhập liệu sai nên kết quả sai



Lập trình sai lầm sẽ gây tác động dây chuyền đến các số liệu khác khi xử lý tự động



Tuy xử lý dữ liệu bằng phương pháp điện tử, nhưng đơn vị không tách rời giữa các
chức năng khai thác (thực hiện xử lý) và chức năng kiểm soát



Việc bảo mật chưa tốt nên thường không ngăn chặn được người ngoài thâm nhập vào
hệ thống thông tin. Thí dụ như đơn vị không sử dụng các mật khẩu, không quan tâm
bảo vệ phòng máy tính, hay các phần mềm, đĩa từ…


SVTH: Phạm Hoàng Thy

5


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Nguyễn Thế Lộc

Do đó, đòi hỏi kiểm toán viên phải có sự hiểu biết cần thiết về môi trường tin học và ảnh
hưởng của nó để đánh giá sự hữu hiệu của hệ thống kiểm soát nội bộ trong môi trường tin học.
1.1.1.2.3

Rủi ro phát hiện

“Rủi ro phát hiện là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng khoản
mục trong báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà trong quá trình kiểm toán, kiểm
toán viên và công ty kiểm toán đã không phát hiện được” (đoạn 6 VSA 400)
Như vậy, rủi ro phát hiện là khả năng khi đã áp dụng những thủ tục kiểm toán nhưng
kiểm toán viên vẫn không phát hiện được các sai lệch trọng yếu của báo cáo tài chính. Rủi ro
phát hiện có nguyên nhân bắt nguồn trực tiếp từ nội dung, thời gian và phạm vi của các thử
nghiệm cơ bản đã được thực hiện.Thông thường, mức rủi ro phát hiện sẽ giảm xuống nếu kiểm
toán viên tăng các thử nghiệm chi tiết trên số dư hoặc nghiệp vụ, mở rộng phạm vi kiểm tra
hoặc tăng cường cỡ mẫu của các thử nghiệm.
Rủi ro phát hiện vẫn có thể xảy ra dù đã kiểm tra 100% số dư và nghiệp vụ, vì có thể
kiểm toán viên đã chọn lựa và áp dụng các phương pháp kiểm toán không phù hợp, hoặc giải
thích sai, hay nhận định sai về kết quả kiểm tra. Ví dụ như do kiểm toán thiếu kiểm tra thông
tin của các trợ lý thu thập, nên tổng hợp và nhận định sai.
1.1.1.2.4


Mối quan hệ giữa các loại rủi ro

Ngược lại với sự tồn tại độc lập của rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát trong quá trình
kiểm toán báo cáo tài chính, rủi ro phát hiện gắn liền với các thủ tục kiểm toán của kiểm toán
viên và có thể thay đổi tùy theo sự xét đoán của kiểm toán viên. Do đó, tùy theo tình hình thực
tế của đơn vị được kiểm toán, kiểm toán viên cần phải điều chỉnh nội dung, thời gian và phạm
vi của các thử nghiệm cơ bản, tăng giảm khối lượng công việc kiểm toán của mình để đạt
được mục đích cuối cùng là rủi ro kiểm toán được giảm xuống thấp đến mức chấp nhận được
với chi phí hợp lý.
Chúng ta có thể nghiên cứu sự biến động của rủi ro phát hiện dựa theo đánh giá của
kiểm toán viên về rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được thể hiện trong bảng sau đây ( theo
VSA 400):

Đánh giá của kiểm toán viên về rủi ro kiểm soát

SVTH: Phạm Hoàng Thy

6


Chuyên đề tốt nghiệp

Đánh giá của
kiểm toán viên

GVHD: TS Nguyễn Thế Lộc

Cao
Trung bình


Cao
Thấp nhất
Thấp

Trung bình
Thấp
Trung bình

Thấp
Trung bình
Cao

Thấp

Trung bình

Cao

Cao nhất

về rủi ro tiềm
tàng
Trong đó:

Mỗi loại rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát đều được chia thành 3 mức: cao,



trung bình, và thấp.



Vùng tô đậm thể hiện mức độ rủi ro phát hiện



Loại rủi ro phát hiện được chia thành 5 mức: cao nhất, cao, trung bình, thấp và
thấp nhất.

Ví dụ: trường hợp mức độ rủi ro tiềm tàng được kiểm toán viên đánh giá là cao và mức
độ rủi ro kiểm soát được kiểm toán viên đánh giá là thấp thì mức độ rủi ro phát hiện có thể
đánh giá lá trung bình nhằm giảm rủi ro kiểm toán xuống thấp đến mức có thể chấp nhận
được. Ngược lại, nếu mức độ rủi ro tiềm tàng là thấp và rủi ro kiểm soát được đánh giá là
trung bình thì có thể xác định mức độ rủi ro phát hiện là cao nhưng vẫn đảm bảo rủi ro kiểm
toán là thấp có thể chấp nhận được.
1.1.1.3 Mô hình rủi ro kiểm toán
Ngoài ra, để hỗ trợ cho việc nghiên cứu mối quan hệ giữa các bộ phận của rủi ro kiểm
toán, chúng ta cũng có thể sử dụng mô hình rủi ro kiểm toán. Mô hình rủi ro kiểm toán đầu
tiên được đưa ra trong GAAS và được chính thức hóa trong bảng tổng hợp các chuẩn mực
kiểm toán trong AICPA phát hành năm 1983. Kể từ năm 1984, các kiểm toán viên được yêu
cầu phải vận dụng mô hình rủi ro trong quá trình kiểm toán của mình để đánh giá các rủi ro và
thiết kế các thủ tục kiểm toán cần tiến hành.


Mô hình rủi ro kiểm toán:

AR = IR x CR x DR

SVTH: Phạm Hoàng Thy

hoặc


DR = AR / (IR x CR)

7


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Nguyễn Thế Lộc

trong đó: AR: rủi ro kiểm toán
IR: rủi ro tiềm tàng
CR: rủi ro kiểm soát
DR: rủi ro phát hiện
Trong mô hình rủi ro, các bộ phận của rủi ro kiểm toán có thể được định lượng bằng tỷ
lệ phần trăm hoặc được giới hạn trong phạm vi từ thấp tới cao. Tuy nhiên, trên thực tế, các
công ty kiểm toán thường sử dụng hệ thống “cao, trung bình, thấp” xác định mức độ của rủi ro
vì việc tính toán một tỷ lệ phần trăm cụ thể không những phức tạp mà còn gây ra rất nhiều khó
khăn trong việc chứng minh nguồn gốc của các tỷ lệ phần trăm đó nhất là trong các vụ kiện
tụng, tranh chấp.
Ý nghĩa quan trọng của mô hình rủi ro không phải chỉ là việc sử dụng để xác định mức
độ rủi ro, mà thông qua mô hình rủi ro, kiểm toán viên bắt buộc phải xem xét đến những bộ
phận cấu thành rủi ro và phải chứng minh được những xét đoán của mình, cụ thể là:


Đầu tiên, kiểm toán sẽ quyết định mức rủi ro kiểm toán chấp nhận được cho

cuộc kiểm toán.



Tiếp theo sẽ là việc đánh giá rủi ro tiềm tàng cho từng cơ sở dẫn liệu cũng như

cho tổng thể toàn công ty. Việc đánh giá rủi ro tiềm tàng đòi hỏi kiểm toán viên phải có sự
hiểu biết chung về nền kinh tế, môi trường và lĩnh vực hoạt động, tình hình kinh doanh cũng
như các vấn đề nội tại của đơn vị được kiểm toán.


Sau đó, thông qua việc xem xét hệ thống xử lý, các thủ tục kiểm soát được áp

dụng tại doanh nghiệp, năng lực của nhân viên trong các phần hành kế toán, chính sách và
phương pháp kế toán liên quan đến việc lập báo cáo tài chính…kiểm toán viên đánh giá được
sự hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ tại doanh nghiệp để thiết kế phạm vi, hình thức của
các thử nghiệm cơ bản được tiến hành. Ví dụ: nếu việc kiểm soát doanh thu và khoản phải thu
của doanh nghiệp tốt, kiểm toán viên sẽ chỉ chọn một số khách hàng để gởi thư xác nhận khi
kiểm toán giữa kì và sẽ tiến hành tính toán vào cuối kỳ dựa trên số liệu đã kiểm tra giữa kỳ.
Ngược lại, kiểm toán viên sẽ chọn một thêm một lượng lớn khách hàng để gởi thư xác nhận
vào cuối kỳ.

SVTH: Phạm Hoàng Thy

8


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Nguyễn Thế Lộc

Cuối cùng, các thủ tục kiểm toán sẽ được thiết kế dựa trên mức rủi ro phát hiện




(được xác định thông qua việc kết hợp rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát) nhằm duy trì được
mức chấp nhận của rủi ro kiểm toán.
Ví dụ:
Kiểm toán viên đang đánh giá rủi ro liên quan đến cơ sở dẫn liệu hiện hữu của khoản
mục nợ phải thu của một doanh nghiệp đang hoạt động trên lĩnh vực xuất khẩu với các giả
định sau:
Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế, các khoản nợ phải thu của các đối tác
nước ngoài khó có thể thu hồi, do đó, kiểm toán viên đã đánh giá mức rủi ro tiềm tàng của
khoản mục này cao 70%
Tuy nhiên, qua tìm hiểu, kiểm toán viên nhận thấy hệ thống kiểm soát nội bộ tại doanh
nghiệp hoạt động hữu hiệu, có khả năng loại bỏ được 90% các sai sót, do đó, mức rủi ro kiểm
soát được kiểm toán viên đánh giá là 10%
Mức rủi ro kiểm toán mà kiểm toán viên đánh giá là 5%
Sử dụng mô hình rủi ro kiểm toán, ta có :
DR = 5% / (70% * 10%) = 70%
Điều này có nghĩa là kiểm toán không cần phải tiến hành nhiều thử nghiệm cơ bản để
thu thập bằng chứng kiểm toán liên quan đến cơ sở dẫn liệu hiện hữu của khoản mục nợ phải
thu mà vẫn có thể duy trì rủi ro kiểm toán ở mức chấp nhận được 5%.
1.1.2

Tầm quan trọng của rủi ro kiểm toán

1.1.2.1 Mối quan hệ giữa rủi ro kiểm toán và mức trọng yếu
Trọng yếu và rủi ro kiểm toán có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu mức sai lệch có
thể chấp nhận được tăng lên, rõ ràng là rủi ro kiểm toán sẽ giảm xuống, nói cách khác, khi nào
kiểm toán viên tăng giá trị sai sót có thể bỏ qua, lúc đó khả năng có sai lệch trọng yếu sẽ giảm.
Ngược lại, nếu giảm mức sai sót có thể chấp nhận được, lúc đó rủi ro kiểm toán sẽ tăng lên.
Mặc khác, ta thấy rằng rủi ro kiểm toán đối với từng khách hàng là khác nhau. Tuy
nhiên, kiểm toán viên luôn muốn hạn chế rủi ro kiểm toán đến mức thấp nhất nhằm đảm bảo

tính hợp lý cho báo cáo tài chính. Do vậy, rủi ro phát hiện có thể được xem như tỉ lệ nghịch
với mức trọng yếu vì kiểm toán viên muốn chi phối rủi ro kiểm toán chỉ có thể chi phối được
rủi ro phát hiện.
SVTH: Phạm Hoàng Thy

9


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Nguyễn Thế Lộc

Trong giai đoạn chuẩn bị kiểm toán, kiểm toán viên cần phải cân nhắc đến những nhân
tố có thể gây ra sai sót trọng yếu trên báo cáo tài chính. Không có một quy định hay nguyên
tắc nhất quán nào trong việc xác lập mức trọng yếu, do đó, kiểm toán viên cần phải sử dụng sự
hiểu biết cũng như xét đoán nghề nghiệp để thực hiện công việc này. Việc xem xét khả năng
xảy ra sai sót trọng yếu ở các khoản mục cũng như nhóm nghiệp vụ cụ thể sẽ giúp cho kiểm
toán viên khoanh vùng được những khu vực cần phải điều ra xem xét; thiết kế nội dung, thời
gian và phạm vi các thủ tục kiểm toán sao cho cuối cùng rủi ro báo cáo tài chính còn có những
sai lệch trọng yếu sẽ được giảm xuống thấp ở mức chấp nhận được cũng như duy trì sự cân
bằng giữa chi phí và chất lượng kiểm toán.

1.1.2.2 Mối quan hệ giữa rủi ro kiểm toán và bằng chứng kiểm toán
Theo VSA 500 – Bằng chứng kiểm toán: “Kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải
thu thập đầy đủ các bằng chứng kiểm toán thích hợp để làm cơ sở đưa ra ý kiến của mình về
báo cáo tài chính của đơn vị được kiểm toán”. Như vậy, chúng ta thấy rằng việc thu thập, đánh
giá bằng chứng là một vấn đề thiết yếu trong quá trình kiểm toán, bởi sự xác đáng của báo cáo
kiểm toán trước hết phụ thuộc vào những bằng chứng mà kiểm toán viên thu thập được. Tuy
nhiên, sự thích hợp và đầy đủ của bằng chứng phụ thuộc vào sự xét đoán nghề nghiệp của
kiểm toán viên về mức độ của các loại rủi ro:

Mức rủi ro kiểm toán: bộ phận nào càng trọng yếu tức là rủi ro kiểm toán càng



cao thì càng đòi hỏi phải được quan tâm nhiều hơn và phải thu thập nhiều bằng chứng
kiểm toán hơn và ngược lại.
Mức rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát: độ tin cậy của bằng chứng sẽ cao hơn



và số lượng bằng chứng cần thu thập có thể giảm bớt ở những bộ phận hay các trường
hợp có mức rủi ro tiềm tàng hoặc rủi ro kiểm soát thấp. Nói cách khác, khi kiểm toán
viên xác định mức rủi ro phát hiện là thấp thì số lượng bằng chứng cần thiết sẽ tăng
thêm và ngược lại.

1.2 ĐÁNH GIÁ RỦI RO KIỂM TOÁN
1.2.1

Đánh giá rủi ro kiểm toán

SVTH: Phạm Hoàng Thy

10


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Nguyễn Thế Lộc

1.2.1.1 Ý nghĩa của đánh giá rủi ro kiểm toán

Đánh giá rủi ro kiểm toán là việc kiểm toán viên và công ty kiểm toán xác định mức độ
rủi ro kiểm toán có thể xảy ra là cao hay thấp, bao gồm đánh giá rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm
soát và rủi ro phát hiện. Rủi ro kiểm toán được xác định trước khi lập kế hoạch và trước khi
thực hiện kiểm toán (VSA 400).
Chúng ta đã biết rủi ro kiểm toán luôn tồn tại trong bất kì cuộc kiểm toán nào do
những hạn chế tiềm tàng, xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau như:


Kiểm toán viên thường chỉ lấy mẫu để kiểm tra, chứ không kiểm tra toàn bộ.



Bất kì hệ thống kiểm soát nội bộ nào cũng đều có những hạn chế tiềm tàng,
chẳng hạn như luôn có khả năng các nhân viên sẽ thông đồng để đánh cắp tài sản.
Việc thu thập các bằng chứng kiểm toán là do kiểm toán viên cần dựa vào đó để



thuyết phục, chứ không phải nhằm chứng minh số liệu của báo cáo tài chính là tuyệt
đối chính xác.
Quá trình kiểm toán luôn đòi hỏi sự xét đoán nghề nghiệp của kiểm toán viên,



vì vậy luôn có khả năng là có những sai phạm không được phát hiện.
Chính vì thế, khả năng để kiểm toán viên nhận xét không xác đáng về báo cáo tài chính
là điều luôn có thể xảy ra. Vấn đề đặt ra là phải đánh giá hợp lý các loại rủi ro để có những
phản ứng thích hợp, giảm thiểu các thiệt hại cho kiểm toán viên và công ty kiểm toán cũng
như đảm bảo tính hợp lý trong việc lập kế hoạch và thực hiện cuộc kiểm toán. Do đó, ý nghĩa
của việc đánh giá rủi ro kiểm toán là rất lớn, mang lại lợi ích thiết thực trong tất các các giai

đoạn của cuộc kiểm toán, nhất là trong giai đoạn đầu tiên của cuộc kiểm toán.


Giai đoạn tiền kế hoạch:

Việc đánh giá rủi ro sẽ giúp kiểm toán viên trong việc ra quyết định:
Tiếp nhận hay từ chối khách hàng mới, duy trì hay chấm dứt mối quan



hệ với khách hàng cũ.


Lựa chọn phương pháp tiếp cận hợp lý.



Ước lượng khối lượng công việc phải thực hiện để sắp xếp thời gian
kiểm toán, phân công kiểm toán viên cũng như dự kiến về phí kiểm toán.


Giai đoạn lập kế hoạch:

SVTH: Phạm Hoàng Thy

11


Chuyên đề tốt nghiệp


GVHD: TS Nguyễn Thế Lộc

Đánh giá rủi ro kiểm toán sẽ giúp kiểm toán viên:
Giới hạn phạm vi công việc kiểm toán ở mức độ cần thiết để vừa tiết



kiệm được thời gian vừa đảm bảo chất lượng kiểm toán với mức phí hợp lý và cạnh tranh.
Xác định được những khoản mục hoặc nhóm nghiệp vụ chứa rủi ro cao,



từ đó tập trung nguồn lực để thỏa mãn các mục tiêu kiểm toán.
Hơn nữa, việc đánh giá rủi ro kiểm toán là một quy định bắt buộc của chuẩn mực mà
các công ty kiểm toán phải tuân theo: “Kiểm toán viên phải sử dụng khả năng xét đoán chuyên
môn của mình để đánh giá rủi ro kiểm toán và xác định các thủ tục kiểm toán nhằm giảm rủi
ro kiểm toán xuống tới mức có thể chấp nhận được” (VSA 400 - đoạn 2).

1.2.1.2 Phương pháp đánh giá rủi ro kiểm toán
Rủi ro kiểm toán cần được đánh giá ở hai mức độ tổng thể báo cáo tài chính và từng
khoản mục:


Ở mức độ toàn bộ báo cáo tài chính: việc đánh giá rủi ro kiểm toán được tiến hành dựa

trên những thông tin thu thập được về đặc điểm và tình hình hoạt động kinh doanh, kinh
nghiệm kiểm toán, các nhân tố về rủi ro tiềm tàng ở mức độ báo cáo tài chính, sự xuất hiện
của những nhân tố làm gia tăng khả năng gian lận và sai sót cũng như các hành vi không tuân
thủ pháp luật và các quy định. Kết quả đánh giá là cơ sở để kiểm toán viên xác định chiến lược
chung của cuộc kiểm toán cũng như cân nhắc về mức rủi ro phát hiện chấp nhận được ở mức

độ khoản mục.


Ở mức độ khoản mục hay bộ phận: việc đánh giá rủi ro trong từng khoản mục trước

hết sẽ chịu ảnh hưởng của mức rủi ro đã được đánh giá đối với toàn bộ báo cáo tài chính. Sau
đó, kiểm toán viên dựa trên hiểu biết của mình về tình hình kinh doanh cũng như tính chất của
khoản mục để đánh giá mức rủi ro tiềm tàng của các khoản mục
Kết quả đánh giá hai loại trên sẽ là cơ sở để kiểm toán viên thiết kế các thử nghiệm cơ
bản sao cho rủi ro phát hiện được duy trì ở mức phù hợp. Khi đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi
ro kiểm soát đối với khoản mục cần lưu ý các điểm sau:


Có thể kết hợp đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát vì trên thực tế hai

loại rủi ro này có quan hệ mật thiết với nhau.

SVTH: Phạm Hoàng Thy

12


Chuyên đề tốt nghiệp


GVHD: TS Nguyễn Thế Lộc

Việc đánh giá hai loại rủi ro này cần tiến hành trên từng cơ sở dẫn liệu của

khoản mục.

1.2.2

Yêu cầu của các chuẩn mực kiểm toán Việt Nam và quốc tế trong việc đánh giá
rủi ro kiểm toán

1.2.2.1

Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam (VSA)

 VSA 310 - Hiểu biết về môi trường kinh doanh
Chuẩn mực này yêu cầu kiểm toán viên phải có sự hiểu biết đầy đủ và cần thiết về tổng
quan nền kinh tế; lĩnh vực, ngành nghề hoạt động, … của khách hàng và sử dụng các hiểu biết
này để đánh giá và phân tích các sự kiện, nghiệp vụ và thực tiễn hoạt động của đơn vị được
kiểm toán mà theo kiểm toán viên thì có ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính, đến việc
kiểm tra của kiểm toán viên hoặc đến báo cáo tài chính. Các thông tin này được thu thập từ
nhiều nguồn khác nhau, và cần phải được cập nhật liên tục trong suốt quá trình kiểm toán, đây
là cơ sở quan trọng để kiểm toán viên đưa ra các xét đoán chuyên môn như: đánh giá rủi ro,
xác định mức trọng yếu, lập kế hoạch kiểm toán và thực hiện kiểm toán một cách hiệu quả.

 VSA 240 – Gian lận và sai sót; VSA 250 – Xem xét tính tuân thủ pháp luật và các
quy định trong kiểm toán báo cáo tài chính; VSA 570 – Hoạt động liên tục.
Các chuẩn mực này yêu cầu kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải chú ý đến việc
xem xét liệu có các sai phạm do gian lận, sai sót gây ra hoặc các vấn đề mà đơn vị kiểm toán
không tuân thủ pháp luật và các quy định có liên quan có thể làm ảnh hưởng trọng yếu đến
báo cáo tài chính hay không, cũng như các sự kiện phát sinh có khả năng ảnh hưởng đến khả
năng hoạt động của đơn vị trong thời gian tới. Các chuẩn mực này cũng đưa ra những tình
huống hoặc sự kiện làm gia tăng rủi ro do gian lận, sai sót; rủi ro do hành vi không tuân thủ
pháp luật và quy định; rủi ro giả thiết hoạt động liên tục không còn đứng vững nữa. Kiểm toán
viên phải bám sát các dấu hiệu trong suốt quá trình tìm hiểu khách hàng. Kết quả quá trình tìm
hiểu những tình huống, sự kiện này cung cấp thông tin hữu ích giúp kiểm toán viên đánh giá

và phản ứng kịp thời rủi ro trong các giai đoạn của cuộc kiểm toán.

 VSA 400 – Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ
Chuẩn mực này yêu cầu kiểm toán viên phải có đủ hiểu biết về hệ thống kế toán và hệ
thống kiểm soát nội bộ của khách hàng để lập kế hoạch kiểm toán tổng thể và chương trình

SVTH: Phạm Hoàng Thy

13


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Nguyễn Thế Lộc

kiểm toán thích hợp, có hiệu quả. Đồng thời sử dụng khả năng xét đoán nghề nghiệp của mình
để đánh giá rủi ro kiểm toán và thiết kế các thủ tục kiểm toán nhằm giảm các rủi ro kiểm toán
xuống thấp tới mức có thể chấp nhận được.
1.2.2.2 Chuẩn mực kiểm toán quốc tế (ISA)
Các chuẩn mực kiểm toán quốc tế liên quan đến quy trình đánh giá rủi ro là ISA 315 và
ISA 330, nhưng chuẩn mực có liên quan và chi phối mạnh mẽ nhất đến việc đánh giá rủi ro là
ISA 315. ISA 315 đặc biệt nhấn mạnh đến mô hình rủi ro kinh doanh, một cách tiếp cận mới
trong quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán, và vai trò quan trọng của sự thảo luận giữa các thành
viên trong cùng một nhóm kiểm toán về khả năng có các sai lệch trọng yếu trong báo cáo tài
chính.

 ISA 315 – Hiểu biết về đơn vị, môi trường và đánh giá rủi ro
Hiểu biết về đơn vị và môi trường, bao gồm cả hệ thống kiểm soát nội bộ:




Phần này yêu cầu kiểm toán viên hiểu biết về các khía cạnh trọng yếu của doanh nghiệp và
môi trường hoạt động, các thành phần của hệ thống kiểm soát nội bộ để nhận định và đánh giá
rủi ro có sai lệch trọng yếu. Các thông tin cần tìm hiểu là:


Các nhân tố bên ngoài: ngành nghề kinh doanh, quy định pháp lý, cơ
cấu báo cáo tài chính được sử dụng và các nhân tố bên ngoài khác.



Tính chất và đặc điểm của đơn vị.



Mục tiêu, chiến lược và các rủi ro kinh doanh có liên quan có thể gây ra
sai sót trọng yếu trên báo cáo tài chính





Đo lường và soát xét kết quả hoạt động



Hệ thống kiểm soát nội bộ
Đánh giá rủi ro có sai lệch trọng yếu:

Phần này yêu cầu kiểm toán viên phải nhận diện và đánh giá những rủi ro có sai lệch

trọng yếu ở mức độ tổng thể báo cáo tài chính và cơ sở dẫn liệu của các loại nghiệp vụ, số dư
tài khoản. Để đánh giá, kiểm toán viên cần:

SVTH: Phạm Hoàng Thy

14


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Nguyễn Thế Lộc
Nhận diện những rủi ro bằng cách xem xét tình hình của đơn vị và môi



trường hoạt động, bao gồm hệ thống kiểm soát, và xem xét loại nghiệp vụ, số dư tài
khoản và việc trình bày trên báo cáo tài chính.
Liên hệ những rủi ro đã nhận diện với những sai sót có thể xảy ra với



các cơ sở dẫn liệu
Phần này cũng yêu cầu kiểm toán viên xác định xem những rủi ro đã



đánh giá có là những rủi ro cần có những cân nhắc đặc biệt hay, hoặc đó có là những
rủi ro mà thực hiện thử nghiệm cơ bản thì không đủ cung cấp bằng chứng hữu hiệu.



Thông tin cho người quản lý cao cấp (governance và managerment):

Phần này yêu cầu kiểm toán viên phải thông báo cho cấp quản lý thích hợp ngay khi có thể
các yếu kém trong thiết kế và vận hành của hệ thống kiểm soát nội bộ.
1.2.2.3

So sánh VSA 310, VSA 400 và ISA 315

Cuối năm 2004, chuẩn mực kiểm toán quốc tế 315 – Hiểu biết về doanh nghiệp, môi
trường và đánh giá rủi ro có sai lệch trọng yếu ra đời thay thế cho ba chuẩn mực ISA 310 –
Hiểu biết về tình hình kinh doanh, ISA 400 – Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ và ISA 401 –
Kiểm toán trong môi trường tin học. Chuẩn mực mới này đã đề ra việc sử dụng mô hình rủi ro
kinh doanh trong đánh giá rủi ro khi tiến hành công việc kiểm toán, một cách tiếp cận rủi ro
mới mà hiện này chưa có một chuẩn mực kiểm toán nào ở Việt Nam tiếp cận tới. Điều này ít
nhiều đã ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động kiểm toán của các công ty kiểm toán Việt Nam
đặc biệt là khi nền kinh tế Việt Nam đang bị ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng kinh tế thế
giới.Sự khác biệt này là do hiện nay chuẩn mực kiểm toán Việt Nam, đặc biệt là VSA 400 vẫn
đi theo hướng tiếp cận rủi ro kiểm toán thông qua việc đánh giá từng bộ phận của rủi ro bao
gồm: rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện dựa theo ISA 400 đã bị hủy bỏ.
Trong khi đó, ISA 315 đã có những thay đổi tích cực nhằm nâng cao chất lượng kiểm toán
thông qua việc thay đổi quan điểm cũng như cách thức tiếp cận hệ thống kiểm soát nội bộ, mở
rộng quan điểm về môi trường kinh doanh và nhấn mạnh đến tầm quan trọng của thủ tục phân
tích trong quá trình thu thập thông tin nhằm giúp cho kiểm toán viên sớm nhận định những rủi
ro có khả năng tồn tại trên các báo cáo tài chính. ISA 315 đòi hỏi kiểm toán viên phải chú
trọng nhiều hơn vào giai đoạn tìm hiểu khách hàng để có sự hiểu biết sâu rộng về bản chất
công việc, ngành nghề, chiến lược kinh doanh và các nhân tố ảnh hưởng khác cũng như những

SVTH: Phạm Hoàng Thy

15



Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Nguyễn Thế Lộc

công cụ quản lý tài chính và cách áp dụng các công cụ đó vào thực tế quản lý hay nói cách
khác là cần phải có sự tập trung vào kiểm soát của doanh nghiệp đối với các hoạt động tài
chính nhằm đánh giá các rủi ro kinh doanh có thể xảy ra đối với doanh nghiệp. Từ các đánh
giá ban đầu này, kiểm toán viên sẽ cân nhắc xem liệu các rủi ro kinh doanh này có gia tăng
khả năng có sai lệch trọng yếu trên báo cáo tài chính hay không, nếu có, kiểm toán viên sẽ liên
hệ để xác định liệu các cơ sở dẫn liệu của báo cáo tài chính có còn phù hợp hay không. Đây
được xem là một trong những phương pháp, kỹ thuật tiên tiến được đánh giá cao về tính hiệu
quả trong kiểm toán báo cáo tài chính.

Chương 2:

SVTH: Phạm Hoàng Thy

16


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Nguyễn Thế Lộc

QUY TRÌNH ĐÁNH GIÁ RỦI RO TRONG GIAI
ĐOẠN CHUẨN BỊ KIỂM TOÁN TẠI CÔNG TY
KIỂM TOÁN ERSNT & YOUNG VIỆT NAM


2.1 GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY ERNST & YOUNG
2.1.1 Giới thiệu về công ty Ernst & Young
2.1.1.1 Ernst & Young toàn cầu
Hiện nay, Ersnt & Young là một trong bốn công ty kiểm toán và tư vấn tài chính lớn nhất
thế giới cùng với Pricewaterhouse Coopers (PwC), Deloitte Touche Tohmatsu (Deloitte) và
KPMG. Ersnt & Young là một tổ chức toàn cầu bao gồm các thành viên của Công ty Trách
nhiệm hữu hạn Ersnt & Young toàn cầu và mỗi thành viên là một pháp nhân riêng biệt. Ersnt
& Young toàn cầu được đặt tại Luân Đôn, Vương Quốc Anh, không thực hiện cung cấp bất cứ
dịch vụ nào cho khách hàng. Vai trò của Ersnt & Young toàn cầu là đề ra những tiêu chuẩn,
chính sách nhất quán áp dụng cho tất cả các thành viên cũng như giám sát việc thực hiện và
kết quả hoạt động. Các dịch vụ cung cấp cho khách hàng sẽ được thực hiện bởi các công ty
thành viên.
Lịch sử hình thành của Ersnt & Young được bắt đầu từ những năm đầu của thế kỷ 19,
gắn liền với tên tuổi của hai nhà sáng lập Arthur Young và Alwin C Ernst:
 Arthur Young sinh năm 1893 tại Scotland, tốt nghiệp đại học Glasgow, chính sự quan
tâm và hứng thú đối với lĩnh vực đầu tư và ngân hàng đã dẫn ông đến với nghề kế toán. Năm
1906, ông thành lập công ty Arthur Young – chuyên cung cấp dịch vụ kế toán cho các nhà đầu
tư đến từ Anh. Ông quan tâm sâu sắc đến sự phát triển của nghề nghiệp non trẻ này. Trong
những năm 20, ông đã thành lập một trường đào tạo nghiệp vụ, và đến thập kỷ 30, công ty của
ông là nơi đầu tiên tuyển dụng nhân viên từ các trường đại học.
 A.C.Ernst sinh năm 1881 tại bang Cleveland, Mỹ, sau khi tốt nghiệp trung học, ông
làm nhân viên kế toán. Bốn năm sau, vào năm 1903, ông cùng người em trai của mình thành
lập công ty Ernst & Ernst. Ông Ernst là người mở đầu cho ý tưởng rằng thông tin kế toán có

SVTH: Phạm Hoàng Thy

17


Chuyên đề tốt nghiệp


GVHD: TS Nguyễn Thế Lộc

thể được sử dụng để ra các quyết định kinh doanh – đây là sự khởi đầu cho hoạt động tư vấn
quản lý. Ông cũng là người đầu tiên quảng bá cho dịch vụ chuyên nghiệp này.
Sau khi thành lập, cả hai công ty nhanh chóng thâm nhập vào thị trường toàn cầu.
Khoảng đầu năm 1924, họ liên kết với những công ty danh tiếng của Anh, Young liên kết với
Broads Paterson và Ernst liên kết với Whinney Smith & Whinney dẫn tới sự thành lập của tập
đoàn Ernst & Whinney.
Năm 1989, Arthur Young và Ernst & Whinney hợp nhất, một thế lực mới ra đời – Ersnt
& Young. Tập đoàn này đã xác định một cách nhanh chóng vị trí của nó là người dẫn đầu của
toàn cầu hóa, của các kĩ thuật kinh doanh tiên tiến và của sự thay đổi kinh doanh không
ngừng. Cho đến nay, cái tên Ersnt & Young không còn xa lạ và thật sự có chỗ đứng trên toàn
cầu:


Đứng đầu trong danh sách “Nơi tốt nhất để khởi nghiệp” năm 2008, theo số liệu thống
kê hàng năm của BusinessWeek.



Xếp thứ 36 trong 100 nơi làm việc tốt nhất trên lĩnh vực công nghệ thông tin năm 2008
trên ComputerWorld….
Ernst & Young có một lực lượng khách hàng đông đảo, phần lớn là những công ty có tên

tuổi hoạt động ở nhiều lĩnh vực như: Ngân hàng, thương mại, sản xuất, bảo hiểm, viễn thông,
công nghiệp, xây dựng, dầu khí, nhà hàng, khách sạn, …


Dịch vụ tài chính: Manulife, Man Group…




Giải trí: Magna Entertainment Corp…



Du lịch, vận tải: America Airlines, British Airlines, China Airlines, Singapore
Airlines…



Công nghệ sản xuất: Apple Inc, ASUS, Facebook, Google…



Bán lẻ và tiêu dùng sản phẩm: Amazon.com, Canon Inc, Mc Donald’s…

2.1.1.2 Ernst & Young Việt Nam
Công ty tư vấn quản lý, tài chính, kế toán, kiểm toán Ernst & Young Việt Nam (E&Y Việt
Nam) thành lập vào năm 1992, là công ty 100% vốn nước ngoài đầu tiên tại Việt Nam hoạt
động trong lĩnh vực tư vấn, kế toán - kiểm toán. Công ty có văn phòng làm việc đặt tại Hà Nội
SVTH: Phạm Hoàng Thy

18


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Nguyễn Thế Lộc


và Thành phố Hồ Chí Minh với một đội ngũ nhân viên hùng hậu bao gồm cả người Việt Nam
và người nước ngoài với trình độ chuyên môn cao, tận tâm và giàu kinh nghiệm. Trình độ
nhân viên từ đại học trở lên, một số tốt nghiệp từ các trường hàng đầu trong lĩnh vực kinh tế:
Đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh, khoa kinh tế Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí
Minh, Đại học ngân hàng, một số du học sinh từ các nước như: Mỹ, Singapore, Australia…
Hoạt động chủ yếu của công ty tại Việt Nam bao gồm cung cấp các dịch vụ kiểm toán,
thuế và tư vấn với 3 bộ phận nghiệp vụ chủ yếu: bộ phận kiểm toán và tư vấn doanh nghiệp
(AABS), bộ phận thuế (TAX) và bộ phận dịch vụ tư vấn kinh doanh quốc tế (TAS). Khách
hàng của Ernst & Young Việt Nam là các tập đoàn lớn hoạt động trên nhiều lĩnh vực:
Ngân hàng: Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, Ngân hàng Đông Á,



Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn…


Tập đoàn: Tập đoàn Tân Tạo, Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai…



Kinh doanh bất động sản: Công ty Nam Long…



Sản xuất và kinh doanh: Bluescope Steel, Ajinomoto, S-phone, Thế giới di

động…
Với triết lý kinh doanh tại Việt Nam là mong muốn giành được vị trí dẫn đầu về lĩnh vực
cung cấp dịch vụ, luôn luôn thích ứng với các thách thức mới, các quy định, luật lệ mới và

đồng thời đem đến cho các nhân viên một môi trường làm việc khuyến khích sự sáng tạo và
cách tiếp cận nhất quán trong việc đáp ứng mọi nhu cầu kinh doanh của khách hàng trong nền
kinh tế biến chuyển nhanh chóng của Việt Nam, Ernst & Young Việt Nam đang cung cấp các
dịch vụ của mình cho các công ty đa quốc gia, các công ty liên doanh và các doanh nghiệp
hàng đầu của Việt Nam. Trong tương lai, Ernst & Young Việt Nam sẽ đề ra một số mục tiêu
khắt khe cho chính mình để có thể trở thành một nhà cung cấp dịch vụ tốt nhất cho tất cả các
đối tượng khách hàng về nhu cầu kinh doanh của họ.
2.1.2 Chức năng và lĩnh vực hoạt động
Hiện nay, công ty Ernst & Young Việt Nam là một trong số các đơn vị kiểm toán được
Ủy ban chứng khoán cho phép cung cấp các dịch vụ kiểm toán cho các tổ chức phát hành, tổ

SVTH: Phạm Hoàng Thy

19


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Nguyễn Thế Lộc

chức niêm yết và tổ chức kinh doanh chứng khoán (Theo quyết định của Ủy ban chứng khoán
nhà nước số 331/QĐ – UBCK). Các dịch vụ được công ty Ernst & Young Việt Nam cung cấp
bao gồm:
Dịch vụ kiểm toán (AABS):



Kiểm toán là một bộ phận chủ yếu trong hoạt động quốc tế của công ty. Nguyên lý kiểm
toán của Ersnt &Young là duy trì tiêu chuẩn chất lượng chuyên môn và kỹ thuật cao nhất, song
song đó là những vấn đề thực tiễn giúp khách hàng tăng cường hiệu quả hoạt động kinh

doanh.
Các dịch vụ kiểm toán của Ersnt & Young Việt Nam bao gồm:
- Kiểm toán báo cáo tài chính theo luật định và kiểm toán cho tập đoàn.
- Dịch vụ Kiểm soát Rủi ro Công nghệ và Bảo mật (TSRS).
- Kiểm toán theo thủ tục thỏa thuận trước và kiểm toán cho mục đích đặc biệt- Soát xét báo
cáo tài chính.
- Kiểm toán chẩn đoán.
- Dịch vụ Kiểm soát Rủi ro Kinh doanh (BRS).
- Dịch vụ Kế toán.
- Tư vấn và hỗ trợ về kế toán.


Các dịch vụ về thuế (TAX)
Ernst & Young Việt Nam chuyên cung cấp các dịch vụ về thuế và liên quan đến thuế

nhằm đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng.
Các dịch vụ về thuế bao gồm:
- Chiến lược tham gia thị trường, lập cơ cấu đầu tư.
- Tuân thủ các quy định về thuế: lập cơ cấu thuế hiệu quả; kiến nghị giảm thuế với cơ quan
thuế.
- Cơ cấu thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế gián thu.
- Tư vấn về các cơ hội giảm thiểu tiền thuế.
SVTH: Phạm Hoàng Thy

20


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Nguyễn Thế Lộc


- Làm việc với các cơ quan thuế.


Dịch vụ tư vấn doanh nghiệp (TAS)
Bộ phận tư vấn doanh nghiệp của Ernst & Young chuyên cung cấp các dịch vụ thương

mại và tài chính cho các khách hàng mà hầu hết là những đơn vị có vốn đầu tư nước ngoài.
Mục tiêu của Ernst & Young là giúp cho khách hàng đảm bảo việc kinh doanh luôn đạt hiệu
quả cao và tuân thủ pháp luật.
Các dịch vụ tư vấn doanh nghiệp của Ernst & Young Việt Nam bao gồm:
- Đánh giá sơ bộ tình hình tài chính.
- Tái cơ cấu doanh nghiệp, đánh giá sự phù hợp và hiệu quả.
- Tư vấn quản lý, bao gồm phân tích chẩn đoán, lập chiến lược kinh doanh, xây dựng ngân
sách kinh doanh.
- Tư vấn sát nhập & chuyển nhượng doanh nghiệp.
- Định giá doanh nghiệp.
- Cổ phần hóa và chuẩn bị niêm yết trên thị trường chứng khoán..
2.1.3 Sơ đồ bộ máy tổ chức
Cơ cấu tổ chức của công ty chia thành các bộ phận như sau:
- Bộ phận AABS: Chuyên thực hiện dịch vụ kiểm toán.
- Bộ phận TAX: Chuyên thực hiện các dịch vụ về thuế.
- Bộ phận TAS: Chuyên cung cấp các dịch vụ về tư vấn doanh nghiệp.
- Bộ phận Admin: Thực hiện công việc nội bộ trong đơn vị. Bộ phận Admin còn bao gồm cả
nhiệm vụ quản lý nhân sự cho công ty.
Với mục tiêu cung cấp dịch vụ hoàn hảo nhất cho khách hàng, giữa các bộ phận AABS,
TAS và TAX luôn có sự hỗ trợ lẫn nhau. Bộ máy quản lý của Ernst & Young luôn được phân
chia thành 3 cấp bậc:
 Staff và Senior: tiếp xúc với khách hàng và thực hiện công việc theo kế hoạch lập ra.
 Manager và Senior Manager: soát xét lại công việc được thực hiện bởi các Senior.


SVTH: Phạm Hoàng Thy

21


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Nguyễn Thế Lộc

 Partner: là người soát xét cuối cùng công việc được thực hiện bởi nhân viên cấp dưới.
Với cơ cấu tổ chức chặt chẽ đó, Ernst & Young luôn đảm bảo vị trí dẫn đầu thế giới về
chất lượng dịch vụ cung cấp cho khách hàng của mình.

 Sơ đồ bộ máy tổ chức:

SVTH: Phạm Hoàng Thy

22


Chuyên đề tốt nghiệp

SVTH: Phạm Hoàng Thy

GVHD: TS Nguyễn Thế Lộc

23



Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Nguyễn Thế Lộc

2.1.4 Tổ chức bộ máy kế toán
Phòng kế toán của công ty không cung cấp dịch vụ kế toán cho các doanh nghiệp bên
ngoài, do đó tổ chức bộ máy kế toán cũng tương đối đơn giản, gồm 6 người. Chịu trách nhiệm
chính ở phòng kế toán là ông Nguyễn Minh Trí – kế toán trưởng, và 5 nhân viên kế toán phụ
trách từng phần hành, đảm bảo sự phân công, phân nhiệm hợp lý giữa các nhân viên trong
phòng.
Hình thức sổ kế toán là nhật ký – chứng từ kết hợp với hình thức kế toán trên máy tính.
Chính sách kế toán của công ty tuân theo quyết định 15.2006/QĐ/BTC ngày 20 tháng 3 năm
2006 của Bộ Tài Chính.
Năm tài chính của công ty bắt đầu từ 1/7 và kết thúc vào ngày 31/6 năm tiếp theo. Là
công ty 100% vốn nước ngoài hoạt động tại Việt Nam nên mọi hoạt động của công ty đều tuân
theo quy định của luật pháp Việt Nam đồng thời còn phải tuân thủ các chuẩn mực quốc tế. Vào
cuối niên độ, công ty tiến hành lập báo cáo tài chính để gửi về công ty mẹ làm căn cứ để lập
báo cáo tài chính hợp nhất.
Là một công ty cung cấp dịch vụ nên các nghiệp vụ chủ yếu phát sinh liên quan đến
việc ghi nhận doanh thu và chi phí.


Sơ đồ bộ máy kế toán trong công ty:

2.1.5 Quy trình kiểm toán tại công ty Ernst & Young Việt Nam (EY GAM)
EY GAM là một phương pháp kiểm toán cung cấp nền tảng lý luận cho các kiểm toán
viên của Ernst & Young, được áp dụng một cách nhất quán trong tất cả các cuộc kiểm toán báo
SVTH: Phạm Hoàng Thy

24



Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Nguyễn Thế Lộc

cáo tài chính của Ernst & Young trên toàn thế giới. EY GAM được biên soạn bởi những kiểm
toán viên cao cấp, nhiều kinh nghiệm và giỏi nhất ở Ernst & Young toàn cầu và thường xuyên
được cập nhật cho phù hợp với từng thời điểm. EY GAM được biên soạn phù hợp với các
chuẩn mực quốc tế và đáp ứng các yêu cầu khắt khe về chất lượng của một cuộc kiểm toán.
EY GAM không được thiết kế để đáp ứng những yêu cầu đặc biệt của bất kỳ một quốc gia cụ
thể nào. Do đó, khi áp dụng phương pháp này một quốc gia cụ thể thì phải được hỗ trợ bởi các
chuẩn mực hay quy định tại quốc gia đó.
Đặc điểm nổi bật của EY GAM là nhấn mạnh vào rủi ro kinh doanh của khách hàng
và các thủ tục kiểm soát. EY GAM gồm 14 bước được chia thành bốn giai đoạn:
Giai đoạn 1: Thiết lập mục tiêu, gặp mặt
Giai đoạn 2: Đánh giá rủi ro và thiết lập chiến lược kiểm toán
Giai đoạn 3: Thực hiện kiểm toán
Giai đoạn 4: Hoàn thành kiểm toán và đưa ra ý kiến kiểm toán

SVTH: Phạm Hoàng Thy

25

Bảng 2.1: EY GAM


×