trờng đại học kinh tế quốc dân
KHOA Kế TOáN
---------***---------
KHểA LUN TT NGHIP
Đề tài:
HON THIN QUY TRèNH NH GI RI RO KIỂM
TỐN TRONG GIAI ĐOẠN LẬP KẾ HOẠCH KIỂM TỐN
DO CƠNG TY TNHH KIỂM TOÁN AN PHÚ THỰC HIỆN
GVHD
: GS.TS NGUYỄN QUANG QUYNH
Họ và tên sinh viên
: VŨ THỊ PHƯƠNG LIÊN
Chuyên ngành
: KIỂM TỐN
Lớp
: KIỂM TỐN 46B
Khóa
: 46
Hệ
: CHÍNH QUY
Hµ Néi 6/ 2008
Vũ Thị Phương Liên
Kiểm toán 46B
Trường Đại học Kinh tế quốc dân
i
Khoa Kế toán
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trung bình ...................................................................................................18
Thấp.............................................................................................................18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................99
Vũ Thị Phương Liên
Kiểm toán 46B
Trường Đại học Kinh tế quốc dân
ii
Khoa Kế toán
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Tiếng Việt:
Số thứ tự
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
10
11
12
Tiếng Anh:
Từ viết tắt
BCTC
BGĐ
DN
HC
HTKSNB
HĐQT
HTK
KD
KQHĐKD
KTV
TSCĐ
TC-KT
TNHH
Số thứ tự
1
2
3
4
5
6
Từ viết tắt
AR
CR
DR
IR
IAG
VSA
Vũ Thị Phương Liên
Viết đầy đủ
Báo cáo tài chính
Ban giám đốc
Doanh nghiệp
Hành chính
Hệ thống kiểm sốt nội bộ
Hội đồng quản trị
Hàng tồn kho
Kinh doanh
Kết quả hoạt động kinh doanh
Kiểm tốn viên
Tài sản cố định
Tài chính – Kế tốn
Trách nhiệm hữu hạn
Viết đầy đủ Tiếng Anh
Audit Risk
Control Risk
Detection Risk
Inherent Risk
International auditing guidelines
VietNam Standards on Auditing
Kiểm toán 46B
Trường Đại học Kinh tế quốc dân
iii
Khoa Kế toán
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trung bình ...............................................................................................18
Thấp..........................................................................................................18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................99
Sơ đồ 1.3: Phương pháp đánh giá từ đỉnh đến đáy.....................................22
Sơ đồ 1.4: Khái quát việc nghiên cứu HTKSNB và quy trình
đánh giá rủi ro kiểm sốt.................................................................29
Sơ đồ 2.1: Tổ chức bộ máy quản lý của Công ty TNHH Kiểm toán An Phú 40
Sơ đồ 2.2: Quy trình kiểm tốn tại Cơng ty TNHH Kiểm tốn An phú..........44
Vũ Thị Phương Liên
Kiểm toán 46B
Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Khoa Kế toán
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài
Từ khi nước ta thực hiện công cuộc đổi mới, phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa đến nay, các doanh nghiệp lớn nhỏ ở Việt
Nam ngày càng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Cùng với sự
địi hỏi tính minh bạch của báo cáo tài chính thì nhu cầu sử dụng các dịch vụ
kiểm tốn của các cơng ty và các doanh nghiệp càng cao. Hiện nay, xã hội đã
từng bước nhận thức được tầm quan trọng của kiểm toán độc lập gắn liền với
sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Từ đó, đã tạo ra một mơi trường rất
thuận lợi cho các Cơng ty kiểm tốn phát triển, mở rộng tầm hoạt động. Mặt
khác, nó cũng đặt ra một thách thức lớn đối với các Cơng ty kiểm tốn. Chất
lượng kiểm tốn phải khơng ngừng được nâng cao. Chất lượng cuộc kiểm
tốn phải có được thơng qua việc kiểm tốn viên tuân thủ chuẩn mực kiểm
toán, hiểu biết đầy đủ về khách hàng, đánh giá rủi ro tổng thể và chi tiết. Vì
vậy để có được một cuộc kiểm tốn hữu hiệu và hiệu quả thì cần thiết phải
tiếp cận kiểm toán dựa trên rủi ro. Việc thực hiện đánh giá rủi ro được thực
hiện xuyên suốt trong quá trình kiểm tốn. Trong đó quan trọng nhất là giai
đoạn lập kế hoạch kiểm tốn. Cơng ty TNHH Kiểm tốn An Phú là một Cơng
ty kiểm tốn trong nước, mới được thành lập trong thời gian chưa lâu nên việc
xây dựng một quy trình chuẩn để đánh giá rủi ro vẫn cịn nhiều hạn chế.
Chính vì nhận thấy tầm quan trọng của việc đánh giá rủi ro trong giai
đoạn lập kế hoạch kiểm tốn báo cáo tài chính nên Em đã chọn Đề tài Khóa
luận tốt nghiệp của mình là: "Hồn thiện quy trình đánh giá rủi ro trong giai
đoạn lập kế hoạch kiểm tốn do Cơng ty TNHH kiểm tốn An Phú thực
hiện".
2. Mục tiêu nghiên cứu của Đề tài
Thông qua việc hệ thống hóa những vấn đề lí luận và thực tiễn, đi sâu
vào khía cạnh đánh giá rủi ro trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm tốn do Cơng
Vũ Thị Phương Liên
Kiểm toán 46B
Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Khoa Kế toán
ty TNHH kiểm toán An Phú thực hiện, đề tài hướng tới đề xuất những giải
pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện quy trình đánh giá rủi ro trong giai đoạn lập
kế hoạch kiểm tốn do Cơng ty thực hiện.
3. Nội dung của Đề tài
Ngoài Lời mở đầu và Kết luận, nội dung Khóa luận tốt nghiệp của Em
gồm có ba nội dung chính sau:
Chương I: Lý luận chung về đánh giá rủi ro kiểm toán trong giai đoạn
lập kế hoạch kiểm toán BCTC;
Chương II: Thực trạng đánh giá rủi ro trong giai đoạn lập kế hoạch
kiểm tốn do Cơng ty TNHH kiểm toán An Phú thực hiện;
Chương III: Phương hướng và giải pháp nhằm hồn thiện quy trình
đánh giá rủi ro trong giai đoạn lập kế hoạch trong kiểm toán BCTC do Cơng
ty TNHH kiểm tốn An Phú thực hiện.
4. Phương pháp nghiên cứu
Vận dụng phép biện chứng của chủ nghĩa duy vật lịch sử làm cơ sở
phương pháp luận và sử dụng các phương pháp của các mơn khoa học khác.
Ngồi ra kết hợp với quan sát thực tế tại Công ty để thực hiện đề tài.
5. Hướng đóng góp của Khóa luận
Trong q trình thực tập tại Cơng ty TNHH kiểm tốn An Phú, thơng
qua nghiên cứu về quy trình đánh giá rủi ro trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm
tốn, em hệ thống hóa lí luận và vận dụng phân tích thực trạng quy trình đánh
góa rủi ro kiểm tốn. Từ đó đưa ra phương hướng và giải pháp nhằm hồn
thiện hơn nữa quy trình đánh giá rủi ro do Công ty thực hiện. Do thời gian và
kiến thức cịn nhiều hạn chế nên Khóa luận của Em khơng thể tránh được
những sai sót nhất định. Em rất mong các thầy cơ giáo và các bạn đóng góp ý
kiến để Khóa luận của em được hồn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn
Thầy Nguyễn Quang Quynh, cùng các anh chị tại Cơng ty TNHH kiểm tốn
An Phú đã nhiệt tình hướng dẫn em hồn thành Khóa luận này.
Vũ Thị Phương Liên
Kiểm toán 46B
Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Khoa Kế toán
Chương I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐÁNH GIÁ RỦI RO
KIỂM TOÁN TRONG GIAI ĐOẠN LẬP KẾ HOẠCH
KIỂM TỐN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1.1 Lý luận cơ bản về rủi ro kiểm toán
1.1.1 Kiểm tốn với rủi ro
Kiểm tốn là một q trình một người độc lập có nghiệp vụ tập hợp và
đánh giá các bằng chứng về thơng tin có thể lượng hóa được, có liên quan tới
một thực thể kinh tế riêng biệt nhằm mục đích xác định và báo cáo mức độ
phù hợp giữa thơng tin có thể lượng hóa được và những tiêu chuẩn đã được
thiết lập. Kiểm toán tài chính là hoạt động đặc trưng nhất của kiểm tốn bởi
nó chứa đựng đầy đủ các sắc thái kiểm tốn ngay từ khi ra đời cũng như trong
quá trình phát triển. Kiểm tốn tài chính là q trình sử dụng các phương
pháp kĩ thuật nghiệp vụ và các thủ tục kiểm toán nhằm thu thập các bằng
chứng kiểm toán cần thiết làm cơ sở cho việc xác minh và bày tỏ ý kiến về
tính trung thực và hợp lí của các bảng khai tài chính đã lập so với những
chuẩn mực chung được chấp nhận. Đối tượng trực tiếp của kiểm tốn tài
chính là bảng khai tài chính. Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam Số 700 đoạn
07: “Ý kiến của kiểm toán viên đưa ra trên báo cáo kiểm toán một sự đảm báo
chắc chắn rằng báo cáo tài chính đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các
khía cạnh trọng yếu; Nhưng không đảm bảo tuyệt đối rằng khơng có bất kì một
sai sót nào trên báo cáo tài chính đã được kiểm tốn. Kiểm tốn viên chỉ quan
tâm đến các yếu tố trọng yếu của các báo cáo tài chính”.(3)
Để đảm bảo tính hiệu quả, tính kinh tế và tính hiệu lực của từng cuộc
kiểm tốn cũng như để thu thập bằng chứng kiểm toán đầy đủ và có giá trị
làm căn cứ cho kết luận của kiểm tốn viên về tính trung thực và hợp lý của
số liệu trên báo cáo tài chính, cuộc kiểm tốn thường được tiến hành theo quy
Vũ Thị Phương Liên
Kiểm toán 46B
Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Khoa Kế tốn
trình gồm ba giai đoạn như sau: lập kế hoạch và thiết kế các phương pháp
kiểm toán, thực hiện kế hoạch kiểm tốn, hồn thành cuộc kiểm tốn và cơng
bố báo cáo kiểm tốn. Trong đó lập kế hoạch kiểm tốn là giai đoạn đầu tiên
mà các kiểm toán viên cần thực hiện trong mỗi cuộc kiểm toán nhằm tạo ra
các điều kiện pháp lí cũng như những điều kiện cần thiết khác cho kiểm tốn.
Lập kế hoạch kiểm tốn có vai trò quan trọng, chi phối tới chất lượng và hiệu
quả chung của tồn bộ cuộc kiểm tốn. Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt
Nam Số 300: “Lập kế hoạch kiểm toán phải được lập cho mọi cuộc kiểm toán.
Kế hoạch kiểm tốn phải được lập một cách thích hợp nhằm đảm bảo bao quát
hết các khía cạnh trọng yếu của cuộc kiểm toán, phát hiện gian lận, rủi ro và
những vấn đề tiềm ẩn; và đảm bảo cuộc kiểm toán được tiến hành đúng thời
hạn”(3). Kế hoạch kiểm toán trợ giúp KTV phân cơng cơng việc cho trợ lí
kiểm tốn và phối hợp với KTV và chuyên gia khác về công việc kiểm toán.
Như vậy trên mức độ trọng yếu được xác định cho toàn bộ BCTC và phân bổ
cho từng khoản mục, KTV cần đánh giá khả năng xảy ra sai sót trọng yếu ở
tồn bộ BCTC cũng như từng khoản mục để phục vụ cho việc thiết kế các thủ
tục kiểm tốn và xây dựng chương trình cho từng khoản mục. Công việc này
được gọi là đánh giá rủi ro kiểm toán. Đánh giá rủi ro là vấn đề hết sức quan
trọng và có ảnh hưởng lớn đến chất lượng của mọi cuộc kiểm tốn. Để tìm
hiểu về quy trình đánh giá rủi ro ta cần phải hiểu thế nào là rủi ro và việc nhận
diện từng loại rủi ro.
Đã có rất nhiều các quan điểm khác nhau về rủi ro. Có quan điểm cho
rằng rủi ro chỉ liên quan đến các thiệt hại đã thực tế xảy ra (rủi ro khơng đối
xứng). Có quan điểm lại cho rằng rủi ro không chỉ liên quan đến các thiệt hại
đã thực tế xảy ra mà còn liên quan đến may mắn (rủi ro đối xứng). Theo một
cách chung nhất thì rủi ro chỉ những sự kiện có thể xảy ra nằm ngoài ý muốn
và khi xảy ra sẽ mang lại kết quả khơng có lợi. Rủi ro cịn được hiểu là sự sai
Vũ Thị Phương Liên
Kiểm toán 46B
Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Khoa Kế toán
lệch giữa dự kiến và thực tế đã xảy ra. Rủi ro không những chỉ sự ngờ vực sẽ
xảy ra những hậu quả xấu trong tương lai mà nó cịn ám chỉ những hậu quả có
thể xảy ra ở hiện tại và dẫn đến những khó khăn hoặc sự bất lợi ở hiện tại.
Trong cuốn sách “Bảo hiểm quốc tế về nguyên tắc và thực hành” do Học viện
Hoàng gia Anh xuất bản năm 1993 có định nghĩa cho rằng: “Rủi ro là khả
năng xảy ra một sự cố không may; Rủi ro là sự khơng đốn trước được một
tình huống, một khuynh hướng dẫn đến kết quả thực tế khác với kết quả dự
đoán; rủi ro là sự kết hợp các nguy cơ; rủi ro là sự không chắc chắn về những
tổn thất; Rủi ro là khả năng xảy ra những tổn thất(4). Các quan điểm đều đề
cập đến các sự việc khơng chắc chắn xảy ra trong tương lai. Nhìn chung các
quan điểm đều cho rằng hậu quả xảy ra do một hoặc nhiều nguyên nhân gây
nên. Từ điển Tiếng việt cho rằng: ” Rủi ro là điều không lành, không tốt bất
ngờ xảy đến(9). Từ điển Bách khoa Việt Nam đưa ra định nghĩa về rủi ro như
sau: ”Rủi ro là hậu quả gây thiệt hại ít nhiều có thể dự kiến được của một hành
vi mà việc thực hiện khơng chỉ phụ thuộc vào ý chí của bên đương sự. Người
thực hiện hành vi phải chịu trách nhiệm về thiệt hại gây nên cho người kia”(10).
Rủi ro là điều khơng ai muốn, xảy ra ngồi tầm kiểm sốt của chúng ta.
Trong bất cứ một lĩnh vực nào cũng ln ln tiềm ẩn những rủi ro và có khả
năng xảy ra bất cứ lúc nào. Do đó, vấn đề cần đặt ra là chúng ta phải kiểm
soát được các rủi ro có nguy cơ xảy ra. Trong mỗi lĩnh vực đều có các rủi ro
khác nhau như rủi ro đầu tư, rủi ro kinh doanh…Rủi ro đầu tư là loại rủi ro
xảy ra khi các nhà đầu tư tiến hành các hoạt động đầu tư. Rủi ro đầu tư ln
tiềm ẩn và có khả năng xảy ra nếu các nhà đầu tư khơng tính tốn và lường
hết các khả năng có thể xảy ra và các nhân tố tác động đến hoạt động đầu tư
của mình. Rủi ro kinh doanh là loại rủi ro xảy ra khi tiến hành các hoạt động
sản xuất kinh doanh. Bất kì hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng chứa
đựng rủi ro và có thể xảy ra bất cứ lúc nào.
Có thể kết luận rằng rủi ro là một sự không thuận lợi, khơng may mắn.
Vũ Thị Phương Liên
Kiểm tốn 46B
Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Khoa Kế toán
Rủi ro thường chỉ một điều không may mắn và khi rủi ro xảy ra thì sẽ đưa đến
những hậu quả nào đó. Nhìn chung bất kì một hoạt động kinh tế nào cũng
tiềm ẩn rủi ro và có khả năng xảy ra bất cứ lúc nào. Lĩnh vực kiểm toán, với
tư cách là một môn khoa học cũng không phải ngoại lệ, tuy nhiên với những
đặc thù riêng của ngành nên rủi ro kiểm tốn cũng có những đặc trưng riêng.
Các rủi ro thường gặp trong kiểm tốn đó là rủi ro kiểm toán, rủi ro
kinh doanh, rủi ro chọn mẫu và rủi ro khơng chọn mẫu kiểm tốn…Rủi ro
kiểm tốn là rủi ro xảy ra khi KTV và Công ty kiểm toán đưa ra kết luận về
BCTC của khách hàng được trình bày trung thực và hợp lí trên các khía cạnh
trọng yếu, qua đó KTV đưa ra ý kiến chấp nhận tồn phần đối với bảng khai
tài chính của khách hàng. Trên thực tế, BCTC của khách hàng vẫn ln tiềm
ẩn những sai sót trọng yếu. Rủi ro chọn mẫu và rủi ro khơng chọn mẫu kiểm
tốn là hai bộ phận quan trọng ảnh hưởng đến rủi ro kiểm toán. Rủi ro kinh
doanh trong lĩnh vực kiểm toán là rủi ro xảy ra khi đó KTV và cơng ty kiểm
toán phải chịu thiệt hại trong mối quan hệ với khách hàng, do những sai phạm
trong việc cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Để kiểm soát được rủi ro kiểm
tốn cơng việc của các KTV đó là đánh giá rủi ro kiểm toán. Việc đánh giá rủi
ro kiểm toán cần được quan tâm và thực hiện ngay từ trước khi chấp nhận
kiểm toán và đặc biệt là trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán.
Từ điển Thuật ngữ Kế toán - Kiểm toán do TS Thịnh Văn Vinh và Đỗ
Đức Quốc Trị biên soạn, đã định nghĩa như sau: “Rủi ro kiểm toán là một
phạm trù dùng để chỉ trường hợp kiểm toán viên đã đưa ra một ý kiến kiểm
tốn khơng phù hợp với báo cáo tài chính. Báo cáo tài chính đã kiểm tốn vẫn
chứa đựng những sai lầm nghiêm trọng ”(12).
Theo định nghĩa của Nguyên tắc chỉ đạo kiểm toán quốc tế IAG 25,
”Trọng yếu và rủi ro” : “Rủi ro kiểm toán là những rủi ro mà KTV có thể mắc
phải khi đưa ra nhận xét khơng xác đáng về các thơng tin tài chính và nó là sai
Vũ Thị Phương Liên
Kiểm tốn 46B
Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Khoa Kế tốn
sót nghiêm trọng”(6). Những nhận xét không xác đáng chủ yếu theo hướng
KTV sẽ kết luận là các BCTC được trình bày trung thực và hợp lí, do đó cơng
bố một ý kiến chấp nhận toàn phần trong khi chúng bị sai sót trọng yếu.
Chuẩn mực Kiểm tốn Việt Nam Số 400 (VSA 400) giải thích về rủi ro kiểm
tốn như sau: “Rủi ro kiểm toán là rủi ro do KTV và cơng ty kiểm tốn đưa ra
ý kiến nhận xét khơng thích hợp trong khi BCTC đã được kiểm tốn vẫn cịn
chứa đựng những sai sót trọng yếu. Rủi ro kiểm toán bao gồm ba bộ phận: rủi
ro tiềm tàng; rủi ro kiểm sốt và rủi ro phát hiện”(3). Nói tóm lại đã có nhiều
định nghĩa khác nhau về rủi ro kiểm tốn. Các định nghĩa nhìn chung đều chỉ
ra rằng rủi ro kiểm tốn là những nhận xét khơng xác đáng chủ yếu theo
hướng kiểm toán viên sẽ kết luận là các BCTC được trình bày trung thực và
hợp lí, do đó cơng bố một ý kiến chấp nhận tồn phần trong khi chúng bị sai
sót trọng yếu. Sai sót trọng yếu ảnh hưởng nghiêm trọng đến những người sử
dụng thông tin của BCTC. Cũng như các loại rủi ro khác, rủi ro kiểm tốn
cũng ln tiềm ẩn và có nguy cơ xảy ra ngay cả khi cuộc kiểm toán được lập
kế hoạch chu đáo và thực hiện một cách thận trọng. Rủi ro kiểm toán sẽ tăng
lên nếu việc lập kế hoạch kém và thực hiện thiếu thận trọng. Trong các văn
bản hướng dẫn chỉ đạo quốc tế, rủi ro kiểm toán được xét trong mối quan hệ
với kế hoạch kiểm toán, lấy mẫu kiểm toán và lựa chọn phép thử nên rủi ro
kiểm toán được hiểu là khả năng sai sót và việc đánh giá rủi ro được ước tính
theo tỉ lệ từ 0% đến 100%. KTV khơng thể chắc chắn rằng 100% các BCTC
đã kiểm tốn khơng cịn chứa đựng các sai phạm trọng yếu. Vì vậy, KTV chỉ
có thể kì vọng một mức kiểm tốn có thể chấp nhận được đảm bảo rằng ở
mức rủi ro đó sai sót trọng yếu khơng có cơ hội xảy ra. Trong lĩnh vực kiểm
tốn khơng có một quy định chính thức nào về mức rủi ro kiểm tốn có thể
chấp nhận, loại trừ rằng rủi ro kiểm toán phải ở mức cho phép. Vấn đề xác
định rủi ro kiểm toán là hết sức cần thiết trong mọi cuộc kiểm toán. Dựa trên
Vũ Thị Phương Liên
Kiểm toán 46B
Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Khoa Kế toán
mức rủi ro kiểm tốn đã xác định, KTV có cơ sở để xác định mức trọng yếu
có thể chấp nhận. Trong Mục 08, Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam Số 400
(VSA 400) “Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ” có quy định: “Rủi ro kiểm
tốn phải được xác định trước khi lập kế hoạch kiểm toán và thực hiện kiểm
tốn”(3). Như vậy rủi ro kiểm tốn ln được KTV và Cơng ty kiểm tốn xác
định trước khi lập kế hoạch và thực hiện kiểm toán. Xác định được rủi ro
kiểm tốn góp phần giúp cho KTV và Cơng ty kiểm tốn xác định được
chương trình kiểm tốn cụ thể. Có nhiều ngun nhân dẫn đến rủi ro kiểm
tốn, có thể do giới hạn về mặt quản lý, mà trực tiếp là chi phí kiểm tốn (số
lượng bằng chứng kiểm tốn cần thu thập). Thậm chí, ngay cả khi bằng chứng
kiểm tốn đã đủ thì rủi ro kiểm tốn vẫn có khả năng xảy ra. Chi phí kiểm
tốn và rủi ro kiểm tốn có mối quan hệ tỉ lệ nghịch với nhau. Ví dụ số lượng
bằng chứng kiểm tốn càng nhiều thì rủi ro kiểm tốn càng thấp và ngược lại.
Mối quan hệ giữa rủi ro kiểm toán và chi phí kiểm tốn được minh họa qua sơ
đồ sau:
Sơ đồ 1.1: Mối quan hệ giữa chi phí kiểm tốn và rủi ro kiểm toán
Mức rủi ro kiểm toán
Rủi ro đạt tới
Rủi ro mong muốn
Bằng chứng kiểm tốn (Chi phí)
Vũ Thị Phương Liên
Kiểm toán 46B
Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Khoa Kế toán
1.1.2 Các loại rủi ro kiểm toán
Đối tượng của kiểm toán là những thơng tin được kiểm tốn qua nhiều
giai đoạn bằng các bộ máy kiểm toán khác nhau nên rủi ro kiểm toán cũng
được xác định tương ứng với đối tượng kiểm toán từng loại: Rủi ro tiềm tàng,
rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện.
Rủi ro tiềm tàng (Inherent Risk) – IR là khả năng tồn tại các sai
phạm trọng yếu trong bản chất các đối tượng kiểm toán (chưa tính đến sự tác
động của bất cứ hoạt động kiểm toán nào kể cả kiểm soát nội bộ). Từng
khoản mục và nghiệp vụ trên BCTC luôn chứa đựng những sai sót trọng yếu
mặc dù có hay khơng có sự xuất hiện của hệ thống kiểm soát nội bộ. Mức rủi
ro tiềm tàng phụ thuộc vào đặc điểm kinh doanh của khách thể kiểm tốn, loại
hình kinh doanh và cả năng lực nhân viên của khách thể kiểm toán. Kiểm tốn
viên khơng tạo ra và cũng khơng kiểm sốt rủi ro tiềm tàng mà họ chỉ có thể
đánh giá chúng. Rủi ro tiềm tàng là một khái niệm quan trọng trong kiểm
toán. Để đánh giá rủi ro tiềm tàng KTV phải dựa vào kinh nghiệm và óc xét
đốn của mình để từ đó dự đốn nơi nào trong BCTC chứa đựng sai sót nhiều
nhất. Những sai sót riêng lẻ hoặc kết hợp sẽ làm sai lệch thông tin trên BCTC
và làm ảnh hưởng đến người sử dụng thông tin trên BCTC. Sai sót đó có thể
là cố ý hoặc vơ ý song vẫn ảnh hưởng đến số dư các tài khoản.
Từ điển Thuật ngữ tài chính – Tín dụng, của Nhà Xuất bản Tài Chính
năm 1996 có định nghĩa: “Rủi ro tiềm tàng là những sai sót vượt quá giới hạn
cho phép tồn tại ngay trong chức năng hoạt động sản xuất kinh doanh và mơi
trường quản lí của doanh nghiệp cũng như trong các số dư tài khoản. Rủi ro
tiềm tàng tồn tại độc lập với các thông tin tài chính bất kể doanh nghiệp có
tiến hành kiểm tốn hay khơng”(11)
Vũ Thị Phương Liên
Kiểm tốn 46B
Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Khoa Kế toán
Nguyên tắc Kiểm toán Quốc tế Số 25 “Trọng yếu và rủi ro kiểm tốn”
có nói: “Rủi ro tiềm tàng là những yếu điểm của số dư tài khoản hoặc của một
loại nghiệp vụ, đối với những sai sót này có thể đơn lẻ hoặc có thể kết hợp với
các sai sót ở những số dư, các nghiệp vụ khác (ở đây giả định là khơng có các
quy chế kiểm sốt nội bộ có liên quan). Rủi ro tiềm tàng nằm trong chức năng
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, trong môi trường kinh doanh cũng
như nằm trong bản chất của số dư tài khoản hoặc các nghiệp vụ”(6).
Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam Số 400 (VSA 400) cho rằng: “ Rủi ro
tiềm tàng là rủi ro tiềm ẩn, vốn có do khả năng từng nghiệp vụ, từng khoản
mục trong BCTC chứa đựng những sai sót trọng yếu khi tính riêng rẽ hoặc tính
gộp, mặc dù có hay khơng có hệ thống kiểm soát nội bộ”(3).
Như vậy, theo một cách chung nhất rủi ro tiềm tàng là sự nghi ngờ về
một số dư tài khoản nào đó trong một khoản mục hay nghiệp vụ nào đó mà
sai sót có thể xảy ra giả sử rằng khơng có một bước kiểm sốt nội bộ liên
quan nào. Rủi ro tiềm tàng có quy mơ lớn hay nhỏ phụ thuộc vào đặc điểm
tình hình kinh doanh của khách thể kiểm tốn, loại hình kinh doanh của khách
thể kiểm toán.
Trong thực tế, để đánh giá rủi ro tiềm tàng KTV có thể dựa vào nhiều
nguồn thơng tin khác nhau. Chẳng hạn, KTV có thể dựa vào kết quả của cuộc
kiểm tốn trước. Ví dụ, nếu kết quả cuộc kiểm tốn năm trước chỉ ra rằng
khơng phát hiện bất kì một sai phạm trọng yếu nào thì KTV nên đánh giá khả
năng tiềm ẩn rủi ro tiềm tàng sẽ lớn và phải chú ý nhiều. Hoặc thông qua việc
thu thập các thông tin về ngành nghề kinh doanh của khách thể kiểm tốn, về
chính sách kinh tế, tài chính kế tốn của đơn vị được kiểm tốn, KTV có thể
hiểu được bản chất kinh doanh của đơn vị, hiểu được tính chất phức tạp của
các nghiệp vụ… và từ đó có thể đưa ra dự đốn của mình về rủi ro tiềm tàng.
Rủi ro kiểm sốt (Control Risk) – CR là khả năng hệ thống kiểm soát
Vũ Thị Phương Liên
Kiểm toán 46B
Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Khoa Kế toán
nội bộ của đơn vị được kiểm tốn khơng phát hiện ngăn ngừa và sửa chữa kịp
thời các sai phạm trọng yếu. Rủi ro kiểm soát là khả năng xảy ra các sai phạm
trọng yếu do hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị khách hàng không hoạt động
hoặc hoạt động khơng hiệu quả do đó đã khơng phát hiện và ngăn chặn các sai
phạm này. Rủi ro kiểm sốt có liên quan mật thiết đến sự yếu kém của hệ thống
kiểm soát nội bộ của khách hàng. Cũng như rủi ro tiềm tàng, KTV khơng thể tạo
ra và kiểm sốt được rủi ro kiểm sốt. KTV chỉ có thể đánh giá hệ thống kiểm
soát của đơn vị được kiểm toán và từ đó đưa ra mức rủi ro kiểm sốt dự kiến.
Từ điển Thuật ngữ Tài chính – Tín dụng, của Nhà Xuất bản Tài Chính
năm 1996 có định nghĩa: “Rủi ro kiểm sốt là những sai sót vượt q giới hạn
cho phép mà hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng do yếu kém nên không
ngăn chặn và phát hiện được. Rủi ro kiểm soát tồn tại độc lập với các thơng tin
tài chính bất kể có kiểm tốn hay khơng”(11
Văn bản chỉ đạo Kiểm tốn Quốc tế Số 25 Mục 14 cho rằng: “Rủi ro
kiểm soát là rủi ro do xác định sai, nó có thể xảy ra một số dư tài khoản hoặc
nghiệp vụ và cũng có thể là sai sót nghiêm trọng. Những sai sót này xảy ra đơn
lẻ hoặc được kết hợp với các sai sót của các số dư, hoặc các nghiệp vụ khác
mà hệ thống kiểm sốt nội bộ đã khơng ngăn chặn hoặc khơng phát hiện kịp
thời. Rủi ro kiểm sốt ln khó phát hiện và khó tránh khỏi vì những hạn chế
có tính bản chất của bất kì một hệ thống kiểm soát nội bộ nào”(6.
Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam Số 400 (VSA 400) cho rằng: “Rủi ro
kiểm soát là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng khoản
mục trong BCTC khi tính riêng rẽ hoặc gộp lại mà hệ thống kế toán và hệ
thống kiểm sốt nội bộ khơng ngăn chặn hết hoặc không phát hiện và sửa chữa
kịp thời”(3).
Như vậy, một cách chung nhất rủi ro kiểm soát là sự đánh giá về cơ cấu
Vũ Thị Phương Liên
Kiểm toán 46B
Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Khoa Kế toán
của hệ thống kiểm sốt nội bộ của khách hàng có hiệu quả với việc ngăn
chặn, phát hiện các sai sót hay khơng. Mục đích của KTV là đánh giá rủi ro
kiểm soát của khách hàng ở một mức nhỏ hơn mức tối đa trong khi lập kế
hoạch kiểm toán. Kiểm toán viên đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ của
khách hàng hoạt động không hiệu quả trong việc ngăn ngừa và phát hiện các
sai phạm thì sẽ phân bổ 100% yếu tố rủi ro cho rủi ro kiểm soát. Kiểm toán
viên xét thấy hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng hoạt động có hiệu quả
thì yếu tố rủi ro được phân bổ cho rủi ro kiểm soát ở mức thấp.
Rủi ro kiểm sốt có mối quan hệ tỉ lệ thuận với số lượng bằng chứng
kiểm toán cần thu thập và quan hệ tỉ lệ nghịch với rủi ro phát hiện. Thí dụ,
nếu KTV kết luận là hệ thống kiểm sốt nội bộ của khách hàng hoạt động có
hiệu quả, rủi ro phát hiện có thể tăng lên và do đó rủi ro kiểm sốt giảm
xuống. Rủi ro kiểm sốt giảm xuống thì số lượng bằng chứng kiểm tốn cần
thu thập sẽ giảm xuống. Kiểm tốn viên có thể tăng mức rủi ro phát hiện (tức
là giảm rủi ro kiểm soát) khi xét thấy hệ thống kiểm soát nội bộ của khách
hàng hoạt động tốt, bởi vì khi hệ thống kiểm sốt nội bộ hoạt động tốt thì sẽ
làm giảm các sai sót trong BCTC.
Do những hạn chế cố hữu của hệ thống kiểm soát nội bộ nên rủi ro
kiểm sốt ln xuất hiện và khó tránh khỏi.
Rủi ro phát hiện (Detection Risk) – DR là khả năng mà các thủ tục
kiểm tốn khơng phát hiện được các sai phạm trọng yếu. Văn bản chỉ đạo
Kiểm toán Quốc tế Số 25 cho rằng: “Rủi ro phát hiện là những rủi ro mà kiểm
tóan khơng phát hiện ra các sai sót hiện có trong các số dư tài khoản, các loại
nghiệp vụ. Các sai sót này có thể là các sai sót nghiêm trọng xảy ra đơn lẻ
hoặc có thể kết hợp với các sai sót trong số dư các nghiệp vụ khác. Mức rủi ro
phát hiện có quan hệ trực tiếp với những phương pháp của KTV”(6).
Từ điển Thuật ngữ Tài chính – Tín dụng, của Nhà Xuất bản Tài Chính
Vũ Thị Phương Liên
Kiểm tốn 46B
Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Khoa Kế toán
năm 1996 có định nghĩa: “Rủi ro phát hiện là những sai sót nghiêm trọng
trong các thơng tin tài chính của khách hàng mà KTV không phát hiện ra. Mức
độ rủi ro phát hiện có quan hệ trực tiếp tới phương pháp kiểm toán của
KTV”(11
Chuẩn mực Kiểm toán Số 400 (VSA 400) cho rằng: “Rủi ro phát hiện
là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ và từng khoản mục
trong BCTC khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà trong q trình kiểm tốn, KTV
và cơng ty kiểm tốn khơng phát hiện được”(3).
Ngược lại với rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm sốt, KTV phải có trách
nhiệm thực hiện các thủ tục thu thập các bằng chứng kiểm toán nhằm quản lý
và kiểm soát rủi ro phát hiện. Rủi ro phát hiện phụ thuộc vào: mức độ thích
hợp của các bước kiểm tốn; tính hợp lí của việc thực hiện quy trình kiểm
tốn cho mỗi phần hành; mối quan hệ giữa bằng chứng kiểm toán với nhận
thức hoặc nhận định và đưa ra kết luận về phần hành đó cũng như về báo cáo
tài chính; khả năng phát hiện ra sai sót do có sự thơng đồng nhất trí bên trong
doanh nghiệp để thực hiện khơng đúng các chế độ chính sách do Ban giám
đốc đề ra. Nói cách khác, mức độ rủi ro phát hiện có quan hệ mật thiết với
những phương pháp kiểm toán và các bằng chứng mà KTV thu thập được.
Trong thực tế rủi ro phát hiện vẫn có thể xuất hiện cho dù KTV đã thực hiện
kiểm tra 100% số dư các tài khoản và các nghiệp vụ phát sinh. Nguyên nhân
chính xảy ra tình trạng này là do các phương pháp kiểm tốn mà KTV áp
dụng là khơng phù hợp, hoặc áp dụng sai phương pháp kiểm toán đã chọn,
hoặc khi đã có kết quả thực tế của cuộc kiểm tốn thì KTV lại đưa ra các đánh
giá và nhận xét sai lầm. Các nguyên nhân xảy ra rủi ro phát hiện có thể khái
qt như sau:
Thứ nhất: Kiểm tốn viên áp dụng các bước kiểm tốn khơng phù hợp.
Vũ Thị Phương Liên
Kiểm toán 46B
Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Khoa Kế toán
Điều này xảy ra với các KTV mới vào nghề, thiếu kinh nghiệm hoặc q trình
lập kế hoạch kiểm tốn khơng được thực hiện một cách đúng đắn, khiến cho
việc thực hiện các quy trình kiểm tốn đối với mỗi phần hành trở nên khơng
hợp lí.
Thứ hai: Kiểm tốn viên đã tìm được bằng chứng, nhưng khơng tìm
được ngun nhân gây sai sót dẫn đến kết luận sai về bản chất của khoản
mục hoặc nghiệp vụ đó cũng như BCTC.
Thứ ba: Các BCTC bản thân cũng chứa đựng các sai sót, nhưng sự sai
sót đó là do bên trong doanh nghiệp đã có sự thơng đồng để làm sai các chính
sách và chế độ của Ban quản trị đề ra nên KTV rất khó phát hiện ra gian lận
và sai sót.
Như vậy thơng qua các định nghĩa trên có thể rút ra: rủi ro phát hiện là
mức độ mà KTV sẵn sàng chấp nhận do khơng thể tìm ra các sai sót nghiêm
trọng trong các BCTC bằng các phương pháp kiểm toán, với giả định rằng hệ
thống kiểm soát nội bộ của khách hàng có hoạt động nhưng khơng thể phát
hiện và sửa chữa các sai sót. Thơng qua mức rủi ro phát hiện xác định kiểm
tốn viên có thể xác định số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập. Khi
rủi ro phát hiện là thấp, KTV không chấp nhận những rủi ro của những bằng
chứng không phát hiện ra sai sót và cần phải thu thập một số lượng bằng
chứng đáng kể. Khi KTV chấp nhận rủi ro phát hiện tăng lên thì số lượng
bằng chứng kiểm tốn sẽ giảm đi.
1.1.3 Mối quan hệ giữa các loại rủi ro - Mơ hình rủi ro kiểm tốn
Trong kiểm tốn thường đề cập đến ba loại rủi ro chính là rủi ro tiềm
tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện. Ba rủi ro này là những bộ phận cấu
thành rủi ro kiểm tốn và giữa chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau. Rủi ro
tiềm tàng và rủi ro kiểm soát là hai loại rủi ro tồn tại độc lập khách quan,
KTV không tạo ra và cũng không thể kiểm sốt được chúng. KTV chỉ có thể
Vũ Thị Phương Liên
Kiểm toán 46B
Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Khoa Kế tốn
thơng qua thu thập bằng chứng kiểm toán tại đơn vị khách hàng và bằng kinh
nghiệm của mình để đánh giá mức độ của chúng. Rủi ro tiềm tàng và rủi ro
kiểm sốt có mức độ lớn hay nhỏ phụ thuộc rất lớn vào ngành nghề kinh
doang cũng như môi trường pháp lí mà khách hàng đang hoạt động. Khơng
những thế, hai loại rủi ro này còn phụ thuộc vào bản chất của các số dư tài
khoản và nghiệp vụ kinh tế đặc thù tương ứng với ngành nghề kinh doanh của
khách hàng. Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát có mối quan hệ tỉ lệ nghịch
nên trong các cuộc kiểm toán, KTV thường kết hợp cùng một lúc đánh giá
mức độ của hai loại rủi ro này. Trái với rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát,
rủi ro phát hiện là loại rủi ro mà KTV phải sử dụng những phương pháp kiểm
toán phù hợp để phát hiện, kiểm sốt và quản lí.
Sơ đồ 1.2: Mối quan hệ giữa các loại rủi ro kiểm tốn
RỦI RO KIỂM TỐN
Rủi ro tiềm tàng
Rủi ro kiểm soát
Rủi ro phát hiện
Rủi ro kiểm tốn
Khả năng có
sai sót trong BCTC
Sai sót khơng
được KSNB phát hiện
Sai sót khơng được
KTV phát hiện
Quan hệ giữa các loại rủi ro trên có thể phản ánh qua hai mơ hình rủi ro sau:
Vũ Thị Phương Liên
Kiểm tốn 46B
Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Khoa Kế toán
AR = IR * CR * DR
(1)
DR = AR/(IR*CR)
(2)
Trong đó:
AR: Mức rủi ro kiểm toán mong muốn
IR: Mức rủi ro tiềm tàng do KTV đánh giá
CR: Mức rủi ro kiểm soát do KTV đánh giá
DR: Mức rủi ro phát hiện
Mơ hình (1) biểu thị mối quan hệ giữa các loại rủi ro kiểm tốn. Mơ
hình này được kiểm tốn viên sử dụng để điều chỉnh mức rủi ro phát hiện để
có mức rủi ro kiểm tốn mong muốn. Hay nói cách khác, mơ hình (1) dùng để
đánh giá tính hợp lí của kế hoạch kiểm tốn đã được lập. Thí dụ: KTV muốn
thực hiện một cuộc kiểm toán cụ thể và muốn rủi ro kiểm toán đạt được ở
mức tương đối thấp (ví dụ là 0.05 có nghĩa là bình qn có khoảng 5% các
quyết định kiểm tốn là khơng chính xác). Tất cả các rủi ro tiềm tàng và rủi ro
kiểm soát đều được đánh giá dựa trên kinh nghiệm và nhận định nghề nghiệp
của kiểm tốn viên và có minh chứng cụ thể. Giả sử trong trường hợp này,
KTV cho rằng rủi ro tiềm tàng đối với đối tượng kiểm toán là rât lớn (KTV
đánh giá mức rủi ro tiềm tàng là 0.9). Qua nghiên cứu, KTV cho rằng hệ
thống kiểm sốt nội bộ của khách hàng hoạt động khơng hiệu quả lắm nên
KTV đánh giá mức độ rủi ro kiểm soát ở mức 0.7. Nếu như, KTV muốn đạt
được mức rủi ro kiểm toán ở mức thấp như mong muốn (AR= 0.05) thì các
thủ tục kiểm tốn cần phải được KTV thiết lập hợp lí sao cho rủi ro phát hiện
khơng được vượt q 0.08.
Theo mơ hình rủi ro (1), với những dự kiến đã nêu ta có kết quả như sau:
AR = IR * CR * DR
0.05 = 0.9 * 0.7 * DR DR = 0.08
Nếu KTV nhận thấy mức rủi ro phát hiện là cao thì KTV có thể điều
Vũ Thị Phương Liên
Kiểm tốn 46B
Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Khoa Kế toán
chỉnh mức rủi ro kiểm toán mong muốn để giảm mức rủi ro phát hiện xuống.
nhưng rủi ro kiểm toán phải ở mức thấp cho phép.
Trên thực tế, rủi ro kiểm toán mong muốn thường được xác định từ khi
lập kế hoạch kiểm tốn. Mức rủi ro kiểm tốn thường khó thay đổi trong suốt
cuộc kiểm tốn.
Mơ hình (2) DR là đối tượng quan tâm của KTV. Thông qua việc xác
định DR, KTV sẽ xác định các thủ tục kiểm toán và số lượng bằng chứng cần
thu thập. Mặc dù đây là mơ hình có tính chất giản đơn nhưng có ý nghĩa rất
lớn cho KTV trong lập kế hoạch và thực hiện kiểm tốn sao cho hợp lí và đủ
để duy trì rủi ro phát hiện ở mức thấp cho phép. Cũng với thí dụ trên, nếu IR
và CR được giữ nguyên và mức rủi ro kiểm toán mong muốn được kiểm tốn
viên xác định ở mức 0.03 thì mức rủi ro phát hiện sẽ là:
DR = 0.03 / (0.9*0.7) = 0.063
DR= 0.063 có nghĩa là để đạt được mức rủi ro kiểm tốn mong muốn là
0.04 thì kiểm tốn viên phải xây dựng thủ tục kiểm tốn thích hợp và thu thập
số lượng bằng chứng kiểm tốn hợp lí để mức rủi ro phát hiện không vượt quá
là 0,063
Hiện nay tại các Cơng ty kiểm tốn, mức rủi ro kiểm tốn mong muốn
ln được xác định trước khi tiến hành kiểm tốn theo mơ hình sau:
DR= DAR / (CR*IR)
Trong đó:
DAR: Mức rủi ro kiểm toán mong muốn
Mức rủi ro kiểm toán mong muốn phụ thuộc vào: mức độ quan tâm của
người sử dụng bên ngồi đến báo cáo tài chính và khả năng khách hàng sẽ
gặp khó khăn tài chính sau khi báo cáo kiểm tốn được cơng bố. Như vậy,
qua các mơ hình rủi ro KTV có thể xác định mức rủi ro phát hiện và qua đó
KTV sẽ xác định số lượng bằng chứng cần thiết để mức rủi ro phát hiện
Vũ Thị Phương Liên
Kiểm toán 46B
Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Khoa Kế tốn
khơng duy trì ở mức thấp cho phép. Tuy nhiên, khi sử dụng mơ hình rủi ro
kiểm tốn, KTV cần chú ý một số điểm sau:
Thứ nhất, KTV không thể giả sử rằng rủi ro tiềm tàng là bằng 0 để
không cần đến các bước thu thập bằng chứng kiểm toán.
AR = IR ( = 0) *CR*DR = 0
Thứ hai, KTV không thể đặt niềm tin tuyệt đối vào hệ thống kiểm sốt
nội bộ để khơng cần đến các bước thu thập bằng chứng kiểm toán:
AR = IR*CR (=0)*DR =0
Thứ ba, KTV không thể được xem là đã thận trọng nghề nghiệp thích
đáng nếu như rủi ro của việc khơng phát hiện các sai phạm trọng yếu trong
đối tượng kiểm toán ở mức quá cao
Mối quan hệ giữa các loại rủi ro còn được minh họa bằng bảng sau:
Bảng 1.1: Mối quan hệ giữa các loại rủi ro
Rủi ro phát hiện được KTV
tính tốn
Đánh giá của
kiểm tốn viên về
rủi ro tiềm tàng
Cao
Trung bình
Thấp
Đánh giá của kiểm tốn viên về
rủi ro kiểm sốt
Cao
Trung bình
Thấp
Thấp nhất
Thấp
Trung bình
Thấp
Trung bình
Cao
Trung bình
Cao
Cao nhất
Trong bảng trên:
Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được chia thành ban mức: thấp,
trung bình và cao.
Rủi ro phát hiện được chia ra làm năm mức: thấp nhất, thấp, trung bình,
cao và cao nhất. Tương ứng với mỗi mức độ đánh giá về rủi ro tiềm tàng, rủi
ro kiểm sốt, thì KTV sẽ đánh giá được rủi ro phát hiện sao cho mức rủi ro
kiểm toán mong muốn ở mức thấp nhất.
Từ các mơ hình rủi ro, các KTV có thể xác định được mối quan hệ giữa
Vũ Thị Phương Liên
Kiểm toán 46B
Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Khoa Kế toán
các loại rủi ro. Nhưng việc sử dụng mơ hình kiểm tốn cũng gặp nhiều hạn chế:
Thứ nhất: Việc đánh giá của KTV về rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm
soát vẫn mang tính chủ quan. Nếu KTV đánh giá quá trình kiểm sốt nội bộ
và các rủi ro thấp hơn so với thực tế, thì khi đó rủi ro phát hiện sẽ cao ở mức
thích hợp và số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập sẽ giảm. Để giải
quyết vấn đề này KTV thường sử dụng các mức như thấp, trung bình và cao.
Bảng 2 cho ta biết cách KTV sử dụng đánh giá ban đầu để quyết định số
lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập.
Bảng 1.2: Mối quan hệ của rủi ro với bằng chứng phải thu thập
Trường
hợp
1
2
3
4
5
Rủi ro
kiểm tốn
(AR)
Cao
Thấp
Thấp
Trung bình
Cao
Rủi ro
tiềm tàng
(IR)
Thấp
Thấp
Cao
Trung bình
Thấp
Rủi ro
kiểm sốt
(CR)
Thấp
Thấp
Cao
Trung bình
Trung bình
Rủi ro
phát hiện
(DR)
Cao
Trung bình
Thấp
Trung bình
Trung bình
SL Bằng
chứng cần
thu thập
Thấp
Trung bình
Cao
Trung bình
Trung bình
Thứ hai: Mơ hình rủi ro kiểm tốn vẫn chỉ mang tính kế hoạch. Một khi
các loại rủi ro đã được đánh giá theo kế hoạch thì mức độ của chúng sẽ ít bị
thay thế dựa trên các bằng chứng được thu thập khi tiến hành kiểm toán. Giả
sử KTV lập kế hoạch kiểm tốn dựa trên mơ hình rủi ro sau:
DAR =0.05
IR = 0.75
DR = 0.05 / (0.5 * 0.3) = 0.22
CR = 0.3
Khi khảo sát quá trình kiểm tốn nội bộ, KTV phát hiện hệ thống kiểm
sốt nội bộ hoạt động khơng hiệu quả như KTV đã đánh giá ban đầu. Như vậy
KTV sẽ phải thay đổi mức độ của rủi ro kiểm soát dựa trên bằng chứng kiểm
tốn và khi đó phải tính tốn lại mức độ rủi ro phát hiện.
Trong lập kế hoạch kiểm tốn, cần sử dụng mơ hình kiểm tốn để đánh
Vũ Thị Phương Liên
Kiểm toán 46B