Tải bản đầy đủ (.doc) (130 trang)

Đánh giá thực trạng và nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật nâng cao năng suất lúa đặc sản séng cù tại lào cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 130 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

CAO THỊ HÒA BÌNH

ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG
VÀ NGHIÊN CỨU MỘT SỐ BIỆN PHÁP KỸ THUẬT NÂNG
CAO NĂNG SUẤT LÚA ĐẶC SẢN SÉNG CÙ
TẠI LÀO CAI

LUẬN VĂN THẠC SỸ NÔNG NGHIỆP

THÁI NGUYÊN – 2010


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

CAO THỊ HÒA BÌNH

ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG
VÀ NGHIÊN CỨU MỘT SỐ BIỆN PHÁP KỸ THUẬT NÂNG
CAO NĂNG SUẤT LÚA ĐẶC SẢN SÉNG CÙ TẠI LÀO CAI
CHUYÊN NGÀNH TRỒNG TRỌT
MÃ SỐ 60.62.01

LUẬN VĂN THẠC SỸ NÔNG NGHIỆP

Hướng dẫn khoa học: GS.TS.NGUT NGUYỄN THẾ ĐẶNG



THÁI NGUYÊN – 2010


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
hoàn trung thực và chưa từng được công bố
Mọi sự giúp đỡ cho việc hoàn thành luận văn đều được cảm ơn.
Các thông tin, tài liệu trình bày trong luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc.

TÁC GIẢ

Cao Thị Hòa Bình


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của
nhiều tập thể và cá nhân.
Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới GS.TS.NGUT Nguyễn
Thế Đặng – Người thầy đã trực tiếp hướng dẫn khoa học trong suốt quá trình
nghiên cứu để hoàn thành luận văn. Xin được trân thành cảm ơn tới các thầy cô
giáo trong Khoa sau đại học, các thầy cô giáo giảng dạy chuyên ngành Trồng
trọt Khoa Nông học, Khoa tài nguyên môi trường đã có những đóng góp ý kiến
để tôi hoàn thành tốt luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu Trường Đại học Nông lâm
Thái Nguyên; Khoa Sau đại học Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên; Sở Nông
nghiệp & PTNT tỉnh Lào Cai; Cục Thống kê tỉnh Lào Cai; Trung tâm Khí tượng
thủy văn tỉnh Lào Cai; Trung tâm giống cây trồng – vật nuôi tỉnh Lào Cai;Chi cục

Bảo vệ thực vật tỉnh Lào Cai; Phòng Nông nghiệp, Trạm Khuyến nông huyện
Mường Khương; Hợp tác xã Nông nghiệp Bản Sen, Mường Khương và Mường
Vy và các hộ nông dân thôn 5 xã Bản Sen đã giúp đỡ tôi hoàn thành tốt đề tài.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến các đồng chí lãnh đạo,
đồng nghiệp, bạn bè, gia đình đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, động viên giúp đỡ
tôi trong suốt quá trình học tập, thực tập và hoàn thành luận văn.
Tác giả

Cao Thị Hòa Bình


MỤC LỤC
NỘI DUNG

Trang

MỞ ĐẦU

1

1. Tính cấp thiết của đề tài

1

2. Mục tiêu của đề tài

3

3. Yêu cầu của đề tài


3

4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

3

4.1. Ý nghĩa khoa học

3

4.2. Ý nghĩa thực tễn

3

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học và thực tễn

5
5

1.1.1. Cơ sở khoa học

5

1.1.2. Cơ sở thực tiễn

10

1.2. Nghiên cứu về mật độ cấy lúa


11

1.2.1. Những nghiên cứu về số bông/khóm

15

1.2.2. Những nghiên cứu về số dảnh cấy/khóm

16

1.3. Các nghiên cứu về phân bón cho lúa

18

1.3.1. Tầm quan trọng của phân bón đối với cây lúa

18

1.3.2. Kết quả nghiên cứu về phân bón và cách bón phân cho lúa

19

1.3.3. Nhu cầu dinh dưỡng của cây lúa và vai trò của phân bón

21

1.4. Tình hình sản xuất lúa ở Lào Cai
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG,NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


37
39


2.1. Đối tượng nghiên cứu

39

2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu

39

2.3. Nội dung nghiên cứu

40

2.4. Phương pháp nghiên cứu

40

2.4.1. Điều tra đánh giá tnh hình sản xuất lúa Séng Cù tại
Mường Khương và Bát Xát
2.4.2. Xác định một số biện pháp kỹ thuật (mật độ và phân
bón)
cho giống lúa Séng Cù tại Mường Khương
a. Thí nghiệm xác định mật độ cấy cho lúa Séng Cù
b. Thí nghiệm xác định mức phân bón có hiệu quả cao cho lúa
Séng Cù


40

42
42
43

2.4.3. Các biện pháp kỹ thuật canh tác áp dụng cho thí nghiệm

45

2.4.4. Các chỉ têu và phương pháp theo dõi

46

2.4.5. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu

52

Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Đặc điểm khí hậu thủy văn của vùng nghiên cứu

53
53

3.1.1. Nhiệt độ

55

3.1.2 Lượng mưa


56

3.1.3 Số giờ nắng

56

3.1.4 Ẩm độ không khí

57


3.2. Thực trạng sản xuất lúa Séng Cù tại Lào Cai

57

3.2.1. Tình hình sản xuất lúa Séng Cù tại huyện Mường Khương

60

3.2.2. Tình hình sản xuất lúa Séng Cù tại huyện Bát Xát

64

3.2.3. Tình hình sản xuất lúa Séng Cù tại huyện Sa Pa

67

3.3. Ảnh hưởng của mật độ cấy đến sinh trưởng và năng suất lúa
Séng Cù

3.3.1. Ảnh hưởng của mật độ cấy đến sinh trưởng của giống lúa
Séng Cù

69
69

3.3.1.1. Ảnh hưởng của mật độ cấy đến thời gian sinh trưởng

69

3.3.1.2. Ảnh hưởng của mật độ cấy đến chiều cao cây

70

3.3.1.3. Ảnh hưởng của mật độ cấy đến khả năng đẻ nhánh

72

3.3.1.4. Ảnh hưởng của mật độ cấy đến chỉ số diện tch lá

74

3.3.1.5. Ảnh hưởng của mật độ cấy đến khả năng tch lũy chất
khô
3.3.2. Ảnh hưởng của mật độ cấy đến yếu tố cấu thành

76

năng suất và năng suất của giống lúa Séng Cù
3.3.3. Ảnh hưởng của mật độ cấy đến khả năng chống chịu

sâu bệnh của giống lúa Séng Cù
3.4. Ảnh hưởng của phân bón đến sinh trưởng và năng suất lúa Séng

3.4.1. Ảnh hưởng của phân bón đến sinh trưởng của giống lúa

Séng Cù

78

83
84
84

3.4.1.1.Ảnh hưởng của phân bón đến thời gian sinh trưởng

84

3.4.1.2 Ảnh hưởng của phân bón đến chiều cao cây của
giống

85


lúa Séng Cù
3.4.1.3 Ảnh hưởng của phân bón đến khả năng đẻ nhánh
của giống lúa Séng Cù

87

3.4.1.4 Ảnh hưởng của phân bón đến chỉ số diện tích lá

của giống lúa Séng Cù

88

3.4.1.5 Ảnh hưởng của phân bón đến tích lũy chất khô của
giống lúa Séng Cù

90

3.4.2 Ảnh hưởng của phân bón đến yếu tố cấu thành năng
suất và năng suất của giống lúa Séng Cù

91

3.4.3 Ảnh hưởng của phân bón đến khả năng chống chịu
sâu bệnh của giống lúa Séng Cù

94

3.3.4 Ảnh hưởng của phân bón đến hiệu quả kinh tế của lúa
Séng Cù

95

3.5 Đề xuất quy trình sản xuất lúa Séng Cù cho sản xuất đại trà ở
Lào Cai.

96

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ


98

1. Kết luận

98

2. Đề nghị

100
TÀI LIỆU THAM KHẢO

111


DANH MỤC CÁC BẢNG
Nội dung
Bảng1.1: Diện tích, năng suất, sản lượng lúa tỉnh Lào Cai qua
các năm
Bảng 1.2: Cơ cấu giống lúa tỉnh Lào Cai năm 2008 – 2009
Bảng 3.1: Diễn biến thời tết khí hậu bình quân 5 năm của các
vùng sản xuất lúa Séng Cù tỉnh Lào Cai
Bảng 3.2: Diện tích, năng suất, sản lượng giống lúa Séng Cù
tỉnh Lào Cai qua các năm
Bảng 3.3: Kết quả điều tra mật độ cấy và mức bón phân cho lúa

Trang
37
37
54


58
59

Séng Cù tại huyện Mương Khương và Bát Xát
Bảng 3.4: Ảnh hưởng của mật độ cấy đến thời gian sinh

70

trưởng của giống lúa Séng Cù
Bảng 3.5. Ảnh hưởng của mật độ cấy đến tăng trưởng chiều

71

cao cây của giống lúa Séng Cù ở các giai đoạn sau cấy
Bảng 3.6: Ảnh hưởng của mật độ đến khả năng đẻ nhánh của lúa

74

Séng Cù
Bảng 3.7: Ảnh hưởng của mật độ cấy đến chỉ số diện tích lá lúa

75

Séng Cù
Bảng 3.8: Ảnh hưởng của mật độ cấy đến khả năng tích lũy chất

77

khô của giống lúa Séng Cù

Bảng 3.9: Ảnh hưởng của mật độ cấy đến các yếu tố cấu thành

79


năng suất và năng suất của giống lúa Séng Cù
Bảng 3.10: Diễn biến sâu bệnh hại trên lúa Séng Cù – Vụ mùa 2009

83

Bảng 3.11. Diễn biến sâu bệnh hại trên lúa Séng Cù - Vụ xuân 2010

84

Bảng 3.12: Ảnh hưởng của phân bón đến thời gian sinh
trưởng của giống lúa Séng Cù
Bảng 3.13. Ảnh hưởng của phân bón đến tăng trưởng chiều
cao cây của giống lúa Séng Cù ở các giai đoạn sau cấy
Bảng 3.14: Ảnh hưởng của phân bón đến khả năng đẻ nhánh của
lúa
Séng Cù
Bảng 3.15 : Ảnh hưởng của phân bón đến chỉ số diện tích lá lúa
Séng Cù
Bảng 3.16: Ảnh hưởng của phân bón đến khả năng tích lũy chất
khô của giống lúa Séng Cù
Bảng 3.17: Ảnh hưởng của phân bón đến các yếu tố cấu
thành năng suất và năng suất lúa Séng Cù
Bảng 3.18. Diễn biến ảnh hưởng của phân bón đến sâu bệnh
hại trên lúa Séng Cù – Vụ mùa 2009
Bảng 3.19. Diễn biến ảnh hưởng của phân bón đến sâu bệnh

hại trên lúa Séng Cù – Vụ xuân 2010
Bảng 3.20. Ảnh hưởng của phân bón đến hiệu quả kinh tế của lúa
Séng Cù

85

86

87

89

90

93

94

95

96


DANH MỤC CÁC HÌNH

Nội dung

Trang

Hình 2.1: Sơ đồ bố trí thí nghiệm mật độ


43

Hình 2.2: Sơ đồ bố trí thí nghiệm phân bón

44


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Lào Cai là tỉnh vùng cao biên giới có tổng diện tích đất tự nhiên 6.357
2

km , diện tích đất nông nghiệp của Lào Cai là 76.253,82 ha, chiếm 12% diện
tích đất tự nhiên, trong đó diện tích lúa nước là 29.150ha, tổng sản lượng
lương thực năm 2009 là 220.850 tấn, trong đó sản lượng thóc là 128.247 tấn
[8]. Khí hậu đa dạng và thổ nhưỡng phong phú là điều kiện thuận lợi cho Lào
Cai phát triển nhiều loại cây trồng bản địa có giá trị kinh tế cao. Hiện nay, Lào
Cai đang có nhiều giống lúa đặc sản có gía trị kinh tế cao, chiếm vị trí quan
trọng trong đời sống nhân dân, trong đó có giống lúa đặc sản Séng Cù đã và
đang được thị trường trong và ngoài tỉnh rất ưa chuộng. Việc nghiên cứu các
giống bản địa vừa cho năng suất cao, vừa có chất lượng tốt để khai thác và
phát triển lợi thế của vùng sản xuất hàng hóa địa phương là việc làm cần
thiết, nhất là khi xu hướng
xã hội đang hướng tới nền nông nghiệp an toàn và nâng cao chất lượng
cuộc sống.
Cây lúa Séng Cù thuộc nhóm lúa thuần của Trung Quốc, được thâm nhập
vào huyện Mường Khương tỉnh Lào Cai bằng con đường tự trao đổi của
nhân dân từ năm 1998 đến nay. Tên thường gọi là Séng Cù, tên địa phương

Trung Quốc là Sừ Ly Séng, tên gọi khác là Đồn điền 502. Giống lúa đặc sản Séng
Cù được trồng chủ yếu ở các huyện Mường Khương và Bát Xát tỉnh Lào Cai.
Gạo Séng Cù đã nhận được nhiều giải thưởng và sự đánh giá cao của các nhà
chuyên môn khi tham gia hội chợ thương mại toàn quốc. Đặc biệt năm
2008, Cục sở hữu trí tuệ Việt Nam cấp bằng độc quyền nhãn hiệu hàng hóa. Đó
cũng là sản phẩm đứng đầu trong danh sách các mặt hàng chủ lực trong đề án
phát triển kinh tế của Lào Cai. Gạo Séng Cù đã được thị trường các thành
phố lớn như: Hà


Nội, Hải Phòng, Việt Trì ưa chuộng và được đánh giá cao về gạo đặc sản. Năm
2009 diện tích trồng lúa Séng Cù ở Lào Cai là 1.450 ha, sản lượng đạt 6.090 tấn
(Mường Khương có 910 ha, trong đó diện tích cấy 2 vụ/năm là 135 ha và
diện tích cấy 1 vụ/năm là 775 ha, sản lượng đạt 3.408 tấn, Bát Xát có 510
ha, sản lượng đạt trên 1.700 tấn). Thực tế sản lượng gạo Séng Cù không đủ
cung cấp cho nhu cầu thị trường. Vì vậy phát triển vùng sản xuất lúa Séng Cù sẽ
cho hiệu quả kinh tế cao, tiềm năng phát triển lớn. Tuy nhiên, phần lớn diện
tích trồng lúa tại Mường Khương do thiếu nước vụ xuân nên chỉ cấy được một
vụ mùa. Những năm gần đây Séng Cù đã được trồng mở rộng diện tích nhưng
do tập quán canh tác còn nhiều hạn chế, nên xu hướng bị giảm năng suất và lẫn
tạp nhiều. Người dân chưa biết cách áp dụng các biện pháp tiến bộ kỹ thuật,
chưa chú ý đến thâm canh nên năng suất chưa cao cũng như chất lượng gạo
còn hạn chế nhiều so với tềm năng của giống. Cùng với việc gieo cấy quá thưa,
mạ già thì người dân còn sử dụng phân bón thiếu khoa học và gây lãng phí, mới
chỉ quan tâm đến sử dụng phân đạm, bón phân mất cân đối (Bón nhiều đạm
nhưng bón ít bón kali, thậm chí nhiều hộ không bón kali), thời điểm bón
phân chưa hợp lý, thường bón muộn, bón rải rác không tập trung nên lúa
thường bị lốp, sâu bệnh nhiều nên đã ảnh hưởng lớn năng suất, chất lượng
gạo.... Vì vậy, ngoài các biện pháp kỹ thuật như bố trí thời vụ, làm đất, chế độ
nước và phòng trừ sâu bệnh thì việc xác định mật độ cấy, lượng phân bón và

cách bón phân là những biện pháp vô cùng quan trọng cần được nghiên cứu
để khuyến cáo nhân rộng cho người dân áp dụng, góp phần nâng cao thu
nhập, tăng hiệu quả kinh tế.
Xuất phát từ thực tiễn đó, chúng tôi tến hành nghiên cứu đề tài:
Đánh giá thực trạng và nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật nâng cao
năng suất lúa đặc sản Séng Cù tại Lào Cai, nhằm mở rộng vùng sản xuất lúa
Séng Cù hàng hoá, nâng cao giá trị kinh tế cho người trồng lúa Lào Cai.


2. Mục tiêu của đề tài
- Đánh giá thực trạng sản xuất nhằm tm ra những hạn chế trong kỹ thuật
sản xuất lúa Séng Cù tại Lào Cai.
- Xác định được mật độ cấy và các tổ hợp phân bón thích hợp cho lúa
Séng Cù đảm bảo năng suất cao và ổn định.
- Bổ sung, hoàn thiện quy trình kỹ thuật thâm canh lúa Séng Cù ở huyện
Mường Khương, tỉnh Lào Cai.
3. Yêu cầu của đề tài
- Phân tích, đánh giá thực trạng diện tích, biện pháp canh tác, năng
suất, sản lượng, chất lượng và thị trường tiêu thụ của giống lúa Séng Cù
hiện nay đang gieo trồng tại tỉnh Lào Cai.
- Nghiên cứu mật độ cấy thích hợp và các tổ hợp phân bón ảnh hưởng
đến sinh trưởng, phát triển và năng suất của giống lúa đặc sản Séng Cù trồng ở
2 vụ hè thu 2009 và vụ xuân 2010 tại huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai.
- Đề xuất bổ sung quy trình sản xuất lúa Séng Cù để khuyến cáo cho sản
xuất đại trà ở huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
4.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu là cơ sở dữ liệu cho các nghiên cứu trong lĩnh vực lúa
đặc sản và là tài liệu tham khảo trong đào tạo của các trường đại học
nông nghiệp.

4.2. Ý nghĩa thực tiễn


Kết quả nghiên cứu đánh giá tình hình sản xuất lúa Séng Cù góp phần
cung cấp tài liệu quan trọng cho tỉnh quy hoạch vùng nguyên liệu lúa chất lượng
cao giai đoạn 2010 – 2015.
Kết quả nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật thâm canh lúa Séng Cù là cơ
sở khoa học để hoàn thiện quy trình chăm sóc lúa Séng Cù phù hợp với
điều kiện của Lào Cai.
Đề tài mang tính ứng dụng cao, kết quả đề tài dễ được ứng dụng vào
thực tiễn sản xuất góp phần thay đổi tập quán sản xuất của người dân.


Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Cơ sở khoa học và thực tiễn
1.1.1. Cơ sở khoa học
Lúa là cây lương thực cho khoảng gần 3 tỷ người trên hành tinh chúng ta.
Vì thế không có gì ngạc nhiên khi ta thấy tồn tại một khối khổng lồ các tài liệu
nghiên cứu về cây lúa
Nghề trồng lúa của Việt Nam những năm cuối thế kỷ XX có những bước
tiến rõ rệt so với lịch sử hàng nghìn năm trồng lúa trước đây. Từ 1987 – 2000
và đầu thế kỷ XX đã và đang hứa hẹn những bước nhảy vọt cả về chất lượng và
khả năng cạnh tranh của lúa gạo Việt Nam trên thị trường thế giới và nội
địa. Từ chỗ thiếu lương thực trầm trọng, nước ta đã vươn lên đứng thứ 2
trên thế giới sau Thái Lan về xuất khẩu gạo. Diện tích lúa hầu như không
tăng mà có xu hướng giảm dần do tốc độ đô thị hóa mạnh, sản lượng thóc
năm 1990 là 18,825 triệu tấn tăng đến 38,5 triệu tấn năm 2005. Lương thực
bình quân đầu người là

475,8 kg/người/năm. Lượng gạo xuât khẩu hàng năm đạt trên 4 triệu tấn.
Có được những thành tựu đó là nhờ có những đột phá về khoa học kỹ thuật đó
là những thành tựu về giống, phân bón, các biện pháp canh tác…đã tạo tền đề
cho năng suất, sản lượng lúa ngày càng cao.
Mối quan hệ giữa cá thế cây lúa với quần thể ruộng lúa rất chặt chẽ.
Mật độ cấy có những ảnh hưởng nhất định đến năng suất lúa. Không có một
mật độ cấy chung nào cho mọi giống lúa trong mọi điều kiện. Trên một đơn vị
diện tích nếu cấy mật độ càng cao thì có thể có số bông nhiều xong số hạt trên
bông tỷ lệ nghịch nên càng ít. Tốc độ giảm số hạt/bông nhanh hơn tốc độ
tăng về mật độ


cấy. Vì vậy, nếu cấy ở mật độ quá dày sẽ làm cho năng suất giảm nghiêm trọng.
Nếu gieo quá thưa, nhất là với giống có thời gian sinh trưởng ngắn thì rất
khó hoặc không thể đạt số bông tối ưu. Vì vậy, khi các biện pháp kỹ thuật khác
được duy trì thì việc lựa chọn xác định một mật độ hợp lý là một phương án tối
ưu để đạt được số lượng hạt thóc nhiều nhất trên một đơn vị diện tích gieo cấy.
Trong suốt quá trình sinh trưởng và phát triển, cây lúa rất cần một lượng
dinh dưỡng rất lớn. Trung bình cứ tạo được một tấn thóc, cây lúa lấy đi 17 kg
N,
8 kg P2O5, 27 kg K2O, 3 kg Ca, 2 kg Mg và 1,7 kg S và các nguyên tố vi lượng khác
(FAO/1978). Những bằng chứng này cho thấy cây lúa rất cần dinh dưỡng để
tạo được năng suất cao, cần phải cung cấp thêm nhiều chất dinh dưỡng có
trong các nguồn phân bón và phải bón đúng kỹ thuật, cân đối, đáp ứng nhu cầu
của từng giống, từng vùng, từng vụ thì năng suất lúa mới cao và ổn định được.
Yoshida (1980) đã nói: Đạm là nguyên tố quan trọng nhất đối với lúa, nếu
như không bón đạm thì ở đâu cũng thiếu đạm.Nhu cầu dinh dưỡng đạm của
cây lúa thể hiện trong suốt quá trình sinh trưởng từ lúc nảy mầm đến khi lúa
chín. Tuy vậy, cũng có những thời kỳ cây lúa có nhu cầu đạm cao hơn các
thời kỳ khác, điển hình là vào thời thể quan sát bằng mắt thường, căn cứ vào

biểu hiện đó mà người nông dân bón thúc đạm cho lúa. Khi nghiên cứu về vai
trò của đạm đối với cây trồng nói chung và cây lúa nói riêng, nhiều tác giả đã chỉ
rõ: Đạm tham gia cấu tạo nên cơ thể thực vật, đạm có trong Protein, đạm
điều tết các hoạt động của cây, tham gia vào các chất kích thích sinh trưởng,
các Xitokinin, vitamin. Đạm có hoạt tính sinh học cao, làm tăng hay giảm các
hoạt động sinh lý của cây. Đạm còn có trong các enzim xúc tiến quá trình biến
đổi sinh hóa trong cơ thể cây. Đặc biệt đạm có mặt trong diệp lục tố, vì thế khi
lúa được bón đạm lá to, xanh, dài và quang hợp tốt, đẻ nhiều. Nếu thiếu đạm lá
lúa vàng, nhỏ, đẻ ít, bông nhỏ nhưng nếu bón quá nhiều cây lúa sẽ lốp, đổ,
sâu bệnh nhiều, hạt lép,


hạt không sáng (Nguyễn Thị Lẫm,1994). Về mặt sinh lý, cây lúa hút đạm dưới
dạng ion ammôn..Trong ruộng lúa nước, dạng đạm NH4+ chiếm ưu thế nên lúa
+

-

hút đạm NH4 mạnh hơn, nhưng trên ruộng cạn, đạm NO3 chiếm ưu thế nên
lúa
-

hút đạm NO3 nhiều hơn, nhìn chung cây lúa hút đạm rất mạnh nên nếu bón
đạm
nhiều, cây hút nhiều, khi trong môi trường lượng phân đạm quá dư,mô
lúa không thể chịu được mức ammôn quá cao và có sẵn một cơ chế giải độc
amôn. Khi cây lúa hút quá nhiều ammôn, axít oxaloaxetic tiếp nhận ammôn dư
thừa mà hình thành asparagin – chất dự trữ đạm trong cây làm cho lúa không
bị ngộ độc nữa, tuy nhiên lượng axít này trong cây cũng có hạn, cây lúa hút
đạm quá nhiều thì dễ sinh lốp đổ, sâu bệnh tập trung phá hại, hạt lép

nhiều, năng suất thấp, phẩm chất kém. Vì vậy, khoa học khuyến cáo người dân
bón đạm phải cân đối, bón phối hợp với lân và đặc biệt phải bón kali.
Lúa cũng rất cần lân, trong đất có độ pH thấp hoặc cao quá đều bị
thiếu lân, thậm chí thiếu nghiêm trọng. Trong sản phẩm quang hợp đầu tiên
của cây lúa, chất axit photphoglyceric đã có chứa lân (P), lân được hút vào cây
từ dung dịch đất thường ở dạng axít octo và pyrophotphoric, hoặc các hợp
chất hữu cơ có chứa lân. Lân được cây lúa hút vào ít hơn đạm và kali, nhưng
đóng vai trò rất quan trọng trong chu trình chuyển hóa các bon để tạo ra các
sản phẩm hữu cơ cho cây là đường, bột. Nếu thiếu lân thì chu trình này tất
yếu sẽ không được thực hiện. Từ khi hạt lúa mọc mầm đến khi hình thành
lá thứ 3, lân được sử dụng chủ yếu ở dạng dữ trữ trong hạt giống. Sau thời kỳ
này, rễ lúa phải hút lân từ trong dung dịch đất hoặc từ nước tưới để phục vụ
cho chu trình quang hợp, hô hấp,cung cấp năng lượng cho cây để tổng hợp
các chất hữu cơ cho cây lúa. Vì vậy, lúa cần được bón lân sớm. Đối với ruộng
mạ, lân được bón lót một phần trước khi gieo. Trước khi cấy khoảng 1 tuần
cây mạ cần được bón thúc thêm đạm và lân để cây mạ cứng cáp, có đủ sức
phục hồi sau khi cấy. Sau khi cấy,


cây lúa phục hồi cần được bón thúc đạm và lân sớm để cây lúa đẻ nhanh, ra lá
nhanh, phục vụ quang hợp được tến hành thuận lợi. Do lân khi vào cây
được tạo thành hợp chất ATP có năng lượng cao, nên giúp cho cây lúa sinh
trưởng khỏe, có khả năng chống chịu những điều kiện bất lợi của ngoại cảnh
như nóng, hạn, rét…Bón đủ lân lá lúa có màu xanh đậm,bản lá dày, cây
đẻ nhánh khỏe,quang hợp thuận lợi, tăng dảnh hữu hiệu, cây lúa cứng cáp, làm
đòng thuận lợi, có nhiều hoa, nhiều hạt chắc, hạt mẩy, năng suất sẽ cao.
Thiếu lân cây sẽ thấp, hạn chế đẻ nhánh, bản lá hẹp, ngắn, có màu xanh đậm,
thiều lân nhiều có có màu ám khói, các lá non vẫn khỏe nhưng lá già chuyển
màu vàng nâu, trên lá có các vết đỏ màu tím huyết dụ (Yosida,1981). Cây lúa
hút lân trong suốt các thời kỳ sinh trưởng của nó, tuy nhiên có hai thời kỳ cây

lúa hút lân mạnh nhất đó là thời kỳ từ lúc gieo cấy cho đến lúa đẻ nhánh tối đa
và thời kỳ từ lúc phân hóa đòng đến lúa hình thành bông lúa. Ở thời kỳ con gái
tuy tỷ lệ lân được phân phối không cao hơn thời kỳ từ phân hóa đòng cho đến
lúa trổ bông, nhưng do tỷ lệ chất khô còn thấp nên % lân tính theo chất khô
thì thời kỳ này đạt cao nhất. Việc hút lân ở thời kỳ lúa con gái giúp cho cây phát
triển được diện tích lá với tốc độ cao để đảm bảo cường độ quang hợp cao.
Yosida và Hayakawa (1981) cũng đã thí nghiệm bón lân mức thấp, so với công
thức bón N,P,K đầy đủ thì công thức bón lân thấp có chỉ số diện tích lá vào lúc
lúa 10 tuần sau cấy (trước lúa trỗ) chỉ bằng 28% so với diện tích lá ở công thức
bón phân đầy đủ. Kết quả ở công thức này năng suất chất khô thấp nhất (chỉ
bằng 27% chất khô của công thức bón đủ lân), kết quả này cũng đồng nghĩa
với hoạt động quang hợp thấp nhất. Thời kỳ từ lúc phân hóa đòng đến lúc trổ
bông, tổng lượng lân do cây hút vào là cao nhất do tổng lượng chất khô cao
hơn thời kỳ đầu rất nhiều.Thời kỳ trỗ đến chín cây vẫn cần một lượng lân khá
lớn (bằng 1/5 tổng lượng lân cây hút) mặc dù cường độ hút lân từ đất bị
chậm lại, nhưng do khối lượng chất khô đạt mức cao nhất nên tổng lượng lân
cây cần vẫn còn cao. Lúc này một mặt lân hút lân từ đất hay


từ nguồn cung cấp qua lá, mặt khác lân được vận chuyển từ các bộ phận rễ,
thân, bẹ, lá về bông, năng lượng để thực hiện cho quá trình này chủ yếu là do 4
lá trên cùng quyết định. Bón lân càng tăng, lân chuyển về hạt càng nhiều, lân
còn có vai trò làm tăng hiệu suất sử dụng N cho lúa, như vậy, lân là yếu tố rất
cần thiết trong suốt quá trình sinh trưởng và phát triển cho cây lúa.
Người ta đã biết được rằng kali có ảnh hưởng mạnh tới quá trình hình
thành, vận chuyển và trao đổi gluxít trong chu trình quang hợp. Thiếu kali
thì hoạt động của men amilaza và invectaza sẽ bị kìm hãm, kali làm tăng độ
thủy hóa của chất nguyên sinh, do đó làm giảm độ nhớt cấu trúc và làm
tăng khả năng giữ nước trong tế bào, nhờ vậy mà kali có khả năng làm tăng
tính chống hạn của cây, ở cây lúa kali làm tăng dảnh hữu hiệu, tăng tổng số hạt

và hạt chắc trên bông, Kali có vai trò giúp cho quá trình thụ tinh, tăng tỷ lệ hạt
chắc, hạn chế bệnh tiêm lửa và thối bông nên góp phần làm tăng năng suất
hạt. Kali cũng có khả năng làm tăng tính chống chịu nóng và chịu rét cho cây.
Trong đất, kali thường ở dạng muối tan, dạng kali trao đổi và không trao đổi,
dạng xilicat và dạng alumoxilicat, có tới 98 % kali ở dạng khó têu đối với cây.
Dạng kali mà cây dễ hấp thu là kali trao đổi, trong đất kali chứa một
lượng khá lớn, vào khoảng 65 – 78 tấn/ha ở tầng đất canh tác nhưng ở hầu
hết các loại đất dù là đất xám,đất phù sa cổ, đất cát, đất đỏ hay đỏ vàng thì
cũng vẫn thường thiếu kali,
+

cây hút kali ở dạng K , ở trong cây kali là nguyên tố rât linh động và thường hay
tập trung nhiều ở các bộ phận non của cây do được chuyển từ bộ phận già
đến bộ phận non. Theo tài liệu của Yosida (1981) thì lượng kali do cây lúa hút
vào rất lớn, với giống IR8 trồng ở RRI, vụ mùa khô năm 1968 có năng suất
8,7 tấn/ha thì cứ tạo được 1 tấn thóc cây lúa tiêu tốn hết 35,5 kg kali, gần
gấp 2 lượng N và gấp 7 lần lượng lân do cây hút, nhưng lượng kali chuyển về
bông chỉ bằng 20% tổng số kali có trong cây. Về mặt định lượng kali chuyển về
hạt ít hơn


số kali còn giữ lại trong rơm rạ nhưng tỷ lệ kali được chuyển về hạt khác nhau
nhiều tùy thuộc vào giống và cả năng suất lúa. Vai trò của kali quan trọng
như vậy nên khí thiếu kali thường đi theo với ngộ độc sắt, hiện tượng này
thường thấy trên đất đỏ chua hay đất phèn. Đất kém thoát nước cũng xảy ra
hiện tượng thiếu kali do khi bị ứ nước lâu, đất ở trạng thái bị khử mạnh,
nên sản sinh ra nhiều chất hữu cơ, H2S, CH4 gây độc cho rễ lúa làm ngăn cản
việc hút kali của cây. Yshizuka.Y(1973, do n.Atanasiu và J.Samy trích dẫn 1984)
tìm thấy tỷ lệ kali do cây lúa hút ở các giai đoạn như sau: Từ gieo cấy đến đẻ
nhánh tối đa tích lũy được 13% chất khô, hút được 36% kali; Từ đẻ nhánh tối

đa đến phân hóa đòng tích lũy được 14% chất khô, hút được 21 % kali; Từ
phân hóa đòng đến hình thành bông tích lũy được 34% chất khô và hút được
0% kali;Từ hình thành bông đến chín tích lũy được 39% chất khô và hút được
43 % kali, như vậy cây lúa cần bón kali ở giai đoạn sớm, rồi bón thúc đẻ và sau
đó là bón nuôi bông, tức là bón khi lúa đang làm đòng là đợt bón hết sức quan
trọng. Điều này cho ta thấy việc cung cấp đúng loại phân theo từng thời kỳ
sinh trưởng của lúa thì sẽ có được năng suất cao, hiệu qủa kinh tế và tết kiệm
được phân bón.
1.1.2. Cơ sở thực tiễn
Mường Khương là vùng phát triển lúa đặc sản Séng Cù của tỉnh, với diện
tích lúa Séng Cù năm 2009 đạt 528 ha/2.031 ha diện tích lúa toàn huyện
[8] chiếm 26% diện tích, điều kiện tự nhiên và đất đai đã ưu đãi cho
Mường Khương có được vùng sản xuất lúa Séng Cù đặc sản có giá trị kinh tế
cao. Hiện nay, gạo Séng Cù có giá 22.000 – 25.000 đồng/kg, cao hơn các loại
gạo thơm khác từ 8.000 – 12.000 đ/kg. Séng Cù là giống lúa tẻ cấy được cả
hai vụ/năm, gạo Séng Cù được giá là do sự thơm ngon đặc trưng riêng và là loại
gạo đặc sản có vị trí thứ nhất trên địa bàn tỉnh Lào Cai, được giải nhất Hội thi
gạo năm 2007 do Sở Nông nghiệp & PTNT Lào Cai tổ chức. Cây lúa Séng Cù rất
phù hợp thổ


nhưỡng khí hậu vùng cao, phù hợp với những vùng có độ cao từ 400 – 500 m
trở lên so với mực nước biển, nhất là vùng ôn đới, khí hậu lạnh, nước đầu
nguồn trong và mát.
Xác định rõ lợi thế địa hình đất đai và khí hậu ưu đãi của địa phương,
Nghị quyết Đảng bộ Huyện Mường Khương lần thứ XXII giai đoạn 2006 –
2010 đã chỉ rõ quy hoạch vùng sản xuất hàng hoá, tập trung vào cây trồng
có hiệu quả giá trị kinh tế cao trong đó có phát triển vùng lúa Séng Cù đảm
bảo tăng nhanh cả về diện tích, năng suất, sản lượng và chất lượng sản
phẩm. Phát huy lợi thế đặc thù về điều kiện tự nhiên, khí hậu, các nguồn lực

hỗ trợ đặc biệt là nguồn lực theo chương trình NQ 30a/CP của Chính Phủ, cùng
với sự thay đổi nhận thức của nhân dân về sản xuất hàng hoá, sản phẩm gạo
Séng Cù của huyện được thị trường trong và ngoài tỉnh ưa chuộng, giá cả ổn
định, sản phẩm sản xuất ra được tiêu thụ hết không tồn đọng, không đáp ứng
đủ nhu cầu của thị trường. Đưa giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích canh
tác từ 16 triệu đồng lên 35,51 triệu đồng/1 ha. (Đạt 221,9% so mục tiêu Nghị
quyết đại hội)( Nguyễn Văn Đủ, 2010). Bên cạnh việc mở rộng diện tích, phục
tráng giống để cung cấp giống tốt cho sản xuất thì việc nghiên cứu các biện
pháp kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất lúa Séng Cù đại trà là bước đi đúng
hướng có ý nghĩa thiết thực cho sản xuất lúa đặc sản ở Mường Khương, Lào
Cai.
1.2. Nghiên cứu về mật độ cấy lúa
Năng suất ruộng lúa do số bông/đơn vị diện tích,số hạt/bông và
khối lượng của hạt quyết định, được tính bởi công thức :
2

Năng suất (tạ/ha) = Số bông/m x Số hạt chắc/bông x Khối lượng 1000hạt
10.000


Một quần thế ruộng lúa muốn có nhiều bông trước tiên mỗi cá thể cây
lúa phải có nhiều nhánh, tỷ lệ nhánh thành bông (hữu hiệu) cao,muốn có nhiều
hạt chắc thì bông lúa phải có nhiều hoa, quá trình thụ phấn, thụ tinh tốt, tỷ
lệ hạt mẩy cao. Khối lượng hạt là chỉ têu ổn định do yếu tố di truyền của từng
giống quyết định. Số bông của ruộng lúa là yếu tố quyết định nhất đến năng
suất, đồng thời cũng là yếu tố tương đối dễ điều chỉnh hơn so với hai yếu tố còn
lại, số hạt/bông và khối lượng 1000 hạt bị kiểm soát chặt chẽ hơn bởi yếu tố di
truyền, cho dù đầu tư kỹ thuật cao thì cũng không thể biến một bông nhỏ, hạt
nhẹ thành bông to nhiều hạt to được. Muốn thay đổi tính trạng này thường thì
phải có biện pháp tác động thay đổi gen của giống.

Biện pháp kỹ thuật tác động thay đổi mật độ cấy làm tăng số bông
đến mức tối đa là biện pháp then chốt trong thâm canh lúa. Tuy nhiên cần phải
có nghiên cứu từng giống phù hợp để có số bông tối ưu trên một đơn vị diện
tích. Nếu cấy quá dày hoặc cấy quá nhiều dảnh/khóm thì bông lúa sẽ nhỏ đi
đáng kể, số hạt trên bông sẽ nhỏ đi và cuối cùng năng suất sẽ giảm. Vì vậy ,
muốn đạt được năng suất cao thì người sản xuất phải biết điều khiển cho
quần thể ruộng lúa có số bông tối ưu mà vẫn không ảnh hưởng đến bông lúa,
số hạt chắc và độ chắc hạt trên bông vẫn không thay đổi. Số bông tối ưu của
một giống lúa là số bông thu được nhiều nhất mà giống lúa đó có thể đạt
được nhưng không làm giảm khối lượng hạt vốn có của giống đó. Như vậy, các
giống khác nhau có khả năng cho số bông tối ưu trên một đơn vị diện tích khác
nhau, việc xác định số bông cần đạt trên một đơn vị diện tích quyết định mật
độ cấy, khoảng cách và số dảnh cơ bản khi cấy. Căn cứ vào tiềm năng cho năng
suất của giống, tiềm năng đất đai, khả năng thâm canh của người sản xuất mà
định ra số bông cần đạt một cách hợp lý, những yếu tố quyết định số bông là
mật độ cấy và số dảnh cơ bản cấy/khóm.


2

Mật độ cấy là số khóm cấy trên một m đất, về nguyên tắc lý thuyết
thì mật độ cấy càng cao thì số bông càng nhiều, trong một giới hạn nhất
định thì việc tăng số bông không làm giảm số hạt trên bông, nhưng nếu
vượt qua giới hạn đó thì số hạt trên bông bắt đầu giảm đi do lượng dinh
dưỡng phải chia sẻ cho nhiều bông. Theo tính toán thống kê thì tốc độ giảm số
hạt/bông giảm nhanh hơn tốc độ tăng của mật độ gieo cấy,vì vậy cấy dày đối
với lúa thâm canh và lúa lai gây giảm năng suất nhiều hơn so với lúa thường.
Tuy nhiên nếu cấy quá thưa đối với giống có thời gian sinh trưởng ngắn thì khó
đạt số bông tối ưu cần thiết theo dự định.
Mật độ cấy là biên pháp kỹ thuật quan trọng, nó phụ thuộc vào điều

kiện tự nhiên, dinh dưỡng và đặc điểm của giống…Khi nghiên cứu về vấn đề
mật độ cấy lúa Sasato (1966) đã kết luận: Trong điều kiện dễ canh tác, lúa
mọc tốt thì nên cấy lúa với mật độ thưa và ngược lại là cấy dày. Giống lúa có
nhiều bông thì cấy dày không có lợi bằng cấy để có bông to, vùng lạnh thì nên
cấy dày hơn so với vùng nóng ẩm, mạ dảnh to nên cấy thưa hơn mạ dảnh
nhỏ, lúa gieo muộn nên cấy dày hơn so với lúa gieo sớm.
Nghiên cứu về khả năng đẻ nhánh S.Yoshida (1985) đã khẳng định:
Trong ruộng lúa cấy, khoảng cách thích hợp cho lúa đẻ nhánh khỏe và sớm là
từ
20cm x 20cm và 30cm x 30cm. Theo ông, việc đẻ nhánh chỉ xảy ra đến mật độ
2

300/m , nếu tăng số dảnh cấy lên nữa thì chỉ có những dảnh chính cho
2

bông. Năng suất hạt tăng lên khi mật độ cấy tăng đến 182 – 242 dảnh/m . Số
bông trên đơn vị diện tích tăng lên theo mật độ nhưng lại giảm số hạt trên
bông. Mật độ cấy thực tế là mối tương quan giữa số dảnh cấy và sự đẻ nhánh.
Thông thường gieo cấy thưa thì lúa đẻ nhánh nhiều, cấy dày thì lúa đẻ nhánh ít
[28]
Các tác giả sinh thái học đã nghiên cứu mối quan hệ giữa năng suất và
quần thể ruộng cây trồng đều thống nhất rằng: Các giống khác nhau phản


ứng


×